Mặt khác để khuyến khích phòng Marketing trong việc tìm kiếm khách
hàng thì Xí nghiệp cần phải có một chính sách hợp lý. Theo tôi ngoài tiền
lương làm việc theo thời gian ra Xí nghiệp cần trích thưởng phần trăm doanh
thu của hợp đồng mà phòng marketing ký kết được. Với cơ chế đãi ngộ này
chắc chắc sản lượng tiêu thụ của Xí nghiệp nhất định tăng nhanh.
68 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2132 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tối thiểu từ 180.000 đ lên 210.000 đ. Vì vậy, mặc dù hoạt động rất
khó khăn song thu nhập và tiền lương của toàn Xí nghiệp đạt 2.000.000
đ/tháng đây là một cố gắng rất lớn của Xí nghiệp .
h 43
Với quyết tâm phấn đấu 100% lao động có việc làm, khi có hợp đồng
được thực hiện đúng theo kế hoạch thậm chí còn xong rất sớm nhưng vẫn
đảm bảo được mục tiêu chất lượng đề ra. Ngoài ra Xí nghiệp còn đảm bảo
tốt các chế độ của bảo hiểm 100% cán bộ công nhân viên chức toàn Xí nghiệp
. Thực hiện tốt các chế độ và quyền lợi cho cán bộ công nhân viên phấn đấu
sang năm 2002 nâng thu nhập bình quân của toàn Xí nghiệp lên 2.250.000 –
2.300.000 đ
- Về công tác tài chính kế toán
Công tác tài chính kế toán nhìn chung năm 2001 đã có nhiều cố gắng
luôn đảm bảo được các yêu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh và đời sống
của cán bộ công nhân viên, không để tình trạng do không có vốn mà làm đình
trệ sản xuất hoặc chi trả tiền lương không đúng kỳ hạn. Thực hiện tốt chế độ
tổng kiểm kê ngày 1/1/2002 đúng nội dung và yêu cầu của Đài Truyền Hình
Việt Nam và Công Ty đầu tư và phát triển công nghệ Truyền Hình.
Công tác hạch toán, thanh quyết toán đảm bảo đúng chế độ, hạch toán
kịp thời hàng tháng, quý và năm theo đúng quy định của Bộ Tài chính, luôn
bảo đảm chế độ nộp thuế đầy đủ, đúng hạn. Năm 2001 công tác tài chính đã
phối hợp chặt chẽ với các phòng ban liên quan, góp phần giải quyết việc
hoàn thuế năm 1999. Là một năm hoạt động tài chính đạt được mục tiêu đề ra.
Tổng doanh thu vượt 13, 21% kế hoạch
Nộp ngân sách đạt 2, 85 tỷ
Tổng lợi nhuận đạt 230 triệu
Đã tập trung giải quyết vấn đề đốc thu, tính đến ngày 31/12/2001 các
đơn vị đã hoàn thành vượt mức kế hoạch.
b. Những mặt chưa làm được của Xí nghiệp .
Trong quá trình thích ứng với cơ chế thị trường Xí nghiệp đã đạt được
nhiều kết quả đáng kể song bên cạnh đó còn có những khó khăn tồn tại ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp .
- Hiện tại về dây chuyền sản xuất đã quá cũ nát và lạc hậu hiệu quả
thấp không thích ứng được với yêu cầu ngày càng đa dạng của sản xuất kinh
doanh. Việc nâng cấp máy móc thiết bị diễn ra vẫn chậm do một số khó khăn
về vốn song cơ bản là giá thành cao, chất lượng chưa vượt trội so với các sản
phẩm cùng loại trên thị trường.
h 44
Khó khăn lớn nhất của Xí nghiệp là hiện nay một số thiết bị phát
chuẩn và đo lường hiện trạng bị trên dây chuyền công nghệ đã cũ, 100%
nhập từ nước ngoài khi có sự cố sảy ra vấn đề khắc phục rất khó khăn. Các
chỉ tiêu kỹ thuật đã đo đạt tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 4463-87 "Máy thu
thanh - phân loại; thông số cơ bản và yêu cầu kỹ thuật", bên cạnh đó mức chất
lượng của máy thu thanh cần phải được điều chỉnh kịp thời, ví dụ như độ bền
va đập và mức chất lượng đạt 10 va đập theo TCVH 6385:1998; chịu thử
sương muối 7 chu kỳ đạt TCVH 4899-89, hiện nếu đem so sánh với tiêu
chuẩn của ISO 9001-2000 thì vẫn chưa chắc đã đạt được do khoảng cách giữa
tiêu chuẩn cơ sở và tiêu chuẩn quốc tế vẫn còn rất xa, vì vậy sản phẩm của xí
nghiệp tạo ra rất khó cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường
như TV.SONY, SAMSUNG, LG...
Một khó khăn rất lớn ảnh hưởng đến việc triển khai hoạt động kinh
doanh của xí nghiệp là vấn đề vốn, cho tới nay xí nghiệp vẫn chưa triển
khai được hoạt động xuất khẩu nguyên nhân chủ yếu vẫn là thiếu vốn. Do
thiếu vốn mà Xí nghiệp không có điều kiện để đổi mới dây chuyền công
nghệ tới sản phẩm chất lượng vẫn thấp ít khả năng cạnh tranh ngay ở thị
trường trong nước do đó không thể triển khai xuất khẩu được.
Để giải quyết vấn đề vốn khi lượng vốn nhà nước cấp lại không đảm
bảo cho Xí nghiệp kịp thời đáp ứng những nhu cầu đầu tư và bản thân Xí
nghiệp thực sự chưa có những biện pháp hữu hiệu để thu nguồn vốn đầu tư
bên ngoài.
- Về lao động: Đa phần lực lượng lao động của Xí nghiệp đều có trình
độ chuyên môn liên quan đến chuyên ngành Điện Tử . Hều hết các kỹ sư đều
được đào tạo chính phu qua các trường đào tạo của Bộ giáo dục và Đào tạo
soó cán bộ công nhân viên tốt nghiệp Đại học, cao đẳng, trung cấp theo các
chuyên ngành, Vô tuyến điện, chế tạo máy, hoá chiếm một tỷ lệ cao trong
tổng số cán bộ công nhân viên chức của Xí nghiệp .
Vấn đề dó là thời điểm tra thưởng, Xí nghiệp góp trả thưởng một lần
trong dịp tổng kết cuối năm, chính điều này không khuyến khích kịp thời
người lao động. Hơn nữa tiền thưởng thấp, việc đánh giá để khen thưởng
chưa chính xác.
h 45
Đi kèm với khen thưởng là kỷ luật lao động chưa được chấp hành
nghiêm chỉnh, vẫn còn tình trạng cán bộ công nhân viên trong giờ làm việc
ngồi tán gẫu, đánh bài... làm giảm hiệu quả của công việc.
2. Về phần hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp
a. Những mặt làm được
Có thể nói hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian quan đạt
được một số kết quả sau:
- Năng suất lao động bình quân năm 2001 là 433, 33 triệu/người đạt
mức cao nhất trong ba năm, tốc độ tăng năng suất lao động năm 2001 so với
năm 1999 tăng 28, 25%, so với năm 1999 tăng 8, 33% phải nói rằng đây là
một kết quả đáng kể trong năm 2001 Xí nghiệp gặp phải khó khăn mà năm
2001 chưa vượt qua được. Lợi nhuận bình quân tính trên một lao động năm
2001 là 3, 067 triêu/người vượt năm 2000 là 1, 093 triệu/ người. Những con
số này chứng tỏ lao động trong Xí nghiệp làm việc khác hiệu quả.
- Về quản lý và sử dụng vốn cố định ta thấy lợi nhuận mà một đồng
vốn cố định tạo ra năm 2001 là 0, 0135 đồng cao hơn năm 2000 là 0, 00412
do đó, nó chứng tỏ Xí nghiệp làm ăn có hiệu quả hơn năm 2000 hay nói
cách khác là Xí nghiệp đã huy động và sử dụng khá tốt nguồn vốn cố định.
- Về quản lý sử dụng vốn lưu động ta thấy doanh thu mà một đồng vốn
lưu động tạo ra năm 2001 cao hơn năm 2000 là 0, 011đ/1đ vốn lưu động. Đẩy
số vòng quay của vốn lên, rút số ngày luân chuyển bình quân xuống.
Tỷ suất lợi nhuận theo vốn sản xuất năm 2001 có tăng so với năm 2000
nhưng không đáng kể.
b. Những mặt chưa làm được
Đánh giá chung về hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian
qua có xu hướng giảm sút đáng lo ngại. Kết quả phân tích cho thấy chỉ có một
số chỉ tiêu tăng trưởng về quy mô còn các chỉ tiêu quan trọng khác đều giảm
về mặt hiệu quả.
Đầu tiên là hiệu quả sử dụng lao động cho thấy lợi nhuận bình quân
trên một lao động năm 1999 gấp 1, 024 lần so với năm 2001 và đây là chỉ tiêu
quan trọng nhất để đánh giá hiệu quả sử dụng lao động. Nó đánh giá thực chất
của việc sử dụng lao động là như thế nào.
h 46
Vấn đề hiệu quả sử dụng vốn cố định và vốn lưu động cũng không tỏ ra
hiệu quả hơn. Lợi nhuận do một đồng vốn cố định tạo ra năm 2001 có tăng
không đáng kể so với năm 2000 nhưng vẫn nhỏ hơn năm 1999 (năm 1999 là
0, 018đ/đ. Năm 2000 là 0, 00938đ/đ năm 2001 là 0, 0135đ/đ) doanh thu do
một đồng vốn cố định tạo ra giảm trong năm2001 năm 2000 là 0, 533đ/do đó,
năm 2001 là 0, 524đ/do đó, giảm 1, 69%. Doanh thu do vốn lưu động tạo ra
năm 2001 có tăng so với năm 2000 nhưng vẫn nhỏ hơn năm 1999. Năm 1999
doanh thu do một đồng vốn lưu động tạo ra 1, 952 đồng doanh thu trong khi
đó năm 2001 chỉ là 1, 911 đồng giảm 1, 02 lần so với năm 1999.
Sử dụng các chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá hiệu quả của Xí nghiệp ta
thấy rằng các chỉ tiêu phản ánh về mặt quy mô là tăng còn các chỉ tiêu phản
ánh về mặt hiệu quả là suy giảm. Qua các chỉ tiêu như mức sinh lời của vón
sản xuất, tỷ suất lợi nhuận theo chi phí, tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu....
năm 2001 đều giảm so vớn năm 1999. Kết quả này phản ánh hiệu quả hoạt
động của Xí nghiệp có xu hướng giảm sút. Xí nghiệp cần phải quan tâm đến
mặt hiệu quả chứ không phải là vấn đề quy mô.
3. Các nguyên nhân tương ứng.
Những nguyên nhân cơ bản sau đây đã làm cho Xí nghiệp gặp phải
những khó khăn trong tổ chức cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh
và nó làm cho hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp bị giảm sút.
3.1. Nguyên nhân khách quan
Hàng hoá trên thị trường tràn ngập chất lượng tốt giá cả phải chăng
trong khi đó chi phí vận chuyển bảo quản tăng đặc biệt là đối với máy thu
hình. Cạnh tranh không lành mạnh giữa những sản phẩm cùng loại do họ có
vốn lớn muốn chiếm lĩnh thị trường nên họ đã ra rất nhiều "chiêu" để nhằm
thu hút khách hàng về phía mình nhưng thực chất là họ đang lừa khách hàng.
Thời kỳ bao cấp kéo dài đã ảnh hưởng đến tư tưởng, phong cách, quan
điểm của cán bộ công nhân viên chức.
3.2. Nguyên nhân chủ quan
Bên cạnh những nguyên nhân khách quan còn phải kể đến những thiếu
sót từ phía Xí nghiệp .
h 47
- Khi Xí nghiệp xây dựng chiến lược, kế hoạch sản xuất còn phụ thuộc
quá nhiều vào nhiệm vụ nhà nước giao mà không nghiên cứu bám sát điều
kiện thực tế, nhu cầu thực tế và kết quả là Xí nghiệp phải xin điều chỉnh lại
kế hoạch lần ba năm qua do kế hoạch nằm ngoài năng lực của Xí nghiệp .
Ban giám đốc cũng như trưởng các phòng ban đã cố gắng nhưng vẫn
chưa kiểm soát được tốt tình hình ở từng cơ sở, từng thành viên trong Xí
nghiệp .
- Hơn nữa quy định của nhà nước là một tuần làm việc 40 giờ Xí
nghiệp đã thực hiện theo đúng quy định nhưng vấn đề hiệu quả vẫn chưa
cao. Xí nghiệp không có một bộ phận chuyên về Marketing và nghiên cứu
thị trường để tạo ra nguồn hàng ổn định số lượng sản phẩm tiêu thụ sản phẩm
tăng mạnh qua các năm, nguyên nhân này là do Xí nghiệp chưa nhận thức
được tầm quan trọng của nó và cần được khắc phục trong thời gian tới. Cụ thể
là phải thành lập một phòng Marketing.
- Trong khi nhu cầu về chủng loại sản phẩm phải lớn hơn và phù hợp
với nhu cầu của người tiêu dùng thì Xí nghiệp hầu như chỉ sản xuất một loại
như Ti vi PANASON 21''.
- Xí nghiệp yếu kém trong việc dự báo chính xác nhu cầu thị trường
nên khi sản xuất sản phẩm để bán ra thị trường vẫn để tồn kho khá nhiều.
- Phương pháp huy động vốn của Xí nghiệp chưa thực sự có hiệu quả
và chưa nâng cao được ý thức trách nhiệm của người lao động đối với công
việc và sử dụng các tài sản cũng như nguồn vốn của Xí nghiệp có hiệu quả.
- Xí nghiệp còn nhiều lúng túng bị động trong việc huy động vốn để
đầu tư.
h 48
CHƯƠNG III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG Ở XÍ NGHIỆP ĐIỆN TỬ TRUYỀN HÌNH
A - TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN VÀ CÁC CHÍNH SÁCH CỦA NHÀ NƯỚC
Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt hiện nay đặc biệt với doanh nghiệp
nhà nước để đứng vững và phát triển Xí nghiệp phải tìm cho mình một
hướng đi đúng đắn phù hợp trong từng giai đoạn, trên cơ sở thực tế về nhân
lực, vốn, dây chuyền công nghệ của Xí nghiệp cũng như của các đối thủ
cạnh tranh. Với những chiến lược đúng đắn bản thân các doanh nghiệp phải
xây dựng cho mình những mục tiêu, kế hoạch và biện pháp cụ thể mang tính
khả thi đảm bảo mang lại hiệu quả kinh doanh cao và đạt được những thắng
lợi trong cạnh tranh.
1. Biện pháp phát triển Điện Tử Truyền Hình Việt Nam
Những năm gần đây chúng ta đã đạt được mức tăng trưởng GDP khá
cao, ổn định được nền kinh tế, chính trị xã hội.
Chính sách mở cửa nhằm thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài ngày càng
được mở rộng, quan hệ kinh tế với các nước ngày càng phát triển góp phần
nâng cao vị trí của nước ta trên trường quốc tế. Hiện nay nước ta có quan hệ
kinh tế với trên 100 nước trên thế giới. Chính điều này tạo điều kiện cho
ngành phát thanh Truyền Hình nói chung có cơ hội chưa từng có để phát triển.
Hơn nữa khi đời sống của nhân dân ngày một nâng cao thì nhu cầu về thông
tin, giải trí không ngừng tăng lên do đó nhu cầu về các sản phẩm phát thanh,
Truyền Hình cũng không ngừng được tăng lên.
Trước mắt có những điều kiện hết sức thuận lợi cho ngành phát thanh
Truyền Hình. Chính phủ có những sự quan tâm tới các xã vùng sâu vùng xa
nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển đồng đều do đó chính phủ luôn có những
chính sách khuyến khích các doanh nghiệp khai thác thị trường tiềm năng này
bằng cách trợ giá cho các Xí nghiệp , doanh nghiệp khi cung ứng sản phẩm
tới các vùng....
Càng thuận lợi hơn khi ngành Phát thanh Truyền Hình được sự chỉ đạo
trực tiếp của Đài Truyền Hình Việt nam. Được sự giúp đỡ nhiệt tình của các
địa phương để Xí nghiệp hoàn thành nhiệm vụ và củng cố, phát triển hoạt
h 49
động sản xuất kinh doanh. Đồng thời đội ngũ cán bộ lãnh đạo Xí nghiệp
Điện Tử Truyền Hình và của toàn ngành được đào tạo sâu, có sự gắn bó với
ngành, không ngừng học hỏi những kinh nghiệm lẫn nhau và kinh nghiệm
của các nước phát triển, công nhân viên chức ngành Phát thanh Truyền Hình
luôn có tinh thần tự chủ, sáng tạo.
Như vậy phát thanh - Truyền Hình ở Việt Nam trong tương lai sẽ rất
phát triển vì những lợi thế riêng phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt
Nam. Khi ngành PT - TH phát triển thì Xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình
cũng có điều kiện để tự khẳng định mình trên thị trường.
2. Những chính sách của nhà nước đối với ngành Phát thanh -
Truyền Hình
a. Chính sách giải quyết tổ chức lao động
Nhà nước cho phép Xí nghiệp đầu tư phát triển công nghệ Truyền
Hình Việt Nam thành lập các đơn vị thành viên, có con dấu riêng, có tài
khoản mở tại Ngân hàng cũng như các xưởng bảo dưỡng, sửa chữa, đồng
thời các đơn vị đó được Xí nghiệp uỷ quyền quản lý một số lĩnh vực nhất
định để tăng thêm tính năng động trong sản xuất, tự chịu trách nhiệm về tài
chính, có trách nhiệm đảm bảo quyền lợi cho người lao động và nghĩa vụ với
Xí nghiệp .
Giảm bộmáy lao động giám tiếp giải quyết nghỉ việc cho những cán bộ
không đủ trình độ năng lực hoặc không có nhu cầu sử dụng. Tạo dựng bộ
máy quản lý thống nhất theo chế độ " Một thủ trưởng".
b. Chuyển hướng sản xuất kinh doanh theo phương châm đa dạng hoá
sản phẩm .
Để nâng cao chủ động sáng tạo, các doanh nghiệp nhà nước phải được
phép chuyển hướng kinh doanh đa dạng hoá sản phẩm chứ không đơn thuần
như trước, Xí nghiệp chuyển hướng kinh doanh đa dạng hoá sản phẩm căn
cứ vào thế mạnh nội lực của mình.
c. Hãng cấp dây chuyền công nghệ .
Xí nghiệp đã và đang tiến hành nâng cấp từng bộ phận dây chuyền
công nghệ của mình dựa trên cơ sở phân loại từng bộ phận. Tập trung vốn để
thay thế những bộ phận không hiệu quả.
h 50
Đầu tư mua mới những máy móc dụng cụ để kiểm tra, thử nghiệm...
Những việc này được sự hỗ trợ nhất định của nhà nước mà trực tiếp là đài
Truyền Hình Việt Nam.
d. Chính sách huy động vốn và cấp vốn
Hiện nay Xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình cũng như những Xí nghiệp Điện
Tử khác của nhà nước đang cố gắng huy động nguồn vốn nhàn rỗi của cán bộ
công nhân viên trong Xí nghiệp .
Bên cạnh đó còn có các nguồn vốn vay với lãi xuất thấp từ ngân hàng
để đầu tư đổi mới dây chuyền công nghệ.
B. MỤC TIÊU VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA XÍ NGHIỆP TRONG THỜI
GIAN TỚI.
Xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình là một đơn vị sản xuất kinh doanh do
đó Xí nghiệp hoạt động phải luôn hướng tới tính hiệu quả kinh tế. Muốn vậy,
Xí nghiệp phải xác định được các nhân tố khách quan, chủ quan ảnh hưởng
tới doanh thu, lợi nhuận. Để mục tiêu của Xí nghiệp đạt hiệu quả cao nhất trên
cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn lao động của mình cần phải xác định phương
hướng và biện pháp đầu tư, biện pháp để sử dụng điều kiện sẵn có làm sao có
hiệu quả nhất.
1. Mục tiêu
a. Mục tiêu chung
Trong quá trình hoạt động Xí nghiệp đã xây dựng cho mình những mục
tiêu chiến lược cụ thể:
- Tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất, tăng mức sản lượng hàng hoá vận
chuyển, tăng doanh thu, lợi nhuận, tăng nộp ngân sách cho nhà nước và nâng
cao mức sống cho người lao động.
- Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng năng suất lao động, đảm bảo
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Chú trọng hơn trong khâu Marketing để tạo nguồn vốn vận chuyển ổn
định và tăng trong những năm tới.
Nâng cao sức cạnh tranh của Xí nghiệp, tận dụng quy mô, uy tín của Xí
nghiệp để thu hút và giữ khách hàng.
b. Mục tiêu cụ thể
h 51
Năm 2002 là những năm tiếp theo Xí nghiệp tiếp tục đẩy mạnh sản xuất
kinh doanh. Quyết tâm phấn đấu thực hiện tốt các mục tiêu đề ra.
- Doanh thu tăng 13, 8% so với năm 2001
- Lợi nhuận tăng 80% so với năm 2001
- Nộp ngân sáh tăng 12% so với năm 2001
- Quỹ lương tăng 10% so với năm 2001
- Thu nhập bình quân tăng 5 10%
- Tiền lương bình quân 1, 6 triệu/tháng
2. Định hướng khách hàng
Trong những năm tới ngoài khách hàng truyền thống Xí nghiệp có kế
hoạch mở rộng danh mục khách hàng nhằm nâng cao sản lượng hàng hoá,
tăng doanh thu, lợi nhuận, giảm thiểu chi phí thiệt hại. Khách hàng của Xí
nghiệp tập trung vào các tỉnh phía Nam và một số thị trường lớn như Hà
Nội, Huế, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh....
Dự kiến đến năm 2002 xe chở hàng của Xí nghiệp sẽ chở hàng hai
chiều đáp ứng nhu cầu của thị trường.
3. Kế hoạch sản xuất năm 2001
- Căn cứ vào định hướng phát triển của Xí nghiệp từ 2001 đến 2006
- Căn cứ vào dây chuyền công nghệ, lao động hiện có và dự kiến đầu
tư nâng cấp máy móc trang thiết bị trong năm.
- Căn cứ vào nhu cầu sản phẩm trên thị trường và dự kiến khả năng
khai thác của Xí nghiệp .
- Trên tinh thần củng cố phát huy nội lực và phát triển của doanh
nghiệp Xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình dự kiến xây dựng một số chỉ tiêu kế
hoạch sản xuất kinh doanh năm 2002 như sau:
a. Lao động
Số lao động 75
Trong đó
Đại học
- Cao đẳng và trung học
- Tốt nghiệp công nhân kỹ thuật
- Số lao động trực tiếp
- Số lao động gián tiếp
18
15
32
85%
15%
h 52
Tăng giảm trong năm 0
Số lao động cuối năm 75
b. Máy móc thiết bị
- Dự kiến nâng cấp dây chuyền công nghệ
+ Dây chuyền sản xuất, lắp ráp máy thu hình từ 100 - 150 chiếc Ti Vi
màu 20''/ ngày lên 120 18000 chiếc radiô/ ngày lên 160 20000 chiếc/ngày.
c. Hàng hoá: Tiếp tục sản xuất radiô, Ti vi theo kế hoạch của các tỉnh
đồng thời sản xuất thêm 1/3 trong tổng số để cung cấp ra thị trường cụ thể là
Chỉ tiêu Số lượng (chiếc)
- Radio 72.500
- Tivi màu 1600
- Ti vi đen trắng 4300
d. Kế hoạch đầu tư:
Xí nghiệp dự định đầu tư mua mới một số trang thiết bị trong dây
chuyền công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm kế hoạch đầu tư 1,5
tỷ đồng.
Từ những căn cứ và dự kiến trên, Xí nghiệp xác định kế hoạch sản
xuất kinh doanh năm 2002 như sau
Chỉ tiêu Đơn vị tính Số lượng Đơn giá(1000) Doanh thu
+ Radio Chiếc 72516 170, 000 12.328.000
+ Ti vi đen trắng Chiếc 8289 750, 000 6.164.250
+ Ti vi màu Chiếc 5284 3500, 000 18.492.750
Tổng 36.985.000
4. Phương hướng thực hiện kế hoạch năm 2002
- Về sản phẩm: Xí nghiệp tập trung hoàn thiện cơ chế khoán, mở rộng
và chuyển hướng thị trường.
- Về tổ chức hành chính: Cải tổ mạnh mẽ cơ chế hành chính và giải
quyết công ăn việc làm cho người lao động.
h 53
C. MỘT SỐ BIỆN PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
CỦA XÍ NGHIỆP ĐIỆN TỬ TRUYỀN HÌNH TRONG THỜI GIAN TỚI.
Những nhận xét đề xuất được căn cứ vào kết qủa phân tích đánh giá
thực trạng hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian qua, những ưu điểm, tồn
tại vướng mắc, các thuận lợi và những bài học kinh nghiệm. Bên cạnh đó còn
được dựa vào triển vọng phát triển của ngành PT - TH và mục tiêu định
hướng của Xí nghiệp đến năm 2006.
Biện pháp 1: Về quản trị nhân sự trong Xí nghiệp
- Tuyển mộ: trong Xí nghiệp hiện nay số lao động gián tiếp chiếm
20% tổng số lao động như vậy là quá nhiều vì thường thì các doanh nghiệp
không định tuyển thêm lao động như vậy là quá nhiều vì thường thì doanh
nghiệp số lao động gián tiếp chiếm tỷ lệ 8 12% tổng số lao động vì vậy Xí
nghiệp không định tuyển thêm lao động nữa. Quan điểm này có nguy cơ dẫn
Xí nghiệp đến phín chịn nguy hiểm, cản trở sự đổi mới vươn lên. Bởi vì
quan niệm như vậy còn quá chung chung: cần cụ thể hơn là thừa ở đâu và
thiếu vị trí nào, so với thiêu chuẩn gì.
Trước hết nếu so với phương pháp làm việc quen thuộc hiện tại thì dư
thừa lao động khi có tình trạng là một công việc đang được chia sẻ cho quá
nhiều người mà làm thì lợi ích tăng thêm không đủ để bù đắp chi phí số người
tăng thêm đó. Ngược lại tình trạng thiếu lao động xảy ra khi khối lượng công
việc quá số nhân lực hiện có làm cho công việc không hoàn thành đúng về
thời gian và chất lượng. Về mặt này Xí nghiệp khẳng định thừa lao động
gián tiếp là hoàn toàn đúng.
Nhưng nếu so với yêu cầu cần phải có bộ phận Marketing trong cơ cấu
tổ chức, so với phương pháp lập kế hoạch mới phương pháp quản trị nhân lực
mới thì thực tế Xí nghiệp đang thiếu những nhân lực được trang bị hệ thống
kiến thức hiện đại, năng nổ, sáng tạo ở phòng kế hoạch, phòng tổ chức lao
động, thậm chí cần có một người khởi xướng sự đổi mới sâu rộng trong đội
ngũ cán bộ khung của Xí nghiệp .
Như vậy sự thừa và thiếu cùng song song tồn tại, do vậy nếu chỉ căn
cứ vào sự dư thừa dễ nhận thấy mà vội vã đi đến quyết định không tuyển
thêm người thì rõ ràng đã rơi vào sự phiến diện một chiều là giảm biên chế.
Trong khi không biết hoặc không muốn biết việc thiếu nhân lực có kiến thức,
h 54
đạo đức nghề nghiệp đáp ứng được những yêu cầu của đổi mới cập nhật
phương pháp quản trị và sau đó là không có bảng phân tích công việc.
Để giải quyết vấn đề vừa thừa vừa thiếu lao động Xí nghiệp cần thực
hiện.
+ Xây dựng bảng phân tích công việc của từng phòng ban
+ Giảm biên chế theo định biên có xem xét đến việc giữ lại và đào tạo
một số lao động có năng lực.
+ Trước hết lực chọn người có kiến thức có sức khoẻ, trẻ ở các phòng
ban đi bồi dưỡng, đào tạo lại. Sau đó căn cứ vào bảng phân tích công việc,
cơ cấu tổ chức mới để xem xét từng vị trí làm việc cụ thể để quyết định vị trí
nào đòi hỏi nhân tố mới hoàn toàn, thêm về kiến thức và sự năng động sáng
tạo (ví dụ Marketing).
Chủ đề quan trọng cần đề cấp đến trong tuyển mộ là xây dựng tiêu
chuẩn tuyển mộ của từng ứng viên dựa vào bảng phân tích công việc. Do Xí
nghiệp chưa xây dựng bảng phân tích công việc nên đặt ra các tiêu chuẩn
nhiều khi không có căn cứ. Trong phiếu điểm tuyển của Xí nghiệp có những
điểm sau:
Phiếu điểm
Môn thi Hệ số Điểm Nhận xét
- Vô tuyến điện
- Chế tạo máy
- Quản lý chất lượng
- Kế toán - tài chính
- Vi tính
- Ngoại ngữ
- Dự thảo hợp đồng kinh tế
- Chuyên môn khác
Tiêu chuẩn đầu tiên và cao nhất là vô tuyến điện chế tạo máy hầu như
chỉ có sinh viên Bách Khoa, kinh tế và đáp ứng được. Xã hội ngày nay có sự
chuyên môn hoá mạnh, những vị trí nào sẽ đòi hỏi con người có đầy đủ kiến
thức và có khả năng tương ứng. Trong kinh doanh lao động quản trị được chia
thành 3 cấp: Cơ sở (đốc công đội trưởng) trung gian (Trưởng phòng ban), cao
cấp (giám đốc, phó giám đốc). Nếu như ở cấp cơ sở kiến thức kỹ thuật được
coi là hàng đầu sau đó mới đến kỹ năng tổ chức và quan hệ bên ngoài thì càng
h 55
nâng cao kiến thức kỹ đòi hỏi ít đi và chủ yếu là kiến thức kỹ năng tổ chức và
quan hệ bên ngoài. Ở cấp cao cấp nhất theo tính toán yếu tố kỹ thuật chỉ
chiếm 20% kiến thức và tập trung lớn nhất vào quan hệ đối ngoại sau đó đến
tổ chức. Vì vậy thứ nhất, tiêu chuẩn rất cần thiết nhưng mức độ đòi hỏi cho
từng vị trí làm việc khác nhau là khác nhau do đó cần linh hoạt, thứ hai một
cá nhân có hiểu biết tốt ở vị trí này nhưng không hẳn cũng làm tốt ở vị trí cao
hơn với đòi hỏi mới về kiến thức kỹ năng cần có cho vị trí mới, vì vậy cá
nhân đó cũng cần được đào tạo chuẩn bị trước khi đề bạt.
Tiêu chuẩn về quản lý chất lượng là rất cần thiết cho mọi người trong
Xí nghiệp bởi vì khi Xí nghiệp đã áp dụng thành công một hệ thống quản lý
chất lượng thích hợp thì sẽ giúp cho sản phẩm tăng sức cạnh tranh, doanh
thu, lợi nhuận không ngừng tăng, giảm thiểu những chi phí thiệt hại do vậy
vừa đạt hiệu quả về phía doanh nghiệp vừa đạt hiệu quả cho xã hội.
Tiêu chuẩn vi tính và ngoại ngữ nhìn qua quả rất cần thiết cho nhân
viên nhưng trên thực tế vi tính chỉ sử dụng như máy đánh chữ, còn ngoại ngữ
tỏ ra xa vời hơn bởi vì khách hàng của Xí nghiệp đều ở trong nước. Các vị
trí hiện tại không đòi hỏi trình độ vi tính và ngoại ngữ vì không có điều kiện
sử dụng. Hoàn toàn không sai nến Xí nghiệp muốn phát triển sản xuất kinh
doanh và cần những nhân viên như vậy nhưng thực tế việc đưa ra tiêu chuẩn
này không căn cứ vào chiến lược của Xí nghiệp vì vậy nó không phù hợp và
không có tính thực tế.
Trước yêu cầu của việc mở rộng sản xuất đa dạng hoá sản phẩm cần
phải tuyển thêm một vị trí nào đó, căn cứ vào bảng phân tích công việc để
xác định tiêu chuẩn ứng viên và các trang bị cần thiết cho nhân lực mới đảm
bảo hoàn thành công việc: phòng làm việc, bàn làm việc và trang thiết bị
khác.... ví dụ căn cứ vào chiến lược thấy rằng cần thành lập bộ phận
Marketing với các chức năng, nhiệm vụ, khối lượng công việc đã xác định,
phòng tổ chức lao động chính thức đưa ra các tiêu chuẩn lựa chọn ứng viên và
thực hiện các quy trình tuyển chọn cụ thể. Tuy nhiên nếu cứ đào tạo, tuyển
mộ nhân lực mà không có sự phát triển tương ứng về phương diện làm việc,
về điều kiện khách quan của thị trường, khách hàng để áp dụng những kỹ
năng đã được đào tạo thì sẽ làm thui chột trình độ nhân viên và việc đào tạo
không có hiệu quả và ý nghĩa. Vậy biện pháp cho vấn đề này vẫn là:
+ Xây dựng bảng phân tích công việc
h 56
+ Cần thiết phải có một quản trị nhân lực được trang bị về kiến thức và
kinh nghiệm để đảm bảo trách nhiệm việc xây dựng chương trình phát triển
nhân lực. Người này nên là người mới tuyển mộ.
+ Phải giải quyết dứt điểm số cán bộ sắp đến tuổi nghỉ hưu, thiếu năng
lực trong công tác, không có việc làm, tạo điều kiện để thuyên chuyển, đào
tạo lại, hỗ trợ thêm về tài chính lao động tình nguyện nghỉ hưu trước tuổi.
Khi thực hiện được vấn đề tuyển dụng lao động mới có năng lực thích
hợp với yêu cầu mới cũng như việc giảm số lao động dư thừa do không có
những kiến thức kỹ năng cần thiết Xí nghiệp sẽ tạo ra cho mình một đội ngũ
nhân viên có sức trẻ, năng động, nhanh chóng tiếp thu và dễ dàng thích nghi
những kiến thức, kỹ năng mới trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện
nay, chấp nhận cạnh tranh, có năng lực đủ sức đáp ứng được công việc một
cách tốt nhất, với số nhân viên ít nhưng làm việc có hiệu quả, hoàn thành
nhhiệm vụ mà Xí nghiệp đặt ra đúng thời gian, số lượng cũng như vấn đề
chấ lượng Xí nghiệp . Đồng thời Xí nghiệp sẽ giảm được gánh nặng về việc
làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho người lao động, tăng năng suất lao
động. Tuy nhiên chương trình phát triển nhân lực cần phải xác định được vị
trí nào cần tuyển thêm người có các vị trí nào cần được đào tạo lại. Đặc biệt là
nhân lực cho phòng Marketing phòng tổ chức hành chính.
Nói tóm lại con người là yếu tố quan trọng nhất. Chính nó quyết định
trình độ sử dụng các nguồn nhân lực. Trình độ sử dụng vốn cố định, vốn lưu
động tạo ra donh thu, lợi nhuận bao nhiêu cho Xí nghiệp , nộp ngân sách
nhà nước đúng và đủ, hạ giá thành, tiết kiệm chi phí, boả dưỡng, sửa chữa
máy móc thiết bị tốt hay xấu đều do nhân tố con người quyết định.
- Về khuyến khích vật chất và tinh thần đối với người lao động
Về khuyến khích vật chất trong Xí nghiệp tập trung vào lương và
thưởng
Vấn đề không nằm ở lương mà nằm ở thưởng. Như đã phân tích rút ra
những tồn tại yếu kém trong việc xét thưởng. Để khắc phục cần xây dựng
ngay một cơ chế đánh giá thành quả nhân viên một cách kịp thời đúng để
thưởng, tuy ít nhưng phát huy tác dụng khuyến khích tinh thần làm việc của
nhân viên, nâng cao năng suất lao động. Cơ chế đánh giá thành tích phải căn
cứ vào bảng phân tích công việc, nhiệm vụ được giao và kết quả thực hiện
h 57
của từng người, từng phòng ban trong từng thời kỳ, không gộp thưởng một
lần vào cuối năm như hiện nay.
Cần xây dựng quỹ tiền thưởng để thưởng ngay cho những người lao
động có thành tích suất sắc, ý kiến đóng góp bổ ích và những sáng kiến làm
lợi cho Xí nghiệp . Tuy nhiên đánh giá con người là việc làm hết sức thận
trọng và cần thiết. Một sự đánh giá đúng đắn kịp thời có hiệu quả hơn là động
viên tinh thần làm việc của nhân viên, ngược lại đánh giá sai lầm có thể gây
những bất bình từ phía người được đánh giá và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu
quả công việc. Việc đánh giá và xét thưởng cần phải đúng với kết quả thành
tích người lao động đạt được. Nếu đánh giá kết quả quá cao thì tác hại xảy ra
không phản đối với người được thưởng mà chính là những người khác sẽ tỏ
thái độ cho rằng trong sự đánh giá có sự thiên vị, có tình cảm cá nhân xen
vào và gây ra cho họ sự chán nản, bất bình. Ngược lại đánh giá quá thấp
thành tích hay sự nỗ lực đóng góp của cá nhân nào đó thì sẽ thủ tiêu tinh thần
sáng tạo và mong muốn đóng góp cho sự thành công của Xí nghiệp . Ta thấy
rằng cả hai trường hợp đều có hậu quả đáng tiếc.
Vấn đề bây giờ là phải dựa vào bảng phân tích công việc để người đánh
giá biết được rằng công việc đó có hoàn thanh theo tiêu chuẩn kỹ thuật, thời
gian cho phép với số lượng và chất lượng công việc như thế nào. Làm được
thế này mới đảm bảo công bằng trong việc xét thưởng.
Như vậy việc xét thưởng người lao động nhằm mục đích đánh giá
chính xác những đóng góp của họ cho Xí nghiệp và có phần thưởng xứng
đáng với những gì họ đã làm được và khuyến khích đạt được những kết quả
cao hơn trước. Có thể nói rằng đây là một đòn bẩy kinh tế có tác dụng nâng
cao lao động tốt nhất, gắn bó quyền lợi và trách nhiệm của người lao động,
thúc đẩy họ nhiệt tình, tận tâm trong công việc và mong muốn đóng góp ngày
càng nhiều hơn cho Xí nghiệp . Đây là một biện pháp mà Xí nghiệp sử
dụng để nâng cao năng suất lao động và gắn bó người lao động với Xí nghiệp
.
Song song với vấn đề khen thưởng là kỷ luật lao động cũng đóng góp
vai trò quan trọng trong khuyến khích, động viên người lao động làm việc. Ở
đây muốn nhấn mạnh đến việc đánh giá người lao động không hoàn thành
nhiệm vụ hoặc vi phạm nội quy, quy chế của Xí nghiệp hay vi phạm pháp
h 58
luật là do nguyên nhân khách quan hay chủ quan. Đối với sai lầm do chủ quan
vì thiếu tinh thân trách nhhiệm thì không thể tha thứ và phải căn cứ vào bảng
phân tích công việc để xác định nhiệm vụ, quyền hạn của người được giao
việc và hậu quả của việc thiếu ý thức để có quyết định xử phạt hợp lý tuỳ theo
mức độ nặng nhẹ của hậu quả. Việc xử phạt nghiêm khắc để răn đe đồng thời
cả người phạm lỗi và người chưa phạm lỗi. Không để tình trạng vị nể tình
riêng mà xử nhẹ gây ra tình trạng bất bình và nhờn kỷ luật đối với người lao
động. Mục đích của kỷ luật là để lần sau người vi phạm có ý tưởng sáng tạo.
Trong Xí nghiệp phải xây dựng được tinh thần đoàn kết giữa các cá nhân
cũng như giữa các phòng ban với nhau, có như vậy mới nâng cao được hiệu
quả của công việc.
Việc kỷ luật người lao động như đã nói ở trên là không được gây ra
mâu thuẫn giữa các cá nhân cũng như giữa các phòng ban vì nếu như vậy sẽ
rất nguy hiểm. Khi có mâu thuẫn xảy ra nó sẽ triệt tiêu tinh thần hợp tác giữa
các cá nhân cũng như giữa các phòng ban, nhiều khi còn ngầm phá hoại nhau
trong công việc. Kết quả là công việc trong Xí nghiệp sẽ bị ách tắc, đình trệ
và hiệu quả công việc sẽ bị giảm sút.
Tuy nhiên việc khen thưởng hay kỷ luật người lao động chỉ thật sự có ý
nghĩa khi trên thực tế trên cơ sở bố trí đúng người, đúng việc, theo dõi đánh
giá kết quả thực hiện của cán bộ công nhân viên để có biện pháp xử lý thích
hợp. Không phải mọi trường hợp sai phạm giống nhau đều có cách giải quyết
giống nhau. Chẳng hạn do công việc vượt quá khả năng dù lỗ lực người lao
động không thể hoàn thành và một bên là có năng lực nhưng do thiếu tinh
thần nên cũng không hoàn thành thì cách sử lý phải khác nhau.
Trước yêu cầu phải bố trí đúng người đúng việc đòi hỏi phải có bảng
phân tích rõ ràng, chi tiết trong đó nêu rõ tiêu chuẩn nhân viên phải có để phù
hợp với vị trí làm việc. Do vậy nếu chỉ dùng bảng thống kê số lượng, chất
lượng cán bộ công nhân viên theo hướng dẫn của Nhà nước là chưa đủ.
Bảng : Số lượng, chất lượng lao động trong Xí nghiệp
Ngành nghề
Tổng
số
Trong đó
Nữ
Cấp bậc cơ bản
1234567
Cấp bậc
bình quân
1. Lái xe
2. Cán bộ KHKT
h 59
3. Đại học, cao đẳng
4. Trung học
5. Chuyên nghiệp
6. Thợ sửa chữa
7. Sản xuất phụ
Các chỉ tiêu trong bảng có ý nghĩa với cơ quan quản lý nhà nước mà ít
có ý nghĩa với Xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình bởi vì không chi tiết là
những con người đó có được bố trí đúng việc hay không. Sẽ không có hiệu
quả nếu một người có trình độ đại học lại làm những việc chỉ yêu cầu trình độ
trung học, thật là lãng phí chất xám. Vì vậy để bố trí công việc không thể chỉ
dừng lại ở việc thống kê số lượng đơn thuần mà cần đi sâu xem xét tương hợp
của trình độ, sở trường đối với công việc và con người củ thể từ đó có
phương hướng sắp xếp nhân lực hợp lý nhằm phát huy tiềm năng nhân lực
của Xí nghiệp cải thiện môi trường làm việc. Rõ ràng một lần nữa vai trò của
bảng phân tích công việc được đề cao như một cơ sở cho việc đánh giá sự
tương hợp giữa yêu cầu công việc và năng lực của nhân viên.
Tuy thấy rằng việc bố trí đúng người, đúng việc ảnh hưởng trực tiếp tới
hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp vì nếu bố trí công việc vượt quá khả năng
thì người lao động không thể hoàn thành, ngược lại gây ra tình trạng chán nản
cho người lao động và lãng phí nguồn nhân lực.
Biện pháp 2: Về huy động và sử dụng vốn
Khó khăn lớn nhất của Xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình hiện nay là
dây chuyền công nghệ đã cũ lạc hậu, công suất thấp không phù hợp với điều
kiện sản xuất hiện tại và trong tương lai. Tuy nhiên nguyên nhân của vấn đề là
do Xí nghiệp thiếu vốn một cách trầm trọng. Lợi nhuận thấp, tích luỹ đầu tư
từ lợi nhuận hầu như không đáng kể, vì vậy để huy động vốn, trước mắt
không thể trông chờ vào khoản tự tích luỹ của Xí nghiệp .
Đứng trước yêu cầu cấp bách của việc đầu tư đổi mới, bảo dưỡng, sửa
chữa, nâng cấp dây truyền công nghệ đòi hỏi Xí nghiệp phải nhanh chóng huy
động được nguồn vốn thoả mãn những điều kiện sau:
+ Nguồn vốn huy động được phải lớn, đủ cho nhu cầu đầu tư theo kế
hoạch dự kiến. Năm 2000 do thiếu vốn nên Xí nghiệp đầu tư chỉ đạt 1,91 tỷ
h 60
tương đương 60% kế hoạch đề ra, gây khó khăn trong việc củng cố sản xuất
kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của Xí nghiệp .
+ Nguồn vốn huy động phải được dài hạn. Yêu cầu này đặt ra là do
những đầu tư vào tài sản cố định thì thời gian thu hồi vốn chậm. Vì vậy cần
vốn nhưng phải đảm bảo ổn định trong thời gian dài Xí nghiệp mới có khả
năng hoàn trả.
Như vậy Xí nghiệp phải huy động được nguồn vốn lớn, trong dài hạn
và chỉ có thể chịu được với mức lãi suất thấp. Đây là những yêu cầu mà khi
vay ai cũng mong muốn có được. Thực hiện nó ủa là một vấn đề cực kỳ khó
khăn, tuy nhiên để có vốn đầu tư có hiệu quả, vực dậy sản xuất vận tải thì Xí
nghiệp không thể không thực hiện. Hiện nay có một số ý kiến cho rằng " từ
lâu Xí nghiệp lãng phí nguồn vốn rất lớn, đó là không huy động vốn từ bản
thân các cán bộ công nhân viên nếu triển khai như trên là không căn cứ vào
thực tế vì những lẽ sau:
+ Thu nhập của cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp là chưa cao
bình quân năm 2001 là 2000.000đ/ tháng. Với số tiền này sống ở Hà Nội thì
chỉ đủ trang trải cho bản thân mình. Đời sống nói chung của người lao động
thấp vì vậy tiền tiết kiệm được không đáng kể.
+ Khi huy động vốn từ công nhân viên trong Xí nghiệp thì lãi suất trả
cho họ phải cao hơn lãi suất tiền gưỉ ngân hàng cho công nhân viên phải thấp
hơn lãi vay của ngân hàng. Nếu không thì không thể chấp nhận được.
Đứng trước tình hình như vậy ta có các thình thức tạo vốn cho Điện Tử
Truyền Hình như sau:
2.1. Về huy động vốn
- Thứ nhất
Xí nghiệp phải giải quyết tốt công việc thu hồi nợ từ khách. Không để
nợ dây dưa kéo dài, thanh lý hợp đồng dứt khoát, tuy nhiên để thu nợ đúng
hạn đòi hỏi Xí nghiệp có nhiều khéo léo. Không chỉ đơn thuân dựa vào đúng
tính hợp lý đã ký kết trong hợp đồng mà áp dụng. Nếu như vậy sớm hay
muộn cũng mất khách. Điều mấu chốt ở đây là phải thoả thuận đàm phán vì
trong cơ chế ngày nay phải cho nợ thì mới tính chuyện làm ăn lâu dài trước
hết. Xí nghiệp phải dựa vào hợp đồng ký kết để thu hồi nợ, sau đó phải trình
bày, làm cho khách hàng hiểu được những khó khăn của Xí nghiệp lớn nhất
h 61
hiện nay là vấn đề vốn và nếu thiếu nó sẽ gây đình chệ sản xuất. Vốn của Xí
nghiệp ít vì vậy việc thu hồi nợ đúng thời hạn có ý nghĩa quan trọng như thế
nào. Kết quả cuối cùng là khách hàng thông cảm và chấp nhận thanh toán.
Trong quá trình thu hồi nợ thì Xí nghiệp phải luôn nhắc nhở khách hàng để
khách hàng có sự chuẩn bị trước, tránh tình trạng bị động và không thanh
toán đúng thời hạn gây khó khăn cho Xí nghiệp .
Tóm lại để thu hồi vốn đúng thời hạn thì Xí nghiệp phải kết hợp cả hai
biện pháp đó là cả tình và lý.
- Thứ hai Xí nghiệp có thể huy động vốn từ việc thanh lý các phương
tiện máy móc thiết bị. Trong số các máy móc thiết bị của Xí nghiệp hiện nay
có một số đã hết khấu hao việc thanh lý chúng sẽ tạo cho Xí nghiệp một
nguồn vốn nhất định để đầu tư thiết bị máy móc mới.
- Thứ ba: Huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ cán bộ công nhân viên: Mặc
dù thu nhập bình quân của Xí nghiệp chưa cao nhưng nếu tiết kiệm thì mỗi
tháng mỗi người có thê trích ra từ 300.000 700.000 để tiết kiệm và nếu như
Xí nghiệp biết cách huy động được nguồn vốn này thì sẽ rất thuận lợi cho sự
phát triển của Xí nghiệp. Vì khi đã cho Xí nghiệp vay thì họ sẽ có trách nhiệm
hơn với Xí nghiệp từ đó sẽ tạo điều kiện tốt cho việc nâng cao năng suất lao
động và hạ giá thành sản phẩm giảm thiểu được những chi phí không đáng có.
- Thứ tư: Huy động nguồn vốn từ ngân hàng: đây là nguồn vốn rất quan
trọng vì vậy Xí nghiệp phải tạo mối quan hệ tốt với các ngân hàng.
Tóm lại để huy động vốn một cách có hiệu quả thì Xí nghiệp Điện Tử
Truyền Hình phải thực hiện những biện pháp sau:
+ Giải quyết tốt công tác thu hồi nợ từ khách hàng, tránh để tình trạng
nợ quá hạn.
+ Huy động vốn từ việc thanh lý các máy móc thiết bị.
+ Huy động nguồn vốn nhãn rỗi từ cán bộ công nhân viên trong Xí
nghiệp
+ Vay từ ngân hàng
2.2. Về sử dụng vốn
Sử dụng vốn một cách có hiệu quả sẽ làm giảm nhu cầu về vốn đầu tư.
Ở Xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình theo đánh giá trong thời gian qua việc
h 62
hiệu quả sử dụng vốn có xu hướng suy giảm, vì vậy yêu cầu phải chú trọng
đến vấn đề này:
+ Trước hết với một số vốn không tăng có thể tăng được doanh số hoạt
động, tạo điều kiện tăng lợi nhuận như Xí nghiệp tăng được tốc độ vốn luân
chuyển, ta có
Tổng doanh thu - vốn lưu động bình quân x hệ số luân chuyển
Như vậy trong điều kiện vốn không đổi nếu tăng được hệ số luân
chuyển sẽ tăng được doanh thu. Chẳng hạn năm 2001 nếu hệ số luân chuyển
là 3 thì doanh thu của Xí nghiệp là 51 tỷ.
+ Với một số vốn lưu động ít hơn nếu tăng tốc độ luân chuyển sẽ đạt
doanh số như cũ, thậm chí còn cao hơn nếu năm 1999 số vòng quay của vốn
lưu đông là 2, 5 thì doanh thu là 33,75 tỷ.
Ta thấy các yếu tố ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển vốn ở Xí nghiệp
Điện Tử Truyền Hình
+Tình hình thu mua, cung cấp, dự trữ nguyên vật liệu, linh kiện...
+ Tình hình thanh toán công nợ
Biện pháp 3: Đầu tư cho dây chuyền công nghệ
Qua phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời
gian qua (1999 - 2001) và tìm ra nguyên nhân, ta thấy yêu cầu nâng cấp dây
chuyền công nghệ là yêu cầu bức thiết của Xí nghiệp và cần phải đáp ứng kịp
thời.
Khi đầu tư nâng cấp dây chuyền công nghệ phải căn cứ vào:
+ Nhu cầu thị trường hiện tại và trong tương lai: Đây là yếu tố hàng đầu
vì sản phẩm của Xí nghiệp là sản phẩm Điện Tử do đó hao mòn vô hình rất
nhanh vì vậy nó sẽ ảnh hưởng lâu dài đối với hiệu quả hoạt động của Xí
nghiệp .
+ Khả năng tài chính của Xí nghiệp: Vốn đầu tư nâng cấp dây chuyền
công nghệ của Xí nghiệp là rất khan hiếm vi vậy khi đầu tư phải chú ý đến
vấn đề chi phí nếu không sẽ vượt quá khả năng của Xí nghiệp và dự án đầu
tư không có tính khả thi
+ Phụ tùng thay thế: Trong quá trình hoạt động thì máy móc thiết bị
không tránh khỏi hao mòn hỏng hóc cần sửa chữa và có phụ tùng thay thế.
h 63
+ Khả năng thích ứng với điều kiện Việt Nam: Khí hậu nhiệt đới ẩm
của Việt Nam dễ làm ăn mòn nhanh máy móc thiết bị; máy móc thiết bị phải
phù hợp với người Việt Nam ví dụ về chiều cao:
+ Kế hoạch và chiến lược của Xí nghiệp trong thời gian tới:
Để đầu tư có hiệu quả thì bộ phận đầu tư phải kết hợp với các phòng
ban để biết rõ về kế hoạch sản xuất kinh doanh trong thời gian tới tránh tình
trạng đầu tư nâng cấp máymóc thiết bị mà chỉ sử dụng được một phần công
suất của máy
+ Xí nghiệp cần phải nắm bắt thông tin về giá cả của thị trường để
tránh tình trạng mua "hớ". Một vấn đề quan trọng nữa là Xí nghiệp phải
đánh giá chính xác giá trị của các bộ phận phải nâng cấp, tình trạng của các
bộ phận đó... Như vậy bộ phận đầu tư phải kết hợp với các Xí nghiệp có
kinh nghiệm trong công việc này để thực hiện kế hoạch đầu tư một cách tốt
nhất.
Biện pháp 4: Về thành lập phòng Marketing
Sự đình trệ trong hoạt động tiêu thụ hàng hoá của Xí nghiệp Điện Tử
Truyền Hình ngoài một số nguyên nhân như chất lượng chưa cao mẫu mã
chưa phong phú đa dạng thì sự biến động liên tục của hàng hoá trên thị trường
đã cản trở Xí nghiệp rất nhiều trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng
doanh thu và lợi nhuận cho Xí nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tạo
nguồn hàng ổn định vì sự cạnh tranh rất mạnh của Xí nghiệp liên doanh với
nươc ngoài, vì vậy sản phẩm tồn kho vẫn nhiều.
Kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì hoạt động marketing giữ vai
trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của Xí nghiệp .
Xí nghiệp luôn mong muốn tăng sản lượng hàng hoá bán ra, tăng doanh
thu nhưng lại không có biện pháp cụ thể nào. Hàng hoá bán ra chủ yếu dựa
vào các khách hàng truyền thống. Vì vậy trong những năm qua sản lượng
hàng hoá tăng không đáng kể. Đã đến lúc Xí nghiệp cần có một hướng mới
trong việc tìm kiếm khách hàng bên ngoài khách hàng quen thuộc, có như vậy
Xí nghiệp mới tăng được nhanh, mạnh sản lượng hàng hoá bán ra.
Thực tế hiện nay Xí nghiệp chưa có một phòng riêng biệt nào đứng ra
đảm trách về công tác marketing mà tìm hiểu thị trường. Một câu hỏi rất khó
trả lời là tại sao trong một thời gian dài và cho đến tận thời điểm hiện nay Xí
h 64
nghiệp, nhà nước không còn bao cấp nữa tức Xí nghiệp phải tìm đến khách
hàng và tự lo cho mình hàng hoá sản xuất trong khi hầu hết các doanh nghiệp
khác thì không thể thiếu. Phải chăng Xí nghiệp chưa nhận thức được tầm
quan trọng của công tác marketing và tìm hiểu nhu cầu thị trường tình trạng
xe nằm chờ hàng kéo dài với nhiều xe gây cho Xí nghiệp nhiều khó khăn sức
ép về tạo việc làm cho lao động, hoạt động vận tải thua lỗ và nếu có lời thì lợi
nhuận cầm chứng như đã trình bày ở trên và rất thấp.
Yêu cầu huy động vốn để đầu tư đặt ra rất cấp thiết và cần nhanh chóng
triển khai để đưa ra khỏi giai đoạn trì trệ như hiện nay.
Trước những vấn đề như vậy tính cấp thiết của việc thành lập bộ phận
chuyên về công tác marketing và nghiên cứu thị trường là hết sức đúng đắn và
cần được sự quan tâm của ban lãnh đạo Xí nghiệp trong việc chỉ đạo và hỗ trợ
kinh phí để nhanh chóng thành lập một phòng marketing. Tuy nhiên khó khăn
ở đây là khái niệm về marketing xem ra còn khá mới mẻ với Xí nghiệp. Việc
nghiên cứu nắm bắt nhu cầu thị trường về hàng hoá, ký kết hợp đồng do
phòng marketing đảm nhiệm từ trước tới nay chưa có ở Xí nghiệp. Xác định
bước đầu thành lập phòng Marketing và đưa nó vào hoạt động ở Xí nghiệp
Điện Tử Truyền Hình cả một vấn đề nhưng nó có ý nghĩa quan trọng với Xí
nghiệp và yêu cầu nhanh chóng thành lập.
Việc thành lập phòng Marketing bước đầu phải thử nghiệm tính thiết
thực mà nó mang lại, vì vậy theo tôi phòng chỉ nên có 3 người, một trưởng
phòng làm công tác chỉ đạo và tổng hợp kết quả và hai nhân viên chuyên vào
tìm hiểu nghiên cứu nhu cầu thị trường, các nhu cầu hiện tại và trong tương
lai. Từ đó mới tiếp cận với khách hàng và ký hợp đồng kinh tế. Ngoài ra
phòng Marketing có nhiệm vụ quảng cáo về Xí nghiệp cho khách hàng hiểu
và giúp khách hàng có đủ thông tin cần thiết để tạo dựng mối làm ăn lâu dài.
Công việc đầu tiên là tuyển nhân viên. Do lần đầu tiên thành lập nên
đòi hỏi phải là những người có kinh nghiệm từ 2 - 3 năm trở lên, kỹ năng ưu
tiên là năng động, giao tiếp tốt, có thể làm việc độc lập và thành thạo về
chuyên môn marketing. Nhiệm vụ chủ yếu của nhân viên marketing như sau:
- Điều tra thị phần các vùng xác định, các vùng cơ bản và vùng triển
vọng, xác định nguyên nhân và đưa ra giải pháp
- Tìm được khách hàng có nhu cầu để ký hợp đồng kinh tế sản lượng
tiêu thụ cho Xí nghiệp
h 65
- Thiết kế hệ thống thu nhập thông tin phản hồi từ khách hàng để có
biện pháp điều chỉnh thích hợp
- Phải làm cho khách hàng nắm được những thông tin đầy đủ về Xí
nghiệp tạo dựng niềm tin với khách hàng để giữ mối quan hệ làm ăn lâu dài.
- Điều tra thường xuyên, theo dõi động thái và thực trạng của các đối
thủ cạnh tranh để có những đối sách hợp lý.
- Ngoài công việc về tiêu thụ gia thì phòng Marketing còn có nhiệm vụ
nghiên cứu và dự báo nhu cầu về hàng hoá để có lượng dự trữ tối ưu tránh
tình trạng tồn đọng hàng hoá dẫn đến ứ đọng vốn.
Mặt khác để khuyến khích phòng Marketing trong việc tìm kiếm khách
hàng thì Xí nghiệp cần phải có một chính sách hợp lý. Theo tôi ngoài tiền
lương làm việc theo thời gian ra Xí nghiệp cần trích thưởng phần trăm doanh
thu của hợp đồng mà phòng marketing ký kết được. Với cơ chế đãi ngộ này
chắc chắc sản lượng tiêu thụ của Xí nghiệp nhất định tăng nhanh.
Chưa hết, để đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ phận Marketing và có
những điều chỉnh kịp thời Xí nghiệp phải xây dựng các chỉ tiêu đánh giá như
sau:
* Tốc độ tăng sản lượng hàng hoá bán ra
* Tốc độ tăng doanh thu
* Tốc độ tăng lợi nhuận
Các chỉ tiêu này phải so sánh với những năm trước để thấy rõ kết quả
mà phòng marketing đạt được.
Tóm lại: Mục đích cuối cùng của việc thành lập Marketing là tăng sản
lượng không ngừng dự báo chính xác nhu cầu thị trường và nâng cao khả
năng cạnh tranh cho Xí nghiệp .
Biện pháp 5: Thành lập phòng chất lượng
h 66
D. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC
1. Trong lúc chuẩn bị xây dựng luật cạnh tranh đề nghị chính phủ sớm
ban hành những quy định về khuyến khích cạnh tranh và kiểm soát độc quyền
để khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả bằng cách giảm thuế
đối với những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để tạo điều kiện cho họ đầu
tư đổi mới công nghệ. Đối với những doanh nghiệp có quy mô lớn khuyến
khích họ tạo công ăn việc làm cho người lao động bằng cách sẽ giảm mức
thuế xuất khẩu đối với những doanh nghiệp có số lao động từ 50 99 người,
không đánh thuế xuất khẩu với những doanh nghiệp có số lao động lớn hơn
100 người
2.Sửa đổi một số luật, có liên quan đến việc cung cấp các sản phẩm
của ngành Phát thanh - Truyền Hình nghị định đã bộc lộ những hạn chế và bất
cập so với thực tế.
3. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn để phát triển
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bằng cách có thể dùng uy tín của
doanh nghiệp để cho vay.
h 67
KẾT LUẬN
Trong cơ chế thị trường thì hiệu quả sản xuất kinh doanh có ý nghĩa
cực kỳ quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp. Nó quyết định sự tồn tại và
phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy nó bắt buộc mọi doanh nghiệp phải huy
động tối đa và sử dụng mọi nguồn lực hiện có một cách tối ưu nhất để đạt
được hiệu quả và lợi nhuận là yếu tố hàng đầu để đánh giá. Xem xét một
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không.
Mặc dù Xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình với ưu thế hoạt động lâu năm:
uy tín các mối quan hệ khách hàng quen thuộc, có thể nói rằng trong những
năm qua Xí nghiệp Điện tử Truyền Hình hoạt động chưa thực sự có hiệu quả,
cụ thể biểu hiện qua kết quả hoạt động là lợi nhuận thu được chưa cao.
Trong quá trình thực tập tại Xí nghiệp tôi đã có dịp nghiên cứu, phân
tích thực trạng và hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp thời gian qua, tìm ra được
nguyên nhân thấy rõ được tầm quan trọng của hiệu quả hoạt động đối với Xí
nghiệp và tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp thực hiện nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian tới.
Dựa trên lý luận của hiệu quả kinh tế và qua phân tích thực trạng của
Xí nghiệp các giải pháp tập trung vào nhân lực DNNN đề cập đến vấn đề
tuyển mộ, tận dụng số thời gian nhàn rỗi, bố trí, sắp xếp lại lao động, khuyến
khích vật chất, tinh thần và kỷ luật người lao động. Giải pháp huy động với
chi phí thấp nhất và sử dụng có hiệu quả nhất. Giải pháp đầu tư nâng cấp dây
chuyền công nghệ để củng cố và nâng cao năng lực sản xuất của Xí nghiệp .
Giải pháp thành lập phòng Marketing nhằm tạo và tăng khả năng tiêu thụ cho
Xí nghiệp trong thời gian tơí.
Bên cạnh những vấn đề được giải quyết, bài viết còn chưa đề cập đến
hoặc đề cập chưa đầy đủ các vấn đề sau: Tìm hiểu chi phí lợi nhuận và thị
phần của các đối thủ cơ bản, các đối thủ tiềm năng đồng thời tìm hiểu
nguyên nhân và giải pháp cụ thể để thu hút và giữ khách hàng và tăng khả
năng cạnh tranh của sản phẩm. Chưa xây dựng được chương trình phát triển
đồng bộ gồm hai phần chủ yếu là tuyển mộ, khuyến khích tinh thần làm việc,
chỉ dừng lại ở phương hướng mà chưa cụ thể số lượng đào tạo lại, tuyển mộ
h 68
hàng năm các bước đi trong khích lệ tinh thần làm việc và đào tạo đội ngũ kế
vị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp
PGS. TS. Nguyễn Hữu Huy (chủ biên)
NXB Giáo dục- 1998
2. Kinh tế và quản lý công nghiệp
GS. TS. Nguyễn Đình Phan (chủ biên)
NXB Giáo dục1998
3. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp
PGS. TS. Lê Văn Tâm (chủ biên)
NXB Giáo dục 1998
4. Vốn và giải pháp về vốn trong quản lý vĩ mô và vi mô
Khoa kế toán - Hà Nội 1997
5. Giáo trình phân tích kinh doanh - Trường ĐHKTQD - Hà Nội
TS. Phan Thị Gái (chủ biên)
6. Tài liệu của VINASTAS
Số 57 - Tháng 6 - 1998
Số 87 - Tháng 6, 7 - 2001
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Những biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của xí nghiệp Điện Tử Truyền Hình.pdf