Theo đà phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, các doanh 
nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh thị trượng cần phải tập trung đầu tư theo 
chiều sâu là chính. Về lâu dài giải quyết các mục tiêu: chất lượng sản phẩm, giảm 
giá, tăng khối lượng sản phẩm,. Để thực hiện việc đó họ cần một số vốn rất lớn và 
lớn hơn nhiều lần so với vốn nằm trong ngân quỹ phát triển sản xuất.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 34 trang
34 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4139 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong cơ chế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y cũng thế, thoạt tiên Mác nghiên cứu giá trị 
thặng dư mà không đả động gì đến các hình thái của nó, Mác chỉ giải thích thực 
chất của giá trị thặng dư, xét xem nó được sản xuất như thế nào và ai sản xuất nó. 
Chỉ sau khi nghiên cứu như thế, Mác mới chuyển sang nghiên cứu hình thái của nó 
tức là nghiên cứu lợi nhuận. Nhưng lúc này phạm vi sản xuất sang một bên và 
chuyển sang phạm vi lưu thông, vì giá trị thặng dư chỉ chuyển hoá thành lợi nhuận 
trong lưu thông. Như vậy, Mác đã chỉ ra rằng: giá trị thặng dư biểu hiện thực chất 
của phương thức sản xuất TBCN. Còn lợi nhuận là một trong những “hình thái cụ 
thể” mà dưới hình thái đó tư bản hiện ra ở bề mặt của xã hội. 
3. Tỷ suất lợi nhuận. 
Đối với người chủ xí nghiệp thì mức lãi của xí nghiệp TBCN cao hay thấp là do 
tỷ suất lợi nhuận quyết định. Tỷ suất lợi nhuận là biểu hiện tỷ số giữa giá trị thặng dư 
và tổng tư bản (P’ = m/k.100%). Ví dụ: nếu tư bản ứng trước là 20.000$, nếu lợi 
nhuận hàng năm là 40.000$ thì tỷ suất lợi nhuận là 40.000/20.000.100% = 20%. 
Sự chuyển hoá giá trị thặng dư thành lợi nhuận được hoàn thành ở sự chuyển 
hoá tỷ suất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận. Sự chuyển hoá giá trị thặng dư 
thành lợi nhuận đã nằm trong việc chia giá trị của hàng hoá thành chi phí sản xuất 
kinh tế tăng thêm ngoài chi phí sản xuất, nhưng sự chuyển hoá đó được biểu hiện 
một cách độc lập và đặc thù trong tỷ suất lợi nhuận. Tỷ suất lợi nhuận biểu hiện tỷ 
số giữa số tăng thêm nói trên với tổng tư bản. Do đó, nó củng cố ấn tượng cho rằng 
lợi nhuận là “con để” của tư bản. 
Dưới chế độ TBCN, mức độ bóc lột lao động của người khác mang hình thức 
tăng giá trị, biểu hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư, như vậy sẽ không tránh khỏi việc 
phải chuyển tỷ suất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận bởi vì cả bản thân giá trị 
lẫn mức tăng giá trị đều chỉ có thể hiện trong lưu thông. Nhưng trong lưu thông còn 
có sự khác nhau giữa tư bản khả biến và tư bản bất biết, giá trị của hàng hoá chia ra 
thành chi phí sản xuất và số tăng thêm ngoài chi phí sản xuất. Do đó trong biểu thức 
về mức độ, bóc lột tỷ số giữa giá trị thặng dư với tư bản khả biến (m/v), đã chứa 
đựng sự chuyển hoá tỷ số ấy thành tỷ số giữa giá trị thặng dư với tổng tư bản 
(m/(c+v)) hay (m/k) trên thực tế, các nhà tư bản không chỉ quan tâm đến lợi nhuận 
mà còn quan tâm nhiều hơn đến tỷ suất lợi nhuận. Bởi vì tỷ suất lợi nhuận cho biết 
nhà tư bản đầu tư vào đâu thì có lợi. Đối với nhà tư bản nếu P’=100% thì đầu tư 
khắp nơi, nếu P’=200% thì sẽ bất chấp cả pháp luật và còn nếu P’=300% thì treo cổ 
nhà tư bản vẫn cứ làm. 
Do đó, tỷ suất lợi nhuận không chỉ là mục tiêu theo đuổi mà còn là động lực 
chính, là yếu tố để cạnh tranh, là sự thèm khát vô hạn. Trên thực tế thì tỷ suất lợi 
nhuận cao hay thấp tuỳ thuộc vào nhiều nhân tố khách quan như tỷ suất giá trị thặng 
dư, tiết kiệm tư bản bất biến, cấu tạo hữu cơ, tốc độ chu chuyển,... Bởi thế, các nhà 
tư bản đầu tư vào Việt Nam đang tập trung vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận 
cao, thu lợi nhuận nhanh như chủ nghĩa khai thác, du lịch. 
4. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. 
Trong cuộc đấu tranh giành chỗ đầu tư có lợi nhất, các nhà tư bản cạnh tranh 
với nhau kịch liệt. Họ muốn đầu tư vào những ngành sản xuất có triển vọng thu 
được nhiều lợi nhuận hơn trong khi theo đuổi lợi nhuận cao, tư bản chuyển từ ngành 
này sang ngành khác, kết quả là hình thành nên tỷ suất lợi nhuận bình quân và tiến 
hành phân phối lao động và tư bản sản xuất giữa các ngành sản xuất TBCN. 
Giả sử trong xã hội có ba ngành: Ngành da, ngành dệt và ngành chế tạo máy 
móc, với số tư bản bằng nhau, nhưng cấu tạo hữu cơ thì khác nhau. Tư bản ứng 
trước trong mỗi ngành ấy là 100 đơn vị (thí dụ là 100 triệu đồng đôla). tư bản của 
ngành da gồm 70 đơn vị là tư bản bất biến và 30 đơn vị là tư bản khả biến; tư bản 
của ngành dệt gồm có 80 đơn vị là tư bản bất biến và 20 đơn vị là tư bản khả biến; 
và tư bản của ngành chế tạo máy móc gồm có 90 đơn vị là tư bản bất biến và 10 đơn 
vị là tư bản khả biến. Giả sử tỷ suất giá trị thặng dư trong cả ba ngành đều như 
nhau: 100%. Như thế thì giá trị thặng dư tạo ra trong ngành da sẽ là 30 đơn vị, trong 
ngành dệt là 20 và trong ngành chế tạo máy móc là 10. Giá trị của hàng hoá trong 
ngành thứ nhất sẽ là 130, trong ngành thứ hai là 120, trong ngành thứ ba là 110, và 
trong toàn bộ cả ba ngành là 360 đơn vị. 
Nếu hàng hoá bán ra theo giá trị của nó, thì tỷ suất lợi nhuận trong ngành da sẽ 
là 30% ((30/100).100), trong ngành dệt là 20% ((20/100).100), trong ngành chế tạo 
máy móc là 10% ((10/100).100). Phân phối lợi nhuận như thế thì sẽ rất có lợi đối 
với các nhà tư bản thuộc ngành da, nhưng không có lợi đối với các nhà tư bản thuộc 
ngành chế tạo máy móc. Khi ấy thì các chủ xí nghiệp ngành chế tạo máy móc sẽ đi 
tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Và họ sẽ thấy ngành da là nơi có lợi hơn cả. Thế là họ 
chuyển tư bản ở ngành chế tạo máy móc sang ngành da. Kết quả là số lượng hàng 
hoá sản xuất ra trong ngành da sẽ tăng lên, sự cạnh tranh tất nhiên sẽ sâu sắc thêm 
và sẽ bắt buộc các chủ xí nghiệp của ngành này phải giảm giá hàng hoá của họ 
xuống, điều đó sẽ đi đến chỗ hạ thấp tỷ suất lợi nhuận. Trái lại, trong ngành chế tạo 
máy móc, số lượng hàng hoá sản xuất ra sẽ ít đi, và sự thay đổi tương quan giữa 
cung và cầu sẽ giúp cho các chủ xí nghiệp nâng cao được giá hàng của họ lên và do 
đó tỷ suất lợi nhuận cũng tăng lên. 
Tình trạng sụt giá trong ngành da và lên giá trong ngành chế tạo máy móc, sẽ 
tiếp diễn cho đến khi nào tỷ suất lợi nhuận trong cả ba ngành xấp xỉ bằng nhau mới 
thôi. Điều đó sẽ xảy ra khi mà hàng hoá của cả ba ngành đểu bán theo giá 120 đơn 
vị (130 + 120 + 110)/3. 
Lợi nhuận bình quân của mỗi ngành, trong những điều kiện ấy, sẽ là 20 đơn vị. 
Lợi nhuận bình quân là một lợi nhuận bằng nhau của những số tư bản bằng nhau bỏ 
vào các ngành sản xuất khác nhau. 
Việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và việc biến giá trị thành giá cả sản xuất 
càng che dấu thêm quan hệ bóc lột, càng che dấu thêm nguồn gốc làm giàu thực sự 
của bọn tư bản. Thực ra thì sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân có nghĩa là 
phân phối lại giá trị thặng dư giữa các nhà tư bản trong các ngành sản xuất khác 
nhau. Nhà tư bản thuộc ngành có cấu tạo hữu cơ tư bản cao, chiếm đoạt được một 
phần giá trị thặng dư do các ngành có cấu tạo hữu cơ tư bản thấp sáng tạo ra. Bởi 
vậy, công nhân không những bị nhà tư bản thuê mình bóc lột, mà còn bị toàn bộ giai 
cấp các nhà tư bản bóc lột. Toàn bộ giai cấp các nhà tư bản đều quan tâm đến việc 
nâng cao mức độ bóc lột công nhân, vì điều đó làm tăng thêm tỷ suất lợi nhuận bình 
quân. Như Mác đã vạch rõ, tỷ suất lợi nhuận bình quân thay đổi tuỳ theo mức độ 
bóc lột của toàn bộ tư bản đối với toàn bộ lao động. 
III. Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về 
lợi nhuận. 
1. Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận. 
Các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng: lợi nhuận là lượng dôi ra của doanh thu 
so với chi phí. Trong đó, doanh thu của một hãng là số tiền mà nó kiếm được qua 
việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ trong một giai đoạn nhất định, ví dụ như một năm. 
Chi phí của hãng là những phí tổn phải chịu khi sản xuất ra hàng hoá hoặc dịch vụ 
trong thời kỳ đó. 
Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của doanh 
nghiệp. Để cung cấp hàng hoá cho thị trường, các nhà sản xuất phải bỏ tiền vốn 
trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Họ mong muốn chi phí cho các đầu vào 
thấp nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi các chi phí còn số dư 
dôi ra không chỉ sản xuất giản đơn mà còn tái sản xuất mở rộng, không ngừng tích 
luỹ phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường vị trí của mình trên thị trường. 
+ Ngày nay, để thu được nhiều lợi nhuận, nhà tư bản sẽ không đầu tư nhiều 
vốn để thuê lao động mà đầu tư vào máy móc hiện đại, tự động khi mà lợi nhuận 
thu được phải tương xứng với lợi nhuận bình quân xã hội, mặc dù giá trị được tạo ra 
trong đó có giá trị thặng dư nhỏ hơn nhiều so với giá trị của hàng hoá. Vì vậy lợi 
nhuận nhà tư bản thu được trong điều kiện tiến bộ kỹ thuật, tự động hoá là do sự 
chuyển hoá giá trị thặng dư được tạo ra trong xã hội dưới hình thức giá trị thặng dư 
siêu ngạch được sau đi bù lại giữa các nhà tư bản. 
Việc áp dụng rộng rãi máy móc hiện đại, tự động trong điều kiện ngày nay đã 
khiến không ít người đặt câu hỏi rằng: “phải chăng trong các dây chuyền sản xuất tự 
động đó không còn bóc lột tư bản và chính máy móc đã sáng tạo ra lợi nhuận?”. 
2. Lý luận về máy móc tạo ra lợi nhuận. 
Trước hết, ta cần khẳng định rằng, máy móc và hệ thống máy móc dù có tinh 
vi, hiện đại đến đâu cũng chỉ là sản phẩm lao động của con người. Con người không 
thể chế tạo được một động cơ vĩnh cữu. Trong dây chuyền sản xuất tự động, giá trị 
thặng dư được tạo ra không chỉ là sản phẩm của lao động quá khứ mà vẫn cần tới 
lao động hiện tại. Mác viết rằng: “lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu với tư 
cách là lao động được nhập vào quá trình sản xuất nữa, mà là chủ yếu với tư cách là 
một loại lao động trong đó con người ngày càng đứng sang bên cạnh với chức năng 
giám sát, điều khiển, sáng tạo mà máy móc không làm nổi”. 
Lợi nhuận siêu ngạch mà nhà tư bản thu được khi áp dụng máy móc hiện đại 
hơn so với các nhà tư bản khác chẳng qua chỉ là sự phân phối lại giá trị thặng dư sẵn 
có trên phạm vi toàn xã hội. Do áp dụng máy móc hiện đại nên lao động ở đây có 
năng suất cao hơn thì giá thành sản phẩm sẽ thấp hơn. Song trên thị trường giá bán 
hàng hoá cùng loại vẫn theo giá thị trường nên nhà tư bản có máy móc hiện đại hơn 
sẽ thu được nhiều lợi nhuận siêu ngạch hơn. Thực tế, trên quy mô thị trường thế 
giới, các nhà tư bản phát triển sản xuất bằng máy móc hiện đại và đem bán hàng 
hoá tại các nước kinh tế chậm phát triển đã thu được lợi nhuận khổng lồ khó có thể 
hình dung được. Lượng lợi nhuận siêu ngạch mà một nhà tư bản thu được là do 
phần lợi nhuận của các nhà tư bản khác mất đi mà thôi. Nếu mọi cơ sở sản xuất đều 
trang bị máy móc hiện đại như nhau thì hiện tượng lợi nhuận siêu ngạch sẽ biến mất 
và người tiêu dùng được lợi vì giá cả hàng hoá được hạ thấp. Nhưng chỉ khi cần một 
nhà tư bản nào đó áp dụng máy móc hiện đại hơn và thu được lợi nhuận siêu ngạch 
thì lập tức dẫn đến sự cạnh tranh để rồi sớm hay muộn sẽ làm triệt tiêu lợi thế cá 
biệt, triệt tiêu lợi nhuận siêu ngạch. 
Tóm lại, nguồn gốc của lợi nhuận cũng như lợi nhuận siêu ngạch là từ giá trị 
thặng dư - muốn lao động không công do công nhân sáng tạo ra và bị nhà tư bản 
chiếm đoạt - đúng như Mác đã khẳng định và chứng minh. 
IV- Các hình thức của lợi nhuận. 
Như ta đã biết, giá trị thặng dư lợi nhuận không hoàn toàn đồng nhất nhưng 
chúng đều có chung nguồn gốc từ lao động thặng dư. Giá trị thặng dư là phần giá trị 
mà nhà tư bản bóc lột không công của người côn nhân còn lợi nhuận là số tiền thu 
được sau khi bán sản phẩm trên thị trường so với số tiền bỏ vào sản xuất. Có thể 
nói, chính giá trị thặng dư biểu hiện sự bóc lột sản xuất, chứng minh công thức, mâu 
thuẫn của tư bản một cách chính xác và khoa học. Trước Mác, các nhà kinh tế học 
đã hình dung ra giá trị thặng dư nhưng họ chưa có đủ lý luận để diễn đạt mà chỉ 
biểu hiện quan điểm của mình trong vấn đề thu nhập, tiền lương. Chỉ đến Mác, ông 
mới chứng minh xây dựng lý thuyết giá trị thặng dư là phát minh vĩ đại của mác mà 
như Lênin nói là “hòn đá tảng” trong học thuyết kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta phải 
hiểu rằng Mác không phải là người phát minh ra giá trị thặng dư, càng không phải 
là người làm ra nó: chính người tìm ra giá trị thặng dư là nhà tư bản và người lao 
động thặng dư là công nhân giá trị thặng dư rất rõ ràng nhưng nó được che dấu bởi 
lợi nhuận và nó tồn tại trong xã hội tư bản bởi các hình thái sau: 
1. Lợi nhuận công nghiệp: 
Về bản chất là phần giá trị do công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm không và 
phần giá trị này bán trên thị trường thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí 
sản xuất. Ngày lao động của công nhân (giả sử là 8h) được chia ra làm hai phần: 
một phần làm ra giá trị tương đương với số tiền lương của anh ta và làm ra giá trị 
thặng dư. Vì thèm muốn lợi nhuận nên nhà tư bản công nghiệp luôn tìm cách tăng 
phần thời gian lao động thặng dư như tăng giờ làm, tăng năng suất lao động (giảm 
thời gian lao động tất yếu). Thời gian lao động thặng dư càng nhiều thì càng thuộc 
về nhà tư bản và sẽ thu được lợi nhuận càng cao. Như vậy, lợi nhuận công nghiệp là 
hình thái gần nhất, dễ thấy nhất với giá trị thặng dư và lợi nhuận công nghiệp là 
động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất. 
2. Lợi nhuận thương nghiệp. 
Trong lưu thông, trao đổi không tạo ra giá trị nhưng nhà tư bản thương nghiệp 
làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, làm cho hàng hoá được bán đi nhanh hơn. Tư 
bản thương nghiệp thực hiện khâu tiêu thụ cho tư bản công nghiệp. Vì thế, họ phải 
thu được một phần lợi nhuận mà nhà tư bản thương nghiệp chiếm được. Về thực 
chất, lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong 
lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. 
Sở dĩ nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần giá 
trị thặng dư trong lúc họ luôn khao khát, thèm muốn nó là bởi vì: Nhà tư bản 
thương nghiệp rất am hiểu thị trường, khách hàng do đó giúp cho hàng hoá bán đi 
nhanh hơn, tốc độ chu chuyển nhanh hơn nên nhà tư bản công nghiệp rảnh tay để 
sản xuất. Do có vai trò quan trọng như vậy, nhà tư bản công nghiệp phải nhường 
một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp. Lợi nhuận thương nghiệp 
là sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hoá. Điều đó không có nghĩa là nhà 
tư bản thương nghiệp bán giá cao hơn giá trị mà là họ mua hàng hoá thấp hơn giá trị 
và khi bán thì bán đúng giá trị. 
3. Lợi tức cho vay. 
Nhà tư bản muốn hoạt động nhưng bản thân họ không đủ vốn hoặc không có 
vốn nên họ phải đi vay để làm vốn đem vào sản xuất. Một số nhà tư bản có tiền 
nhưng chưa đến chu kỳ sử dụng hoặc chưa sử dụng nên họ cho vay và nhận được 
một khoản tiền ứng với số tiền cho vay từ tay nhà tư bản đi vay, gọi là lợi tức. Lợi 
tức cho vay là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà 
tư bản cho vay ứng với món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi 
vay, lợi tức cao hay thấp còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như sự cấp thiết, hoàn cảnh 
lịch sử, sự thoả thuận giữa các nhà tư bản,... đối với tư bản thì tiền không thể chết 
trong két sắt mà nó đẻ ra liên tục. 
4. Lợi nhuận ngân hàng. 
Ngân hàng là cơ quan kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người đi vay và 
người cho vay. Tuy nhiên, tư bản ngân hàng khác tư bản cho vay ở chỗ: tư bản ngân 
hàng là tư bản hoạt động, ngoài nguồn vốn nhàn rỗi còn có các hứng khoán,... Ngân 
hàng tham gia vào sản xuất với tư bản và cả hai bên chi phí liên quan đến nhau cùng 
chia lợi nhuận. Lợi nhuận ngân hàng là phần lợi nhuận thu được ứng với số tiền mà 
ngân hàng chung vốn với nhà tư bản tham gia sản xuất. Ngân hàng có vai trò đặc 
biệt quan trọng đối với nhà sản xuất. Một đất nước có phát triển thì hệ thống ngân 
hàng phải phát triển bởi vì vai trò của ngân hàng trong cơ chế thị trường là yếu tố 
đặc biệt quan trọng. 
5. Địa tô: 
Tư bản không chỉ hình thành và thống trị trong lĩnh vực công nghiệp mà còn 
mở rộng cả trong nông nghiệp. Địa chủ có nhiều ruộng đất còn nhà tư bản cần 
ruộng để kinh doanh. Nhà tư bản kinh doanh ruộng đất phải thu thêm một phần giá 
trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận 
siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và nhà tư bản phải trả cho chủ ruộng 
đất dưới hình thái địa tô TBCN. Như vậy, địa tô TBCN là một phần giá trị thặng dư 
còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh 
ruộng đất. 
phần II 
Vai trò của lợi nhuận 
trong nền kinh tế thị trường 
I. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. 
1. Lợi nhuận là động lực trong nền kinh tế thị trường. 
Con người bao giờ cũng đứng ở vị trí trung tâm, là nhân tố hàng đầu và quyết 
định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đã là con người thì nhu cầu và hành động 
của họ trước hết là nhằm thoả mãn các nhu cầu của mình. Vì vậy, động lực của sự 
phát triển là nhu cầu của mỗi thành viên trong xã hội. 
Xét về mặt kinh tế, động lực chính là nhu cầu vật chất, lợi ích vật chất của con 
người, trong đó quyền sở hữu và quyền hưởng thụ là những khía cạnh khác nhau 
của lợi ích. 
Khi đã thừa nhận đặt con người vào vị trí trung tâm thì vấn đề cốt lõi là phải 
đảm bảo lợi ích cá nhân, thoả mãn các nhu cầu chính đáng và ngày càng tăng của 
mỗi cá nhân, coi đó là động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói 
chung. 
Trong nền kinh tế thị trường, cái mà nhà sản xuất kinh doanh quan tâm trước 
hết là lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh được thể hiện chủ yếu ở lợi nhuận 
nhiều hay ít. Lợi nhuận là nhân tố chênh lệch giữa doanh thu bán hàng với phí tổn 
sản xuất. 
Trong lịch sử có nhiều nhà kinh tế quan niệm rằng lợi nhuận chính là sự trả 
công cho những ai dám “mạo hiểm” vay vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh và 
dám chấp nhận rủi ro, thậm chí phá sản. Để đạt được lợi nhuận tất yếu các nhà sản 
xuất kinh doanh phải cạnh tranh mạnh mẽ với nhau, tìm mọi cách giảm chi phí để 
thu lợi nhuận cao nhất. Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là động lực 
chi phối hoạt động của người sản xuất kinh doanh. 
a. Lợi nhuận phân bổ các nguồn lực của xã hội vào đúng nơi, đúng lúc. 
Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu thị trường 
và xã hội để đạt lợi nhuận tối đa, đạt hiệu quả kinh tế và xã hội cao nhất. Trong cơ 
chế thị trường, doanh nghiệp luôn bị thị trường thẩm phán về lợi nhuận. Nếu doanh 
nghiệp làm ăn có lãi thì một phần lợi nhuận thu được sẽ đi vào tích luỹ để doanh 
nghiệp tiếp tục tái sản xuất mở rộng. Lợi nhuận doanh nghiệp thu được trên thị 
trường sẽ trả lời câu hỏi: có nên tiếpt ục sản xuất hay không? sản xuất cái gì? đổi 
mới cái gì?... Không còn nữa và sẽ không còn một doanh nghiệp kinh doanh vẫn 
tiếp tục sản xuất khi mặt hàng đó không thu được lợi nhuận. Như vậy lợi nhuận sẽ 
điều hướng các yếu tố sản xuất nhằm phân bổ sản xuất hàng ngàn mặt hàng khác 
nhau cho phù hợp với nhu cầu. Không một bộ máy thứ hai nào, dù tài giỏi đến đâu 
có thể giải quyết tốt đẹp vấn đề này. Cơ chế giá cả và lợi nhuận tự do sẽ tối đa hoá 
sản xuất và làm giảm tình hình khan hiếm nhanh chóng hơn bất cứ một cơ chế nào. 
b. Lợi nhuận là nhân tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất. 
Doanh nghiệp cũng như các nhà kinh tế phải cố gắng hết sức để đạt được lợi 
nhuận tối đa. Họ phải làm gì? phải lựa chọn cái nào? sản xuất ra sao?,... Đó là một 
vấn đề rất khó trả lời một cách cụ thể nhưng chắc chắn rằng nếu sản xuất không có 
lãi doanh nghiệp sẽ bị loại khỏi thị trường. Trên thương trường, các doanh nghiệp 
luôn luôn phải tiến lên nếu dừng lại đồng nghĩa với nguy cơ phá sản đang tiến đến. 
Vì vậy, các ông chủ phải làm mọi cách để doanh nghiệp ngày càng mở rộng, phải 
làm cho lợi nhuận đẻ ra lợi nhuận thì mới có điều kiện phát triển trong môi trường 
gay go quyết định lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải tìm ra phương pháp sản 
xuất tối ưu nhất, giảm tối thiểu mức chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động để 
giảm giá thành sản phẩm, giành thắng lợi trong cạnh tranh, thu được nhiều lợi 
nhuận. Do vậy, khoa học và công nghệ mới tiên tiến được ứng dụng ngày càng 
nhiều. Đây chính là nhân tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội. 
c. Lợi nhuận góp phần nâng cao mức sống cho nhân dân. 
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà sản xuất kinh doanh ngoài phần thu nhập 
là tiền lương, còn khoản thu nhập khác, đó là lợi nhuận và phần này ngày càng tăng 
lên, chiếm ưu thế trong tổng thu nhập. Tổng thu nhập là mỗi người lao động nói 
chung, mỗi nhà sản xuất kinh doanh nói riêng có được vừa phản ánh kết quả lao 
động của mỗi người, vừa phản ánh kết quả lao động của tập thể với tư cách là một 
chỉnh thể. Để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế cần phải phát huy tối đa sức 
sáng tạo của các nhà sản xuất kinh doanh giỏi và thạo với cơ chế thị trường. Muốn 
vậy, cần không ngừng nâng cao thu nhập (trong đó có lợi nhuận) của họ. 
Thực tế cho thấy đời sống của người công nhân ở các nước tư bản phát triển 
đã được cải thiện nhiều hơn thời Mác sống. ở những nước này, lực lượng sản xuất 
rất được quan tâm, thúc đẩy góp phần tăng năng suất lao động xã hội. Do đó, giá cả 
tư liệu sinh hoạt giảm xuống. Với đồng lương cố định, người công nhân có thể mua 
được nhiều vật phẩm tiêu dùng hơn, do đó đời sống của họ được cải thiện hơn. 
Ngoài ra do khối lượng thặng dư thu được quá lớn, với tốc độ nhanh để tránh sự 
phản ứng của người lao động và quần chúng nhân dân, và để che đậy sự bóc lột tàn 
bạo ấy, các nhà tư bản cũng phải bỏ ra một phần giá trị thặng dư thu được để lo cho 
đời sống dân sinh xã hội. 
Như vậy, lợi nhuận góp phần nâng cao mức sống cho người dân phải hăng say 
lao động, nâng cao hiệu quả công việc hơn nữa hay nói cách khác đây chính là điều 
kiện để tái sản xuất ra sức lao động trong điều kiện nền sản xuất hiện đại. 
d. Lợi nhuận tạo điều kiện tái sản xuất mở rộng cho xã hội. 
Vì mục đích lợi nhuận các nhà tư bản không ngừng phát triển sản xuất, nâng 
cao năng suất lao động, tạo ra sản phẩm ngày càng nhiều. Đồng thời, phân công lao 
động ngày càng sâu, mối liên hệ giữa các xí nghiệp, các ngành kinh tế càng chặt chẽ 
thì thị trường càng phát triển, các nhà tư bản phải mua bán với nhau nhiều hơn. Bên 
cạnh đó, tầng lớp nhân dân cũng cần nhiều tư liệu tiêu dùng hơn. Do đó, hàng hoá 
sản xuất ra có thể tiêu thụ được, lợi nhuận vì vậy cũng thu được nhiều hơn. Và một 
phần lợi nhuận đó được các nhà tư bản mang vào tích luỹ để tái sản xuất mở rộng 
nhằm lần sau thu được lợi nhuận nhiều hơn lần trước. Do vậy, lợi nhuận tạo điều 
kiện để mở rộng sản xuất là động lực thúc đẩy xã hội phát triển. 
Như vậy, lợi nhuận kích thích các chủ thể kinh tế, kích thích họ tìm tòi, cải 
tiến phương thức sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất. Đồng thời nền kinh tế thị 
trường phát triển cũng huy động được nguồn lực của xã hội và phát triển kinh tế để 
thu được nhiều lợi nhuận. Do vậy, có thể nói lợi nhuận chính là động lực của nền 
kinh tế thị trường. 
2. Các nhân tố ảnh hưởng và quyết định đến lợi nhuận. 
Trên đây ta đã thấy được tầm quan trọng của lợi nhuận như thế nào rồi. Bây 
giờ ta xem xét các yếu tố nào ảnh hưởng đến lợi nhuận. 
a - Quy mô sản xuất hàng hoá dịch vụ: 
Một doanh nghiệp muốn thu được lợi nhuận thì phải giải quyết được ba vấn đề 
kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? 
+ Sản xuất cái gì tức là quyết định cái gì đòi hỏi phải làm và nên sản xuất hàng 
hoá dịch vụ gì với số lượng bao nhiêu, bao giờ sản xuất. Trên cơ sở nhu cầu của thị 
trường các Chính phủ và các nhà kinh doanh tính toán khả năng sản xuất của nền 
kinh tế, của doanh nghiệp và các chi phí sản xuất tương ứng để lựa chọn và quyết 
định cung ứng cái gì để đạt được lợi nhuận, đạt được thu nhập quốc dân. Chính giá 
cả thị trường là bàn tay vô hình để điều chỉnh quan hệ cung cầu và giúp chúng ta lựa 
chọn, quyết định. 
+ Sản xuất như thế nào nghĩa là do ai và những tài nguyên nào với hình thức 
công nghệ nào, phương pháp sản xuất nào. Sau khi đã lựa chọn được cần sản xuất 
cái gì, các Chính phủ, các nhà kinh doanh phải xem xét việc làm thế nào để chi phí 
ít nhất, cạnh tranh thắng lợi trên thị trường để thu được lợi nhuận cao nhất. Động cơ 
lợi nhuận đã khuyến khích các doanh nghiệp tìm kiếm, lựa chọn các đầu vào để sản 
xuất ra đầu ra nhanh nhất, sản xuất được nhiều nhất, chất lượng cao với chi phí thấp 
nhất. 
+ Sản xuất cho ai tức là đòi hỏi phải xác định rõ ai sẽ là đối tượng để sản xuất, 
đối tượng sản xuất nào mà tiêu thụ được hàng hoá sản xuất ra để từ đó đạt đến lợi 
nhuận. Tiếng gọi của lợi nhuận cao sẽ làm cho các nhà kinh tế có mặt khắp mọi nhu 
cầu chứ không phải làm một mặt hàng nhất định. 
Ba vấn đề đó phải được giải quyết trong mọi xã hội dù là một nước XHCN 
hay là một nước công nghiệp TBCN, một công xã, một bộ tộc, một địa phương, một 
ngành, một doanh nghiệp hay thậm chí cả một đàn ong mật. 
b. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá dịch vụ: 
Bán hàng hoá trên thị trường cũng là ảnh hưởng đến lợi nhuận cao hay thấp, 
một nhà kinh tế là một ông chủ phải xem xét nhu cầu của thị trường trong nước và 
thế giới để cân nhắc hàng hoá của mình. Đó là nhu cầu có khả năng thanh toán và 
khả năng đáp ứng của doanh nghiệp, nhu cầu đó càng lớn thì tạo ra lợi nhuận càng 
cao. Cung và cầu trên thị trường luôn biến đổi đòi hỏi người sản xuất phải xử lý kịp 
thời và điều chỉnh đúng đắn. Nếu cung < cầu thì trước khi bán giá cao thì phải xem 
xét đến quy mô doanh nghiệp, số lượng hàng hoá trên thị trường, phán đoán,... Nếu 
cung > cầu thì nên ngừng ngay sản xuất và di chuyển sang ngành khác. 
c. Tổ chức quản lý các hoạt động kinh tế vĩ mô của doanh nghiệp. 
Bây giờ là tài lãnh đạo và phán đoán của doanh nghiệp sẽ định hướng cho các 
kế hoạch, phương án sản xuất nhằm thu được lợi nhuận. Cái này còn phụ thuộc từ 
từng cá nhân lãnh đạo nhưng vai trò của họ cực kỳ quan trọng trong việc một doanh 
nghiệp nên lựa chọn sản xuất cái gì để thu được lợi nhuận cũng như sự tồn tại và 
phát triển của doanh nghiệp. 
Những yếu tố quyết định về lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. 
- Lợi nhuận là lợi tức ẩn. Đối với các nhà kinh tế học, lợi nhuận kinh doanh là 
tổng hợp của nhiều khoản khác nhau. Phần lớn giá trị lợi nhuận kinh doanh được 
báo cáo chỉ là phần lợi tức của các chủ sở hữu công ty có được do lao động của họ 
hay do vốn đầu tư của họ mang lại, có nghĩa là tiền trả cho yếu tố sản xuất do họ 
cung cấp. Vì vậy, có một số giá trị tuy thường gọi là lợi nhuận nhưng thực chất là 
tô, tiền thuê, tiền công lấp dưới các tên gọi khác nhau. 
- Lợi nhuận là phần thưởng cho việc gánh chịu rủi ro và cho sự đổi mới. Nửa 
thế kỷ trước đây một nhà kinh tế học trường đại học Chicagô cho rằng, tất cả lợi 
nhuận thực sự đều có liên quan tới tính không chắc chắn và không hoàn hảo của 
thông tin, nói như vậy là ông ta ngụ ý cho rằng, nếu loại bỏ tất cả lợi tức ẩn thì ta 
được lợi nhuận thuần tuý, và đó là phần thưởng cho các hoạt động đầu tư có lợi tức 
bất định. Trong điều kiện cạnh tranh hoàn hảo và công nghệ không thay đổi sẽ 
không thu được chút lợi nhuận nào hết. Trong điều kiện đó, các chủ sở hữu thu 
được khoản tiền do các yếu tố sở hữu và sự rủi ro mang lại đúng bằng giá trị những 
dịch vụ này trong thị trường cạnh tranh. Trong thực tế, một số người sẽ có ý kiến 
mới hay bằng cách đổi mới, phát minh có thể thúc đẩy tạo ra các sản phẩm mới 
hoặc giảm chi phí sản xuất đối với các sản phẩm đang sản xuất. Mỗi đổi mới thành 
công, tạo ra một lĩnh vực độc quyền tạm thời. Trong thời hạn ngắn, họ thu được lợi 
nhuận nhờ đổi mới. Lợi nhuận thu được này chỉ là tạm thời và sẽ giảm đi do có 
nhiều người cạnh tranh và bắt chước làm theo. Nhưng một khi mức lợi nhuận nhờ 
đổi mới này giảm đi thì lại có những phát minh khác xuất hiện. Lợi nhuận nhờ đổi 
mới sẽ tiếp tục tồn tại cùng với các thay đổi tiếp tục về công nghệ. 
- Lợi nhuận lợi tức độc quyền: khi trên thị trường không có cạnh tranh hoàn 
hảo, các công ty có thể thu về lợi nhuận siêu ngạch do tự tăng giá. Nếu bạn là chủ 
sở hữu duy nhất bản quyền về một loại thuốc quý, hay bạn là người duy nhất kiếm 
được giấy phép lắp đặt đường cáp vô tuyến trong thành phố, bạn có thể tăng giá cao 
hơn chi phí biên, hạn chế mức cung, và thu được lợi nhuận độc quyền từ việc đầu tư 
của mình. 
3. Các phương pháp tăng lợi nhuận. 
Thực sự là thiếu sót nếu không đề cập đến cách tăng lợi nhuận. Làm thế nào 
để tăng lợi nhuận? đó là câu hỏi đặt ra đối với bất kỳ ai làm kinh tế nhưng để trả lời 
một cách cụ thể thì khó trả lời. Nhưng có những cái chung nhất để trả lời câu hỏi 
đó: 
- Phải luôn luôn nắm vững thị hiếu khách hàng, tâm lý người mua. Ngành tiếp 
thị cho thấy rằng khách hàng luôn ưa chuộng những sản phẩm có tính chất lượng - 
hình thức giá rẻ. Bởi thế muốn thắng trên cạnh tranh cần phải thoa rmãn ba yếu tố 
đó trong sản phẩm. Đầu tư vào khoa học kỹ thuật là cách tốt nhất để làm được điều 
đó. 
Các doanh nghiệp, các nhà kinh tế phải tránh tình trạng tồn kho, ứ đọng, các 
nhà quản lý phải tính toán sao cho vừa phải phù hợp để khỏi tiền “chết” trong hàng 
hoá. Phải giải được bài toán “đầu vào - đầu ra” từ đó cung ra thị trường số lượng 
hàng hoá hợp lý nhằm luôn luôn tạo ra cung cầu. Vấn đề là họ phải hiểu, nắm bắt 
được tương đối cầu của khách hàng và thời thế. 
Ngành Marketing là đóng vai trò quan trọng trong việc bán sản phẩm, nhất là 
những khi mà doanh nghiệp chưa có uy tín, chưa phổ biến. Tuy nhiên quảng cáo 
phải có sức thuyết phục, phải có phần hợp lý tránh tình trạng quảng cáo hiện thực. 
Ngày nay, khách hàng là những người hết sức nhạy cảm, có nhiều thông tin chính 
xác cho nên chất lượng mới là yếu tố quan trọng để được chữ “tín”. Bởi thế 
Marketing phải luôn luôn đi sát thực tế sản phẩm. 
Một điều nữa - hết sức quan trọng - đó là tài cá nhân của người lãnh đạo, các 
ông chủ phải biết tính toán nên đầu tư vào đâu, số lượng bao nhiêu, làm như thế nào 
để khi bán sản phẩm họ thu được lợi nhuận. Vai trò ngoại giao của ông chủ phải 
làm tốt với các đối tác cũng như với công nhân. Những cái đó ảnh hưởng lớn đến 
việc lợi nhuận của doanh nghiệp có tăng lên hay không? 
Điều cuối cùng và cũng là điều quan trọng là đầu tư như thế nào? đầu tư vào 
đâu? đầu tư bằng cách nào? Câu trả lời là muốn tăng lợi nhuận thì chỉ có cách hiệu 
quả nhất là đầu tư vào khoa học kỹ thuật để giảm chi phí sản xuất và đồng thời tăng 
được chất lượng sản phẩm. Sở dĩ Nhật Bản có hiện tượng nhảy vọt thần kỳ như vậy 
là một phần họ đầu tư thậm chí là mua chất xám nhằm tăng trình độ khoa học trong 
sản phẩm nên họ thắng trên thị trường cạnh tranh. 
4. Những mặt trái của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. 
Bên cạnh những ưu điểm của mình: thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, tạo 
ra sự cân đối giữa các ngành sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, phương thức sản 
xuất ngày càng hiện đại hơn, lợi nhuận cũng không tránh khỏi những mặt tiêu cực 
của nó. 
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì cấu tạo hữu cơ của tư bản càng nâng cao. 
Mỗi xí nghiệp trong khi dùng máy móc thay thế công nhân, đều muốn giảm bớt chi 
phí sản xuất, mở rộng đường tiêu thụ hàng hoá, và thu lợi nhuận siêu ngạch. Nhưng 
khi mà những thành tựu kỹ thuật của một số xí nghiệp đã lan rộng ra, thì cấu tạo 
hữu cơ của tư bản trong phần lớn các xí nghiệp được nâng cao lên, do đó mà tỷ suất 
lợi nhuận chung giảm xuống. Đây là kết quả mà không một nhà tư bản nào mong 
muốn cả. Do vậy họ tìm cách để kìm hãm sự giúp sức của tỷ suất lợi nhuận và vì 
vậy dẫn đến những hậu quả sau - giai cấp công nhân bị áp bức bóc lột nặng nề. Nhà 
tư bản không quan tâm đến sức khoẻ và tính mệnh của công nhân. Các chủ xí 
nghiệp bắt công nhân làm việc trong những gian nhà chật hẹp, thiếu khí trời, họ 
giảm bớt các thiết bị an toàn lao động. Tính keo bẩn của các nhà tư bản đã đưa đến 
kết quả là sức khoẻ của công nhân bị mòn mỏi, bao nhiêu tai nạn lao động xảy ra, tỷ 
số công nhân chết tăng lên. 
- Việc áp dụng máy móc để tăng lợi nhuận làm tăng tỷ lệ thất nghiệp, gây ra 
một áp lực lớn đối với thị trường lao động. Điều đó khiến bọn chủ xí nghiệp giảm 
tiền lương xuống và định mức tiền lương thấp hơn giá trị của sức lao động rất nhiều. 
Vì vậy, trong khi các nhà tư bản ngày càng giàu có thì đời sống của người công 
nhân ngày càng bần cùng. Điều đó càng làm cho mâu thuẫn giữa giai cấp tư bản và 
giai cấp vô sản càng sâu sắc. 
- Ngày nay, trong nền sản xuất hiện tại việc chạy theo lợi nhuận kéo theo việc 
áp dụng nhiều máy móc - kỹ thuật hiện đại làm cho môi trường xung quanh trở lên 
ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác đến cạn kiệt; gây nên nhiều bệnh tật 
cho con người hiện nay, các nhà tư sản đổ xô vào các nước đang phát triển để chia 
sẻ hết gánh nặng này. Họ xuất sang các nước này những phương tiện kỹ thuật lạc 
hậu, gây ô nhiễm, tận dụng tài nguyên và nguồn nhân lực phong phú của các nước 
này. Nhân dân ở các nước đang phát triển do vậy bị bóc lột triệt để. Điều đó làm 
cho mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và đang phát triển ngày càng thêm 
sâu sắc. 
Ngoài ra, việc chạy theo lợi nhuận cũng làm cho một số cá nhân, doanh nghiệp 
tìm mọi cách trốn thuế, giảm thuế, buôn lậu, làm hàng giả,... gây ảnh hưởng không 
nhỏ đến ngân sách Nhà nước và tính mạng của con người. 
Để thu được lợi nhuận tối đa các doanh nghiệp đã liên kết với nhau, dẫn đến 
tình trạng độc quyền. Các tổ chức độc quyền lợi dụng ưu thế của mình để quy định 
giá cả, thu được lợi nhuận cao hơn. Do vậy, đã phá vỡ thế cạnh tranh hoàn hảo, gây 
lên tình trạng mất hiệu quả của kinh tế. 
Tóm lại, lợi nhuận bên cạnh vai trò to lớn của mình còn có những nhược điểm 
nhất định. Ngày nay, nhiều người tỏ ra rất phẫn nộ khi đề cập đến danh từ lợi 
nhuận. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ định những tác dụng to lớn mà lợi nhuận 
đã đem lại cho nền kinh tế của chúng ta nói riêng và nền kinh tế thế giới nói chung. 
Do vậy để hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực do lợi nhuận gây ra phải cần đến vai 
trò của Nhà nước. 
5. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường nhằm tăng cường 
những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của lợi nhuận. 
Đảm bảo sự ổn định chính trị, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo ra 
những điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Muốn vậy Nhà nước cần tạo ra 
hành lang luật pháp đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế, 
nghiêm trị những kẻ trốn lậu thuế, kinh doanh hàng cấm, làm hàng giả. Khuôn khổ 
luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác dụng sâu sắc tới các hành vi kinh tế của con 
người và cả bản thân Chính phủ cũng phải tuân theo. 
Đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp có thể vì 
mục đích tối đa của mình mà lạm dụng tài nguyên xã hội, gây ô nhiễm môi trường 
sống của con người mà xã hội phải gánh chịu. Nhà nước cần buộc các doanh nghiệp 
phải trả tiền cho những thiệt hại do ô nhiễm mà doanh nghiệp ấy gây ra. 
Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức độc quyền có thể tăng thậm chí giảm 
số lượng hàng hoá mà chỉ tăng giá để tăng lợi nhuận. Một nền kinh tế bị thúc đẩy 
bởi cạnh tranh hoàn hảo sẽ đạt hiệu quả cao, nhưng cạnh tranh làm hạn chế khả 
năng đạt lợi nhuận nên các doanh nghiệp cố gắng giảm bớt cạnh tranh. Vì vậy, Nhà 
nước có nhiệm vụ bảo vệ cạnh tranh, chống độc quyền, đảm bảo tính hiệu quả của 
hoạt động thị trường. 
Việc chạy theo lợi nhuận, việc phân hoá giàu nghèo, tác động xấu đến đạo đức 
và tính người. Do vậy Nhà nước cần phân phối lại thu nhập cho công bằng, bảo vệ 
các thành viên của xã hội, chống lại những khó khăn về kinh tế, nâng cao mức sống 
của các nhóm dân cư có thu nhập thấp. Điều đó được thực hiện thông qua các chính 
sách phân phối, bảo hiểm xã hội, và phúc lợi xã hội. 
II. Vấn đề lợi nhuận ở Việt Nam 
1. Thực trạng về vấn đề lợi nhuận ở nước ta. 
a. Thời kỳ trước năm 1986. 
Đây là cả một thời kỳ Nhà nước chưa đưa các doanh nghiệp hoạt động trong 
mối quan hệ trực tiếp với thị trường. Mọi hoạt động của các đơn vị kinh doanh đều 
dựa vào Nhà nước: kinh phí Nhà nước cấp, sản xuất kinh doanh bị lỗ được Nhà 
nước bù; sản xuất, tiêu thụ sản phẩm được Nhà nước đảm nhiệm. Lợi nhuận chưa 
được coi là động lực chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. 
Vì vậy, trong nền kinh tế luôn xảy ra tình trạng “lãi giả lỗ thật, lỗ giả lãi thật”. Như 
vậy Nhà nước chưa nắm được nguồn vốn của các doanh nghiệp và từ đó buông lỏng 
trong khâu quản lý nó. Mặt khác do việc chưa đánh giá và xác định lợi nhuận một 
cách có căn cứ nên các đơn vị luôn tìm mọi thủ đoạn, mọi cách để được hưởng cao 
nhất, còn Nhà nước bị thiệt nhiều hơn. 
Trong thời gian này, do quá nhấn mạnh phát triển kinh tế quốc dân và phát 
triển nó một cách tràn lan, không có sự phân biệt rõ ràng giữa các ngành, các doanh 
nghiệp, nhiều doanh nghiệp có điều kiện khả năng làm ăn tốt, có khả năng thu 
dưdợc lợi nhuận cao với các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, thậm chí luôn thua 
lỗ. Với cơ chế quản lý phân phối “lỗ Nhà nước bù, lãi Nhà nước thu”, chúng ta đã 
chưa coi lợi nhuận với tư cách là hình thức thu nhập đối với người sản xuất kinh 
doanh. Trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đó, cơ chế hình thành và phân phối 
lợi nhuận không được tiến hành trên cơ sở những căn cứ khoa học và khách quan, 
điều đó đã gây ra sự bất bình đẳng lớn giữa các đơn vị sản xuất kinh doanh, làm mất 
đi động lực thúc đẩy đòn bẩy lợi nhuận, tạo ra một tư tưởng ỷ lại ngày càng lớn vào 
Nhà nước, làm mất đi tính chủ động sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh. 
b. Thời kỳ năm 1986 đến nay. 
Từ năm 1989 đến nay, nền kinh tế Việt Nam đã có những bước chuyển quan 
trọng trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà 
nước. Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách kinh tế nhằm từng bước tạo lập môi 
trường kinh doanh và buộc mọi doanh nghiệp phải hoạt động trong mối quan hệ 
trực tiếp với thị trường, phải chuyển sang hạch toán kinh doanh thực sự. Để thực 
hiện điều đó, Nhà nước đã thực hiện việc xoá bỏ cơ chế “lỗ Nhà nước bù, lãi Nhà 
nước thu” nhằm mở rộng quyền tự chủ cho các doanh nghiệp trong sản xuất kinh 
doanh, xoá bỏ mọi ách tắc trở ngại trong sản xuất và lưu thông, từng bước tạo ra thị 
trường thống nhất, hoàn chỉnh trong cả nước, xoá bỏ bao cấp qua giá, thực hiện 
chính sách một giá trong kinh doanh vật tư, hàng hoá và đưa dần nhiều mức giá 
trong nước lên sát với giá của thị trường thế giới, điều chỉnh lãi suất một cách hợp 
lý theo từng thời kỳ, khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư sản xuất kinh 
doanh trong môi trường cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng với nhau trước pháp 
luật. Các phương hướng chính sách và biện pháp trên về cơ bản là đúng đắn và có 
tác dụng tích cực. 
Tuy nhiên do đa số các doanh nghiệp không chuyển kịp và thích nghi với cơ 
chế thị trường, nên Nhà nước thực hiện được xoá bỏ bao cấp qua vốn, tín dụng, giá 
và thị trường đầu ra,... thì phần lớn các doanh nghiệp bị đình đốn, thu hẹp sản xuất, 
tạm thời ngừng sản xuất toàn bộ hay bộ phận. Mặc dù đã có sự sắp xếp bố trí lại 
doanh nghiệp, nhưng số các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ còn nhiều, đặc biệt là các 
doanh nghiệp địa phương. Điều này buộc Nhà nước phải hỗ trợ, tạo điều kiện cùng 
doanh nghiệp khắc phục tình trạng đình đốn suy thoái ngừng trệ trong sản xuất kinh 
doanh. Để làm điều đó Nhà nước đã áp dụng một số giải pháp tình thế sau: 
+ Tập trung chỉ đạo thanh toán tình trạng nợ dây chuyền và chiếm dụng vốn 
lẫn nhau của các đơn vị kinh tế Nhà nước. 
+ Cho doanh nghiệp vay vốn tín dụng với lãi suất ưu đãi và hoàn thu hồi vốn 
các khoản vay trước. 
+ Trợ giá cho một số ngành công nghiệp nặng. 
+ Phát hành thêm tiền để mua lương thực dự trữ, mua sản phẩm ứ đọng và tiếp 
tục cấp phát vốn xây dựng cơ bản cho các doanh nghiệp nhằm tạo ra sức mua, tăng 
cầu. 
+ Tính toán lại mức thu quốc doanh; tạm hoãn giảm hoặc miễn thu quốc 
doanh đối với các doanh nghiệp đang thực sự gặp khó khăn đình đốn hoặc ngưng 
trệ. 
Chi hàng trăm tỷ đồng để hỗ trợ cho doanh nghiệp nhằm sắp lại lực lượng lao 
động cho các đơn vị kinh tế Nhà nước. 
Chuyển sang cơ chế thị trường, Nhà nước quy định và cho phép các doanh 
nghiệp tính lợi nhuận (trong thực tế gọi là lãi) theo cấu thành giá thành và lợi nhuận 
do vậy, các doanh nghiệp có xu hướng không muốn để lợi nhuận ở bảng tính toán, 
trái lại họ tìm mọi cách biến tướng nó để phải nộp ít nhất và được hưởng nhiều nhất. 
Trường hợp nếu thiếu tiền trả lương cho cán bộ, công nhân viên, thì họ sẵn sàng 
giảm khoản lợi nhuận và do đó giảm phần nộp cho Nhà nước để tăng nguồn thu cho 
doanh nghiệp. 
Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, nhiều doanh nghiệp ngoài quốc 
doanh xuất hiện và góp phần làm sôi động nền kinh tế cả nước. Nhìn bề ngoài hầu 
hết các doanh nghiệp hoạt động rất hiệu quả và thu nhập của những người làm công 
ăn lương ở đây rất cao thậm chí cao gấp nhiều lần so với thu nhập của người lao 
động trong các doanh nghiệp Nhà nước. Có được kết quả như vậy không thể không 
thừa nhận rằng hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất hiệu quả, góp 
phần không nhỏ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tuy nhiên, do Nhà nước chưa quản 
lý được mức thu nhập của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nên chưa có căn cứ 
chính xác để tính thuế. Tình trạng trốn lậu thuế, buôn bán lậu qua biên giới và trong 
nước làm hàng giả, núp dưới bóng doanh nghiệp quốc doanh để trốn thuế,... khá phổ 
biến đối với doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân. 
Như vậy, ở nước ta đòn bẩy kinh tế của lợi nhuận chưa được phát huy đúng 
với thế mạnh của nó. Sở dĩ như vậy là vì cơ chế hình thành lợi nhuận không hợp lý. 
Đồng thời cơ chế phân phối lợi nhuận chưa đủ tạo ra động lực kích thích các doanh 
nghiệp phát triển sản xuất, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tất yếu phải đổi 
mới cơ chế hình thành và phân phối lợi nhuận ở nước ta. Việc đổi mới đòi hỏi phải 
được tiến hành đồng bộ với việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lý nói chung. 
2. Các giải pháp về vấn đề lợi nhuận nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát 
triển kinh tế. 
Thực hiện nhất quán quan điểm kết hợp hài hoà các loại lợi ích kinh tế trong 
sự phát triển kinh tế. 
Suy đến cùng vấn đề phân phối thu nhập, phân phối lợi ích kinh tế cho người 
lao động, tập thể và xã hội được giải quyết như thế nào cho công bằng so với sự 
đóng góp trong quá trình tạo ra lợi ích kinh tế. Một nền kinh tế đạt được tốc độ tăng 
trưởng và phát triển ngày càng cao hoàn toàn có điều kiện và khả năng thực tế các 
lợi ích kinh tế. Đến lượt mình, việc giải quyết tốt các lợi ích kinh tế tạo ra động lực 
mới cho sự phsat triển. Do vậy Nhà nước phải có chính sách và biện pháp điều 
chỉnh, điều tiết thu nhập để giảm bớt chênh lệch quá đáng giữa người giàu và người 
nghèo, hạn chế bất công xã hội. 
Đổi mới cơ chế hình thành và cơ chế phân phối lợi nhuận. 
+ Về cơ chế hình thành lợi nhuận: không nên xác định lợi nhuận bình quân 
theo cấu thành giá như trước. Tuỳ từng ngành, từng loại sản phẩm khác nhau mà 
Nhà nước nên quy định và điều chỉnh lại tỷ lệ lợi nhuận định mức khác nhau. Ví dụ: 
đối với những sản phẩm có giá trị nhỏ (gạch, ngói,...) Nhà nước nên nâng tỷ lệ lợi 
nhuận định mức, còn đối với những sản phẩm tinh giá trị lớn (máy biến thế, sản 
phẩm dầu mỏ,...) Nhà nước nên hạ tỷ lệ lợi nhuận định mức. Khi đó sẽ góp phần 
giải quyết những bất bình đẳng trong việc thu và phân phối lợi nhuận trước đây. 
Bên cạnh đó, Nhà nước cần thông qua bộ máy quản lý thực hiện việc kiểm tra, 
kiểm kê, kiểm soát các nguồn vốn của các doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, buộc các 
đơn vị phải hoạt động đi vào hiệu quả thật sự “lãi thật lỗ thật”. Đối với các doanh 
nghiệp ngoài quốc doanh, Nhà nước cần quản lý thu nhập của họ. Thực hiện sự 
quản lý chặt chẽ đối với quá trình sản xuất kinh doanh theo luật pháp đã ban hành. 
Việc quản lý đó phải bắt đầu từ khâu cấp giấy phép sản xuất kinh doanh đến khâu 
tiêu thụ sản phẩm. Thẳng thắn trừng trị những ai trốn lậu thuế, kinh doanh hàng 
cấm, làm hàng giả. 
+ Về cơ chế phân phối lợi nhuận: để khai thác tối ưu các tiềm năng ở các 
ngành, địa phương, các đơn vị cơ sở, góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển 
kinh tế nhanh, điều quan trọng hàng đầu là phải tăng thu nhập cho người lao động. 
Đây là động lực chủ yếu của sự phát triển. Nhà nước nên giành phần thu nhập ngày 
càng lớn cho doanh nghiệp và người lao động. Nhà nước chỉ nên thu phần lợi nhuận 
trong phần lợi nhuận định mức và nếu có điều kiện Nhà nước nên giảm phần trăm 
thu khoản lợi nhuận này. Phần lợi nhuận vượt ngoài định mức, Nhà nước không nên 
thu mà để cho doanh nghiệp và người lao động được toàn quyền sử dụng. Có chăng 
Nhà nước chỉ nên định hướng việc sử dụng khoản lợi nhuận này. 
Theo đà phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, các doanh 
nghiệp muốn đứng vững trong cạnh tranh thị trượng cần phải tập trung đầu tư theo 
chiều sâu là chính. Về lâu dài giải quyết các mục tiêu: chất lượng sản phẩm, giảm 
giá, tăng khối lượng sản phẩm,... Để thực hiện việc đó họ cần một số vốn rất lớn và 
lớn hơn nhiều lần so với vốn nằm trong ngân quỹ phát triển sản xuất. 
Bộ phận khấu hao sửa chữa lớn hiện tại Nhà nước thu, phần này do doanh 
nghiệp tạo nên chứ không phải do Nhà nước cấp. Vì vậy trong tương lai nhà nước 
nên để lại cho doanh nghiệp và về mặt quản lý yêu cầu doanh nghiệp bổ sung cho 
quỹ phát triển sản xuất. 
kết luận 
Như vậy, trong tiểu luận này em đã hệ thống được từ đầu quan niệm về lợi 
nhuận của các tư tưởng trước Mác, và nêu lên quan điểm của học thuyết kinh tế 
chính trị của Mác về lợi nhuận và các vấn đề hiện đại của các nhà kinh tế học hiện 
đại có những lý thuyết phù hợp với giai đoạn ngày nay mà đặc biệt là Samealson, 
Davidbegg. Lợi nhuận không phải là vấn đề sẽ được quan tâm chừng nào mà sản 
xuất còn mang hình thái hàng hoá. Đặc biệt đối với nước ta hiện nay vấn đề về lợi 
nhuận, nhất là những lý thuyết hiện đại cần phải được làm rõ, phân tích và áp dụng 
để chúng ta làm ăn có lãi, để phù hợp và theo kịp thời đại. Bởi thế trong mục bàn về 
lợi nhuận trong cơ chế thị trường với những kiến thức thực tế vốn có và các lý 
thuyết hiện đại em đã phân tích và hệ thống các vấn đề liên quan nhưng em nghĩ 
rằng mới chỉ giải quyết được vấn đề chung còn trên thực tế cần năng động trong 
mọi hoàn cảnh, mọi tình huống thì mới có hiệu quả. 
Bản thân em một sinh viên kinh tế - qua tiểu luận này em thấm nhuần lợi 
nhuận là mục đích cạnh tranh, là điều kiện để phát triển bởi thế trong sự khắc nghiệt 
của thị trường đòi hỏi một đất nước, một doanh nghiệp một người làm kinh tế thì 
phải kiếm được lãi. Tuy nhiên hoạt động kinh tế không quá vì lợi nhuận mà quên 
mất di sản văn hoá mà song song với phát triển kinh tế làm sao giữ được bản sắc 
dân tộc thì mới tạo ra động lực vững mạnh chắc chắn. Liệu Việt Nam có theo kịp 
thời đại hay không, điều đó còn tuỳ thuộc vào tất cả chúng ta để xứng đáng với lịch 
sử hào hùng của dân tộc. Và với em sẽ quyết tâm hết sức mình trước mắt là trong 
trường Đại học sau này trên thương trường sẽ góp phần xây dựng Việt Nam giàu 
đẹp hơn, văn minh hơn. 
mục lục 
Lời mở đầu ................................................................................................................. 2 
Phần I: Nguồn gốc bản chất của lợi nhuận ......................................................... 3 
I. Các quan điểm trước Mác về lợi nhuận. ..................................................................... 3 
1. Quan điểm của trường phái trọng thương: ................................................... 3 
2. Quan điểm của trường phái trọng nông: ....................................................... 3 
3. Quan điểm của trường phái cổ điển Anh: ..................................................... 3 
II. Học thuyết giá trị thặng dư và lý luận lợi nhuận của C.Mác................................... 5 
1. Sự tạo ra giá trị thặng dư. ............................................................................... 5 
2. Lợi nhuận. ....................................................................................................... 7 
3. Tỷ suất lợi nhuận. ........................................................................................... 9 
4. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. ............................................... 10 
III. Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận. ............................... 12 
1. Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận. ................... 12 
2. Lý luận về máy móc tạo ra lợi nhuận........................................................... 12 
IV- Các hình thức của lợi nhuận. ...................................................................................... 13 
1. Lợi nhuận công nghiệp: ............................................................................... 14 
2. Lợi nhuận thương nghiệp............................................................................. 14 
3. Lợi tức cho vay. ............................................................................................. 15 
4. Lợi nhuận ngân hàng. .................................................................................. 15 
5. Địa tô: ............................................................................................................ 15 
phần II: Vai trò của lợi nhuận trong nền 
kinh tế thị trường .................................................................................. 17 
I. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.................................................. 17 
1. Lợi nhuận là động lực trong nền kinh tế thị trường. .................................. 17 
2. Các nhân tố ảnh hưởng và quyết định đến lợi nhuận. ............................... 20 
3. Các phương pháp tăng lợi nhuận. ............................................................... 22 
4. Những mặt trái của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường. ..................... 23 
5. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường nhằm tăng cường 
những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của lợi nhuận. ......... 25 
II. Vấn đề lợi nhuận ở Việt Nam...................................................................................... 26 
1. Thực trạng về vấn đề lợi nhuận ở nước ta. ................................................. 26 
2. Các giải pháp về vấn đề lợi nhuận nhằm thúc đẩy tăng trưởng 
và phát triển kinh tế. ..................................................................................... 29 
kết luận 31 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong cơ chế thị trường.pdf LUẬN VĂN- Nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong cơ chế thị trường.pdf