Trong đào tạo theo HTTC, sở dĩ cần phải gây áp lực tự học, tự nghiên cứu cho SV vì những lý do sau đây:
2.1. Đáp ứng yêu cầu giảm giờ lên lớp, tăng giờ tự học, tự nghiên cứu của SV trong đào tạo theo HTTC
Trong đào tạo theo HTTC, thông th¬ường giảng viên (GV) chỉ lên lớp 50%, thời gian còn lại dành cho các hoạt động độc lập (nh¬ư thí nghiệm, thực hành, xemine, tự học, tự nghiên cứu.) của SV. Vì thế, nếu SV không tích cực, tự giác trong việc thực hiện các họat động độc lập mà chủ yếu là tự học, tự nghiên cứu thì không thể đáp ứng được yêu cầu học tập theo HTTC. Ở họ sẽ thiếu hụt đi một khối lượng kiến thức, kỹ năng cần thiết trong từng học phần cũng như toàn bộ chương trình đào tạo của ngành học. Những SV nào cho rằng, học theo HTTC “nhẹ nhàng” hơn thì đó là một sự nhận thức sai lầm. Không phải lên lớp nhiều nhưng đào tạo theo HTTC lại đòi hỏi SV phải tự học, tự nghiên cứu nhiều hơn trước đây.
2.2. Phát triển năng lực và thói quen tự học, tự nghiên cứu cho SV
Năng lực và thói quen tự học, tự nghiên cứu rất quan trọng đối với SV, không chỉ trong thời gian họ học ĐH mà cả sau này, trongsuốt cuộc đời của họ. Tuy nhiên, năng lực và thói quen tự học, tự nghiên cứu chỉ được hình thành ở SV khi họ được thường xuyên tham gia vào hoạt động này. Thực tế cho thấy, chỉ có một số ít SV là có thói quen tự học, tự nghiên cứu, còn phần lớn SV không có thói quen này. Họ chỉ thực sự bắt tay vào tự học, tự nghiên cứu khi có “sức ép” từ phía nhà trường và GV. Từ đó, ở họ dần dần hình thành được năng lực và thói quen tự học, tự nghiên cứu.
2.3. Đòi hỏi SV phải sử dụng nhiều thời gian ngoài giờ lên lớp cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu
Ngoài thời gian học tập trên lớp, SV còn sử dụng thời gian cho các hoạt động ngoài giờ lên lớp (NGLL). Theo kết quả nghiên cứu của một số tác giả về nhu cầu sử dụng thời gian NGLL của SV thì vui chơi, giải trí là hoạt động mà SV có nhu cầu cao nhất. Hoạt động này thường chiếm nhiều thời gian NGLL của SV. Trong khi đó, thời gian SV dành cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu không nhiều mà nguyên nhân chính là do GV chưa gây áp lực tự học, tự nghiên cứu đối với họ.
74 trang |
Chia sẻ: anhthuong12 | Lượt xem: 951 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nghiên cứu và vận dụng phương pháp Cây kiến thức trong giảng dạy nhằm nâng cao chất lượng môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học:
- Kỹ năng chọn lọc, sử dụng kiến thức đã có để hình thành kiến thức mới;
- Kỹ năng đọc sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu tham khảo;
- Kỹ năng ghi chép trên lớp;
- Kỹ năng khai thác kiến thức từ các phương tiện học tập;
- Kỹ năng giải quyết các bài tập nhận thức;
- Kỹ năng hình thành và giải quyết vấn đề;
- Kỹ năng lập kế hoạch tự học.
* Nhóm kỹ năng sư phạm:
- Kỹ năng làm việc trên lớp (kỹ năng nói, kỹ năng trình bày vấn đề, kỹ năng hướng dẫn, kỹ năng tổ chức, kỹ năng viết vẽ trên bảng...);
- Kỹ năng soạn giáo án;
- Kỹ năng tự kiểm tra đánh giá.
Có nhiều kỹ năng tự học cần được rèn luyện cho sinh viên hiện nay, bài báo này chỉ đề cập đến một số kỹ năng cơ bản.
2. Một số kỹ năng tự học cần thiết cho sinh viên
1) Kỹ năng xây dựng kế hoạch tự học
Lập kế hoạch tự học là việc xây kế hoạch cho những hoạt động cụ thể nhằm thực hiện được các nhiệm vụ mà mục tiêu đề ra. Mỗi cá nhân khi xây dựng kế hoạch học tập cụ thể cần phải hiểu rõ mục tiêu và tính toán những bước đi thích hợp. Khi lập kế hoạch cần phải suy nghĩ về những gì sẽ làm, chuẩn bị tốt nhất để đạt được hiệu quả học tập cao và phải đặt câu hỏi là tại sao chúng ta phải làm như thế. Đây chính là quá trình lập kế hoạch học tập, là quá trình lập học cách học, mỗi cá nhân phải tính toán cách thức và thời gian để hoàn thành các công việc. Hiện nay, đa số sinh viên thực hiện các nhiệm vụ học tập còn mang tính tùy tiện, gặp đâu học đó, chưa hình dung được toàn bộ công việc mình đang và sẽ làm như thế nào. Trong khi đó một khối lượng công việc lớn mà sinh viên phải hoàn thành lại chỉ thực hiện trong một thời gian hạn chế. Vì vậy người học cần phải sử dụng thời gian một cách tiết kiệm và hiệu quả, bằng cách phân phối công việc một cách khoa học, đặc biệt chú ý đến thời gian tự học.
Ở đây chúng tôi không đề cập đến kế hoạch tự học cho từng học kỳ, từng tháng hay từng tuần mà chỉ chú ý đến kế hoạch tự học cho từng nội dung cụ thể trong một học phần. Để sinh viên có thể lập được kế hoạch học tập cho những hoạt động cụ thể thì giảng viên phải cung cấp một bảng kế hoạch giảng dạy cụ thể cho mỗi học phần. Sinh viên dựa vào đó để định ra các công việc mình sẽ làm trong thời gian bao lâu và làm như thế nào. Việc đặt kế hoạch cần chú ý cả những kế hoạch hoạt động trên lớp và cả những hoạt động của sinh viên ngoài lớp (xem bảng) hướng dẫn đặt kế hoạch cho hoạt động học tập.
Mẫu kế hoạch hoạt động học tập
Nội dung
Mục tiêu
Nhiệm vụ/ Bài tập
Hoạt động cụ thể
Thời gian
1.
2.
3.
.
2) Kỹ năng đọc giáo trình, tài liệu tham khảo
Để việc đọc sách có chất lượng và hiệu quả, cần đọc theo một quy trình nhất định, nếu không chúng ta sẽ mất thời gian mà không thu được nhiều kết quả và không lưu giữ được những thông tin cần thiết. Vì vậy, việc đọc sách cần được thực hiện nghiêm túc và tuân theo các yêu cầu sau:
Đọc có suy nghĩ
Muốn hiểu những điều sách viết, người đọc phải hết sức tập trung tư tưởng khi đọc, nhiều khi còn phải ngưng lại để ôn những đoạn cần biết, chưa nắm vững, đến khi thông suốt rồi mới đọc tiếp.
Đọc sách để hiểu những điều tác giả nói và cả những điều tác giả không nói, mà người đọc tự suy nghĩ, mở rộng đến những điều liên quan mà sách không đề cập đến. Ở mức độ này, người đọc không chỉ tiếp thu kiến thức từ sách mà còn rèn luyện được phương pháp tư duy.
Khi đọc và suy nghĩ mãi nhưng vẫn không hiểu được những gì sách viết, thì phải tìm và đọc những sách khác có liên quan. Bởi lẽ, đôi khi cùng một kiến thức nhưng với cách diễn giải của tác giả này ta chưa hiểu nhưng với cách trình bày khác ở sách khác ta có thể hiểu được. Đọc nhiều sách cũng giống như đàm đạo giúp chúng ta hiểu sâu thêm vấn đề, làm phong phú thêm vốn kiến thức.
Đọc có hệ thống
Khi đọc bất kỳ cuốn sách nào, người ta thường đọc theo các bước sau:
- Đọc lướt nhanh toàn bộ phần tổng quát của sách để nắm sơ bộ nội dung cuốn sách;
- Đọc kỹ, tùy theo mục đích đọc mà có thể đọc kỹ một lần hoặc nhiều lần. Khi đọc kỹ các lần sau, chỉ cần đọc lại những điều cơ bản hoặc các nội dung mà lần đầu chưa hiểu, chưa nắm vững. Những lần đọc sau sẽ làm người đọc nắm sâu hơn, hiểu kỹ hơn;
- Đọc nhanh, cần tự rèn luyện cách đọc nhanh để tập trung được sự chú ý, sự suy nghĩ diễn ra liên tục và dễ dàng xác lập được mối quan hệ giữa các đoạn với nhau khiến ta dễ nắm được nội dung tài liệu.
Đọc có chọn lọc
Đọc có chọn lọc là đọc để tìm những điểm cốt lõi, chọn ý tưởng hay nhất, đúng nhất và có ích cho việc học sẽ rèn được tư duy phê phán, làm tiền đề cho năng lực giải quyết vấn đề sau này. Để rèn luyện kỹ năng đọc có chọn lọc, giảng viên nên yêu cầu sinh viên tự đặt câu hỏi cho những nội dung cơ bản của những tài liệu đã đọc; cố gắng tổng hợp và giải thích những gì họ đã đọc. Sinh viên phải hết sức tập trung suy nghĩ và phải tinh lọc được những kiến thức cơ bản cần thiết cho mình, đồng thời nêu được các vấn đề cũng như giải quyết được những vấn đề mà tài liệu đề cập.
Đọc có ghi nhớ
- Đọc sách là học tập tích cực nên cần kèm theo việc ghi chép để nhớ lâu;
- Đọc để tìm tài liệu bổ sung, cần ghi chép phần bổ sung đó ra, đồng thời đánh dấu để tra cứu khu cần thiết;
- Đọc sách hoặc tài liệu giáo khoa cần ghi các dàn ý và diễn tiến nội dung. Các ý chính cần ghi chép cẩn thận, gạch chân hoặc tô màu vì đó là ý cơ bản mà từ đó có thể suy luận ra các ý khác liên quan. Những phần chưa hiểu hoặc chưa nắm vững cũng cần đánh dấu để tiếp tục suy nghĩ, tìm người giải đáp.
Một biện pháp đọc để nhớ lâu là mô hình hóa các nội dung đã đọc bằng cách sắp xếp chúng theo bản đồ trí tuệ (mind map). Khi xây dựng được bản đồ trí tuệ có nghĩa là chúng ta đã hệ thống hóa toàn bộ nội dung đã đọc và giải thích được mối liên hệ giữa chúng với nhau.
3) Kỹ năng chọn lọc, sử dụng vốn kiến thức cũ để học kiến thức mới
Muốn nhận thức kiến thức mới có hiệu quả bắt buộc phải liên hệ các kiến thức cũ, các kiến thức khoa học liên ngành khác làm cơ sở cho hoạt động tư duy của sinh viên. Kỹ năng này thúc đẩy quá trình nhận thức kiến thức mới cũng như việc tự học của sinh viên.
Để làm được điều này, có thể tiến hành theo các cách sau:
- Khi học các kiến thức mới cần phải tái hiện những kiến thức cũ có liên quan để làm sáng tỏ các kiến thức mới;
- Kiến thức cũ có thể là những tình huống giáo dục thường gặp trong thực tế đã nhận biết được. Dùng kiến thức này để chứng minh cho các kiến thức mới đang lĩnh hội;
- Dùng kiến thức có trước kết hợp với các kiến thức mới tiếp theo để hình thành những vấn đề nghiên cứu và giải quyết những vấn đề đó.
***
Trong quá trình hình thành và nâng cao năng lực tự học cho sinh viên, vai trò của người thầy là rất quan trọng. Mỗi giảng viên phải có ý thức trách nhiệm cao trong việc đào tạo thế hệ trẻ và cần lưu ý các điểm sau:
- Giáo dục cho sinh viên xác định động cơ học tập một cách đúng đắn;
- Hình thành phương pháp tự học là khâu cốt lõi để tạo nền tảng cho năng lực tự học. Muốn vậy, giảng viên cần phải đổi mới phương pháp dạy học, xem tự học như là một tiêu chí hàng đầu trong quá trình đào tạo;
- Tăng cường các hình thức dạy học nhóm, trao đổi thảo luận, nêu lên chính kiến của mình... Muốn đạt được điều này buộc sinh viên phải nghiên cứu tài liệu, phân tích, mổ xẻ các vấn đề trên nhiều khía cạnh khác nhau để có thể tham gia đóng góp hoặc tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình;
- Tự học được thực hiện cả trên lớp và ngoài giờ lên lớp có hoặc không có sự hướng dẫn của giảng viên. Quá trình tự học được tiến hành bằng nhiều phương tiện khác nhau, đặc biệt là các phương tiện công nghệ thông tin sẽ tạo điều kiện cho quá trình tự học và tạo nên chất lượng tự học cao;
- Giảng viên cần đề ra kế hoạch dạy học cụ thể toàn bộ học phần (hoặc từng chương), cung cấp trước cho sinh viên nghiên cứu để biết mình sẽ làm gì và làm như thế nào trong quá trình học tập bộ môn. Đây cũng là cơ sở để định hướng cho sinh viên vạch ra kế hoạch tự học cá nhân. Kế hoạch dạy học một học phần cụ thể của giảng viên gồm có 3 phần: nội dung, mục tiêu cần đạt được sau mỗi nội dung và cách thức làm việc của sinh viên để đạt được những mục tiêu cần thiết. Để có ý tưởng xây dựng kế hoạch dạy học của học phần, chúng tôi đã dựa trên phương pháp CIA (Content - Idea - Action);
- Rèn luyện cho sinh viên thói quen viết nhật ký học tập, qua đó, sinh viên có thể nói lên những suy nghĩ về những điều mình đã đọc, đã vận dụng những điều đã học vào thực tế dạy học và cuộc sống như thế nào, giới thiệu cho bạn bè những tài liệu tham khảo mình thấy tâm đắc nhất hoặc những điều thu thập được những gì qua các cuộc trao đổi, thảo luận.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đinh Trung Quỳnh, “Nghiên cứu các kỹ năng và biện pháp tự học của sinh viên ĐH Sư phạm Thái Nguyên” (Đề tài NCKH cấp Bộ quản lý), 2001.
2. Nguyễn Khánh Tùng, “Tự học, tự nghiên cứu là con đường phát triển học vấn, nhân cách vững chắc bền lâu nhất” ĐHSP Huế, 1998.
3. Tạp chí khoa học giới thiệu “Học sinh nên đọc sách như thế nào?”, Tự học (19), tr. 24-25, 29.
4. Wilbert J. McKeachie, Những thủ thuật trong dạy học, 2003.
Bài đã đăng trên “Tạp chí Giáo dục” (Tạp chí lý luận – khoa học * Bộ GD&ĐT) Số đặc biệt 3/2012
Gây áp lực tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên trong đào tạo theo hệ thống tín chỉ
PGS.TS. Phạm Minh Hùng
Đào tạo theo hệ thống tín chỉ (HTTC) là một phương thức đào tạo tiên tiến, được áp dụng rộng rải trong các trường đại học trên thế giới. Để giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam có thể nhanh chóng hội nhập được với GDĐH thế giới, cần phải nhanh chóng chuyển sang đào tạo theo HTTC.
Nghị quyết 14/2005/NQ-CP của Chính phủ Về đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt Nam, giai đoạn 2006-2020 đã chỉ rõ:
“Xây dựng và thực hiện lộ trình chuyển sang chế độ đào tạo theo HTTC, tạo điều kiện thuận lợi để người học tích luỹ kiến thức, chuyển đổi ngành nghề, liên thông, chuyển tiếp tới các cấp học tiếp theo ở trong nước và ngoài nước”.
Như vậy, đào tạo theo HTTC đã trở thành một xu thế tất yếu của GDĐH Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỉ XXI.
1. Những đặc trưng và ưu thế của đào tạo theo HTTC
1.1. Những đặc trưng và ưu thế của đào tạo theo HTTC
Đào tạo theo HTTC có một số đặc trưng cơ bản sau đây:
- Kiến thức được cấu trúc thành các mô đun (học phần);
- Quá trình học tập là sự tích luỹ kiến thức của sinh viên (SV) theo từng học phần;
- SV tự đăng ký kế hoạch học tập và tổ chức lớp học theo học phần;
- Đơn vị học vụ là học kỳ, Xét kết quả học tập theo học kỳ chính (mỗi năm học có hai học kỳ chính và một học kỳ phụ);
- Kết quả học tập các học phần của SV được đánh giá theo quá trình (bao gồm điểm chuyên cần, điểm giữa kỳ và điểm thi kết thúc học phần);
- Sử dụng thang điểm 10, thang điểm chữ (A, B,C, D, F) và thang điểm 4;
- Quy định khối lượng kiến thức phải tích luỹ (số tín chỉ tích luỹ tối thiểu) cho từng văn bằng;
- Có hệ thống cố vấn học tập;
- Chương trình đào tạo mềm dẽo, có tính liên thông cao, ngoài các học phần bắt buộc còn có các học phần tự chọn để SV có điều kiện tích luỹ thêm kiến thức cho định hướng chuyên môn nghề nghiệp;
- Bắt buộc áp dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, chủ động của SV
1.2. Những ưu thế của đào tạo theo HTTC
Đào tạo theo HTTC có những ưu thế sau đây:
- Tạo điều kiện tốt nhất cho sự phát triển năng lực của người học.
Trong đào tạo theo HTTC, cho phép SV hoàn toàn chủ động trong việc đăng ký kế hoạch học tập theo điều kiện và năng lực của mình. Những SV giỏi có thể đăng ký học tối đa số lượng tín chỉ quy định trong từng học kỳ để rút ngắn thời gian học ĐH. Những SV bình thường hoặc yếu có thể kéo dài thời gian học tập trong trường và tốt nghiệp muộn hơn.
- SV có nhiều cơ hội hơn trong việc học cùng lúc hai chương trình để khi tốt nghiệp được cấp hai văn bằng.
Ngay trong đào tạo theo niên chế - học phần, SV cũng có thể học cùng lúc hai chương trình. Tuy nhiên, để học cùng lúc hai chương trình, SV gặp rất nhiều khó khăn trong việc bố trí kế hoạch học tập của mình. Vì thế, có nhiều SV đã buộc phải hủy bỏ việc học chương trình thứ hai.
Trong đào tạo theo HTTC, SV tự sắp xếp kế hoạch học tập của mình để vừa đảm bảo học chương trình thứ nhất, vừa theo học chương trình thứ hai.
- Việc tổ chức đào tạo khoa học, mềm dẻo và linh hoạt.
So với đào tạo theo niên chế - học phần, đào tạo theo HTTC đòi hỏi việc tổ chức quá trình đào tạo phải rất khoa học trong tất cả mọi khâu, từ khâu xây dựng chương trình đào tạo; đăng ký học phần của SV; tổ chức lớp học phần; triển khai dạy học; quản lý SV đến khâu kiểm tra- đánh giá kết quả học tập của SVToàn bộ quá trình đào tạo theo HTTC được quản lý bằng phần mềm.
Đồng thời, để đáp ứng yêu cầu liên thông giữa các ngành đào tạo trong và ngoài trường; đáp ứng nhu cầu học tập khác nhau của SV, quá trình đào tạo, chương trình đào tạo theo HTTC cũng phải rất linh hoạt, mềm dẽo.
2. Sự cần thiết phải gây áp lực tự học, tự nghiên cứu cho SV trong đào tạo theo HTTC
Trong đào tạo theo HTTC, sở dĩ cần phải gây áp lực tự học, tự nghiên cứu cho SV vì những lý do sau đây:
2.1. Đáp ứng yêu cầu giảm giờ lên lớp, tăng giờ tự học, tự nghiên cứu của SV trong đào tạo theo HTTC
Trong đào tạo theo HTTC, thông thường giảng viên (GV) chỉ lên lớp 50%, thời gian còn lại dành cho các hoạt động độc lập (như thí nghiệm, thực hành, xemine, tự học, tự nghiên cứu..) của SV. Vì thế, nếu SV không tích cực, tự giác trong việc thực hiện các họat động độc lập mà chủ yếu là tự học, tự nghiên cứu thì không thể đáp ứng được yêu cầu học tập theo HTTC. Ở họ sẽ thiếu hụt đi một khối lượng kiến thức, kỹ năng cần thiết trong từng học phần cũng như toàn bộ chương trình đào tạo của ngành học. Những SV nào cho rằng, học theo HTTC “nhẹ nhàng” hơn thì đó là một sự nhận thức sai lầm. Không phải lên lớp nhiều nhưng đào tạo theo HTTC lại đòi hỏi SV phải tự học, tự nghiên cứu nhiều hơn trước đây.
2.2. Phát triển năng lực và thói quen tự học, tự nghiên cứu cho SV
Năng lực và thói quen tự học, tự nghiên cứu rất quan trọng đối với SV, không chỉ trong thời gian họ học ĐH mà cả sau này, trongsuốt cuộc đời của họ. Tuy nhiên, năng lực và thói quen tự học, tự nghiên cứu chỉ được hình thành ở SV khi họ được thường xuyên tham gia vào hoạt động này. Thực tế cho thấy, chỉ có một số ít SV là có thói quen tự học, tự nghiên cứu, còn phần lớn SV không có thói quen này. Họ chỉ thực sự bắt tay vào tự học, tự nghiên cứu khi có “sức ép” từ phía nhà trường và GV. Từ đó, ở họ dần dần hình thành được năng lực và thói quen tự học, tự nghiên cứu.
2.3. Đòi hỏi SV phải sử dụng nhiều thời gian ngoài giờ lên lớp cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu
Ngoài thời gian học tập trên lớp, SV còn sử dụng thời gian cho các hoạt động ngoài giờ lên lớp (NGLL). Theo kết quả nghiên cứu của một số tác giả về nhu cầu sử dụng thời gian NGLL của SV thì vui chơi, giải trí là hoạt động mà SV có nhu cầu cao nhất. Hoạt động này thường chiếm nhiều thời gian NGLL của SV. Trong khi đó, thời gian SV dành cho hoạt động tự học, tự nghiên cứu không nhiều mà nguyên nhân chính là do GV chưa gây áp lực tự học, tự nghiên cứu đối với họ.
3. Một số biện pháp gây áp lực tự học, tự nghiên cứu cho SV trong đào tạo theo HTTC
Để gây áp lực tự học, tự nghiên cứu cho SV trong đào tạo theo HTTC, theo chúng tôi cần thực hiện tốt một số biện pháp sau đây:
3.1.Giao nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu cho SV
SV chỉ tự học, tự nghiên cứu khi họ có nhu cầu. Trong giai đoạn đầu, nhu cầu này xuất hiện từ việc phải thực hiện các nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu do GV giao. GV không giao nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu cho SV thì cũng đừng trông chờ sự tự học, tự nghiên cứu của họ.
Nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu mà GV giao cho SV phải mang tính chất bắt buộc. SV nhất thiết phải thực hiện các nhiệm vụ này. Để giao nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu cho SV, trong từng nội dung của học phần, GV cần xác định rõ những kiến thức, kỹ năng nào cần cung cấp cho SV; những kiến thức, kỹ năng nào SV cần tự học, tự nghiên cứu.
Nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu mà GV giao cho SV phải đa dạng, từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Có nhiệm vụ SV chỉ phải đọc một số trang của giáo trình nhưng có nhiệm vụ đòi hỏi SV phải đọc nhiều tài liệu để có cái nhìn đa chiều về một vấn đề. Có nhiệm vụ thuần túy lý thuyết nhưng có nhiệm vụ SV phải tiến hành các bài tập thực hành, thí nghiệm...
3.2. Có các hình thức phù hợp để SV báo cáo kết quả tự học, tự nghiên cứu của mình
Kết quả tự học, tự nghiên cứu của SV cần được báo cáo bằng các hình thức khác nhau. Có làm được điều này, GV mới kiểm soát SV có thực hiện các nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu hay không? Kết quả thực hiện như thế nào? Tùy theo các nhiệm vụ tự học, tự nghiên cứu mà SV có các hình thức báo cáo thích hợp như: Trả lời các câu hỏi của GV trước hoặc trong các giờ học; Thông báo các số liệu từ một bài tập điều tra; thực hành một nội dung đã học; Trình diễn một kỹ năng đã được hình thành... Kết quả tự học, tự nghiên cứu của SV phải được xem là một thành phần không thể thiếu được trong kết quả học tập chung của từng học phần.
3.3. Bồi dưỡng phương pháp tự học, tự nghiên cứu cho sinh viên
Trong trường ĐH, cùng với học tập, nghiên cứu khoa học (NCKH) là một hoạt động không thể thiếu được của SV. Hai hoạt động này hỗ trợ cho nhau và có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc gây áp lực tự học, tự nghiên cứu cho SV.
Tuy nhiên để tự học, tự nghiên cứu có kết quả, SV cần được bồi dưỡng phương pháp tự học, tự nghiên cứu. Đây là vấn đề có ý nghĩa mấu chốt trong đào tạo theo HTTC, khi thời gian học tập trên lớp giảm đi, thời gian dành cho các hoạt động độc lập của SV tăng lên. Nếu SV không tự học, tự nghiên cứu thì không thể đáp ứng được yêu cầu của đào tạo theo HTTC.
Nội dung bồi dưỡng phương pháp tự học, tự nghiên cứu cho SV bao gồm các vấn đề như: Cách lập thư mục cho một chủ đề; cách đọc các loại tài liệu; cách thực hiện các nhiệm vụ học tập khác nhau; cách xác định một đề tài NCKH; cách thu thập và xử lý các kết quả điều tra... Những nội dung này có thể lồng ghép trong các học phần của chương trình đào tạo (nhất là trong học phần Phương pháp NCKH của ngành học); cũng có thể biên soạn thành một chuyên đề trình bày trong hội nghị “Học tốt” của SV...
3.4. Đổi mới phương pháp dạy học
Đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng trang bị cách học, phát huy tính chủ động của người học; sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong hoạt động dạy học... đã trở thành một yêu cầu bắt buộc trong đào tạo theo HTTC. Nếu trong đào tạo theo HTTC, người GV vẫn sử dụng các PPDH truyền thống, dựa trên cơ sở thuyết trình - diễn giảng là chủ yếu thì không thể nào nâng cao được chất lượng và hiệu quả của phương thức đào tạo này.
Khi đổi mới PPDH, công việc chủ yếu của GV ở trên lớp là phải tổ chức hoạt động nhận thức của SV theo hướng gợi mở, phát hiện và giải quyết vấn đề. Với cách dạy này, đòi hỏi GV phải nhanh chóng sử dụng và sử dụng có hiệu quả các PPDH mới như: PPDH giải quyết vấn đề; PPDH nghiên cứu; PPDH hợp tác
Còn SV cũng phải đổi mới phương pháp học tập. Trong cách học của SV cần chú trọng đến phương pháp tự học. Có hình thành được phương pháp tự học, SV mới có thể thích ứng nhanh với phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ và việc học tập suốt đời, trong bối cảnh khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh tự học, cần phải chú ý đến “cùng học”. Cùng học (theo nhóm, tổ, lớp) mới rèn luyện cho SV khả năng hợp tác, khả năng thuyết phục và khả năng quản lý.
3.5. Tạo ra một môi trường tự học, tự nghiên cứu thuận lợi cho SV
Môi trường tự học, tự nghiên cứuảnh hưởng không nhỏ đến kết quả tự học, tự nghiên cứu của SV. Vì thế, việc tự học của SV cần được diễn ra trong một môi trường thuận lợi. Các yếu tố của môi trường này bao gồm: Sự hướng dẫn tự học chu đáo của GV (mục đích, yêu cầu , nội dung, cách thức tự học, tự nghiên cứu...); Hệ thống học liệu (tài liệu, giáo trình) đầy đủ; Công tác kiểm tra tự học của SV được tiến hành thường xuyên... Ngoài ra, cần quan tâm đến việc tổ chức các câu lạc bộ học tập theo ngành học của SV như: Câu lạc bộ “Nhà sử học trẻ” đối với SV ngành Lịch sử; Câu lạc bộ “Doanh nhân tương lai” đối với SV ngành Kinh tế; Câu lạc bộ “Tư vấn pháp lý” đối với SV ngành Luật...
Tóm lại: Gây áp lực tự học, tự nghiên cứu cho SV là một yêu cầu cấp thiết trong đào tạo theo HTTC. Để gây áp lực tự học, tự nghiên cứu cho SV cần thực hiện đồng bộ các biện pháp mà chúng tôi đề xuất ở trên.
Tài liệu tham khảo
1. Nghị quyết 14/ 2005/NQ- CP của Chính phủ Về đổi mới cơ bản và toàn diện GDĐH Việt Nam, giai đoạn 2006 -2020.
2. Phạm Minh Hùng, Một số giải pháp nâng cao khả năng thích ứng với hoạt động dạy học của GV và SV trong đào tạo theo HTTC, Tạp chí Giáo dục, số 244/2010.
3. Quy chế 43/2007/QĐ-BGD&ĐT ngày 15/8/2007của Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Về đào tạo ĐH và CĐ hệ chính quy theo HTTC.
Dạy và học là hai quá trình nằm trong một thể thống nhất biện chứng. Thầy dạy – trò học, dạy như thế nào sẽ có cách học tương ứng. Thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy rằng không thể phát huy được tư duy sáng tạo của sinh viên, với tính chủ động cao trong học tập khi giảng viên sử dụng phương pháp dạy học nặng về truyền thụ kiến thức.
Trong dạy học theo hệ thống tín chỉ, nhất thiết phải chuyển từ kiểu dạy học tập trung vào vai trò của giảng viên và hoạt động dạy sang kiểu tập trung vào vai trò của sinh viên và hoạt động học. Giảng viên không còn đóng vai trò là người truyền đạt kiến thức mà là người gợi mở, hướng dẫn, tổ chức, cố vấn cho các hoạt động tự học của sinh viên.
Các môn Lý luận chính trị góp phần hình thành, bồi dưỡng cho sinh viên thế giới quan, phương pháp luận khoa học, trang bị những kiến thức cơ bản về tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng của Đảng ta, góp phần định hướng suy nghĩ, hành động và hoàn thiện nhân cách cho thế hệ trẻ. Vì vậy, sinh viên đến lớp không phải để nghe những lời diễn giảng một chiều mang tính chủ quan nhất định từ người dạy, mà qua những kiến thức đó, sinh viên nhận thức, đánh giá và vận dụng vào thực tiễn như thế nào? Để đạt hiệu quả, ngoài vệc nghe giảng trên lớp sinh viên phải có phương pháp phù hợp để tự học, tự nghiên cứu. Nói cách khác, nếu sinh viên không nỗ lực, phấn đấu trong việc tự học thì việc dạy học các môn Lý luận chính trị không thể đạt hiệu quả như mong muốn.
Tự học là một công việc tương đối phức tạp, đa dạng hóa, vì mỗi sinh viên đều có phương pháp học tập riêng, một thời gian riêng cho mình. Do vậy, để đưa ra những yêu cầu chung cho công tác tự học của sinh viên là một việc làm không dễ, với kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân, chúng tôi đưa ra một số phương pháp nhằm giúp sinh viên nhà Trường tự học các môn Lý luận chính trị đạt hiệu quả cao hơn.
1. Chuẩn bị tài liệu và phương tiện theo sự hướng dẫn của giảng viên
Học là hoạt động nhận thức tích cực, tự giác và sáng tạo của sinh viên, hoạt động dạy của người giảng viên không có nghĩa là truyền thụ tri thức, truyền thụ những sản phẩm sẵn có, mà cần phải tổ chức, điều khiển hoạt động tự nhận thức của sinh viên, hình thành cho sinh viên nhu cầu thường xuyên học tập, tìm tòi kiến thức, kích thích năng lực sáng tạo, trang bị cho các em năng lực tổ chức lao động trí óc một cách hợp lý, làm cho các em định hướng được kiến thức bài học và tự khai thác tri thức.
Để đạt được mục tiêu này, giảng viên cần yêu cầu sinh viên chuẩn bị bài kỹ trước mỗi buổi học. Bên cạnh giáo trình môn học, sinh viên cần chủ động sưu tầm tài liệu, thông tin trên các phương tiện; với các yêu cầu cụ thể như: sinh viên sẽ trả lời những câu hỏi nào? sử dụng phương tiện gì để phục vụ cho việc học tập? để khi tiến hành bài học trên lớp thì giảng viên và sinh viên cùng làm việc tránh tình trạng độc thoại của giảng viên.
2. Phương pháp nghe giảng và ghi chép
Ở trình độ đại học, cao đẳng, sinh viên phải tiếp xúc một phương pháp nghe giảng và ghi chép mới. Thực tế giảng dạy chúng tôi nhận thấy rằng khi vào năm đầu tiên nhiều sinh viên còn lúng túng trước cách giảng của thầy các em không biết làm thế nào để ghi chép. Vậy làm thế nào để sinh viên có được phương pháp nghe giảng và ghi chép tốt nhất?
Theo chúng tôi, sinh viên cần rèn luyện các khâu sau:
2.1. Chuẩn bị nghe giảng
Để tiếp nhận bài giảng một cách tối ưu, sinh viên cần tìm hiểu đề cương chi tiết học phần để nắm chương trình môn học, biết được những vấn đề sẽ trình bày theo hướng nào? nội dung, phạm vi của bài học? vấn đề nào sinh viên sẽ tự học, tự nghiên cứu?
Sinh viên cần làm tốt công tác chuẩn bị, nên bắt đầu từ việc xem lại bài ghi lần trước, khi sinh viên nắm vững kiến thức đã học sẽ lĩnh hội nội dung bài mới tốt hơn. Khi nghiên cứu nội dung bài mới, những vấn đề khó hoặc chưa hiểu, sinh viên nên ghi chép lại để khi nghe giảng sẽ chú ý hơn và nếu bài giảng chưa giải thích rõ các em cần trao đổi với thầy hoặc bạn.
2.2. Nghe giảng và ghi chép trên lớp
Nghe giảng trên lớp: Chúng ta đều biết rằng, cùng một lúc có nhiều tín hiệu khác nhau tác động vào các giác quan của sinh viên, nhưng không phải tất cả các tín hiệu đó đều đi vào ý thức, mà người học sẽ tiếp nhận những tín hiệu đó một cách có lựa chọn. Khi nghe giảng, sinh viên phải hoạt động tư duy hết sức tích cực, khẩn trương để có thể nắm được những vấn đề giảng viên gợi mở, trình bày.
Ghi chép trên lớp: Nghe giảng và ghi chép là hai hoạt động cùng tiến hành đồng thời. Các nhà tâm lý học đã chỉ ra rằng, việc tiến hành đồng thời hai loại hoạt động chỉ có thể đạt được kết quả cao khi một trong hai hoạt đó đã trở nên thành thạo đến mức gần như tự động hóa. Cách ghi chép lại mang sắc thái cá nhân, mỗi môn học lại đòi hỏi một phương pháp ghi chép khác nhau, nhưng đều có một điểm chung là nếu sinh viên không hiểu bài thì không thể ghi chép tốt được. Vì vậy, qua cách ghi của sinh viên, giảng viên có thể biết được mức độ nắm bài của sinh viên. Như vậy, việc ghi lại bài giảng cũng là một nghệ thuật, luôn thay đổi tùy theo đặc trưng từng môn học và phong cách giảng của từng giảng viên. Đối với các môn Lý luận chính trị, cần đảm bảo tính chính xác và tính logic của các quan điểm, luận cứ, luận chứngVì vậy, bài ghi của sinh viên phải chính xác, đảm bảo yêu cầu về kiến thức và tính logic của bài học. Tuy nhiên, cách ghi bài của mỗi sinh viên có thể khác nhau, tùy thuộc vào vốn hiểu biết và sự vận dụng sáng tạo của mỗi sinh viên.
2.3. Xem lại và chỉnh lý bài ghi
Mặc dù trên lớp sinh viên tích cực động não và ghi chép, nhưng nếu sau đó sinh viên xếp vở ghi lại, đợi tới ngày ôn thi mới mở ra xem mà không chỉnh lý ngay thì việc tiếp thu bài không thể coi là hoàn chỉnh và tốt; ở trình độ đại học và cao đẳng các môn Lý luận chính trị có khối lựợng kiến thức rộng, mang tính trừu tượng được tổng hợp từ nhiều lĩnh vực, nên bài giảng của giảng viên trên lớp chỉ mang tính hướng dẫn, gợi ý chứ không phải trình bày hoàn chỉnh, trọn vẹn về một vấn đề. Vì vậy, việc xem lại và hoàn chỉnh bài ghi là việc làm tất yếu đối với sinh viên.
Để giúp sinh viên có thể nghe giảng và ghi chép thuận lợi, giảng viên nên:
- Giới thiệu trước những tài liệu cần đọc để phục vụ cho bài học và đề ra những yêu cầu cụ thể cho sinh viên khi đọc các tài liệu đó.
- Cần có những hình thức, biện pháp kiểm tra việc đọc tài liệu và tự nghiên cứu của sinh viên.
- Trình bày vấn đề một cách hệ thống, rõ ràng để sinh viên dễ theo dõi vấn đề và ghi chép, tránh tình trạng giáo viên trình bày bài giảng tản mạn, thiếu hệ thống, làm cho sinh viên dù phải tập trung chú ý cao độ nhưng vẫn không nắm bắt được nội dung cơ bản của vấn đề và không thể ghi chép được.
3. Phương pháp đọc giáo trình và tài liệu
Đối với sinh viên ở trình độ đại học và cao đẳng, đọc sách không những là nhu cầu, hứng thú mà còn là một nhiệm vụ tất yếu. Đọc giáo trình, tài liệu để tự học, tự nghiên cứu là công việc chính của mỗi sinh viên. Trong quá trình học tập các môn Lý luận chính trị, 100% sinh viên phải có giáo trình, tài liệu cần thiết, theo chúng tôi để đọc giáo trình và tài liệu có kết quả, sinh viên cần lưu ý:
- Sinh viên phải biết lựa chọn sách, báo, tạp chí, văn kiện, nghị quyết, phù hợp với từng bài học
- Sinh viên cần xác định rõ mục đích đọc tài liệu: Đọc để tìm hiểu toàn bộ nội dung cuốn sách; để tìm hiểu một vấn đề; sưu tầm tài liệu bổ sung cho những vấn đề các em đang nghiên cứu hoặc thu thập thông tin để giải quyết một vấn đề thực tiễn nào đó. Nói chung, đọc sách vì mục đích gì thì sinh viên phải xác định được ngay từ đầu mới đạt hiệu quả thiết thực.
- Đọc tài liệu để hiểu sâu kiến thức cơ bản của từng bài, từng chương và tiến tới cả học phần.
- Sinh viên biết tự triển khai những vấn đề cụ thể của từng học phần như: thiết kế, chuẩn bị câu hỏi cho các giờ thảo luận trên lớp; phương án giải quyết vấn đề, sinh viên nên thiết kế theo hướng từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
4. Sinh viên lập kế hoạch học tập
Nhằm tránh tình trạng chỉ tập trung học ở những thời điểm nhất định vào các kỳ thi, sinh viên cần thiết lập kế hoạch học tập của mình cho từng học phần, học kỳ, năm học. Để tạo điều kiện cho sinh viên vạch kế hoạch học tập một cách thuận lợi và khoa học, vào đầu mỗi học phần giảng viên cần cung cấp cho sinh viên đề cương chi tiết môn học, giới thiệu giáo trình, tài liệu tham khảo, số lượng bài kiểm tra, hình thức thảo luận trên lớp, hình thức thi kết thúc môn học, hướng dẫn sinh viên những nội dung tự học ở nhàtừ đó sinh viên lập kế hoạch học tập phù hợp với từng môn học, thời gian và đặc điểm tâm lý của bản thân.
Kế hoạch học tập của sinh viên phải thực tế và linh hoạt, không thể lập một kế hoạch mà trong đó mỗi công việc đều quy định thời gian cụ thể. Vì như vậy, các em có thể gặp những tình huống bất ngờ và kế hoạch bị phá vỡ. Do đó, kế hoạch học tập của sinh viên không phải là cứng nhắc, mà là một kim chỉ nam, một phương hướng để sinh viên hành động. Đặc biệt, trong đào tạo theo học chế tín chỉ, sinh viên có nhiều thời gian để tự học, nên các em phải có kế hoạch sử dụng quỹ thời gian hợp lý, có như vậy các em mới làm chủ được quỹ thời gian, không bị động trước nhiều nguồn tư liệu cần phải đọc và các công việc phải hoàn thành theo yêu cầu và sự hướng dẫn của giảng viên.
Ngoài ra, để thực hiện tốt kế hoạch học tập, sinh viên phải có đủ phương tiện để học tập như: giáo trình, tài liệu tham khảo, cùng các phương tiện hỗ trợ khác... Tuy nhiên, việc tự học của sinh viên chỉ có kết quả khi có sự kiểm tra và đánh giá của giảng viên một cách thường xuyên hoặc sinh viên tự đánh giá, vì thông qua kiểm tra đánh giá giúp các em biết rõ ưu, nhược điểm của mình để có sự điều chỉnh hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả học tập.
Trên đây là những trao đổi của chúng tôi về một số phương pháp để sinh viên nhà Trường tham khảo nhằm nâng cao chất lượng tự học các môn Lý luận chính trị, rất mong nhận được sự trao đổi từ các em sinh viên và đồng nghiệp.
Minh Duyên ( Bộ môn LLCT )
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Đỗ Thu Hà
Đơn vị công tác: Trung tâm nghiên cứu giáo dục Đại học và Nghề nghiệp, Viện KHGD Việt Nam.
Thư điện tử: dothuha08@gmail.com Điện thoại: 04389423390
Thư ký đề tài: ThS. Đỗ Thu Hà Thành viên: ThS. Trần Thị Ninh Giang; ThS. Hoàng Thị Minh Anh; ThS. Đào Thanh Hải.
Thời gian thực hiện: Từ 7/2009 đến 9/2010
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định được thực trạng sử dụng quỹ thời gian ngoài giờ lên lớp của sinh viên một số trường đại học trên địa bàn Hà Nội. Từ đó đề xuất một số khuyến nghị về việc sử dụng quỹ thời gian ngoài giờ lên lớp của sinh viên.
Nội dung nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài;
- Nghiên cứu xác định thực trạng việc sử dụng quỹ thời gian ngoài giờ lên lớp của sinh viên ở một số trường Đại học trên địa bàn Hà Nội;
- Đề xuất một số khuyến nghị về việc sử dụng quỹ thời gian ngoài giờ lên lớp của sinh viên.
Phương pháp nghiên cứu
Hồi cứu tư liệu, so sánh đối chiếu, phân tích tổng hợp, điều tra khảo sát, xử lí thống kê
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1/ Về lí luận
Quỹ thời gian ngoài giờ lên lớp của sinh viên đại học là lượng thời gian sinh viên không bắt buộc phải có mặt ở lớp học hoặc phòng thí nghiệm, xưởng thực hành để thực hiện các nhiệm vụ học tập, rèn luyện theo chương trình, kế hoạch giáo dục của nhà trường được tự do lựa chọn các hình thức thể hiện để thỏa mãn nhu cầu của bản thân.
Những hoạt động của sinh viên trong thời gian ngoài giờ lên lớp:
Hoạt động tự học: bao gồm việc thực hiện các nhiệm vụ học tập mà giảng viên giao cho hay thực hiện các nhiệm vụ mà bản thân sinh viên đề ra. Song song với những hình thức mang tính cá nhân, đơn lẻ, hoạt động tự học còn thể hiện dưới các buổi tọa đàm, thảo luận chuyên đề, sinh hoạt ngoại khóa, sinh hoạt câu lạc bộ giao lưu giữa các khoa, các trường để trao đổi kinh nghiệm, tự học theo kinh nghiệm; tự học theo nhóm tại nơi ở hoặc trên thư viện
Hoạt động chính trị xã hội: là những hoạt động tập thể vừa có mục đích phục vụ cộng đồng, vừa có mục đích phục vụ xã hội, cộng đồng, vừa có mục địch giáo dục.Theo qui chế của Bộ giáo dục và Đào tạo, hoạt động chính trị - xã hội là một trong năm nhiệm vụ của sinh viên.
Hoạt động văn hóa, văn nghệ: là các hình thức sinh hoạt văn hóa văn nghệ nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho sinh viên diễn ra khá đa dạng, phong phú. Những hình thức hoạt động văn hóa văn nghệ của sinh viên khá ưa chuộng hơn cả là các hội diễn văn nghệ, các cuộc thi nhằm tôn vinh vẻ đẹp tài năng của sinh viên, các hoạt động tham gia du lịch, tìm hiểu thực tếNhững hoạt động này vừa làm phong phú them đời sống tinh thần của sinh viên vừa giải tỏa những căng thẳng trong cuộc sống.
Hoạt động thể dục thể thao: là các hoạt động diễn ra dưới nhiều hình thức như các môn thể thao luyện tập: bóng đá, cầu lông, bóng bàn, cờ vua.. Thời gian dành cho hoạt động thể thao ngoài giờ lên lớp của sinh viên cũng xuất phát từ nhu cầu cá nhân.
Hoạt động vui chơi, giải trí: là hoạt động thư giãn sau những giờ học tập căng thẳng, mệt mỏi giúp sinh viên giữ được trạng thái cân bằng trong sinh hoạt và học tập giảm stress, có được sự thư thái, sảng khoái về tinh thần. Hoạt động vui chơi giải trí có thể diễn ra ở mọi nơi, mọi lúc với nhiều hình thức khác nhau. Theo xu thế hiện nay, một số hình thức giải trí rất được sinh viên ưa chuộng là chơi Game, xem phim, nghe nhạc, trò chuyện với bạn bè (trực tiếp hoặc gián tiếp)
Hoạt động tạo thu nhập: là những việc làm do sinh viên thực hiện để có thêm tiền trang trải cho sinh hoạt. Đây là một nhu cầu lớn đối với sinh viên hiện nay.Công việc làm thêm của sinh viên rất đa dạng nhưng còn tự phát, chưa được tổ chức chặt chẽ.
Những yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng thời gian ngoài giờ lên lớp của sinh viên gồm yếu tố chủ quan và khách quan. Về yếu tố chủ quan: Nhận thức của sinh viên về vai trò của các hoạt động ngoài giờ lên lớp, tính kế hoạch và sự nỗ lực thực hiện kế hoạch, khả năng tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp của sinh viên. Về những yếu tố khách quan: Điều kiện cơ sở vật chất, môi trường đáp ứng yêu cầu hoạt động sinh hoạt của sinh viên trong thời gian ngoài giờ lên lớp, mục tiêu đào tạo các trường đại học, những quy định của nhà trường về việc đánh giá kết quả làm việc ngoài giờ của sinh viên.
2/ Về thực tiễn
Thực trạng sử dụng thời gian ngoài giờ lên lớp của sinh viên vào những hoạt động cụ thể:
Thực trạng sinh viên sử dụng thời gian ngoài giờ lên lớp vào hoạt động tự học: Nhìn chung sinh viên nhận thức đúng đắn về hoạt động tự học ngoài giờ lên lớp và dành một thời gian đáng kể cho hoạt động này. Bên cạnh một bộ phân sinh viên rất nỗ lực rất nhiều cho tự học thì vẫn còn một bộ phận sinh viên không nhỏ dành rất ít cho hoạt động tự học. Có sự khác biệt rõ giữa những sinh viên các trường, ở các nơi cư trú, ở giới tính trong việc sử dụng thời gian ngoài giờ lên lớp có sinh viên.
Thực trạng sinh viên sử dụng thời gian (TG) vào hoạt động chính trị xã hội: Kết quả khảo sát cho thấy thời gian tham gia hoạt động chính trị xã hội của sinh viên năm thứ 3 nhiều hơn so với sinh viên (SV) năm thứ hai; có sự khác biệt trong việc sử dụng thời gian cho hoạt động chính trị xã hội giữa các nhóm sinh viên ở nơi cư trú khác nhau. Nguyên nhân của thực trạng SV dành ít thời gian cho hoạt động chính trị xã hội trước hết là do tâm lí e ngại, cách tổ chức các hoạt động chính trị xã hội còn nghèo nàn.
Thực trạng SV sử dụng TG vào hoạt động vui chơi giải trí: kết quả khảo sát cho thấy, mỗi tuần sinh viên dành 11,8 giờ cho hoạt động này. Song lượng thời gian dành cho vui chơi, giải trí giữa các nhóm sinh viên có sự chênh lệch đáng kể. Khác biệt giữa sinh viên giữa các trường, giữa SV năm thứ 2 và thứ 3, khác biệt giữa SV ở những nơi cư trú khác nhau.
Thực trạng SV sử dụng TG vào hoạt động văn hóa, văn nghệ: Kết quả khảo sát cho thấy trung bình mỗi sinh viên sử dụng 2,23 giờ/tuần cho hoạt động văn nghệ. TG ngoài giờ lên lớp của sinh viên có sự khác nhau theo giới tính SV; theo từng trường đại học. Nguyên nhân cơ bản của thực trạng trên là do SV chưa ý thức được một cách sâu sắc tác dụng của hoạt động văn hóa, văn nghệ. Hình thức tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ chưa đa dạng, phong phú, ít hấp dẫn; kinh phí cho các hoạt động còn eo hẹp.
Thực trạng SV sử dụng thời gian vào hoạt động tạo thu nhập: Kết quả khảo sát cho thấy, trung bình mỗi tuần SV sử dụng 3,1 giờ cho hoạt động tạo thu nhập.Việc đầu tư cho hoạt động tạo thu nhập cũng có cũng có sự khác nhau đáng kể giữa các nhóm SV, giữa các trường, giữa hai giới tính; giữa những sinh viên cư trú ở những nơi khác nhau. Mối quan hệ giữa việc sử dụng thời gian ngoài giờ lên lớp với kết quả học tập của sinh viên: Kết quả khảo sát cho thấy việc sử dụng quỹ thời gian ngoài giờ lên lớp với kết quả học tập của sinh viên có mối quan hệ với nhau. Trong đó tác động rõ nhất đối với việc học là việc sử dụng thời gian ngoài giờ lên lớp vào hoạt động tự học
Việc đầu tư thời gian cho hoạt động tự học ngoài giờ lên lớp là một trong những điều kiện quan trọng để sinh viên tiến hành hoạt động học tập trên lớp đạt kết quả tốt. Song không có ý nghĩa là cứ đầu tư vào thời gian thì kết quả học tập tốt mà vấn đề còn ở cách học, phương pháp học
Việc sử dụng thời gian cho các hoạt động ngoài giờ lên lớp có những mối liên hệ nhất định đến kết quả học tập của sinh viên. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng của nó không ngang bằng nhau. Xem xét mức độ tác động của việc sử dụng thời gian ngoài giờ lên lớp của sinh viên tới kết quả học tập chỉ mạng tính chất tương đối bởi thực tế kết quả học tập còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác. Mặc dù vậy việc đầu tư thời gian hợp lí vào các hoạt động ngoài giờ lên lớp là một trong những vấn đề cần được sinh viên quan tâm bởi việc quản lý và chi tiêu thời gian nói chung của mỗi cá nhân đã và đang là một kỹ năng rất quan trọng và cần thiết trong thời đại ngày nay.
3/ Một số khuyến nghị
Đối với Bộ giáo dục và Đào tạo:
- Bộ giáo dục và Đào tạo cần tiếp tục xem xét, nghiên cứu, ban hành các văn bản hướng dẫn việc tổ chức, triển khai và quản lí kế hoạch thực hiện các hoạt động ngoài giờ lên lớp của sinh viên; có những chế độ ưu đãi, những qui định cụ thể khuyến khích sinh viên tích cực tham gia các hoạt động ngoài giờ lên lớp, nhất là những hoạt động tích cực trong việc rèn luyện và phát triển nhân cách của sinh viên;
- Bộ chỉ đạo các trường Đại học tổ chức xây dựng nội quy, qui định để hướng dẫn sinh viên, xây dựng, quản lí việc sử dụng thời gian ngoài giờ;
Đối với Nhà trường và các tổ chức đoàn thể:
- Nhà trường cần hướng dẫn sinh viên năm thứ nhất lập kế hoạch sử dụng quỹ thời gian ngoài giờ; Nhà trường và các tổ chức đoàn thể cần có sự phối hợp để đưa ra một kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp dài hạn.
Đối với gia đình:
- Gia đình cần chú ý quan tâm tới việc sử dụng thời gian ngoài giờ lên lớp của con em mình qua những kênh thông tin khác nhau; Có sự trao đổi định kỳ giữa gia đình và Nhà trường.
Đối với sinh viên:
- Sinh viên cần nhận thức tầm quan trọng của việc quản lý, sử dụng thwoif gian lên lớp.Tinh thần và thái độ nghiêm túc tự giác của sinh viên là những yếu tố có ý nghĩa quyết định tới hiệu quả sử dụng thời gian; Sinh viên cần có kế hoạch cơ bản, lâu dài bên cạnh những kế hoạch chi tiết. Sử dụng thời gian lên lớp vào các hoạt động một cách hợp lí.
TỪ KHÓA: 1/ Thời gian ngoài giờ lên lớp; 2/ sinh viên đại học; 3/ giáo dục Đại học
Chi tiết xin liên hệ: Phòng Thư viện, số điện thoại: 04-39423754 hoặc theo địa chỉ thư điện tử: tttv@vnies.edu.vn
Vai trò của thầy giáo, cô giáo trong việc rèn luyện tự học của sinh viên
Giảng viên cần hướng dẫn sinh viên hình thành phương pháp tự học hiệu quả (ảnh minh hoạ)
Giáo viên nên tăng cường các hình thức dạy học nhóm, trao đổi thảo luận, nêu lên chính kiến của mình... Điều này sẽ buộc sinh viên phải nghiên cứu tài liệu, phân tích, mổ xẻ các vấn đề trên nhiều khía cạnh khác nhau để có thể tham gia đóng góp hoặc tranh luận để bảo vệ ý kiến của mình.
Để định hướng cho sinh viên vạch ra kế hoạch tự học cá nhân, giảng viên cần đề ra kế hoạch dạy học cụ thể toàn bộ học phần (hoặc từng chương), cung cấp trước cho sinh viên nghiên cứu để biết mình sẽ làm gì và làm như thế nào trong quá trình học tập bộ môn.
5. Đặc điểm tự học của sinh viên ở các
trường đại học
Hoạt động dạy và học hay đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị-hành chính ở các Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là quá trình tổ chức, giáo dục, truyền bá một cách cơ bản, có hệ thống chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nướccho đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt và dự nguồn của hệ thống chính trị các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở của địa phương. Từ đó, hình thành ở người học thế giới quan, phương pháp luận khoa học, nhân sinh quan cộng sản; nâng cao trình độ tư duy lý luận, năng lực lãnh đạo, quản lý và phẩm chất đạo đức cách mạng tạo nên bản lĩnh chính trị vững vàng, niềm tin vững chắc vào mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và tinh thần tự giác, tích cực trong quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Trong những năm qua, hoạt động dạy học ở Trường Chính trị tỉnh Bến Tre đã từng bước được đổi mới về nội dung, phương pháp, cách thức quản lýđã thu được những tiến bộ đáng nghi nhận, chất lượng đào tạo chuyển biến theo chiều hướng tích cực. Học viên sau khi tốt nghiệp đã phát huy tốt năng lực, vận dụng tốt kiến thức đã học và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nhìn chung hoạt động dạy học Trường Chính trị tỉnh Bến Tre đã đạt những thành tựu đáng trân trọng về chất lượng đào tạo cán bộ, đáp ứng cơ bản nhu cầu cán bộ lãnh đạo các ngành, các cấp trong tỉnh. Tuy nhiên, hoạt động dạy học ở Trường Chính trị tỉnh Bến Tre còn bộc lộ những bất cập, hạn chế: Hiệu quả chưa cao, chưa có sự đồng đều về kết quả học tập giữa các môn học, phần học, giữa các học viên cùng lớp, học viên các hệ lớp chưa có sự ổn định cần thiết
Hiện nay chúng ta còn phải đương đầu với không ít khó khăn và thách thức. Cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp vẫn đang diễn ra hết sức sâu sắc và quyết liệt. Các thế lực thù địch đang tìm mọi cách tấn công phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân, ra sức xuyên tạc lịch sử dân tộc, vu cáo Đảng và Nhà nước, chúng tấn công vào hệ tư tưởng, cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng và cách mạng nước ta. Cách mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ đang phát triển như vũ bão, trong khi trình độ nhận thức, trình độ trí tuệ của chúng ta còn nhiều hạn chế, không ít vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được tổng kết hoặc chưa đủ cơ sở để làm sáng tỏ, cho nên còn những ý kiến khác nhau.
Trước những yêu cầu và đòi hỏi nêu trên, hoạt động dạy học của nhà trường cần phải cải tiến, đổi mới hơn nữa nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở mà thực tiễn đang đặt ra, phục vụ đắc lực cho phát triển KT-XH của địa phương hiện nay và trong thời gian tới.
Để nâng cao chất lượng đào tạo trong giai đoạn hiện nay ở Trường Chính trị tỉnh Bến Tre, bên cạnh việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy, cách thức quản lý; vấn đề cần quan tâm là xây dựng và nâng cao ý thức tự học cho học viên.
Tự học giúp phát huy tính tự giác, tích cực, năng lực đọc sách và nghiên cứu của người học để thực hiện nhiệm vụ giáo dục ở các trường, biến “quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo của học viên”. Do đó, tổ chức tốt việc tự học cho học viên nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của các trường trong điều kiện hiện nay là rất cần thiết. Tự học là quá trình nhận thức một cách tự giác, tích cực, tự lực không có sự tham gia hướng dẫn trực tiếp của giáo viên nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ của dạy học. Vì vậy, tự học chính là bước giúp học viên đào sâu suy nghĩ, hệ thống lại những tri thức đã được học, liên hệ nó với các hoạt động, biểu hiện trong thực tế và xây dựng kế hoạch nghiên cứu tài liệu sao cho những điều mình biết luôn có ích và không xa rời hiện thực.
Tự học được tổ chức tốt không những cung cấp cho học viên những kiến thức mới, bổ ích mà còn giúp họ rất nhiều trong công tác sau này. Quá trình tự học sẽ rèn cho học viên thói quen độc lập suy nghĩ, giải quyết vấn đề khó khăn trong công việc, trong cuộc sống, qua đó giúp họ tự tin hơn trong mọi hoạt động. Khi tự học, học viên sẽ được tiếp cận nhiều thuật ngữ, nhiều cách đề cập một vấn đề, vì vậy họ trở nên năng động hơn, tự chủ hơn trong việc tiếp thu tri thức. Từ đó, thấy được tự học không chỉ là một nhân tố quan trọng trong lĩnh hội tri thức mà còn có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách người học.
Tuy nhiên, hoạt động tự học của học viên Trường Chính trị tỉnh Bến Tre những năm gần đây rất hạn chế, không thường xuyên, chỉ tập trung trước các kỳ kiểm tra, thi. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập của học viên.
Phần lớn học viên các hệ lớp đào tạo Trung cấp lý luận Chính Trị - Hành chính nhất là những học viên chưa được đào tạo chuyên môn từ Cao đẳng trở lên, thường không tiến hành các hoạt động tự học một cách hợp lý, khoa học. Chỉ đến khi bắt buột phải học bài để kiểm tra hoặc thi hết môn mới bắt đầu học những nội dung theo câu hỏi ôn tập. Nhiều học viên không tự chuẩn bị nội dung ôn tập mà photo lại của người khác nên rất khó học thuộc. Thực tế cho thấy khi bước vào phòng thi nhiều học viên chỉ có thể nắm được rất ít nội dung ôn thi (học tủ), nếu đề thi “trật tủ” thì chép bài của người khác hoặc sử dụng tài liệu để làm bài.
Nội dung tự học của học viên Trường Chính trị chủ yếu: Soạn đề cương theo câu hỏi ôn tập của giảng viên, làm bài tập, xem bài mới trước khi nghe giảng và đọc thêm những tài liệu tham khảo khác. Thực hiện hoạt động này giúp học viên hiểu sâu hơn, nắm chắc hơn những kiến thức từng môn học, từ đó giúp học viên phát triển tư duy, trí tuệ và nhận thức. Đây cũng là hoạt động nhằm nâng cao chất lượng học tập của học viên và chất lượng giáo dục của nhà trường.
Để nâng cao ý thức tự học cho học viên ở Trường Chính trị tỉnh Bến Tre hiện nay, cần chú ý những vấn đề sau:
Nâng cao nhận thức cho giảng viên, chủ nhiệm lớp và học viên chủ yếu là học viên các hệ lớp chưa qua đào tạo chuyên môn từ Cao đẳng trở lên về vấn đề tự học. Vì nhận thức nói chung là một thành tố trong cấu trúc tâm lý, nhân cách của con người, đóng vai trò vô cùng quan trọng đối hoạt động của con người, chỉ có nhận thức đúng thì mới có hành động đúng. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động tự học của học viên nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường, trước hết cần nâng cao nhận thức về nội dung, mục tiêu, ý nghĩa và tác dụng của vấn đề tự học cho đội ngũ giảng viên, chủ nhiệm lớp và học viên; xem đây là giải pháp hàng đầu và cần được thực hiện một cách thường xuyên.
Đối với giảng viên giảng dạy những môn đầu tiên của khóa học và đội ngũ chủ nhiệm các lớp cần nắm rõ tác dụng và ý nghĩa của vấn đề tự học, ngay từ đầu khóa học cần giúp học viên các lớp hình thành ý thức tự học và tổ chức tự học một cách tích cực, tự giác. Kết hợp lòng ghép những nội dung hướng dẫn, bồi dưỡng phương pháp và kỹ năng tự học cho học viên trong quá trình giảng bài và sinh hoạt lớp. Chú ý tăng cường giáo dục động cơ, thái độ học tập cho học viên; hướng dẫn, chỉ đạo học viên xây dựng kế hoạch tự học.
Giảng viên bộ môn thiết kế bài giảng theo một chuỗi tình huống có vấn đề và hướng dẫn học viên tự giải quyết. Lồng ghép bồi dưỡng phương pháp và kỹ năng tự học cho học viên ngay trên lớp, tạo điều kiện cho học viên bộc lộ khả năng tự học như: Phân tích, tổng hợp, khái quát, trừu tượng hóa vấn đề; đồng thời bồi dưỡng phương pháp đọc sách, tóm tắt, hệ thống hóa tài liệu và phương pháp nghiên cứu nói chung.
Tác động, hướng dẫn và tạo điều kiện để từng học viên tự giác, độc lập xây dựng kế hoạch, phương pháp tự học phù hợp với bản thân. Tự năng động, tìm tòi, phân tích những sách vở, tài liệu liên quan để tự mình làm chủ tri thức, kỹ năng, kỹ xảo ngoài giờ học trên lớp.
Đảm bảo các điều kiện tự học cho học viên như xây dựng phòng đọc thư viện, tăng cường các thiết bị nghe nhìn, tạo điều kiện về thời gian, kinh phí cho hoạt động sinh hoạt ngoại khóa và nghiên cứu thực tiễn trong và ngoài tỉnh.
Tổ chức thi, kiểm tra, đánh giá kết quả học tập một cách nghiêm túc, công bằng, khách quan nhằm kích thích sự nỗ lực, sự cố gắng và lòng say mê học tập của học viên làm tăng ý thức tự học cho từng học viên. Ngoài ra cần chú ý tạo động lực học tập cho học viên thông qua việc: Đổi mới phương pháp dạy học, tổ chức và điều khiển hợp lý các hoạt động học; nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng, đoàn thể nhằm nâng cao nhận thức về nhiệm vụ học tập, mục đích, ý nghĩa, tác dụng của việc học chương trình đào tạo Trung cấp lý luận Chính trị - Hành chính để hình thành động cơ học tập nói chung và ý thức tự học của học viên.
Mối quan hệ
Khái niệm
Mối quan hệ
Khái niệm
Mối quan hệ
Khả năng – hiện thực
Bản chất – hiện tượng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_dung_pp_cay_kien_thuc_1798_2118551.doc