Chính sách quản lý ngoại hối nói chung và chính sách quản lý ngoại hối trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng là vấn đề cấp bách hiện nay mà
ngân hàng nhà nước đang tập trung để sửa đổi và hoàn thiện
Tuy nhiên để hoàn thiện được nó chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều bởi vì
đầu tư nước ngoài là lĩnh vực khá mới mẻ đối với Việt Nam, kinh nghiệm về quản lý
ngoại hối của ta còn quá ít. Do vậy trong thời gian tới chúng ta phải không ngừng
nâng cao tầm hiểu biết, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong khu vực có điều
kiện tương đối giống ta để đạt được một chính sách quản lý ngoại hối hữu hiệu nhất.
45 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2282 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Ngoại hối và đổi mới chính sách ngoại hối ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên
phong phú và nguồn lao động dồi dào phục vụ công cuộc phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Những nỗ lực đó đã mang lại những kết quả ban đầu đáng khích lệ. Những
kết quả đó thể hiện qua một số điểm sau đây:
1.1 Về số lượng dự án đầu tư và vốn đầu tư
Mục đích của thực hiện đầu tư trực tiếp tại Việt Nam là thu hút vốn nước
ngoài để phục vụ công cuộc phát triển kinh tế xã hội. Do vậy dấu hiệu đầu tiên và
quan trọng nhất về kết quả đạt được của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đó là số
lượng dự án và vốn đầu tư.
Theo số liệu của NHNN và uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư, tính đến
cuối tháng 4.1995 đã có hơn 200 nước và khu vực đầu tư vào Việt Nam với hơn 700
công ty và tổng số vốn lên tới trên 14 tỷ USD. Nhịp độ tăng trưởng vốn đầu tư khá
nhanh, vốn đầu tư của năm sau thường cao hơn nhiều so với năm trước. Quy mô một
dự án cũng ngày một tăng, vốn trong năm 88-90 quy mô một dự án khoảng 3,5 triệu
USD thì nay đã cao hơn nhiều, 5 tháng đầu năm 1995 quy mô một dự án đã tăng lên
18,4 triệu USD.
Về phía đối tác nước ngoài, phần lớn các dự án do các công ty thuộc khu vực
Đông á-Thái Bình Dương và Tây Bắc Âu thực hiện. Những nước có vồn đầu tư lớn
nhất là Đài Loan, Hông Kông, Nam Triều Tiên, Singapore, úc, Nhật, Pháp, Anh, Hà
Lan...
Như vậy, từ khi luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có hiệu lực cho đến hết
tháng 12.199 nhà nước ta đã cấp giấy phép cho 2766 dự án đầu tư trực tiếp nước
ngoài với tổng số vốn đăng ký là 37.055,66 triệu USD . Tính bình quân mỗi năm
chúng ta cấp phép cho 230 dự án với mức 3.087,97 triệu USD vốn đăng ký.
Bảng dưới đây cho ta thấy nhịp độ thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của ta
có xu hướng tăng nhanh từ 1988 tới 1995 cả về dự án cũng như số vốn đăng ký.
Riêng năm 1996 sở dĩ có lượng vốn đăng ký tăng vọt là do có hai dự án đầu tư vào
lĩnh vực phát triển đô thị ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh được phê duyệt với
quy mô dự án lớn (hơn 3 tỷ USD/2 dự án). Như vậy, nếu xét trong thời kỳ 1988-1999
thì năm 1995 có thể được xem là năm đỉnh cao về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
của Việt Nam.
Số liệu vốn đầu tư trực tiếp
Năm Số dự án
Vốn đăng ký (triệu USD) Số vốn năm trước (%)
Tổng số Trung bình Vốn đăng ký Quy mô
1988 37 371,8 10,05 - -
1989 68 582,5 8,57 156,67 85,27
1990 108 839,0 7,77 144,03 90,67
1991 151 1322,3 8,67 157,60 112,74
1992 197 2165,0 10,99 163,73 125,46
1993 269 2900,0 10,78 133,95 98,09
1994 343 3765,6 10,98 129,85 101,86
1995 370 6530,8 17,65 173,43 160,75
1996 325 8497,3 26,15 130,11 148,16
1997 345 4649,1 13,48 54,71 51,55
1998 275 3897,4 14,17 83,83 105,12
1999 278 1534,7 5,52 39,38 38,96
Tổng 2766 37055,6
Từ 1997 đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam có biểu hiện suy giảm,
nhất là đến các năm 1998, 1999 thì xu hướng giảm đó càng rõ rệt hơn: Nếu năm 1998
chỉ bằng 79,71% thì năm 1999 chỉ bằng 80,58%. Số liệu tương ứng của vốn đăng ký
là 83,83% và 33,01%.
1.2 Tình hình thực hiện các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
thời kỳ 1988-1999.
Có 785 dự án sau một thời gian triển khai đến nay có nhu cầu xin được tăng
vốn mở rộng sản xuất. Tổng số vốn đã được phê duyệt tăng thêm là 5.171 triệu USD
(bằng 14% tổng số vốn đăng ký và bằng 28,4% số dự án được cấp giấy phép).
127 dự án hết thời hạn thực hiện hợp đồng (bằng 4,6% số dự án được cấp giấy
phép), 466 dự án đã bị rút giấy phép (chiếm 16,8%). Như vậy, tính đến 31.12.1999
trên lãnh thổ Việt Nam còn 2173 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đang hoạt động,
với tổng vốn đăng ký của dự án còn hiệu lực là 36.086 triệu USD.
Đồ thị: Cam kết FDI và thực tế giải ngân (Đơn vị: triệu USD)
Đến hết năm 1998 đã có 838 dự án đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh
(bằng 33,68% tổng số dự án được duyệt) và 624 dự án đang trong giai đoạn xây dựng
cơ bản (bằng 25,08% số dự án).
Về cơ cấu lãnh thổ:
Trước kia tỉ trọng rất chênh lệch giữa Bắc-Nam, giữa hai trung tâm thành phố
Hồ Chí Minh và Hà Nội thì tới nay khoảng cách này đã giảm dần.
Cho đến nay tỉ trọng vốn đổ vào phía Bắc đã tăng lên 35% sự vươn lên của
các tỉnh phía Bắc mà đặc biệt là Hà Nội một phần là do thế mạnh riêng của mỗi vùng
nhưng cũng một phần do chính sách điều chỉnh của nhà nước.
0
1000
2000
3000
4000
5000
6000
7000
8000
Tæng sè cam kÕt
Sè gi¶i ng©n
Tæng sè cam kÕt 7500 5950 4450 4000 1980
Sè gi¶i ng©n 2230 1980 2000 800 800
1995 1996 1997 1998 1999
Về địa bàn đầu tư:
Với mong muốn hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần làm chuyển
dịch cơ cấu giữa các vùng kinh tế nên chính phủ đã có những chính sách khuyến
khích, ưu đãi đối với các dự án đầu tư vào những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn,
miền núi, vùng sâu vùng xa. Tuy vậy, cho đến nay vốn nước ngoài vẫn được đầu tư
tập trung chủ yếu vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng và môi
trường kinh tế xã hội. Vốn đầu tư vào các vùng được xếp theo thứ tự sau:
Cơ cấu đầu tư theo vùng thời kỳ 1988-1999 (%)
1.Đông Nam Bộ 53,13 5.Đồng bằng sông Cửu Long 2,46
2.Đồng bằng sông Hồng 29,6 6.Bắc Trung Bộ 2,38
3.Duyên hải Nam Trung Bộ 7,64 7.Tây Nguyên 0,16
4.Đông Bắc 4,46 8.Tây Bắc 0,15
Về cơ cấu theo ngành kinh tế thời kỳ 1988-1999
Ngành Số dự án (%) Vốn đăng ký (%)
1.Nông-Lâm nghiệp 10,6 3,59
2.Thuỷ sản 3,6 0,96
3.Công nghiệp 40,6 37,78
4.Xây dựng 10,3 12,37
5.Khách sạn, du lịch 7,8 13,13
6.Giao thông, vận tải, bưu điện 5,3 9,23
7.Tài chính, ngân hàng 1,1 0,54
8.Văn hoá, Y tế, Giáo dục 3,3 1,27
9.Các ngành dịch vụ khác 9,4 21,13
Tổng 100 100
Số liệu trên cho thấy các dự án đầu tư vào các ngành công nghiệp chiếm tỷ
trọng lớn cả về số lượng dự án lẫn vốn đầu tư, tiếp đến là các lĩnh vực khách sạn, du
lịch và dịch vụ. Các ngành nông, lâm nghiệp có số dự án lớn nhưng vốn thấp hơn.
Về hình thức đầu tư
Hiện nay theo quy định luật đầu tư nước ngoài thì có các hình thức đầu tư
nước ngoài như doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh và
hợp đồng hợp tác liên doanh.
Liên doanh chiếm tỉ lệ lớn nhất trong các hình thức đầu tư, nó chiếm tới
64,6% số dự án, chiếm 65,3% vốn đăng ký. Đứng thứ 2 là doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài, chiếm 27,1% số dự án và 17,5% vốn đăng ký. Hợp đồng hợp tác kinh
doanh chiếm 8,3% số dự án và 16,9% số vốn đăng ký.
2. Thực trạng chính sách quản lý ngoại hối trong các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài:
Quản lý ngoại hối đã có từ lâu nên nó gắn với chính sách tiền tệ của quốc gia
nhưng quản lý ngoại hối trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì chỉ
thực sự tồn tại trong những năm gần đây. Là vấn đề quá mới nên những phát sinh,
tồn tại đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt và giải quyết là vấn đề bức bách và thường
xuyên xảy ra. Sau đây là nghiên cứu thực trạng của việc quản lý ngoại hối trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
2.1 Vấn đề mở tài khoản:
2.1.1 Mở tài khoản tại ngân hàng trong nước:
Như quy định của ngân hàng nhà nước đã nêu ở trên các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài chủ được mở một tài khoản đồng Việt Nam và ngoại tệ tại một
ngân hàng thương mại ở Việt Nam, còn trong trường hợp doanh nghiệp có các chi
nhánh ở địa phương khác doanh nghiệp có thể mở các tài khoản phụ tại các địa
phương này để tiện cho hoạt động.
Quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý của ngân hàng nhà nước
đối với các hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Bởi vì thay
bởi việc theo dõi nhiều tài khoản thanh toán khác nhau ngân hàng nhà nước chỉ phải
theo dõi hoạt động tài khoản tại một ngân hàng duy nhất mà doanh nghiệp mở tài
khoản.
Tuy nhiên hiện nay quy định này đang gây sự phản ứng mạnh mẽ của các
ngân hàng thương mại và các doanh nghiệp này. Đặc biệt là sau công văn 67/CV-NH
cho ngân hàng nhà nước gửi tới các ngân hàng thương mại yêu cầu phải chấp hành
nghiêm chỉnh các quy định của ngân hàng nhà nước về quản lý ngoại hối trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo như thông tư số 06/TT-NH ban hành
ngày 18.9.1993. Các doanh nghiệp và các ngân hàng thương mại cho rằng những khó
khăn đó thể hiện như sau:
- Các công ty 100% vốn nước ngoài và các liên doanh hướng dẫn chỉ được
giao dịch với một ngân hàng, điều này giúp đơn giản hoá việc kiểm soát nhưng đồng
thời cũng mang những hiệu quả bất lợi cho các doanh nghiệp liên doanh và các công
ty 100% vốn nước ngoài.
- Các công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh cho rằng bằng việc áp
dụng quy định một ngân hàng, ngân hàng vô hình chung đã hạn chế lượng tiền mà
các công ty này được phép hoặc mong muốn đi vay từ thị trường.
- Nhu cầu đi vay của các doanh nghiệp là tất yêu và nó có ảnh hưởng lớn đến
hoạt động của doanh nghiệp, nó làm giảm bớt các dự án đầu tư của một số công ty và
có thể ảnh hưởng xấu đến dự án. Theo thông báo của ngân hàng ngoại thương Pháp
BFCE tại ngân hàng đã có tới 4 dự án đình hoãn vô thời hạn.
- Các ngân hàng cho rằng: Việc áp dụng quy định một ngân hàng dẫn đến rủi
ro lớn trong việc cho vay của các ngân hàng do khó đáp ứng được tốt các khoản vay
của các doanh nghiệp nhất là các khoản vay lớn. Thực tế là ở Việt Nam hiện nay các
ngân hàng khó đáp ứng được nhu cầu vay lớn của các doanh nghiệp.
Hơn nữa việc này làm giảm hiệu quả của các dịch vụ khách hàng của ngân
hàng thương mại, các ngân hàng đều muốn các doanh nghiệp vay vốn phải mở tài
khoản thanh toán tại ngân hàng của họ. Những kiến nghị này là phù hợp với yêu cầu
của các doanh nghiệp và nền kinh tế thị trường nhưng nhìn chung họ đã chưa hiểu kĩ
quan điểm của cơ quan quản lý. Trên thực tế, ngân hàng nhà nước chỉ hạn chế việc
mở tài khoản thanh toán để dễ dàng hơn trong việc quản lý ngoại hối của các doanh
nghiệp này ma không hạn chế việc mở tài khoản trong nước nhằm mục đích vay vốn.
Các doanh nghiệp chỉ được mở một tài khoản thanh toán nhưng có thể nhiều tài
khoản tiền vay.
2.1.2 Vấn đề mở tài khoản ngân hàng nước ngoài
Ngân hàng nhà nước đã quy định các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
được quyền mở tài khoản tại ngân hàng với mục đích:
- Tiếp nhận vốn vay của nước ngoài
- Gửi một phần doanh thu của doanh nghiệp trong phạm vi số tiền gốc và lãi
của khoản vay đến hạn phải trả
- Thanh toán các khoản chi phù hợp với hợp đồng vay vốn
- Chi trả nợ và lãi đến hạn
Qua thực tế kiểm tra và báo cáo của các doanh nghiệp, ngân hàng nhà nước đã
thấy có nhiều tài khoản mở hoặc có hoặc có nhiều khoản vay chưa được ngân hàng
nhà nước xác nhận. Thực tế này cần phải được khắc phục nhanh chóng bởi vì với
những tài khoản mở ở ngân hàng trong nước việc chuyển tiền và thanh toán vẫn nằm
trong phạm vi quốc gia, ngân hàng nhà nước vẫn có thể tác động được khi cần thiết
trong khi tài khoản mở ở nước ngoài thì nếu không quản lý chặt chẽ sẽ rất dễ gây ra
các tiêu cực hoặc ảnh hưởng bất lợi cho phía Việt Nam.
2.2 Vấn đề chuyển vốn vào:
Nhìn lại sau 11 năm thực hiện luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với 6 tỷ
USD vốn thực hiện đó là điều đáng mừng. Tuy 6 tỷ USD vốn thực hiện chưa là gì đối
với các nước khác nhưng đối với Việt Nam nó đã nói lên nhiều điều.
Với 6 tỷ USD mà 16,5 vạn người đã có việc làm. Nhiều dây chuyền công nghệ
mới đã được đưa vào Việt Nam tạo điều kiện sản xuất được những hàng hóa có chất
lượng cao có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Vốn chuyển vào cũng làm
cải thiện phần nào cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam vốn đã thường xuyên
thâm hụt.
Vốn chuyển vào có tác động quan trọng như vậy nhưng nếu vốn chuyển vào
không được kiểm soát chặt chẽ thì nó có thể gây ra những hậu quả xấu về sau này đòi
hỏi ngân hàng phải quản lý được.
Nhưng vốn ngoại tệ đưa vào nhiều có thể dẫn đến sự hợp lý của chính sách
tiền tệ hiện tại, ngoài ra nó cũng có thể dẫn đến tăng lượng đôla trong điều kiện đồng
Việt Nam chưa phải là đồng tiền tự do chuyển đổi.
Theo quy định của luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì bên nước ngoài
phải chuyển vốn pháp định vào Việt Nam theo đúng tiến độ góp vốn đã ghi trong hợp
đồng.
Quy định rất cụ thể nhưng trên thực tế các doanh nghiệp không thực hiện cam
kết của mình trước đây. Họ chuyển vốn vào không theo lệnh góp vốn còn về phía
ngân hàng nhà nước cũng không có điều kiện nắm được chắc chắn dòng vốn ngoại tệ
chuyển vào có vai trò hết sức quan trọng trong việc xác lập cán cân thanh toán quốc
tế của Việt Nam và toàn bộ chính sách tiền tệ nói chung.
Hơn nữa việc buộc các doanh nghiệp phải thực hiện đúng cam kết về tiến độ
chuyển vốn sẽ có lợi cho bên Việt Nam bởi một số nguyên nhân:
-Vốn ngoại tệ chuyển vào là rất quý trong tình trạng thiếu ngoại tệ của ta hiện
nay và trong điều kiện đồng Việt Nam chưa thể thành đồng tiền tự do chuyển đổi.
-Số ngoại tệ chuyển vào lớn nên bên nước ngoài có xu hướng chậm chuyển
bởi chỉ cần chậm một ngày họ đã có lợi khá nhiều chứ chưa nói gì đến cả tháng, cả
năm. Trong khi có những doanh nghiệp cần những khoản chi trong ngày hoặc thậm
chí một vài ngày để thực hiện những công vụ cấp bách thì buộc bên nước ngoài thực
hiện cam kết là cần thiết.
Ví dụ, sau đây là một phương thức mà bên nước ngoài thường sử dụng do
những sơ hở về phía Việt Nam. Khi thực hiện dự án A, hai bên cam kết bên Việt
Nam đóng góp 30% vốn pháp định, bên nước ngoài đóng góp 70% vốn pháp định.
Lịch đóng góp của phía nước ngoài được quy định như sau: 1 tháng sau khi nhận
được giấy phép kinh doanh của SCCI, bên nước ngoài phải chuyển vào 25% vốn
pháp định, 50% sẽ đóng góp sau một năm và 25% còn lại sẽ đóng góp sau 1 năm tiếp
theo. Như vậy, phải sau 2 năm bên nước ngoài mới đóng góp đủ số vốn pháp định
trong khi lợi nhuận họ được chia theo tỷ lệ 7/3 ngay từ năm đầu tiên, đó còn chưa kể
đến tình trạng hiện nay đa số các doanh nghiệp lại không thực hiện việc góp vốn
pháp định theo như cam kết.
Chính vì vậy, ngân hàng nhà nước phải tìm biện pháp để kiểm soát được việc
chuyển vốn của bên nước ngoài bảo đảm quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam
và nhà nước Việt Nam.
Ngoài việc quản lý nguồn ngoại tệ chuyển vào một yêu cầu cấp thiết khác đó
là quản lý vốn góp bằng máy móc thiết bị.
Nó không phải là ngoại tệ nhưng liên quan đến lượng ngoại tệ mà bên nước
ngoài được chuyển ra. Bởi vì theo như quy định của nhà nước các doanh nghiệp được
chuyển ra nước ngoài số vốn góp khi kết thúc dự án mà vốn góp lại bao gồm vốn góp
bằng tiền, bưàng máy móc thiết bị hay bằng phát minh.
Tuy hiện nay việc chuyển vốn góp này chưa phát sinh do các dự án đều mới
được thực hiện nhưng sau này khi các dự án hoàn thành bên nước ngoài sẽ chuyển số
ngoại tệ của mình về nước thì nếu không nắm được số vốn chuyển ra làm sao chúng
ta chuẩn bị được ngoại tệ cho tương lai. Một sự thiếu tính toán, chuẩn bị thiếu chu
đáo sẽ gây ra những hậu quả rất khó lường trước được.
Vấn đề vốn góp bằng máy móc thiết bị hiện vẫn gây nhiều tranh cãi, các bên
không thống nhất được với nhau và giá trị của máy móc thiết bị góp vào. Bên Việt
Nam cho rằng bên nước ngoài đánh giá máy móc thiết bị đưa vào cao hơn giá trị thực
của nó.
2.3 Vấn đề chuyển vốn ra nước ngoài
Quản lý việc vốn vào đã rất quan trọng nhưng quản lý việc chuyển vốn ra còn
quan trọng hơn do nguồn ngoại tệ khan hiếm của ta hiện nay. Thắt chặt việc chuyển
ngoại tệ ra khỏi lãnh thổ Việt Nam là quan điểm của những nhà lãnh đạo nhưng thắt
chặt ở đây cũng chỉ ở trong chừng mực nào đó phù hợp với chủ trương “mở cửa” của
đất nước.
Thực tế hiện nay khi các doanh nghiệp có đủ các điều kiện quy định đã đóng
đủ vốn pháp định và làm đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà nước Việt Nam đều có thể
chuyển vốn ra nước ngoài qua con đường các ngân hàng thương mại mà không cần
phải báo cáo với ngân hàng nhà nước, đó là một tồn tại mà cần phải khắc phục trong
thời gian tới. Bởi vì nếu ngân hàng không nắm được lượng ngoại tệ chuyển ra khỏi
quốc gia thì rất có thể dẫn đến một sự sai lệch nào đó trong việc điều hành chính sách
tiền tệ quốc gia.
Hãy chỉ nhìn ra một nước ngay gần ta là Thái Lan, ngân hàng nhà nước Thái
Lan nắm được số liệu vốn chuyển ra, chuyển vào quốc gia trong từng ngày nhờ vào
hệ thống số liệu do các ngân hàng thương mại cung cấp.
Phải chăng ngân hàng nhà nước Việt Nam không có khả năng thực hiện điều
này: Thật ra ngân hàng nhà nước Việt Nam hoàn toàn có khả năng nắm được số liệu
đó nếu các ngân hàng thương mại kết hợp tốt với ngân hàng nhà nước, họ có trách
nhiệm đối với lĩnh vực này. Hiện nay tình trạng trên vẫn còn tồn tại do ta chưa có
một chế độ báo cáo thông tin của các ngân hàng thương mại.
2.4 Vấn đề về tỷ giá
Một thực tế không thể phủ nhận là sự nỗ lực và thành công của ngân hàng nhà
nước trong việc giữ tỷ giá ổn định trong thời gian qua, sự ổn định ở đây không phải
là sự cứng nhắc mà là tỷ giá có tác động thúc đẩy phát triển sản xuất, trợ giúp sự tăng
trưởng kinh tế.
Từ chế độ nhiều tỷ giá trước đây này Việt Nam đã thực hiện chế độ một tỷ giá
hình thành theo quan hệ cung cầu thị trường và có sự điều chỉnh của nhà nước.Với
chế độ tỷ giá như vậy, phía đối tác nước ngoài nói riêng và các nhà kinh doanh nói
chung đã yên tâm hơn trong việc bỏ vốn vào kinh doanh mà không lo sợ về biến
động của tỷ giá.
Tuy nhiên cũng còn nhiều tiếng kêu từ phía nhà sản xuất, họ cho rằng tỷ giá
của Việt Nam hiện nay là chưa hợp lý, ngân hàng nhà nước đã xác định tỷ giá cao
hơn giá trị thực của nó và theo họ cần phải phá giá đồng Việt Nam, đưa đồng Việt
Nam về với giá trị thực của nó nhằm đẩy mạnh xuất khẩu tạo điều kiện cho hàng Việt
Nam có sức cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới.
Đây là phản ánh của các doanh nghiệp nhưng đó cũng chỉ là những phản ánh,
ngân hàng nhà nước có trách nhiệm xem xét đánh giá nhưng chấp nhận hay không đó
lại là một vấn đề khác. Họ nói phải phá giá nhưng chưa nhận thức được tác hại ghê
gớm của việc phá giá không đúng đối với nền kinh tế như thế nào. Chỉ cần một sự
biến động của tỷ giá thôi có thể phá tan thành quả của bao năm cải cách, phá tan
những cái đã có, mà để đạt được chúng ta phải lao tâm khổ tứ rất nhiều.
Thực tế là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mới chỉ tồn tại tại ở
Việt Nam trong 12 năm qua nhưng ảnh hưởng của sự biến động tỷ giá tới hoạt động
của những doanh nghiệp này không phải là không có. Theo uỷ ban nhà nước về hợp
tác và đầu tư đẻ có một số dự án không thực hiện được do sự biến động của tỷ giá đã
làm đảo lộn đến những tính toán ban đầu của họ. Ta có thể thấy được sự biến động tỷ
giá của đồng Việt Nam với USD qua bảng sau:
Số liệu tỷ giá USD thời kỳ 1988-1998 (Đơn vị: VNĐ)
Năm Tỷ giá chính thức Tỷ giá thị trường tự do
1988 3000 5000
1989 3900 4200
1990 5790 6800
1991 9640 11.975
1992 11.125 11.300
1993 10.695 10.545
1994 10.890 10.990
1995 11.007 11.660
1996 11.124 10.929
1997 11.065 10.864
1998 11.325 10.949
Đồ thị: Biến động tỷ giá trong thời kỳ 1988-1998
Như vậy năm 1988 là năm có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đầu tiên đến
thời điểm 1998 tỷ giá trên thị trường tự do đã tăng lên 2,2 lần và tỷ giá do ngân hàng
0
2000
4000
6000
8000
10000
12000
14000
16000
ChÝnh thøc
Tù do
ChÝnh thøc 3000 5790 11125 10890 11007 11065
Tù do 5000 6800 11300 10990 11660 10864
1988 1990 1992 1994 1995 1997
nhà nước công bố đã tăng lên gần 4 lần. Chỉ trong vòng 10 năm mà tỷ giá biến động
lớn như vậy thì việc dự kiến quả là khó khăn.
Tuy nhiên trên thực tế các doanh nghiệp đổ vỡ do sự biến động này không
nhiều và chủ yếu tập trung vào những năm đầu vì đây là giai đoạn hết sức khó khăn
và đầy biến động trên thị trường Việt Nam, còn thời gian từ 1991 đến nay có thể nói
ngân hàng nhà nước đã kiểm soát được tình hình nhưng để đạt được một tỷ giá chuẩn
xác hơn chúng ta còn phải cố gắng nhiều. Vấn đề chuyển đổi tiền tệ của các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nếu như với các nước khác vấn đề ngoại tệ là thứ
yếu thì với Việt Nam, việc bảo đảm ngoại tệ cho các doanh nghiệp lại trở nên hết sức
khẩn thiết mà ai trực tiếp làm vấn đề này mới thấy được.
Tiếng kêu than của các nhà đầu tư đã làm đau đầu các nhà chức trách. Hàng
ngày ngân hàng nhà nước liên tục phải tiếp, giải thích những chất vấn của các nhà
đầu tư về vấn đề này.
Vấn đề này thực sự phát sinh từ khi nghị định 396/Ttg và đặc biệt sau công
văn 67/CV-NH của ngân hàng nhà nước gửi tới toàn bộ các ngân hàng thương mại
yêu cầu các ngân hàng thương mại chỉ được bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài khi có giấy phép của ngân hàng nhà nước.
Sau công văn 67/CV-NH các ngân hàng thương mại đã không bán ngoại tệ
cho các doanh nghiệp nếu doanh nghiệp chưa có giấy phép của ngân hàng nhà nước
và kết quả là các doanh nghiệp này bị khủng hoảng về nguồn ngoại tệ. Nhu cầu ngoại
tệ của họ quá lớn trong khi nguồn thu ít không đủ đáp ưhngs mà đặc biệt là các doanh
nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại. Trong khi lượng ngoại tệ dùng để bán cho
các doanh nghiệp này chỉ khoảng 130 triệu USD/năm. Trước khó khăn đó buộc ngân
hàng nhà nước phải tìm biện pháp khắc phục vì mặc dù nó là vấn đề không chỉ ảnh
hưởng đến các dự án đang hoạt động mà còn ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư
trực tiếp sau này.
Tỷ giá giữa USD và đồng Việt Nam năm 1999
(tính trung bình trong tháng) Đơn vị: đồng/USD
Thời gian
Ngân hàng ngoại thương Thị trường tự do
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Tháng 1 13.883 13.888 13.861 13.885
Tháng 2 13.880 13.884 13.864 13.899
Tháng 3 13.899 13.902 13.911 13.937
Tháng 4 13.901 13.905 13.919 13.942
Tháng 5 13.907 13.912 13.922 13.942
Tháng 6 13.915 13.920 13.935 13.956
Tháng 7 13.941 13.947 13.964 13.984
Tháng 8 13.955 13.962 13.978 13.988
Tháng 9 13.975 13.981 14.012 14.039
Tháng 10 13.990 14.004 14.000 14.025
Tháng 11 14.007 14.017 14.029 14.045
Tháng 12 14.015 14.021 14.123 14.135
Nguồn: Vụ quản lý ngoại hối, Ngân hàng Việt Nam
Nguyên nhân của tình trạng này có thể nói trước hết là ở phía các nhà doanh
nghiệp. Vì theo giấy phép của SCCI cấp các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
phải tự cân đối nhu cầu thu chi ngoại tệ của họ và coi đây như một điều kiện khi
thẩm định dự án. Các doanh nghiệp đã chấp nhận yêu cầu này, nhưng trên thực tế qua
nhiều năm hoạt động họ vẫn chưa có sản phẩm xuất khẩu hoặc xuất khẩu qúa ít dó đó
không cân đối được nhu cầu ngoại tệ của họ. Hơn nữa các cơ quan quản lý thiếu
thông tin cho các doanh nghiệp, các văn bản hướng dẫn chưa hoàn chỉnh dẫn đến
13800
13850
13900
13950
14000
14050
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Mua vµo
B¸ n ra
nhiều doanh nghiệp tự coi mình là doanh nghiệp sản xuất hàng thay thế hàng nhập
khẩu thì họ sẽ được bảo đảm nhu cầu ngoại tệ bằng biện pháp như:
- Mua ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại
- Thanh toán bằng hàng hoá có giá trị tương đương
Cho nên vấn đề ngoại tệ sẽ không thành vấn đề đối với các doanh nghiệp này.
Các doanh nghiệp quan niệm rằng họ sản xuất những mặt hàng mà Việt Nam phải
nhập khẩu từ nước ngoài thì đó là hàng thay thế nhập khẩu. Những nhận thức đó là
hoàn toàn sai lầm vì hàng thay thế nhập khẩu phải nằm trong danh mục hàng thay thế
nhập khẩu do uỷ ban kế hoạch nhà nước công bố trong từng năm.
Tỷ giá giữa USD và đồng Việt Nam năm 2000
(tính trung bình trong tháng) Đơn vị: đồng/USD
Thời gian
Ngân hàng ngoại thương Thị trường tự do
Mua vào Bán ra Mua vào Bán ra
Tháng 1 14039 14042 14139 14171
Tháng 2 14055 14059 14109 14142
Tháng 3 14060 14062 14090 14117
Tháng 4 14062 14064 14104 14130
Tháng 5 14061 14085 14186 14200
Tháng 6 14084 14086 14185 14210
Tháng 7 14089 14091 14165 14186
Tháng 8 14104 14106 14185 14211
Tháng 9 14161 14163 14328 14366
Tháng 10 14305 14307 14460 14475
Tháng 11 14450 14452 14645 14682
Tháng 12 14509 14511 14581 14610
Nguồn: Vụ quản lý ngoại hối, Ngân hàng Việt Nam
Trong năm 2000, chính sách quản lý ngoại hối tiếp tục đổi mới theo hướng nới
lỏng các giao dịch ngoại lai, khuyến khích thu hồi nguồn vốn ngoại tệ vào Việt Nam
thông qua việc cho phép được nhận tiền chuyển từ nước ngoài về bằng ngoại tệ hoặc
13800
13900
14000
14100
14200
14300
14400
14500
14600
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Mua vµo
B¸ n ra
VND, không phải đóng thuế, cho phép người cư trú là cá nhân được gửi tiết kiệm
bằng ngoại tệ không kể nguồn gốc từ các tổ chức tín dụng được phép hưởng lãi suất
bằng ngoại tệ, được rút ra cả gốc và lãi bằng ngoại tệ, bán ngoại tệ cho các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh
doanh... Trong năm 2000, NHNN đã phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện mua bán
ngoại tệ từ ngân sách nhà nước nhằm bổ sung nguồn ngoại tệ để điều tiết thị trường,
đáp ứng cho nhu cầu nhập khẩu.
Bên cạnh việc tiếp tục thực hiện biện pháp kết hối từ năm 1997, NHNN đã
thực hiện linh hoạt nhiều biện pháp khác thông qua công tác điều hành tỷ giá, mua
bán ngoại tệ trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, quản lý trạng thái ngoại tệ nhằm
hạn chế tình trạng đầu cơ ngoại tệ, tăng nhanh vòng quay ngoại tệ hiện có nhằm đáp
ứng nhu cầu nhập khẩu. Việc NHNN tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý ngoại hối đã
góp phần giảm sự mất cân đối cung cầu ngoại tệ trên thị trường, giải quyết khó khăn
về câù ngoại tệ của các doanh nghiệp, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, tăng
nguồn thu ngoại tê.
Trong bốn tháng đầu năm 2001, tỷ giá biến động ổn định, từ tháng 5/2001 đến
nay, tỷ giá có xu hướng tăng, mức tăng tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng 6 tháng đầu năm là 2,2% so với tỷ giá cuối năm 2000; tỷ giá trên thị
trường tự do tăng khoảng 2,8%. Từ tháng 7 đến tháng 9/2001, tỷ giá trên thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng biến động khoảng 2% và thị trường tự do biến động 2,1%.
Nhìn dài hạn, ta có thể thấy tỷ giá trên thị trường tự do so với chỉ số tiêu dùng trên thị
trường xã hội (CPI) biến động, cách xa nhau không đáng kể. Tháng 9/2001 so với
tháng 12/1995, USD tăng 36,8%, CPI tăng 17,2%.
Năm USD (%) CPI (%)
1996 1,2 4,5
1997 14,2 3,6
1998 9,0 9,2
1999 1,1 0,1
2000 3,4 -0,6
9 tháng đầu 2001 3,3 -0,4
Tóm lại: Vấn đề quản lý ngoại hối của Việt Nam còn nhiều tồn tại cần giải
quyết, có những việc phải giải quyết tức thời như vấn đề chuyển đổi tiền tệ hay việc
mở tài khoản tại ngân hàng nhưng cũng có những công việc không phải một sớm một
chiều chúng ta có thể giải quyết được mà cần phải có thời gian. Sự nỗ lực của các
ngành, các cấp như vấn đề quản lý luồng ngoại tệ chẳng hạn.
3. Nguyên nhân của những tồn tại trên
3.1 Nguyên nhân chủ quan:
Nguyên nhân của tình trạng này có thể nói trước hết là ở phía các nhà doanh
nghiệp. Vì theo giấy phép của SCCI cấp thì các doanh nghiệp phải tự cân đối nhu cầu
thu chi ngoại tệ của họ và coi đây như một điều kiện khi thẩm định dự án. Các doanh
nghiệp đều chấp nhận yêu cầu này, họ chấp nhận sẽ tự tìm nguồn thu là phải xuất
khẩu sản phẩm ra nước ngoài để thu ngoại tệ về phục vụ các nhu cầu chi ngoại tệ, đa
số trong các luận chứng kinh tế, kỹ thuật các doanh nghiệp đều xác định một tỷ lệ
khá cao dùng để xuất khẩu, một số doanh nghiệp còn xác định tỷ lệ 100% xuất khẩu,
nhưng thực tế qua nhiều năm hoạt động họ vẫn chưa có sản phẩm xuất khẩu hoặc
xuất khẩu quá ít.
Sở dĩ các doanh nghiệp lúc đầu thường xác định tỷ lệ xuất khẩu cao như vậy là
vì họ muốn dự án nhanh chóng được chấp thuận vì SCCI thường chấp thuận những
dự án có tỷ lệ xuất khẩu cao vì hiệu quả kinh tế xã hội của các dự án lớn. Hơn nữa,
khi lập hồ sơ dự án các doanh nghiệp chưa nhận thức được rằng nếu họ không đẩy
mạnh xuất khẩu để thu ngoại tệ thì nguồn thu về ngoại tệ rất khó khăn.
Các cơ quan quản lý thiếu thông tin cho các doanh nghiệp, các văn bản hướng
dẫn chưa hoàn chỉnh dẫn đến nhiều doanh nghiệp tự coi mình là doanh nghiệp sản
xuất hàng thay thế nhập khẩuthì họ sẽ được bảo đảm nhu cầu ngoại tệ bằng cách:
mua ngoại tệ tại các ngân hàng thương mại hoặc thanh toán bằng hàng hoá có giá trị
tương đương.
Tuy nhiên, không phải ngân hàng nhà nước không có trách nhiệm gì trong vấn
đề này, trong một chừng mực nào đó việc quy định mở tài khoản tiền đồng Việt Nam
và ngoại tệ tại một ngân hàng tại Việt Nam phần nào đã ảnh hưởng đến việc thanh
toán của doanh nghiệp và thật ra nó cũng không hợp lý với một cơ chế thị trường
hoàn chỉnh.
Thêm vào đó là tỷ lệ kết hối thấp, tỷ giá tăng cao, nên các doanh nghiệp có
nguồn thu ngoại tệ đã nắm giữ ngoại tệ trên tài khoản của mình, không bán cho ngân
hàng, gây áp lực cho cung cầu ngoại tê. Các ngân hàng thương mại không mua được
ngoại tệ cho các doanh nghiệp nhập khẩu, đây cũng là nguyên nhân từ đầu năm đến
nay, NHNN phải bán ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại so với các năm trước
đây.
Rồi việc điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ trong thời gian qua như
tăng dự trữ ngoại tệ lên 8% đến 12% và 15%, tự do hoá lãi suất cho vay bằng ngoại
tệ, giảm tỷ lệ kết hối bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp từ 80% xuống 50%, hiện
nay còn 40%; giảm tỷ lệ lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân, chủ động can
thiệp tăng tỷ giá, thu hẹp biên độ mua bán ngoại tệ.
3.2 Nguyên nhân khách quan
Lĩnh vực đầu tư nước ngoài vẫn còn là khá mới mẻ đối với Việt Nam, cho nên
trong việc quản lý các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta còn nhiều
điều bất cập cũng là điều khó tránh khỏi. Trong đó quản lý ngoại hối lại càng là một
bài toán khó không chỉ đối với Việt Nam mà còn đối với nhiều nước có trình độ phát
triển kinh tế hơn hẳn Việt Nam.
Việc quản lý ngoại hối cũng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi những biến động bên
ngoài lãnh thổ Việt Nam. Như việc FED liên tục cắt giảm lãi suất 10 lần từ tháng
4/1994 đến nay để cứu vãn xu hướng suy thoái của nền kinh tế Mỹ, vào thời điểm
tháng 1/2001, xuống còn 6,5%/năm, xuống còn 2%/ năm vào thời điểm tháng 6/2001.
Hay nói cách khác, những thay đổi của nền kinh tế thế giới nói chung và những thay
đổi của thị trường ngoại hối thế giới nói riêng đều có ảnh hưởng ít nhiều đến chính
sách quản lý ngoại hối của Việt Nam. Trong khi đó, nước ta mở cửa với nền kinh tế
thế giới chưa lâu nên còn thiếu nhiều kinh nghiệm quản lý kinh tế trong môi trường
kinh tế có xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá, thiếu sự nhạy bén trước những
thay đổi của môi trướng kinh tế thế giới.
Trong điều kiện hệ thống ngân hàng còn rất non nớt, thiếu cả thiết bị cũng như
kỹ năng chuyên môn đồng thời các hoạt động kinh tế còn chưa có trật tự thì việc
quản lý chặt chẽ các hoạt động ngoại hối cũng là việc không dễ dàng chút nào. Khó
khăn đó càng tăng thêm khi chúng ta đang rất cần đến các dự án đầu tư nước ngoài để
phát triển kinh tế xã hội cho nên việc quản lý đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài còn phải bảo đảm yếu tố tạo sự thông thoáng cho hoạt động đầu tư.
Chương III
Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc quản lý ngoại hối của ngân
hàng nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1. Những định hướng cơ bản để hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối
Sở dĩ chúng ta đạt được những thành tựu kinh tế đáng kể trong những năm qua
là do đường lối mở cửa đúng đắn của Đảng và nhà nước ta kết hợp với sự nỗ lực của
toàn Đảng và toàn dân nhằm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng tụt hậu, từng bước rút
ngắn khoảng cách giữa Việt Nam và các nước trong khu vực.
Tiến hành đường lối mở cửa và chủ trương kếp hợp sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại chúng ta tiến hành thực hiện đầu tư nước ngoài mà những thành tựu đã
đạt được của Việt Nam đã góp phần không nhỏ bởi lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Trong bối cảnh quốc tế có nhiều thuận lợi như việc ký hiệp định thương mại
Việt-Mĩ, với xu thế liên kết toàn cầu hiện nay cộng với môi trường hấp dẫn của Việt
Nam chắc chắn trong thời gian tới, tình hình đầu tư nước ngoài còn tiến triển hơn
nhiều.
Với sự tiến triển thuận lợi đó, số lượng các dự án sẽ ngày một tăng, lượng vốn
đổ vào Việt Nam càng nhiều và do vậy nhiệm vụ của các nhà quản lý càng khó khăn
nặng nề mà riêng trong lĩnh vực ngân hàng vấn đề quản lý ngoại hối sẽ trở nên nhiều
bức xúc.
Để giải quyết những tồn tại hiện nay và quản lý một cách hữu hiệu hơn việc sử
dụng ngoại tệ của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ta cần thực hiện một số
biện pháp.
2. Những giải pháp cơ bản để thực hiện những định hướng trên:
2.1 Vấn đề quản lý luồng ngoại tệ ra, vào một quốc gia-vấn đề hết sức quan
trọng mà tương lai ngân hàng nhà nước phải quản lý được.
Trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài luồng vốn chuyển vào là vốn pháp định, vốn
vay còn vốn chuyển ra là vốn đầu tư đã góp và vốn tái đầu tư, lợi nhuận của bên nước
ngoài chuyển trả vốn vay.
a.Việc quản lý luồng vốn vào:
Để quản lý luồng vốn chuyển vào Việt Nam, chúng ta nên bắt buộc các doanh
nghiệp phải đăng ký lịch chuyển vốn vào và góp vốn pháp định với ngân hàng nhà
nước Việt Nam, uỷ ban nhà nước về hợp tác và đầu tư và ngân hàng thương mại nơi
doanh nghiệp mở tài khoản.
Hàng tháng các ngân hàng thương mại phải báo cáo cho ngân hàng nhà nước
về tình hình tài khoản của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài này. Nếu như
việc này được thực hiện, ta sẽ có những thuận lợi sau:
Thứ nhất: Căn cứ vào lịch chuyển vốn của mỗi năm, ngân hàng nhà nước sẽ
nắm được số vốn sẽ được chuyển vào trong nước trong từng năm theo kế hoạch.
Thứ hai: Theo chế độ báo cáo đều đặn của ngân hàng thương mại, ngân hàng
nhà nước sẽ nắm được tình hình việc chuyển vốn không được kiểm soát, qua hình
thức này làm cho ngân hàng thương mại có trách nhiệm hơn trong việc báo cáo hoạt
động chuyển vốn của họ đối với ngân hàng nhà nước.
Ta có thể tham khảo quy trình báo cáo như sau:
Một vấn đề nữa mà ta phải quan tâm đó là việc chuyển vốn vào băng máy móc
thiết bị. Như đã đề cập ở phần trên, sự tồn tại về vấn đề này xoay quanh việc xác định
giá trị máy móc thiết bị đưa vào. Việc góp vốn bằng máy móc thiết bị cũng thuộc lĩnh
vực quản lý ngoại hối bởi vì giá trị máy móc thiết bị thiếu chuyển vào sẽ liên quan
đến lượng ngoại tệ chuyển ra khỏi Việt Nam khi dự án kết thúc hoạt động. Do vậy,
biện pháp là phải giúp hai bên thống nhất được với nhau về giá trị của máy móc thiết
bị, mà công việc này uỷ ban kế hoạch nhà nước, bộ thương mại và bộ tài chính cần
phối hợp để giải quyết.
Theo thông tin mới đây của SCCI, SCCI đã tham khảo việc ký với một công
ty kiểm nghiệm của Thuỵ Sỹ (SGS) để giải quyết những tồn đọng trong việc xác định
giá trị của máy móc thiết bị thiếu chuyển vào. Theo hợp đồng này, SGS sẽ là trung
gian đứng ra xác định giá trị máy móc thiết bị của nước ngoài chuyển vào. Phía nước
Ngân hàng Nhà
nước
Doanh nghiệp có
vốn
ĐTNN
Ngân hàng Thương
mại
1
2
3
1 - Doanh nghiệp đăng kí lịch chuyển
vốn, xin phép chuyển vốn vào, ra với NHNN
2 - Doanh nghiệp đăng kí lịch chuyển
vốn, số vốn chuyển vào, ra với NHTM
3 - Hàng tháng, quý, NHTM báo cáo tình
hình việc chuyển vốn của các doanh nghiệp,
số vốn chuyển ra, chuyển vào.
ngoài khi chuyển máy móc thiết bị vào phải qua kiểm định của SGS, dựa trên giá trị
thực tế trên thị trường thế giới mà công ty sẽ cấp giấy chứng nhận giá trị máy móc
thiết bị của bên nước ngoài.
Nếu hợp đồng này được thực hiện thì vấn đề giá trị vốn góp bằng máy móc
thiết bị sẽ được giải quyết, phía Việt Nam không bị thiệt thòi còn phía nước ngoài
cũng sẽ được thoả mãn.
Ngân hàng nhà nước còn có một khó khăn do không nẵm được khi nào bên
nước ngoài đóng đủ vốn pháp định, điều này hết sức quan trọng vì nó cũng liên quan
đến quyền được chuyển vốn ra của doanh nghiệp sau này. Theo thông tư 06/TT-NH
của ngân hàng nhà nước Việt Nam: các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ
được chuyển vốn ra khỏi Việt Nam khi đã đóng đủ vốn pháp định. Như vậy, nếu
ngân hàng nhà nước không biét các doanh nghiệp đã đóng vốn pháp định hay chưa
thì họ không thể quyết định được. Tuy nhiên, các dự án đầu tư nước ngoài thường có
thời gian hoạt động tương đối dài nên đây là vấn đề lâu dài mà ngân hàng cần phải
giải quyết.
Có vốn chuyển vào ắt phải có vốn chuyển ra nhưng trong điều kiện quỹ ngoại
tệ của Việt Nam ta còn khan hiếm như hiện nay, tình hình cán cân thanh toán quốc tế
còn thâm hụt, chúng ta nên kiểm soát chặt chẽ luồng ngoại tệ chuyển ra. Mà để quản
lý được luồng ngoại tệ chuyển ra này, ngân hàng nhà nước nên buộc các doanh
nghiệp chuyển ngoại tệ ra khỏi Việt Nam phải báo cáo, xin phép cơ quan ngân hàng.
Việc xin giấy phép này có thể gây ra một số khó khăn nào đó cho doanh
nghiệp nhưng trong điều kiện nước ta thì nó là việc nên làm. Tuy có khó khăn nhưng
nó xoá đi được tình trạng tự do, không được kiểm soát và tình hình không có số liệu
của ngân hàng nhà nước hiện nay, tiến tới đưa ngân hàng nhà nước trở thành nơi nắm
chắc được số liệu vốn chuyển vào, chuyển ra khỏi Việt Nam trong từng tháng, quý.
b.Quản lý nguồn vốn ra:
Đây là vấn đề rất quan trọng trong quản lý ngoại hối vì nó ảnh hưởng rất lớn
đến việc cân đối cán cân thanh toán quốc tế. Ngân hàng nhà nước cần có chính sách
quản lý chặt chẽ việc chuyển vốn ra khỏi Việt Nam của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài như việc yêu cầu các doanh nghiệp này phải có kế hoạch chuyển vốn
và phải được ngân hàng nhà nước cho phép. Qua đó, ngân hàng nhà nước có thể nắm
rõ tình hình vận động của luồng vốn, từ đó có biện pháp chuẩn bị lượng ngoại hối đủ
để đảm bảo không gây ra sự khủng hoảng ngoại hối cho nền kinh tế, ảnh hưởng xấu
đến nền kinh tế nói chung.
2.2 Vấn đề mở tài khoản của doanh nghiệp:
a.Việc mở tài khoản tại các ngân hàng ở Việt Nam:
Đây là vấn đề hiện đang gây nhiều tranh cãi trong các ngân hàng thương mại
và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Các doanh nghiệp cho rằng việc quy định các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài chỉ được mở tài khoản tiền đồng và ngoại tệ như hiện nay là quá bất công
trong khi các doanh nghiệp trong nước được mở số lượng tài khoản không hạn chế.
Đồng thời việc quy định như hiện nay là phi lý, không phù hợp với cơ chế thị trường
mà ta đang theo đuổi.
Nguyên nhân của tình trạng này ở cả hai phía, cả nhà quản lý và người thực
hiện nhưng có thể nói lý do chính ở người thực hiện.
Họ kiến nghị rằng việc cho phép mở một tài khoản tiền Việt Nam và ngoại tệ
tại một ngân hàng Việt Nam đã dẫn đến những khó khăn của họ trong việc vay vốn là
không đúng bởi vì họ đã hiểu sai quan điểm của nhà nước hiểu sai văn bản hiện hành.
Ngân hàng nhà nước bắt buộc các doanh nghiệp chỉ được mở một tài khoản là nhằm
mục đích quản lý được việc sử dụng ngoại tệ của các doanh nghiệp chứ không phải
hạn chế việc vay vốn để đáp ứng nhu cầu về vốn hoạt động của các doanh nghiệp.
Tuy nhiên, không phải ngân hàng nhà nước không có trách nhiệm gì trong vấn
đề này, trong một chừng mực nào đó việc quy địng mở một tài khoản tiền đồng Việt
Nam và ngoại tệ tại một ngân hàng Việt Nam phần nào đã ảnh hưởng đến việc thanh
toán của doanh nghiệp và thật ra nó cũng không hợp lý với một cơ chế thị trường
hoàn chỉnh.
Nhưng trong điều kiện Việt Nam hiện nay khi chế độ báo cáo chưa vào quy
củ, khi tình hình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày một nhiều thì để quản lý tốt
được hoạt động của giao dịch vốn của các doanh nghiệp theo quy định hiện hành về
việc mở một tài khoản tiền đồng Việt Nam và ngoại tệ vẫn còn hợp lý. Nhưng để
giúp các doanh nghiệp nhận thức rõ hơn về vấn đề này thì ta nên tiến hành một số
việc như:
+Giải thích rõ cho các doanh nghiệp biết về quyền của doanh nghiệp được mở
nhiều hơn một tài khoản để phục vụ nhu cầu vay vốn của họ. Như vậy các doanh
nghiệp sẽ không bị vướng mắc trong viêc vay vốn đồng thời ngân hàng cũng không
phải chịu nhiều rủi ro trong cho vay vì doanh nghiệp chỉ được mở một tài khoản vốn
vay theo như họ hiểu.
+Tạo điều kiện cho việc quy định mở một tài khoản không ảnh hưởng đến
việc thanh toán của doanh nghiệp thì ngân hàng ở địa phương hiện tại không tham
gia hoạt động đối ngoại, điều này xuất phát từ tình hình khó khăn của doanh nghiệp
vì các doanh nghiệp này bắt buộc phải có thanh toán quốc tế.
Tuy nhiên đó cũng chỉ là những biện pháp tạm thời còn trong tương lai khi
chế độ báo cáo đã được triển khai, khi đồng Việt Nam đã trở thành đồng tiền tự do
chuyển đổi thì việc cho phép các doanh nghiệp mở nhiều hơn một tài khoản là điều
nên làm.
2.3 Quản lý việc mua bán ngoại tệ của các doanh nghiệp
Như đã đề cập ở những phần trên, hiện nay khó khăn và vấn đề nổi cộm nhất
trong hoạt động của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là sự mất cân bằng
giữa thu và chu ngoại tệ.
Tất cả các doanh nghiệp đều mới hoạt động và đa số các doanh nghiệp đều ghi
trong đơn xin thành lập doanh nghiệp là sản phẩm của họ làm ra dùng để xuất khẩu
do vậy họ sẽ có nguồn thu ngoại tệ khá lớn.
Nhưng trên thực tế trong những năm đầu này, các doanh nghiệp thường không
xuất khẩu được hoặc xuất khẩu ít. Trong khi nhu cầu chi ngoại tệ của họ lại lớn như
nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu, máy móc thiết bị, trả lương cho cán bộ công nhân
viên… mà đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại.
Từ những lý do trên ta thấy sự khủng hoảng ngoại tệ của các doanh nghiệp
này là tất yếu. Trong trường hợp như vậy ngân hàng nhà nước có để các doanh
nghiệp tự xoay xở hay không? Còn nếu ngân hàng trợ giúp thì họ trợ giúp bằng cách
nào trong điều kiện thiếu thốn ngoại tệ như hiện nay.
Do vậy ngân hàng nhà nước không thể làm ngơ trước tình hình trên vì không
thể để vì thiếu ngoại tệ mà để các xí nghiệp ngừng sản xuất dẫn đến đổ vỡ dự án và
ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam ảnh hưởng đến toàn bộ các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài. Có nhiều dự án mà nhu cầu ngoại tệ quá lớn so với điều kiện quỹ
ngoại tệ ít ỏi của Việt Nam như các dự án về sản xuất ôtô chẳng hạn.
Trong trường hợp đó ngân hàng nhà nước phải có biện pháp giải quyết gấp và
coi đây như một nhiệm vụ trước mắt.
Trên thực tế qua đợt khảo sát các dianh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của
ngân hàng nhà nước vừa qua thì các doanh nghiệp thiếu ngoại tệ đó là các doanh
nghiệp sử dụng nguyên liệu nhập ngoại.
Nhưng ngân hàng nhà nước giải quyết như thế nào? Trong điều kiện của ngân
hàng hiện nay, ta nên giải quyết theo những hướng sau:
-Ngân hàng nhà nước phải giải quyết có tính thời điểm nhu cầu ngoại tệ của
các doanh nghiệp, có thể không nhiều nhưng phải bảo đảm sản xuất. Ngân hàng nên
xem xét nhu cầu nào cấp bách thì giải quyết trước, chưa cấp bách thì giải quyết sau.
Những nhu cầu cấp bách đó là nhu cầu nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu cho sản xuất
những cái mà thiếu nó sản xuất ngừng trệ. Và ngân hàng cũng chỉ giải quyết những
nhu cầu trong từng quý, nửa năm và tối đa là một năm trong khi chính phủ quyết định
một giải pháp cho vấn đề này.
Chỉ ưu tiên những nhu cầu về nhập khẩu nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản
xuất kinh doanh và phụ tùng thay thế, còn nhu cầu ngoại tệ để trả nợ nước ngoài hoặc
để chuyển lợi nhuận ra nước ngoài của các nhà đầu tư thì doanh nghiệp phải tự cân
đối.
-Nhanh chóng phối hợp với uỷ ban kế hoạch nhà nước, bộ tài chính, bộ
thương mại để đưa ra một danh mục hàng thay thế nhập khẩu và công bố công khai
danh mục này trên phạm vi cả nước và đến tận tay của các nhà kinh doanh để tránh
tình trạng hiện nay ai cũng cho là mình sản xuất hàng thay thế nhập khẩu.
NHTM nên tổ chức thu thập, khai thác và xử lý thông tin về hoạt động của các
doanh nghiệp một cách hệ thống, mang lại hiệu quả thiết thực cho công tác thẩm
định, xét duyệt cho vay của ngân hàng. Trong đó, tăng cường quan hệ thông tin với
Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN. Đồng thời kết nối mạng thông tin với Sở kế
hoạch đầu tư, Cục thuế để có được các thông tin về tình hình doanh nghiệp tin cậy,
làm cơ sở đánh giá cho vay.
3. Những kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước nói riêng và đối với nhà nước
nói chung:
Để ngân hàng nhà nước thực hiện được tốt việc quản lý ngoại hối đối với các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, làm lành mạnh hơn môi trường đầu tư nước
ngoài của Việt Nam thì trong thời gian trước mắt chúng ta nên tiến hành một số bước
sau:
Thứ nhất: Ra văn bản quy định chế độ báo cáo thường xuyên của các ngân
hàng thương mại và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, hàng tháng hàng
quý các doanh nghiệp và ngân hàng thương mại phải báo cáo toàn bộ tình hình quản
lý ngoại hối như vốn chuyển vào, tình hình góp vốn pháp định, việc bán ngoại tệ cho
các xí nghiệp. Ngoài ra ngân hàng thương mại phải nghiêm túc chấp hành các quy
định về chuyển vốn cũng như mọi khoản khác liên quan đến vốn chuyển ra của
doanh nghiệp. Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản pháp luật
trong lĩnh vực quản lý ngoại hối, cố vấn cho chính phủ ra các văn bản quy phạm pháp
luật một cách khoa học và gắn với thực tiễn, đảm bảo tính thực thi cao. Ngân hàng
nhà nước theo dõi chặt chẽ tiến trình thực hiện góp vốn của đối tác nước ngoài trong
các dự án đầu tư, buộc các nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện đúng tiến độ đã đề
ra khi xin giấy phép đầu tư.
Thứ hai: Nhà nước phải hoàn chỉnh những văn bản hiện có để phù hợp với
tình hình mới như:
+Nhanh chóng phối hợp với các ngành liên quan để đưa ra một danh mục
hàng thay thế nhập khẩu đầy đủ, chính xác.
+Giải thích làm rõ hơn các văn bản hiện có.
Với việc thực hiện các biện pháp trên thì vấn đề căng thẳng trong quản lý
ngoại hối trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài hiện nay sẽ phần nào được giải quyết.
Kết luận
Chính sách quản lý ngoại hối nói chung và chính sách quản lý ngoại hối trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng là vấn đề cấp bách hiện nay mà
ngân hàng nhà nước đang tập trung để sửa đổi và hoàn thiện
Tuy nhiên để hoàn thiện được nó chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều bởi vì
đầu tư nước ngoài là lĩnh vực khá mới mẻ đối với Việt Nam, kinh nghiệm về quản lý
ngoại hối của ta còn quá ít. Do vậy trong thời gian tới chúng ta phải không ngừng
nâng cao tầm hiểu biết, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước trong khu vực có điều
kiện tương đối giống ta để đạt được một chính sách quản lý ngoại hối hữu hiệu nhất.
Trên cơ sở sử dụng các phương pháp nghiên cứu, đề án nghiên cứu về chính
sách quản lý ngoại hối trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã đạt được
một số kết quả sau:
Hệ thống hoá được một số vấn đề cơ bản trong quản lý ngoại hối nói chung và
quản lý ngoại hối trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nói riêng,
những vấn đề cơ bản về lĩnh vực đầu tư nước ngoài.
Phân tích thực trạng của công tác quản lý ngoại hối trong các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay, đề án đưa ra những ưu điểm, những
hạn chế và những nguyên nhân của các tồn tại.
Đưa ra một số kiến nghị nhằm giải quyết những vướng mắc hiện nay và những
kiến nghị có tính lâu dài nhằm nâng cao hiệu quả quản lý của ngân hàng nhà
nước.
Những kiến nghị và giải pháp mà đề án đưa ra nhằm đóng góp để giải quyết
phần nào những vướng mắc hiện nay trong lĩnh vực quản lý ngoại hối đối với các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Mục Lục
Lời nói đầu
Chương I:
Lý luận cơ bản về chính sách quản lý ngoại hối
và vai trò của đầu tư nước ngoài.
1.Chính sách quản lý ngoại hối
1.1. Ngoại hối
1.2. Chính sách quản lý ngoại hối
2. Vai trò của vốn đầu tư nước ngoài
2.1. Sự cần thiết phảo thu hút vốn đầu tư nước ngoài
2.2. Tình hình đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và những tác dụng mà đầu tư
nước ngoài mang lại
Chương II:
Thực trạng chính sách và tình hình quản lý ngoại hối
đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
ở Việt Nam hiện nay
1. Thực trạng đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
2. Thực trạng chính sách quản lý ngoại hối đối với các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
a.Vấn đề mở tài khoản
b.Về chuyển vốn vào Việt Nam
c.Vấn đề chuyển vốn ra khỏi Việt Nam
d.Vấn đề tỷ giá
3.Nguyên nhân của những tồn tại
3.1Nguyên nhân chủ quan
3.2Nguyên nhân khách quan
Chương III:
Kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện hơn chính sách
quản lý ngoại hối đối với các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam hiện nay
1. Những định hướng cơ bản để hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối
2. Những giải pháp để thực hiện những định hướng cơ bản trên
2.1. Về mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ
2.2. Quản lý nguồn vốn
a.Luồng vốn vào
b.Luồng vốn ra
2.3. Quản lý việc mua bán ngoại tệ của các doanh nghiệp
4. Những kiến nghị đối với ngân hàng nhà nước nói riêng và nhà nước nói
chung
Kết luận
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo thường niên ngân hàng nhà nước
2. Báo đầu tư kinh tế
3. Cẩm nang thị trường ngoại hối - Học viện Ngân hàng
4. Tạp chí ngân hàng
5. Thời báo ngân hàng
6. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính - Frederic Hishkin
7. Thời báo kinh tế
8. Thông tư số 33/NH-TT ngày 15.3.1989 của ngân hàng nhà nước Việt Nam
hướng dẫn thi hành điều lệ quản lý ngoại hối của nước CHXHCNVN
9. Thông tư số 222/NH-TT ngày 20.10.1990 của ngân hàng nhà nước hướng
dẫn thi hành chỉ thị 330-CT về việc tăng cường quản lý ngoại hối
10. Thông tư số 203/NH-TT ngày 31.10.1991 của ngân hàng nhà nước hướng
dẫn thi hành quyết định số 337-HĐBT ngày 25.10.1991 của Hội đồng bộ
trưởng về một số biện pháp quản lý ngoại hối trong thời gian trước mắt
11. Thông tư số 7-TT/NH7 ngày 26.3.1991 của thống đốc ngân hàng nhà nước
Việt Nam hướng dẫn việc quản lý vay và trả nợ nước ngoài của các doanh
nghiệp
12. Quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước só 468/2000/QĐ-NHNN7
ngày 8.11.2000 về việc bán ngoại tệ cho doanh nghiệp hợp tác kinh doanh
13. Báo cáo của ngân hàng nhà nước Việt Nam số 336/CV-NH7 ngày
29.4.1997 về tình hình chuyển đổi ngoại tệ của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài
14. Công văn của ngân hàng nhà nước Việt Nam số 585/CV-NHNN7 ngày
6.7.1998 về việc hướng dẫn bán ngoại tệ cho các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài và bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh
15. Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng Trung Ương - Học viện Ngân hàng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72182_6437.pdf