Trong Mục 4.2 này, số liệu GFS (Global Forecast System) được sử dụng để làm
điều kiện biên và điều kiện ban đầu cho mô hình RAMS nhằm mục đích thử nghiệm
áp dụng dự báo ngày bùng nổ gió mùa mùa hè cho khu vực Nam Bộ năm 2012. Mang
đặc trưng của một năm La Nina, ngày bùng nổ gió mùa năm 2012 được xác định là
ngày 06 tháng Năm, sớm hơn hầu hết các trường hợp được nghiên cứu trong Mục 3,
ngoại trừ năm 1999. Mô hình bắt đầu tích phân dự báo từ ngày 04 tháng Năm và kết
thúc vào ngày 10 tháng Năm. Vì với pha dự báo, chất lượng của mô hình khu vực phụ
thuộc vào chất lượng của mô hình dự báo toàn cầu, do vậy thời gian tích phân được
lựa chọn ngắn hơn so với trường hợp mô phỏng sử dụng số liệu tái phân tích. Cấu hình
miền tính giống như đã trình bày trong Mục 3.1.
Số liệu GFS có độ phân giải 1o x 1o theo phương ngang và 26 mực theo
phương thẳng đứng. File số liệu được định dạng theo chuẩn Grib2, mỗi bước thời gian
được ghi ra 1 file, mỗi file cách nhau sáu giờ.
94 trang |
Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 1062 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu một số đặc trưng nhiệt động lực quy mô lớn thời kỳ bùng nổ gió mùa mùa hè trên khu vực nam bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó mùa năm 2001.
Hình 3.19. Hoàn lưu mô phỏng mực 850 hPa thời kì bùng nổ gió mùa năm 2004.
42
Hình 3.20. Hoàn lưu mô phỏng mực 850 hPa thời kì bùng nổ gió mùa năm 2010.
Sự khác nhau chính của đặc điểm hoàn lưu giữa các năm ENSO nằm ở tốc độ
gió tây. Trong các năm El Niño và non – ENSO, trường gió tây nhiệt đới phát triển rất
mạnh, tốc độ gió thường xuyên vượt trên 10 m.s-1 ở các khu vực như Ấn Độ Dương và
phía nam vịnh Bengal. Dòng xiết của trường gió tây này được nhận thấy rất rõ với một
dòng liên tục từ nam bán cầu lên bắc bán cầu. Ngược lại trong những năm La Nina,
tốc độ gió tây mạnh chỉ được quan sát tại phía nam vịnh Bengal rồi suy yếu rất nhanh
khi thổi về Việt Nam. Dòng vượt xích đạo trong những năm này là không thật sự rõ
ràng. Do đó, mặc dù gió mùa mùa hè xuất hiện sớm hơn trong những năm La Nina
nhưng tốc độ gió lại có xu hướng nhỏ hơn so với những năm El Niño.
3.3.2. Đặc trưng hoàn lưu các mực trên cao
Hình 3.21 tới Hình 3.25 lần lượt biểu diễn sự phát triển của hoàn lưu mực cao
mô phỏng cho giai đoạn bùng nổ gió mùa ở Nam Bộ. Đặc trưng lớn nhất của hoàn lưu
mực trên cao giai đoạn này là sự hình thành của một áp cao tại phía nam Châu Á. Áp
cao có quy mô rất lớn với tâm nằm ở phía trên của vịnh Bengal. Phía nam của áp cao
là đới gió đông xích đạo, trải dài từ 5oN tới 5oS với tốc độ gió trung bình khoảng trên
43
30 m.s
-1
. Trái ngược với hướng phát triển của đới gió tây mực thấp, đới gió đông mực
cao này có xu hướng phát triển từ bắc bán cầu xuống nam bán cầu. Sự phát triển này
được thấy rõ nhất trong ngày bùng nổ gió mùa khi xuất hiện một đới gió đông bắc rất
lớn thồi từ bán đảo Đông Dương (ở rìa phía đông của áp cao quy mô lớn) vượt qua
xích đạo tới Ấn Độ Dương. Về tốc độ gió, trường gió mực cao và trường gió mực thấp
có sự đồng điệu chung, cùng có xu hướng mạnh hơn trong những năm El Niño và yếu
hơn trong những năm La Nina.
Kết hợp với những phân tích của hoàn lưu mực 850 hPa trong Hình 3.16 tới
Hình 3.20 có thể thấy, hoàn lưu mực thấp và hoàn lưu mực cao thời điểm bùng nổ gió
mùa thể hiện hai hình thế tương đối trái ngược. Trong khi ở mực thấp là sự phát triển
của xoáy thuận Sri Lanka và đới gió tây nhiệt đới thì ở các mực trên cao là sự thống trị
của một xoáy nghịch và đới gió đông tại rìa phía nam áp cao này. Tuy nhiên các phân
tích cũng cho thấy, chỉ đến ngày bùng nổ gió mùa mùa hè tại Nam Bộ mới thực sự
đánh dấu sự thay đổi quan trọng của cấu trúc khí quyển, ở đó hoàn lưu chuyển từ hình
thế đối xứng sang hình thế bất đối xứng qua xích đạo. Ở mực thấp, gió tây từ nam bán
cầu bắt đầu vượt qua xích đạo, hội tụ ở bắc bán cầu, còn ở mực trên cao, dòng phân kì
ở bắc bán cầu cũng vượt xích đạo để quay trở lại nam bán cầu. Hình thế này rất giống
với cấu trúc của vòng hoàn lưu Hadley, tuy nhiên quy mô của vòng hoàn lưu Hadley
chỉ giới hạn trong một bán cầu, còn quy mô của hoàn lưu gió mùa có tính liên bán cầu
và gần với quy mô hành tinh.
Một khía cạnh khác nhau rất quan trọng của hoàn lưu gió mùa và hoàn lưu
Hadley đó là khu vực hình thành của xoáy nghịch mực cao. Đối với vòng hoàn lưu
Hadley, sự phân kì mực cao được hình thành ở xích đạo do sự đốt nóng của ẩn nhiệt
giải phóng đối lưu, tuy nhiên ở hoàn lưu gió mùa, xoáy nghịch mực cao được hình
thành ở vĩ độ trung bình bên bán cầu mùa hè. Nhưng để hình thành và duy trì một
xoáy nghịch quy mô lớn ở các vĩ độ này đòi hỏi một lượng đốt nóng đủ lớn để thắng
được lực Coriolis. Điều này đã đặt ra một câu hỏi về nguyên nhân thật sự của gió mùa
bởi những quan trắc thực tế cho thấy, hoàn lưu gió mùa có sự phát triển rất nhanh và
đột ngột, trong khi sự thay đổi của đốt nóng bề mặt do sự chuyển mùa lại rất chậm. Do
đó, lí thuyết về gió mùa theo quan điểm cổ điển dựa trên tương phản đốt nóng giữa bề
mặt và đại dương đã không còn đầy đủ.
44
Hình 3.21. Hoàn lưu mô phỏng mực 200 hPa thời kì bùng nổ gió mùa năm 1998.
Hình 3.22. Hoàn lưu mực 200 hPa thời kì bùng nổ gió mùa năm 1999.
45
Hình 3.23. Hoàn lưu mực 200 hPa thời kì bùng nổ gió mùa năm 2001.
Hình 3.24. Hoàn lưu mực 200 hPa thời kì bùng nổ gió mùa năm 2004.
46
Hình 3.25. Hoàn lưu mực 200 hPa thời kì bùng nổ gió mùa năm 2010.
Tuy nhiên, hoàn lưu gió mùa và hoàn lưu Hadley có sự giống nhau đó là đều có
sự tồn tại gió tây nam mực thấp và gió đông bắc mực cao. Điều này khá giống với lí
thuyết bảo toàn động lượng của khí quyển như đã được đề cập trong những quan điểm
truyền thống. Nghĩa là khi gió di chuyển từ vĩ độ thấp lên vĩ độ cao sẽ được gia tốc và
hướng sang phía đông, còn khi gió di chuyển từ vĩ độ cao về vĩ độ thấp sẽ giảm tốc và
hướng sang phía tây. Trên thực thế do lớp biên có ma sát, động lượng của khí quyển
sẽ không thực sự bảo toàn mà tồn tại quá trình vận chuyển động lượng rất phức tạp
giữa trái đất và khí quyển thông qua các dòng bề mặt... Tuy vậy khi sử dụng mô hình
phân giải cao để tăng tính chính xác của những tác động của bề mặt như trong thí
nghiệm đối với mô hình RAMS này, ta vẫn nhận được một kết quả tương tự. Do đó có
thể thấy định luật bảo toàn động lượng, ở một khía cạnh nào đó, vẫn là cơ chế động
lực rất quan trọng của hoàn lưu gió mùa. Vấn đề này sẽ được trình bày rõ hơn trong
các thí nghiệm tiếp theo, khi địa hình được loại bỏ hoàn toàn trong quá trình mô
phỏng.
47
3.4. Đặc trưng của trường nhiệt mô phỏng
3.4.1. Đặc trưng của trường nhiệt mực thấp
Hình 3.26 tới Hình 3.30 lần lượt biểu diễn nhiệt độ trung bình ngày tại mực 850
hPa giai đoạn bùng nổ gió mùa mùa hè Nam Bộ của các trường hợp mô phỏng. Dưới
sự đốt nóng theo mùa của bức xạ mặt trời, mực 850 hPa hình thành nên ba khu vực có
nhiệt độ cao là Iran, Ấn Độ và Myanmar. Dựa trên số liệu tái phân tích cho thấy, các
khu vực đốt nóng này hình thành từ rất sớm (khoảng đầu tháng Hai), tuy nhiên trong
suốt giai đoạn bùng nổ gió mùa, hình thế nhiệt mực thấp này không có nhiều thay đổi.
Độ lớn của các trung tâm nhiệt chỉ tăng khoảng 2 đến 3 K sau vài tháng. Sự thay đổi
chỉ được nhận thấy rõ nét hơn ở vùng ngoại nhiệt đới với sự di chuyển lên phía bắc
của các đường đẳng nhiệt và sự thưa dần của chúng. Sườn phía đông của cao nguyên
Tibet lúc này vẫn tồn tại một rãnh lạnh khá sâu, phát triển từ phía Nhật Bản tới gần
phía bắc Việt Nam. So với khu vực phía tây, sườn phía đông này có nhiệt độ thấp hơn
rất nhiều. Khu vực Nam Bộ và bán đảo Đông Dương nằm ở giữa hai đới nhiệt này
nhưng gần như không chịu tác động của hệ thống nhiệt nào, nhiệt độ tại đây khá đồng
nhất so với nhiệt độ của các vùng nhiệt đới xung quanh.
Hình 3.26. Trường nhiệt mô phỏng mực 850 hPa thời kì bùng nổ gió mùa năm 1998.
48
Hình 3.27. Trường nhiệt mô phỏng mực 850 hPa thời kì bùng nổ gió mùa năm 1999.
Hình 3.28. Trường nhiệt mô phỏng mực 850 hPa thời kì bùng nổ gió mùa năm 2001.
49
Hình 3.29. Trường nhiệt mô phỏng mực 850 hPa thời kì bùng nổ gió mùa năm 2004.
Hình 3.30. Trường nhiệt mô phỏng mực 850 hPa thời kì bùng nổ gió mùa năm 2010.
50
3.4.2. Đặc trưng của trường nhiệt mực cao
Hình 3.31 tới Hình 3.35 lần lượt biểu diễn trường nhiệt trung bình từ 500 hPa
tới 200 hPa giai đoạn bùng nổ gió mùa Nam Bộ. Khác với hình thế nhiệt mực thấp,
trong giai đoạn bùng nổ gió mùa, trường nhiệt trung bình mực cao có sự thay đổi rất
lớn với sự hình thành của các trung tâm nhiệt tại phía bắc vịnh Bengal. Trung tâm
nhiệt này hình thành từ khá sớm (trước thời điểm bùng nổ gió mùa Nam Bộ khoảng 15
ngày) đánh dấu sự đảo ngược gradient nhiệt độ mực cao khí quyển tại vĩ độ 90o E với
bắc bán cầu là vùng có nhiệt độ cao hơn. Trong khi nam bán cầu cũng hình thành một
số trung tâm nhiệt nhỏ sau đó suy yếu nhanh chóng thì trung tâm nhiệt tại bắc bán cầu
vẫn tiếp tục duy trì và mở rộng dần sang phía đông. Trong hầu hết các năm, sự xuất
hiện của trung tâm nhiệt này thường trùng khớp với sự xuất hiện của xoáy nghịch mực
cao phía nam Châu Á (đã được biểu diễn trong Hình 3.21 tới Hình 3.25).
Hình 3.31. Trường nhiệt mô phỏng trung bình mực 500 – 200 hPa năm 1998.
51
Hình 3.32. Trường nhiệt mô phỏng trung bình mực 500 – 200 hPa năm 1999.
Hình 3.33. Trường nhiệt mô phỏng trung bình mực 500 – 200 hPa năm 2001.
52
Hình 3.34. Trường nhiệt mô phỏng trung bình mực 500 – 200 hPa năm 2004.
Hình 3.35. Trường nhiệt mô phỏng trung bình mực 500 – 200 năm 2010.
53
Những ngày gần bùng nổ gió mùa, trung tâm nhiệt mở rộng rất nhanh sang phía
bán đảo Đông Dương và lên phía bắc. Một mặt, sự tăng cường này làm tăng cường
xoáy nghịch mực cao, mặt khác nó đã phá vỡ cấu trúc nhiệt dạng sóng vốn có ở vùng
vĩ độ trung bình, đồng thời đẩy rãnh lạnh phía đông Trung Quốc sang phía đông, đánh
dấu sự chuyển từ hình thế mùa đông sang hình thế mùa hè của bắc bán cầu.
Hình thế nhiệt trên cao cũng cho thấy, các trung tâm nhiệt mực cao trong những
năm El Niño và non – ENSO thường cao hơn so với các năm La Nina khoảng 1K đến
2 K. Nhiệt độ phổ biến của trung tâm nhiệt trong những năm La Nina là 252 K, trong
khi đó nhiệt độ này ở các năm El Niño là 253 K đến 254 K. Điều này cũng phù hợp
với sự phân tích trường OLR ở Mục 2.3 với sự hoạt động của đối lưu trong những năm
El Niño trong giai đoạn đầu mùa hè mạnh hơn trong những năm La Nina. Sự chênh
lệch nhiệt độ này cũng dẫn đến sự chênh lệch của tốc độ trường gió được phân tích ở
Mục 3.2.
3.5. Vai trò của giải phóng ẩn nhiệt quy mô lớn
Các phân tích về trường nhiệt và trường gió trong Mục 3.2 và Mục 3.3 cho thấy
sự phát triển của hoàn lưu gió mùa có liên quan chặt chẽ với sự hình thành của trung
tâm nhiệt mực cao phía nam Châu Á. Tuy nhiên Mục 3.3 cũng chỉ ra rằng trong khi
trung tâm nhiệt mực cao này có sự phát triển khá nhanh, thì trường nhiệt mực thấp lại
phát triển rất chậm. Ngay cả ở khu vực cao nguyên Tibet, nơi vẫn được coi là trung
tâm nhiệt lớn nhất của gió mùa Châu Á thì trường nhiệt ở đây cũng không có sự thay
đổi nhiều. Trong khi đó, để hình thành và duy trì một xoáy nghịch quy mô lớn tại các
mực trên cao như đã thấy trong Hình 3.31 tới Hình 3.35 lại đòi hỏi giá trị đốt nóng rất
lớn. Sự không đồng điệu giữa trường nhiệt mực thấp và trường nhiệt mực cao này đã
đặt ra câu hỏi về vai trò thực sự của đốt nóng bề mặt đối với sự thay đổi của hoàn lưu
khí quyển thời kì bùng nổ gió mùa.
Quan điểm cổ điển về nguồn gốc gió mùa dựa trên tương phản đốt nóng giữa
lục địa và đại dương đã không còn đầy đủ. Trong khi đó, sự tồn tại của trung tâm nhiệt
mực cao giai đoạn lại khá trùng khớp với những nhận định về một nguồn đốt nóng đã
được đề cập khi phân tích trường sự hình thành của xoáy nghịch mực cao Nam Á. Để
làm rõ hơn về nguồn gốc của nguồn nhiệt mực cao này, giá trị biến thiên theo thời
54
gian của nó, trường hiển nhiệt bề mặt và trường ẩn nhiệt bề mặt sẽ được biểu diễn trên
cùng một đồ thị. Miền tính toán được giới hạn cho khu vực Nam Á từ 5oN – 25oN,
80
o
E – 120oE , kết quả tính toán được thể biểu diễn trong Hình 3.36.
Hình 3.36. Đồ thị của trường nhiệt độ
trung bình (đường liền) 500-200 hPa, ẩn
nhiệt (đường đứt) và hiển nhiệt (đường
chấm) bề mặt, miền tính (5oN -25oN,
80
o
E-120
o
E), thang chia ngoài cùng là
nhiệt độ, giữa là ẩn nhiệt và trong cùng
là hiển nhiệt.
Theo các phân tích trường nhiệt mực thấp từ Hình 3.26 tới Hình 3.30, trong giai
đoạn bùng nổ gió mùa mùa hè, đốt nóng bức xạ mặt trời tạo cho khí quyển mực thấp ở
bắc bán cầu có một nền nhiệt khá cao. Tuy nhiên, theo Hình 3.36, sự thay đổi của hiển
55
nhiệt bề mặt giai đoạn này lại không “khớp” với sự thay đổi của trường nhiệt trung
bình các mực trên cao. Gần đến ngày bùng nổ gió mùa, nhiệt độ trung bình mực cao
có xu hướng tăng rất nhanh, sự tăng này có rất giống với xu hướng tăng của ẩn nhiệt
bề mặt . Nhưng ngược lại, những ngày này lại chứng kiến sự giảm mạnh của đốt nóng
hiển nhiệt bề mặt. Hơn nữa giá trị của dòng ẩn nhiệt lại lớn hơn rất nhiều so với dòng
hiển nhiệt. Các xu thế trái ngược nhau này cho thấy hiển nhiệt bề mặt không thể là
nguyên nhân gây ra sự thay đổi của trường nhiệt mực cao khí quyển thời kì bùng nổ
gió mùa, mà nguyên nhân thực sự nằm ở sự giải phóng ẩn nhiệt quy mô lớn.
Hình 3.37. Tốc độ giải phóng ẩn
nhiệt do đối lưu trung bình năm
ngày trước thời điểm bùng nổ gió
mùa trung bình từ 80oE – 100oE,
đơn vị K.s-1.
Hình 3.37 tiếp tục làm rõ thêm nguồn gốc của trung tâm nhiệt mực cao với các
đồ thị biễu diễn tốc độ đốt nóng ẩn nhiệt đối lưu năm ngày trước bùng nổ gió mùa cho
các năm. Trong hầu hết các năm đều nhận thấy một cấu trúc khá đối xứng của yếu tố
56
đốt nóng này qua xích đạo. Tuy nhiên các giá trị mô phỏng ở bắc bán cầu luôn lớn hơn
so với ở nam bán cầu, cho thấy sự hoạt động của đối lưu ở bắc bán cầu mạnh mẽ hơn
rất nhiều so với nam bán cầu. Vị trí của các cực trị đốt nóng ẩn nhiệt cũng khá trùng
với tâm của các xoáy nghịch mực cao được nhận thấy trong các Hình 3.21 tới Hình
3.25. Do đó một lần nữa có thể khẳng định rằng nguyên nhân chính hình thành nên các
xoáy nghịch này là do đốt nóng ẩn nhiệt trong giải phóng đối lưu chứ không phải do
đốt nóng hiển nhiệt.
3.6. Thí nghiệm với mô phỏng không có địa hình
Để xác định vai trò của địa hình tới cấu trúc của hoàn lưu khí quyển quy mô
lớn, luận văn này tiến hành thí nghiệm mô phỏng lại các giai đoạn bùng nổ gió mùa
với mô hình RAMS trong trường hợp không có địa hình. Những kết quả của thí
nghiệm này sẽ được so sánh với trường hợp mô phỏng có địa hình đã được phân tích ở
các mục trước nhằm đưa ra những thảo luận về các quá trình vận chuyển động lượng
trong khí quyển và cuối cùng đi tìm lí giải cho nguyên nhân hình thành của dòng xiết
vượt xích đạo mực thấp từ nam bán cầu lên bắc bán cầu.
3.6.1. Trường mưa mô phỏng
Trường mưa mô phỏng trong trường hợp không có địa hình cho giai đoạn bùng
nổ gió mùa các năm được biểu diễn trên Hình 3.38 cho thấy, khi không có địa hình,
mưa gió mùa gần như không xuất hiện tại Việt Nam. Các vùng mưa chỉ tập trung ở
một khu vực nhỏ, thường ở phía Đông Á (khu vực rìa phía trên của áp cao Tây Thái
Bình Dương). Dải mưa xích đạo bị suy yếu và thậm chí trong một số năm dải mưa này
hầu như bị biến mất (các năm 1999, 2004 và 2010). Ở các năm còn lại là 1998 và 2001
cũng không nhận thấy sự di chuyển của dải mưa này lên phía bắc. Yếu tố chính gây
lên sự bùng nổ gió mùa tại Nam Bộ là đối lưu trong trường hợp này đã không còn. Chỉ
sau khoảng bảy ngày tích phân khi loại bỏ địa hình, các hình thế mưa mô phỏng đã
thay đổi hoàn toàn so với trường hợp có địa hình ban đầu.
57
Hình 3.38. Mưa mô phỏng trong
các trường hợp không có địa
hình bởi mô hình RAMS, đơn vị
mm.ngày-1.
3.6.2. Trường hoàn lưu mô phỏng
Tương ứng với sự thay đổi của trường mưa, trường hoàn lưu trong trường hợp
không có địa hình cho thấy sự thay đổi đáng kể. Các hình thế được biểu diễn trong
Hình 3.39 cho thấy, trong ngày bùng nổ gió mùa, đới gió tây vượt xích đạo không xuất
hiện tại Nam Bộ mà thay vào đó là đới gió đông thịnh hành ở vùng nhiệt đới. Trong
hầu hết các trường hợp đều nhận thấy một đới gió đông rất lớn trải dài từ xích đạo tới
20
o N. Áp cao cận nhiệt đới Tây Thái Bình dương không rút lui sang phía đông nên
58
khiến gió tây ở nam bán cầu không thể phát triển được lên phía bắc. Khu vực ngoại
nhiệt đới, nơi vốn là cao nguyên Tibet, trong trường hợp không địa hình này được thay
thế bởi hệ thống sóng quy mô hành tinh phát triển sâu xuống phía nam. Đây chính là
các sóng Rossby vốn chỉ được quan sát tại các mực trên cao nhưng do không có địa
hình nên đã hình thành ngay ở các mực thấp. Nhìn chung, các cấu trúc khí quyển gần
như đã thay đổi hoàn toàn chỉ sau chín ngày tích phân.
Hình 3.39. Trường gió mô phỏng
trong các trường hợp không có địa
hình bởi mô hình RAMS, đơn vị
mm.ngày-1.
59
3.6.3. Quá trình vận chuyển động lượng ngang
Do có ma sát ở bề mặt nên giữa trái đất và khí quyển luôn tồn tại một quá trình
trao đổi động lượng. Động lượng sẽ được truyền từ trái đất vào khí quyển ở vùng nhiệt
đới khi gió bề mặt là gió đông, sau đó động lượng được vận chuyển lên cao và theo
phương ngang về phía cực. Cuối cùng, động lượng được vận chuyển thẳng đứng
xuống dưới và truyền trở lại trái đất ở các vĩ độ cao, nơi gió bề mặt là gió tây. Nếu tính
toán được các dòng vận chuyển này có thể giúp chuẩn đoán ngược lại được những
thành phần chính gây nên sự tăng cường hoặc suy yếu của trường gió vĩ hướng trong
quá khứ, thậm chí có thể đưa ra được dự báo được sự phát triển của dòng vĩ hướng
hướng này trong tương lai. Do đó, để giải thích cho sự hình thành và phát triển của các
dòng vượt xích đạo, việc nghiên cứu các dòng vận chuyển động lượng trong khí quyển
là cực kì quan trọng.
Có rất nhiều yếu tố dẫn đến sự thay đổi của dòng vận chuyển động lượng vĩ
hướng như địa hình, ma sát bề mặt, ma sát nhớt của khí quyển... Xét về khía cạnh địa
hình, vai trò chính của các dãy núi là làm tăng các thông lượng động lượng bề mặt,
đồng thời gây nên sự thay đổi do sự chênh lệch áp suất ở bờ đông và bờ tây của các
dãy núi này. Tuy nhiên nếu xét đến tất các các yếu tố này sẽ rất phức tạp, vì vậy nội
dung của mục này chỉ đề cập đến sự thay đổi của dòng vận chuyển động lượng ngang
được gây bởi địa hình, đặc biệt nhấn mạnh sự thay đổi của các dòng động lượng được
vận chuyển từ vùng cận nhiệt đới về các vùng nhiệt đới trong giai đoạn bùng nổ gió
mùa.
Công thức biểu diễn sự thay đổi động lượng của một mặt cắt vĩ độ được đưa ra
bởi Widger (1949) [34]:
Biểu thức vế trái biểu diễn sự biến đổi động lượng toàn phần của một dải vĩ độ.
Thành phần đầu tiên của vế phải biểu diễn thông lượng động lượng tương đối được
vận chuyển theo phương ngang qua dải vĩ độ.Thành phần thứ hai vế phải biểu diễn
thông lượng động lượng thẳng đứng được vận chuyến tới dải vĩ độ.Thành phần thứ ba
60
vế phải biểu diễn tác động của sự chênh lệch áp suất giữa sườn phía đông và sườn phía
tây của dãy núi. Thành phần cuối cùng vế phải biểu diễn tác động của lực ma sát.
Ở đây ρ là mật độ khối không khí; M là động lượng toàn phần của khối không
khí; V là Thể tích khối không khí; R là bán kính trái đất; u là tốc độ gió vĩ hướng; v là
tốc độ gió kinh hướng; ω là vận tốc góc của trái đất; r là khoảng cách tới trục trái đất;
x là khoảng cách theo phương đông tây; z là khoảng cách theo phương thẳng đứng; y
là khoảng cách theo phương nam bắc; S là diện tích bề mặt; p là áp suất; σlà hình
chiếu của S lên mặt kinh hướng; τ là hệ số ma sát và Ø là vĩ độ.
Hình 3.40. Vận chuyển momen
động lượng tương đối của khí
quyển mô phỏng có địa hình năm
ngày trước bùng nổ gió mùa, trung
bình từ 50oE – 140oE, đơn vị
10
22
g.m.s
-1
.
61
Hình 3.41. Vận chuyển momen
động lượng tương đối của khí
quyển mô phỏng không địa hình
năm ngày trước bùng nổ gió mùa,
trung bình từ 50oE – 140oE, đơn
vị 1022g.m.s-1.
Hình 3.40 và Hình 3.41 lần lượt biểu diễn sự vận chuyển thông lượng động
lượng tương đối của khí quyển (thành phần thứ nhất của vế phải) trong trường hợp có
địa hình và không có địa hình năm ngày trước bùng nổ gió mùa Nam Bộ. Hình thế
chung được nhận thấy trong cả hai trường hợp đó là giá trị động lượng được vận
chuyển trong khí quyển tăng đần theo độ cao đồng thời tồn tại hai xu hướng vận
chuyển động lượng lớn, một từ nam bán cầu lên bắc bán cầu và một từ khoảng vĩ độ
62
20
o
N về phía cực. Khu vực từ -10o S – 10o N là khu vực nhận được nhiều động lượng
nhất, cả từ phía nam vận chuyển lên và từ phía bắc vận chuyển xuống. Hình thế vận
chuyển ở phía trên cao trong hai trường hợp là tương đối giống nhau, tuy nhiên sự
khác nhau lớn lại nằm ở các giá trị động lượng được vận chuyển. Trong trường hợp có
địa hình, động lượng được vận chuyển từ nam bán cầu tới khu vực nhiệt đới (-10o S –
10
o
N) lớn hơn nhưng sự vận chuyển động lượng từ 20o N về phía cực lại nhỏ hơn rất
nhiều so với trường hợp không có địa hình.
Do có sự hiện diện của các dãy núi, các dòng vận chuyển động lượng mực thấp
lên phía bắc trong trường hợp có địa hình bị giảm đi rất nhanh. Ngược lại, trong
trường hợp không địa hình, hệ thống sóng Rossby vĩ độ cao lấn sâu xuống phía nam
lại giúp tăng cường các dòng này. Sự tồn tại của đới gió đông tại xích đạo cũng khiến
cho động lượng từ nam bán cầu lên bắc bán cầu giảm đi rất nhiều. Do đó khi so sánh
hai trường hợp có thể thấy, vùng khí quyển nhiệt đới của trường hợp mô phỏng có địa
hình nhận được nhiều động lượng hơn so với trường hợp không có địa hình, đây có thể
chính là nguyên nhân gây bùng phát gió mùa.
63
Chương 4
XÂY DỰNG CHỈ SỐ GIÓ MÙA VÀ TRƯỜNG HỢP DỰ BÁO
CHO NĂM 2012
4.1. Xây dựng các chỉ số gió mùa
Xây dựng các chỉ số cảnh báo vào chỉ số dự báo cho ngày gió bùng nổ gió mùa
có vai trò cực kì quan trọng trong nghiên cứu cũng như dự báo sự xuất hiện của gió
mùa mùa hè. Hiện nay tại Châu Á, các chỉ số mưa, chỉ số phát xạ sóng dài OLR, chỉ số
đối lưu, chỉ số nhiệt và chỉ số gió vĩ hướng là những chỉ số được dùng khá phổ biến.
Vì mỗi chỉ số phản ánh những đặc trưng nhiệt động lực khác nhau của gió mùa nên
nhiều nghiên cứu đã kết hợp nhiều chỉ số để tạo ra một chỉ số chỉ thị cuối cùng. Ở Việt
Nam cũng có rất nhiều chỉ số được đưa ra, trong đó những chỉ số được sử dụng nhiều
nhất là chỉ số mưa và chỉ số gió vĩ hướng.
4.1.1.Chỉ số mưa
Một chỉ số mưa gió mùa thường đặt ra hai chỉ tiêu, một về diện mưa (mưa diễn
ra trên quy mô lớn) và một về lượng mưa (mưa diễn ra trong một thời gian đủ dài).
Đối với các khu vực gió mùa điển hình như gió mùa Ấn Độ hoặc gió mùa Đông Á,
ngày bùng nổ gió mùa thường được đánh dấu bởi sự xuất hiện của mưa lớn và kéo dài
liên tục trong nhiều ngày. Tuy nhiên theo phân tích dựa trên các thành phân trực giao
tự nhiên trong Hình 2.5, Nam Bộ không nằm trong khu vực gió mùa điển hình mà
thuộc đới chuyển tiếp của các hệ thống gió mùa. Trong giai đoạn đầu mùa hè, khu vực
này đồng thời chịu tác động của hai hệ thống hoàn lưu quy mô lớn, một là đới gió tây
nam nhiệt đới vượt xích đạo và một là đới gió đông ở rìa phía tây của áp cao cận nhiệt
đới Tây Thái Bình Dương, do đó mưa gió mùa tại Nam Bộ cũng không thực sự điển
hình như các vùng gió mùa khác. Lượng mưa quan trắc được biểu diễn trong Hình 3.6
đến Hình 3.15 cho thấy, trong một số năm La Nina mạnh, mưa thường xuất hiện sớm
bất thường từ khoảng đầu Tháng Tư, nhưng trong các năm El Niño, mưa thường xuất
hiện rất muộn, thậm chí không xuất hiện tại một số trạm. Sau ngày bùng nổ gió mùa,
mưa tại hầu hết trạm cũng không kéo dài đủ năm ngày. Do đó, nếu áp dụng các chỉ số
bùng nổ gió mùa của các khu vực gió mùa điển hình cho Nam Bộ thì một số năm sẽ
không xác định được ngày bùng nổ gió mùa. Vì vậy, luận văn đề xuất ngưỡng chỉ tiêu
64
cho chỉ số mưa quan trắc tại các trạm Nam Bộ như sau:
- Ngày bùng nổ gió mùa là ngày mưa xuất hiện tại trên 50% các trạm tại các
trạm tại Nam Bộ.
- Lượng mưa đo được ở các trạm phải đạt trên 5 mm.ngày-1 và duy trì trong ít
nhất ba ngày tiếp theo.
Ngày bùng nổ gió mùa mùa hè tại Nam Bộ và Đông Dương được xác định
tương ứng bởi chỉ số mưa quan trắc trạm và mưa mô phỏng được nội suy về trạm
(Hình 3.6 tới Hình 3.15) được biểu diễn trong Bảng 4.1.
1998 1999 2001 2004 2010
Chỉ số mưa
quan trắc
15/05 21/04 11/05 12/05 21/05
Chỉ số mưa
mô phỏng
15/05 20/04 10/05 11/05 21/05
Bảng 4.1. Ngày bùng nổ gió mùa được xác định bởi chỉ số mưa quan trắc
và mưa mô phỏng
Theo Bảng 4.1, thời điểm bùng nổ gió mùa được xác định bởi hai chỉ số là
tương đối gần nhau, cho thấy chỉ số mưa quan trắc và mưa mô phỏng đều chỉ thị tốt sự
xuất hiện của mưa gió mùa quy mô lớn tại Nam Bộ. Do đó, ngưỡng chỉ tiêu áp dụng
cho các chỉ số mưa trạm được đưa ra là hợp lí. Đồng thời theo Bảng 4.1, sự chênh lệch
giữa ngày bùng nổ gió mùa xác định bởi mưa quan trắc và mưa mô phỏng là rất nhỏ
cho thấy RAMS đã mô phỏng tốt trường mưa. Trong các năm El Niño, ngày bùng nổ
gió mùa xác định bởi hai chỉ số là trùng nhau còn trong các năm La Nina và năm trung
tính, mưa mô phỏng thường cho ngày bùng nổ gió mùa thường sớm hơn một ngày so
với mưa quan trắc.
4.1.2. Chỉ số gió vĩ hướng
Chỉ số gió vĩ hướng là chỉ số gió mùa phổ biến nhất được sử dụng trên thế giới.
Những điểm mạnh của chỉ số này là mang được những đặc trưng của hoàn lưu quy mô
lớn, ít chịu tác động của các yếu tố địa phương và có hệ số tương quan rất cao với
trường mưa. Những phân tích về hoàn lưu mực thấp được biểu diễn trong Hình 2.3 cho
thấy trong ngày bùng nổ gió mùa mùa hè có một đới gió tây rất mạnh thổi vịnh Bengal
65
tới Nam Bộ. Các thành phần trực giao trong Hình 2.5 cũng cho thấy, về phương diện
khí hậu, đới gió tây này trải dài từ Đông Phi tới Philipine và mở rộng từ xích đạo tới
gần 20o N. Vì vậy luận văn này đề xuất giá trị trung bình của trường gió vĩ hướng mực
850 hPa trong miền 10o N – 15o N; 100o E – 110o E là chỉ số để xác định ngày bùng nổ
gió mùa mùa hè cho khu vực Nam Bộ. Với chỉ số này, ngày bùng nổ gió mùa là ngày
có giá trị gió vĩ hướng đạt trên 0,5 m.s-1 và duy trì liên tục trong ít nhất ba ngày tiếp
theo. Điều kiện đòi hỏi chỉ số phải thỏa mãn trong ba ngày tiếp theo nằm loại bỏ
những khả năng gió tây hình thành do các nhiễu động nhiệt đới hoặc các hiện tượng
thời tiết không phải quy mô lớn.
Hình 4.2. Trung bình gió vĩ
hướng mực 850 hPa khu vực
(10
o
N-15
o
N, 100
o
E-110
o
E) mô
phỏng bởi RAMS.
66
Hình 4.3. Trung bình gió vĩ
hướng mực 850 hPa khu vực
(10
o
N-15
o
N, 100
o
E-110
o
E) số
liệu tái phân tích NCAR/NCEP
.
Theo Hình 4.2, trong giai đoạn trước bùng nổ gió mùa, chỉ số gió vĩ hướng
mang dấu âm, cho thấy sự duy trì của đới gió đông yếu trên khu vực Nam Bộ. Tuy
nhiên đến gần ngày bùng nổ, giá trị gió vĩ hướng này tăng rất nhanh (trong hầu hết các
trường hợp giá trị gió thay đổi từ -2 m.s-1 tới 7 m.s-1 trong vòng ba ngày) và giữ
nguyên giá trị dương đó trong nhiều ngày tiếp theo. Sự đảo dấu đột ngột này của chỉ số
gió vĩ hướng cho thấy sự phát triển rất nhanh và mạnh của gió tây nhiệt đới từ vịnh
Bengal sang khu vực Nam Bộ. Chỉ trong khoảng ba ngày, gió tây nhiệt đới đã thay thế
hoàn toàn đới gió đông yếu tồn tại trước đó và thống trị hình thế thời tiết nơi đây.
67
Ngày bùng nổ gió mùa của các trường hợp nghiên cứu được biểu diễn trong
Bảng 4.2 cho thấy chỉ số gió mùa được xác định bởi trường gió tây mô phỏng tương
đồng rất tốt với chỉ số gió mùa được xác định bởi trường gió tây tái phân tích. Khi so
sánh các thời điểm bùng nổ được xác định bởi chỉ số mưa và chỉ số gió vĩ hướng, ngày
bùng nổ gió mùa được xác định bởi chỉ số gió vĩ hướng thường sớm hơn từ một đến
bốn ngày so với ngày bùng nổ gió mùa xác định bởi trường mưa. Ví dụ năm 2001, chỉ
số gió tây tái phân tích và gió tây mô phỏng đều thỏa mãn sớm hơn so với chỉ số mưa
quan trắc từ 4 đến 5 ngày. Chỉ có duy nhất năm 1999, chỉ số gió vĩ hướng cho ngày
bùng nổ gió mùa muộn hơn một ngày so với chỉ số mưa quan trắc. Các trường hợp còn
lại, chỉ số gió vĩ hướng đều cho ngày bùng nổ sớm hơn so với chỉ số mưa, cho thấy
đây là một chỉ số cảnh báo sớm tốt cho sự xuất hiện của mưa gió mùa tại Nam Bộ.
1998 1999 2001 2004 2010
Gió tây mô
phỏng
15/05 22/04 06/05 10/05 21/05
Gió tây tái
phân tích
15/05 22/04 07/05 08/05 21/05
Bàng 4.2. Ngày bùng nổ gió mùa dựa vào chỉ số gió vĩ hướng mô phỏng và
tái phân tích NCAR/NCEP.
4.1.3. Chỉ số gradient nhiệt độ mực cao
Chỉ số gradient nhiệt độ các mực trên cao là một chỉ số ít được sử dụng ở Việt
Nam, tuy nhiên chỉ số này phản ánh rất tốt sự phát triển nhiệt lực của khí quyển thời kì
bùng nổ gió mùa, ở đó, bắc bán cầu chuyển từ hình thế mùa đông (với nhiệt độ trung
bình của khí quyển thấp) sang hình thế mùa hè (với nhiệt độ khí quyển cao hơn so với
nam bán cầu). Những phân tích về đặc điểm của trường nhiệt mực cao trong Hình 2.8
cho thấy thời điểm bùng nổ gió mùa mùa hè Nam Bộ gắn liền với sự xuất hiện của một
ổ nhiệt mực cao phía trên vịnh Bengal. Ổ nhiệt này có vai trò quan trọng trong việc
hình thành xoáy nghịch mực cao được quan sát thấy trong Hình 2.4. Do đó luận văn
chọn giá trị nhiệt độ trung bình 500 hPa – 200 hPa tại hai khu vực (100o E – 110o E;
15
o
N – 25o N) và (100o E – 110o E; 5o S – 5o N) để làm chỉ số chỉ thị cho sự bùng nổ
gió mùa. Ngày bùng nổ được quy ước là ngày giá trị nhiệt độ của khu vực phía bắc lớn
68
hơn khu vực phía nam và sự chênh lệch này kéo dài ít nhất ba ngày tiếp theo.
Hình 4.4. Đồ thị của nhiệt độ
trung bình từ 500 tới 200 hPa,
đường đứt là miền (100oE-
110
o
E; 5
o
S-5
oN) và đường liền là
(100
o
E-110
o
E;15
o
N-25
o
N) mô
phỏng bởi RAMS.
Đồ thị biểu diễn chỉ số gradient nhiệt độ mực cao mô phỏng trong Hình 4.4 cho
thấy, giai đoạn trước bùng nổ gió mùa, nhiệt độ trung bình các mực trên cao phía bắc
Việt Nam (đường đậm) gần như luôn thấp hơn so với nhiệt độ trung bình phía nam
Việt Nam (đường nét đứt). Tuy nhiên tới gần thời điểm bùng nổ gió mùa, trong khi
nhiệt độ khu vực phía nam gần như không tăng, thậm chí giảm nhẹ thì nhiệt độ trung
69
bình ở khu vực phía bắc tăng rất nhanh. Sự đảo ngược của gradient nhiệt độ kinh
hướng mực cao diễn ra trước thời điểm xuất hiện mưa gió mùa từ hai đến ba ngày.
Hình 4.5. Đồ thị của nhiệt độ trung
bình từ 500 tới 200 hPa, đường đứt
là miền (100oE-110oE; 5oS-5oN) và
đường liền là (100oE-110oE;15oN-
25
o
N)số liệu tái phân tích
NCAR/NCEP .
Dựa vào Hình 4.4 và Hình 4.5, ngày bùng nổ gió mùa mùa hè được xác định
bởi chỉ số gradient nhiệt độ mực cao của các trường hợp nghiên cứu được liệt kê trong
Bảng 4.3. Nhận thấy, ngày bùng nổ gió mùa được xác định bằng số liệu mô phỏng
tương đối gần so với thời điểm được xác định bằng số liệu tái phân tích. Mô hình
RAMS đã mô phỏng rất tốt trường nhiệt độ trong giai đoạn này. Trong những năm La
70
Nina, chỉ số gradient nhiệt độ đều cho ngày bùng nổ gió mùa sớm hơn so với chỉ số
mưa trạm. Đặc biệt trong năm 1999, sự đảo ngược gradient nhiệt độ diễn ra rất sớm,
thậm chí sớm hơn cả thời điểm bắt đầu tích phân.
1998 1999 2001 2004 2010
Gradient
mô phỏng
19/05 - 09/05 09/05 19/05
Gradient tái
phân tích
19/05 - 09/05 09/05 20/05
Bảng 4.3. Ngày bùng nổ gió mùa dựa vào chỉ số gradient nhiệt độ mô phỏng và
gradient nhiệt độ tái phân tích NCAR/NCEP
4.2. Áp dụng các chỉ số để dự báo cho trường hợp năm 2012
Trong Mục 4.2 này, số liệu GFS (Global Forecast System) được sử dụng để làm
điều kiện biên và điều kiện ban đầu cho mô hình RAMS nhằm mục đích thử nghiệm
áp dụng dự báo ngày bùng nổ gió mùa mùa hè cho khu vực Nam Bộ năm 2012. Mang
đặc trưng của một năm La Nina, ngày bùng nổ gió mùa năm 2012 được xác định là
ngày 06 tháng Năm, sớm hơn hầu hết các trường hợp được nghiên cứu trong Mục 3,
ngoại trừ năm 1999. Mô hình bắt đầu tích phân dự báo từ ngày 04 tháng Năm và kết
thúc vào ngày 10 tháng Năm. Vì với pha dự báo, chất lượng của mô hình khu vực phụ
thuộc vào chất lượng của mô hình dự báo toàn cầu, do vậy thời gian tích phân được
lựa chọn ngắn hơn so với trường hợp mô phỏng sử dụng số liệu tái phân tích. Cấu hình
miền tính giống như đã trình bày trong Mục 3.1.
Số liệu GFS có độ phân giải 1o x 1o theo phương ngang và 26 mực theo
phương thẳng đứng. File số liệu được định dạng theo chuẩn Grib2, mỗi bước thời gian
được ghi ra 1 file, mỗi file cách nhau sáu giờ.
4.2.1. Đặc trưng trường mưa quan trắc giai đoạn bùng nổ gió mùa năm 2012
Giá trị mưa quan trắc của các trạm Nam Bộ trong giai đoạn bùng nổ gió mùa
mùa hè năm 2012 được biểu diễn trong Hình 4.6. Nhận thấy, trước ngày 06 tháng
Năm, mưa đã xuất hiện tại một số trạm như Cà Mau, Bảo Lộc, Đà Lạt, Buôn Ma
71
Thuột, tuy nhiên chỉ đến ngày 06 tháng Năm, mưa mưa trên 5 mm.ngày-1 mới xuất
hiện ở hầu hết các trạm tại Nam Bộ. Các ngày tiếp theo, mưa được duy trì tại một số
trạm như Daknong, Phú Quốc, Rạch Giá, Cà Mau, Cần Thơ, Bảo Lộc. Do đó dựa vào
chỉ số mưa quan trắc có thể nhận định ngày 06 tháng Năm là ngày bùng nổ gió mùa
mùa hè khu vực Nam Bộ.
Hình 4.6. Lượng mưa quan trắc tại các trạm Nam Bộ
từ 1/5 đến 15/5 năm 2012, đơn vị mm.ngày-.1
Hình 4.7. Lượng mưa tích lũy ngày trung bình từ (5oN – 15oN, 100oE – 110oE ),
đơn vị mm.ngày-1. Nguồn: CPC (Gauge – Based) Unified Precipitation.
72
Số liệu mưa GPCP chưa được cung cấp ở thời điểm hiện tại nên luận văn sử
dụng giá trị mưa CPC Unified Precipitation của NOAA trung bình từ (5o N – 15o N,
100
o
E – 110o E) là chỉ số tham khảo. Giá trị mưa được biểu diễn trong Hình 4.7 cho
thấy, từ đầu Tháng Tư tới giữa Tháng Năm năm 2012 có hai giai đoạn mưa lớn xuất
hiện tại bán đảo Đông Dương, giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ 06/04 và giai đoạn thứ hai
bắt đầu từ 06/05. Tuy nhiên trong giai đoạn thứ nhất, mưa trên 5 mm.ngày-1 chỉ được
duy trì trong khoảng hai ngày, sau đó mưa giảm hẳn, các ngày sau đó lượng mưa gần
như không đáng kể. Vì vậy có thể nhận định mưa giai đoạn đầu tháng Tư này không
phải là mưa gió mùa. Trong giai đoạn thứ hai, lượng mưa bắt đầu vào ngày 06 tháng
Năm và được duy trì liên tục ngưỡng 5 mm.ngày-1 trong 5 ngày tiếp theo. Đến ngày 15
tháng Năm, mưa tiếp tục xuất hiện lại với lượng mưa đạt 5 mm.ngày-1. Do đó, ngày 06
tháng Năm đã chính thức đánh dấu giai đoạn bắt đầu mùa mưa tại Đông Dương năm
2012.
4.2.2. Trường mưa và trường hoàn lưu dự báo
Hình 4.8. Trường mưa dự báo thời kì bùng nổ gió mùa mùa hè khu vực Nam Bộ 2012.
73
Trường mưa dự báo được biểu diễn trong Hình 4.8 cho thấy từ ngày 04 tháng
Năm tới ngày 07 tháng Năm diễn ra sự di chuyển rất nhanh của dải mưa quy mô lớn từ
khu vực nam Bengal lên phía bắc. Ngày 04 tháng Năm, vị trí của dải mưa vẫn ở
Malaysia thì sang ngày 05 tháng Năm, dải mưa đã bao phủ toàn bộ Thái Lan và một
phần bắc Lào. Ngày 06 tháng Năm chính thức đánh dấu sự bùng nổ gió mùa mùa hè
tại bán đảo Đông Dương khi dải mưa đã bao phủ gần như toàn bộ Malaysia, Thái Lan,
Lào, Campuchia và miền nam Việt Nam. Sang ngày 07 tháng Năm, mưa tiếp tục được
duy trì cả về diện và lượng ở nơi đây. Do đó nếu bắt đầu tích phân dự báo từ ngày 04
tháng Năm, mô hình RAMS sẽ cho dự báo ngày bùng nổ gió mùa tại bán đảo Đông
Dương và Nam Bộ đều là ngày 06 tháng Năm.
Hình 4.9. Trường hoàn lưu mực 850 hPa dự báo cho thời kì bùng nổ gió mùa mùa
hè khu vực Nam Bộ 2012.
Tương đồng với sự di chuyển của dải mưa quy mô lớn lên phía bắc, trường gió
mực 850 hPa được biểu diễn trong Hình 4.9 cho thấy ngày 04 tháng Năm, dòng gió tây
vượt xích đạo đã phát triển lên bắc bán cầu và bao phủ toàn bộ khu vực vịnh Bengal,
74
vượt qua nam Đông Dương và đến Nam Bộ Việt Nam. Sang ngày 05 tháng Năm đới
gió này tiếp tục được tăng cường. Đến ngày 07 tháng Năm, mặc dù bị suy yếu do sự
phát triển trở lại của áp cao cận nhiệt đới Tây Thái Bình Dương nhưng đới gió này vẫn
được duy trì ở Nam Bộ với tốc độ gió khoảng 10 m.s-1. Do đó, nếu dựa vào hình thế
của trường gió mực thấp, ngày bùng nổ gió mùa mùa hè năm 2012 tại khu vực Nam
Bộ có thể được dự báo xảy ra sớm hơn so với mưa quan trắc.
4.2.3. Chỉ số mưa dự báo
PHU CAM CAN RAC VUN PLE BMT BAO DAK DAL
04/5
05/5
06/5
07/5
08/5
09/5
31.6
11.1
19.7
14.3
6.77
16.4
20.4
17.6
22.2
30.1
32.6
28.4
19.4
18.5
26.6
29.7
22.7
19.8
24.0
17.7
22.8
33.9
27.6
25.3
4.12
2.57
9.89
13.7
16.2
13.9
1.75
4.20
16.3
10.0
2.39
5.69
2.41
4.50
14.7
5.15
5.29
8.94
0.00
0.00
14.3
14.7
1.50
1.06
0.24
9.16
11.8
11.5
3.03
5.09
0.63
5.62
1.03
0.86
0.74
3.71
Bảng 4.6. Lượng mưa dự báo tại các trạm Nam Bộ từ 4/5 đến 9/5 năm 2012, đơn
vị mm.ngày-.1 Các số bôi đậm chỉ giá trị mưa trên 5 mm.ngày-.1
Theo Hình 4.8, mưa dự báo quy mô lớn chính thức bao phủ toàn bộ khu vực bán
đảo Đông Dương vào ngày 06 tháng Năm, tuy nhiên Hình 4.8 cũng cho thấy trong
những ngày trước đó, mưa đã xuất hiện sớm ở một số tỉnh Nam Bộ. Do đó các giá trị
mưa dự báo được nội suy về trạm được liệt kê trong Bảng 4.6 cũng cao hơn nhiều so
với thực tế, điển hình là một số trạm phía nam như Cà Mau, Phú Quốc, Cần Thơ, Rạch
Giá, và Vũng Tàu. Tại các khu vực cao nguyên, RAMS cho mưa dự báo ít hơn và cũng
sát với quan trắc hơn. Nhưng xét trên tổng thể, nếu áp dụng chỉ số mưa trạm để dự
báo, RAMS cho ngày bùng nổ gió mùa mùa hè năm 2012 là ngày 05 tháng Năm. Kết
quả này sớm hơn so với thực tế một ngày. Lưu ý là năm 2012 là năm La Nina đang
suy yếu, và như vậy qui luật một lần nữa lặp lại là vào các năm mang thuộc tính La
Nina (dị thường SST Nino 3.4 âm), mô hình cho mưa mô phỏng cũng như dự báo diện
75
rộng xảy ra sớm hơn một ngày so với quan trắc. Mặc dù vậy, kết quả này có thể nói là
rất tốt trong bối cảnh dự báo số.
4.2.4. Chỉ số gió vĩ hướng dự báo
Giá trị trung bình gió vĩ hướng mực 850 hPa khu vực (10o N – 15o N, 100o E –
110
o
E) được biểu diễn trong Hình 4.10 cho thấy, về hình thế chung, chỉ số gió vĩ
hướng dự báo đã nắm bắt tốt những thay đổi của trường gió quy mô lớn với một cực
đại vào ngày 05 tháng Năm và một cực tiểu vào 06 tháng Năm. Các ngày sau đó, chỉ
số này cũng cho thấy những nét tương đồng so với chỉ số gió vĩ hướng sử dụng số liệu
tái phân tích NCAR/NCEP với một xu thế tăng vào ngày 07 tháng Năm và giảm vào
đầu ngày 08 tháng Năm.
Hình 4.10. Trung bình gió vĩ hướng mực 850 hPa khu vực (10oN – 15oN, 100oE –
110
o
E) số liệu dự báo (trái) và số liệu tái phân tích NCAR/NCEP (phải).
Với ngưỡng chỉ tiêu 0,5 m.s-1, cả hai chỉ số gió vĩ hướng dự báo và chỉ số gió vĩ
hướng tái phân tích đều cho ngày bùng nổ gió mùa khu vực Nam Bộ năm 2012 xảy ra
trước so với chỉ số mưa quan trắc vài ngày, ngay từ khi bắt đầu dự báo. Kết quả này
cũng giống như trường hợp năm 2001 như đã nói trên đây và cũng giống với kết quả
thu được của Phạm Thị Thanh Hương và Trần Trung Trực (1999) [4], đó là trong
nhiều trường hợp gió tây thịnh hành trong một thời gian khá dài trước khi mưa gió
mùa diễn ra. Kết quả này cho thấy, chỉ số gió vĩ hướng đã chỉ thị khá chính xác ngày
bùng nổ gió mùa, ngoại trừ trong các năm La Nina đang suy yếu.
76
4.2.5. Chỉ số gradient nhiệt độ
Hình 4.11. Trung bình gió vĩ hướng mực 850 hPa khu vực (10oN – 15oN, 100oE –
110
o
E) số liệu dự báo (trái) và số liệu tái phân tích NCAR/NCEP (phải).
Mang đặc trưng của một năm La Nina đang suy yếu, gradient nhiệt độ trung bình
mực cao khí quyển năm 2012 cũng đảo ngược sớm ở cả số liệu dự báo và số liệu tái
phân tích. Hình 4.11 cho thấy nhiệt độ trung bình mực cao khu vực phía bắc Việt Nam
(đường liền đậm) đã lớn hơn so với nhiệt độ trung bình khu vực phía nam Việt Nam
(đường chấm chấm) ngay từ ngày bắt đầu tích phân (ngày 04 tháng Năm). Quy luật
này cũng được nhận thấy trong trường hợp năm La Nina như năm 2001 và năm 1999
(được biểu diễn trong Hình 4.4). Trong khi năm 1999 là năm La Nina mạnh, chỉ số
gradient nhiệt độ đảo ngược trước thời điểm bùng nổ gió mùa hơn chín ngày thì năm
2001, mặc dù là một năm La Nina đang suy yếu, chỉ số gradient nhiệt độ cũng đảo
ngược trước ngày bùng nổ gió mùa hai ngày. Nguyên nhân của sự đảo ngược sớm này
có thể không do nguyên nhân mang tính địa phương mà có thể do bình lưu nhiệt từ
phía tây (vùng khí quyển mực cao phía trên Iran) sang phía đông. Đây là điều cần
được nghiên cứu thêm để có thể đưa ra kết luận chính xác hơn. Do đó có thể nhận
định, chỉ số gradient nhiệt độ là một chỉ số cảnh báo sớm tốt cho sự bùng nổ gió mùa
mùa hè tại Nam Bộ nhưng không dùng được trong những năm La Nina mạnh.
77
KẾT LUẬN
Bùng nổ gió mùa mùa hè Châu Á đánh dấu sự chuyển mùa từ mùa đông sang
mùa hè của hoàn lưu bắc bán cầu. Khu vực Nam Bộ được ghi nhận là một trong những
vùng hình thành gió mùa mùa hè sớm đầu tiên của Châu Á, sự hình thành này diễn ra
cùng thời điểm với vịnh Bengal và Biển Đông.
Dựa trên kết quả phân tích trường số liệu tái phân tích và mưa quan trắc của các
năm 1998, 1999, 2001, 2004 và 2010 cho thấy gió mùa thường xuất hiện sớm trong
các năm La Nina và xuất hiện muộn trong các năm El Niño. Lượng mưa quan trắc
trong các năm El Niño thường thấp hơn so với các năm La Nina.
Kết quả mô phỏng bởi mô hình RAMS cho thấy mô hình đã mô phỏng tốt các
đặc trưng khí quyển cũng như sự di chuyển của các dải mưa quy mô lớn tại xích đạo
và Đông Nam Á trong giai đoạn bùng nổ gió mùa khu vực Nam Bộ. Về đặc trưng
hoàn lưu quy mô lớn, kết quả mô phỏng cho thấy quá trình bùng nổ gió mùa thường
gắn liền với sự hình thành của của xoáy kép mực thấp tại Sri Lanka và sự tăng cường
của gió tây nhiệt đới khu vực biển xích đạo phía nam vịnh Bengal. Đây là những dấu
hiệu tham khảo dự báo tốt.
Hoàn lưu mực cao cho thấy trong giai đoạn bùng nổ gió mùa, khu vực phía trên
vịnh Bengal hình thành của một xoáy nghịch quy mô lớn, bao trùm từ Ấn Độ tới Việt
Nam. Xoáy nghịch này làm tăng cường trường gió đông mực cao khu vực xích đạo.
Đến ngày bùng nổ gió mùa, trường gió đông này vượt qua xích đạo, phát triển xuống
nam bán cầu, hoàn lưu chuyển từ cấu trúc đối xứng sang cấu trúc bất đối xứng qua
xích đạo.
Đặc trưng trường nhiệt giai đoạn bùng nổ gió mùa mùa hè được đánh dấu bởi
sự hình thành của một trung tâm nhiệt lớn tại khí quyển mực cao tại Nam Á. Dựa trên
tương quan giữa các nguồn nhiệt đốt nóng, có thể nhận định rằng trung tâm nhiệt này
được hình thành bởi giải phóng ẩn nhiệt đối lưu tại vùng mưa xích đạo Nam Á trong
giai đoạn tiền gió mùa.
Kết quả thí nghiệm mô phỏng không có địa hình cho thấy các đặc trưng của khí
quyển trong giai đoạn bùng nổ gió mùa đều không xuất hiện khi địa hình bị loại bỏ. So
sánh với trường hợp mô phỏng có địa hình, thông lượng động lượng tương đối được
78
vận chuyển từ vùng nhiệt đới về vùng cận nhiệt đới trong trường hợp không địa hình
nhỏ hơn rất nhiều.
Luận văn đã xây dựng được ba chỉ số chỉ thị ngày bùng nổ gió mùa tại Nam Bộ
bao gồm chỉ số mưa, chỉ số gió vĩ hướng và chỉ số gradient nhiệt độ. Chỉ số mưa mô
phỏng cho ngày bùng nổ gió mùa chính xác trong những năm El Niño và năm trung
tính nhưng sớm hơn một ngày trong những năm La Nina mạnh.
Nhìn chung, chỉ số gió vĩ hướng mô phỏng cho ngày bùng nổ gió mùa trùng
hoặc sớm hơn so với mưa quan trắc, ngoại trừ năm La Nina mạnh 1999 chỉ số gió vĩ
hướng mô phỏng và tái phân tích đều muộn hơn một ngày. Chỉ số gradient nhiệt độ mô
phỏng nói chung cho ngày bùng nổ sớm hơn so với mưa quan trắc, ngoại trừ năm El
Niño 1998 muộn hơn bốn ngày. Chỉ số gradient nhiệt độ không có độ tin cậy trong
năm La Nina mạnh 1999.
Trong trường hợp áp dụng dự báo cho năm 2012, chỉ số mưa dự báo nội suy về
trạm cho ngày bùng nổ gió mùa sớm hơn một ngày so với mưa quan trắc. Chỉ số gió vĩ
hướng và chỉ số gradient nhiệt độ đều cho ngày bùng nổ gió mùa sớm hơn so với mưa
quan trắc tương tự như trường hợp năm La Nina suy yếu 2001. Vì các chỉ số khác
nhau đưa ra thời điểm bùng nổ khác nhau, do đó luận văn đề xuất kết hợp chỉ số mưa
dự báo với các chỉ số khác để có dự báo ngày bùng nổ gió mùa chính xác.
79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Đức Ngữ và Nguyễn Thị Hiền Thuận (2006), “Đề xuất chỉ số hoàn lưu gió
mùa để nghiên cứu tính biến động của gió mùa mùa hè ở Nam bộ”. Tạp chí Khí
tượng Thuỷ văn, số 5, trang 1 – 10.
2. Nguyễn Thị Hiền Thuận (2001), “Gió mùa tây nam trong thời kỳ đầu mùa ở Tây
Nguyên và Nam Bộ”. Tạp chí Khí tượng Thuỷ văn, số 7, trang 1 – 7.
3. Nguyễn Thị Hiền Thuận (2008), “Sự biến động các chỉ số gió mùa mùa hè ở Nam
Bộ trong các pha ENSO”, Phân viện KTTV & MT phía Nam.
4. Phạm Thị Thanh Hương và Trần Trung Trực (1999), “Nghiên cứu mở đầu gió
mùa mùa hè trên khu vực Tây Nguyên – Nam bộ và quan hệ của nó với hoạt động
ENSO”, Báo cáo tổng kết Đề tài Khoa học, Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn, 80
trang.
5. Trần Việt Liễn (2007), “Chỉ số gió mùa và việc sử dụng chúng trong đánh giá mối
quan hệ mưa – gió mù"a ở các vùng lãnh thổ Việt Nam, phục vụ yêu cầu nghiên
cứu và dự báo gió mùa”, Trung tâm Khoa học Công nghệ KTTV & MT.
6. TS. Trần Quang Đức (2010), “Nghiên cứu tác động của ENSO đến gió mùa mùa hè
khu vực Việt Nam”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Tự nhiên và Công
nghệ Tập 27, số 3S, tr. 14 – 20.
Tiếng Anh
7. Ananthakrishman R., Acharya U. R. and Ramakrishman A. R. (1967), “On the
criteria for declaring the onset of the southwest monsoon over Kerala”, Forecast
Manual. FMU Report No. IV-18.1: 52, India Meteorological Department, Pune,
India.
8. Chang C. P., McBride J., Hsu H. H. (2004), “Maritime continent monsoon: annual
cycle and boreal winter variability”, East Asian Monsoon, C. P. Chang, Ed, World
Scientific Publishing Co. Pte. Ltd., 107 – 152.
9. Ding Y. (2004), “Seasonal march of the East – Asian summer monsoon. East Asian
Monsoon”, C.P.Chang, Ed, World Scientific Publishing Co. Pte. Ltd.,3–53.
10. Fasullo J. and Webster P. J. (2003) “A hydrological definition of India monsoon
80
onset and withdrawal”, J. Climate 16 3200-3211.
11. Gill A. E., (1980), “Some simple solutions for heat-induced tropical circulation”,
Quart. J. Roy. Meteor. Soc, Volume 106, Issue 449, pages 447–462, July 1980.
12. Goswami, B. N. , V. Krishnamurthy and H. Annamalai (1999), “A broad scale
circulation index for the interannual variability of the Indian summer monsoon”,
Quart. J. Roy. Meteor. Soc., 125,611–633.
13. He J., Yu J., Shen X., and Gao H. (2004) “Research on mechanism and variability
of East Asia monsoon”, J. Trop. Meteo., 20(5) 449–459.
14. Held, Isaac M., Hou, Arthur Y. (1980), “Nonlinear axially symmetric circulations
in a nearly inviscid atmosphere”, J. Atmos. Sci., vol. 37, Issue 3, pp.515-533.
15. Lau, K. M., and S. Yang (1997), “Climatology and interannual variability of the
Southeast Asian summer monsoon”, Adv. Atmos. Sci., 14,141–162.
16. Li C., and Qu X. (1999), “Characteristics of Atmospheric Circulation Associated
with Summer monsoon onset in the South China Sea. Onset and Evolution of the
South China Sea Monsoon and Its Interaction with the Ocean”, Ding Yihui, and Li
Chongyin, Eds, Chinese Meteorological Press, Beijing, 200–209.
17. Lu J., Zhang Q., Tao S., and Ju J. (2006), “The onset and advance of the Asian
summer monsoon”, Chinese Science Bulletin, 51(1), 80–88.
18. Matsumoto J. (1997), “Seasonal transition of summer rainy season over Indochina
and adjacent monsoon region”. Adv. Atmos. Sci., 14,231–245.
19. Pai D. S., Nair R. M., (2008), “Summer monsoon onset over Kerala: New
definition and prediction”, J.Earth.Sys.Sci 2009, vol. 118, no2, pp. 123-135 [13
page(s) (article)] (1 p.) .
20. Plum R. A, Hou A., Arthur Y., “The response of a zonally symmetric atmosphere
to subtropical thermal forcing: Threshold behavior”, J. Atmos.Sci., vol. 49, no. 19
p. 1790-1799. Oct. 1, 1992.
21. Privé, Nikki C., Alan P. (2007), “Monsoon dynamics with interactive forcing. Part
I: Axisymmetric Studies”, J. atmos. Sci., 64, 1417–1430.
22. Rao Y. P. (1976) “Southwest monsoon”, Meteorological Monograph, Synoptic
Meteorology No. 1/1976. India Meteorological Department, New Delhi.
23. Syukuro M., Theodore B. T. (1973), “The effect of mountains on the general
circulation of atmosphere as identified by numerical experiments”, Geophysical
81
Fluid Dynamics Laboratory/NCAR/NCEP, Princeton University, Princetion, N.J.
08540.
24. Tanaka M. (1992), “Intraseasonal oscillation and the onset and retreat dates of the
summer monsoon east, southeast Asia and the western Pacific region using GMS
high cloud amount data”, J. Meteorol. Soc. Japan 70 613 – 628.
25. Tao S., Chen L. (1987), “A review of recent research on East summer monsoon in
China”, Monsoon Meteorology, C. P. Changand T. N. Krishramurti, Eds, Oxford
University Press, Oxford, 60 – 92.
26. Wang B. (2003), “Atmosphere–warm ocean interaction and its impacts on Asian–
Australian monsoon variation”, J.Climate, vol. 16, Issue 8, pp.1195-1211.
27. Wang B. (2004), “Definition of South China Sea monsoon onset and
commencement of the East Asia summer monsoon”, J. Climate, 17, 699–710.
28. Wang B. and Wu R. (1997), “Peculiar temporal structure of the South China Sea
summer monsoon”, J. Climate 15 386 – 396.
29. Wang B., Lin H. (2002), “Rainy season of the Asian Pacific summer monsoon”, J.
Climate, 15, 386 – 398.
30. Wang L., He J., and Guan Z. (2004), “Characteristic of convective activities over
Asian Australian ”landbridge” areas and it spossible factors”, Act a Meteorologic a
Sinica, 18,441–454.
31. Wang, B., and Z. Fan (1999), “Choice of South Asian Summer Monsoon Indices”,
Bull. Amer. Meteor. Sci., 80, 629–638.
32. Wang, B., J.-Y. Lee, I.-S. Kang, J. Shukla, J.-S. Kug, A. Kumar, J. Schemm, J.-J.
Luo,T.Yamagata, and C.-K. Park (2008), “How accurately do coupled climate
models predict the Asian-Australian monsoon interannual variability?”, Climate
Dyn., 30, 605-619. DOI10.1007/s00382-007-0310-5.
33. Webster P. J., S. Yang (1992), “Monsoon and ENSO: Selectively interactive
systems”, Quart. J. Roy. Meteor. Soc., 118, 877–926.
34. Webster, P. J., V. O. Magana, T. N. Palmer, J. Shukla, R. A. Tomas, M. Yanai, and
T. Yasunari (1998), “Monsoons: Processes, predictability, and teprospects for
prediction”, J. Geophys. Res., 103, 14451–14510.
35. Widger, William K., Jr., “A study of the flow of angular momentum in the
atmosphere”, J. Atmos.Sci., vol. 6, Issue 5, pp.292-299.
82
36. Wu G., Zhang Y. (1998), “Tibetan plateau forcing and the timing of the monsoon
onset over South Asia and the South China Sea”, Mon.Wea.Rev., 126,913–927.
37. Zeng Q. and Li J. (2002), “Interaction between the northern and southern
hemispheric atmospheres and the essence of monsoon”. Chinese J. Atmos. Sci.,
26(4), 433 – 448.
38. Zhang, Z., J. C. L. Chan, and Y. Ding (2004), “Characteristics, evolution and
mechanisms of the summer monsoon onset over Southeast Asia”, J.Climatology.
24, 1461–1482.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- lv_buiminhtuan_kt_2010_2012_1_1517_2062907.pdf