Luận văn Những cơ sở lý luận của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam

Bảo hiểm cho hàng hoá, tài sản kinh doanh bảo hiểm ra đời do sự tồn tại khách quan của rủi ro, là để bù đắp về tài chính nhằm khắc phục hậu quả của rủi ro chứ không phải để ngăn chặn rủi ro, khi tham gia hoạt động bảo hiểm công ty cần phải chú ý: - Xác định rõ các loại rủi ro nào cần bảo hiểm - Cân nhắc nên mua loại bảo hiểm nào - Bảo hiểm bao nhiêu cho đủ Trong thế giới kinh doanh hiện đại, rủi ro bất trắc có rất nhiều. Vì vậy, nhà kinh doanh phải dám mạo hiểm và biết mạo hiểm, sẵn sàng chấp nhận rủi ro sau khi đã phân tích, tính toán, tìm ra các phương pháp phù hợp phòng ngừa rủi ro và không ngừng hoàn thiện các phương pháp đó mơí mong nhận được phần thưởng là lợi nhuận trong kinh doanh

pdf40 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2160 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những cơ sở lý luận của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở rộng, củng cố thị phần và vị thế của doanh nghiệp trên thị trường.... Do vậy công tác phát triển và tạo nguồn vốn cho sản xuất hàng năm của Công ty được coi trọng bằng các biện pháp thường xuyên là: + Vay vốn: chủ yếu vay vốn ngắn hạn Ngân hàng. + Tính khấu hao theo tỷ lệ hợp lý để bổ xung cho vốn đầu tư vào sản xuất. Công ty thường tính khấu hao tỷ lệ hợp lý để bổ xung cho vốn đầu tư vào sản xuất. Công ty thường tính khấu hao tỷ lệ với sản lượng sản phẩm sản xuất ra đảm bảo thu hồi được vốn do gắn liền với sản xuất. Cơ cấu tổng số vốn sản xuất kinh doanh từ năm 1998 – 2001 (bảng 2) ĐVT: Nghìn đồng Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 1. Vốn cố định 2. Vốn lưu động 5.046.150 3.792.208 5.103.000 3.049.000 5.103.000 4.097.000 5.498.000 6.502.000 Tổng cộng 8.838.358 8.152.000 9.200.000 12.000.000 Nguồn: Số liệu phòng kế toán tài chính Qua biểu trên ta thấy, tổng vốn kinh doanh của Công ty đã tăng lên hàng năm, chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh cảu Công ty rất có hiệu quả và Công ty đã rất chú trọng đến việc phát triển vốn để có thể giành thế chủ động trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. 2. Nguồn cung cấp nguồn vật liệu chính. Tính chất của việc sản xuất chè là cần có nguyên liệu đã qua sơ chế. Nguồn cung ứng nguyên liệu chè đã qua sơ chế này chủ yếu là 3 đơn vị trực thuộc Công ty là nhà máy chè Định Hoa, xí nghiệp chè Đại Từ và xưởng chè Ngọc Thanh. Bên cạnh đó là hương ưowps cũng không kém phần quan trọng như hương nhài, ngâu, sen nguồn hương này chủ yếu là thu mua từ các xã lân cận như Mai Đinh, Đồng Xuân, Phú Cường, Phù Lỗ... Ngoài nguyên liệu để sản xuất chè, Công ty còn có nhu cầu về bao bì á Châu – TP – Hồ Chí Minh, Công ty bao bì Phú Thương – Bộ thương mại, các Công ty này chuyên cung cấp bao bì bằng bìa cactôns các loại hộp bằng thép lá tráng thiếc, hộp duplex... Dưới đây là tổng giá trị nguyên liệu chè sơ chế thu mua của Công ty từ các đơn vị trực thuộc trong các năm 1998 – 2001. Biểu 4: Tổng giá trị nguyên liệu mua vào năm 1998 Nguồn cung cấp Chè xanh Chè đen Số lượng (tấn) Đơn giá (tr.đ/tấn) Thành tiền (tr.đ) Số lượng Đơn giá Thành tiền 1. NM chè Đình Hoá 2. XN chè Đại Từ 3. Xưởng chè Ngọc Thạch 150 150 198 13 12,7 13 1.1980 1.905 2.774 875 485 53 12,2 12,2 12,8 10.675 5.917 678,4 Tổng cộng 498 6.429 1413 17270,4 Tổng giá trị nguyên liệu mua vào năm 1999 Nă m Nguồn cung cấp Chè xanh Chè đen Số lượng Đơn giá Thành tiền Số lượng Đơn giá Thành tiền 199 9 1. NM chè ĐH 2. ₡XN chè ĐT 3. Xưởng chè NT 162 320 - 13,2 13 - 2.138,4 4.160 310 400 146 12,8 12,5 13 3.968 5.000 1898 Tổng cộng 482 6.298,4 856 10.866 200 0 1. NM chè ĐH 2. XN chè ĐT 3. Xưởng chè NT 200 100 140 13,5 13,2 13,8 2.700 1.320 1.932 919 485 400 13 12,8 13 11.947 6.208 5.200 Tổng cộng 440 5.952 1.804 23.355 200 1 1. NM chè ĐH 2. ₡XN chè ĐT 3. Xưởng chè NT 210 200 110 13,7 13,8 14 3.151 2.760 1.540 1.045 525 440 13,2 13 13,5 13.794 6.825 5.940 Tổng cộng 550 7.451 2000 26.559 Biểu 5: Bảng so sánh giá trị sản lượng mua vào qua các năm ĐVT: Tr.đ Tên SP 1998 1999 2000 2001 Năm 99 so với năm 98 Năm 2000 so với năm 99 Năm 2001 so với năm 2000  %  %  % - Chè xanh 6429 6298,4 5.952 7451 -130,6 98 - 346,4 94,5 1.499 125 - Chè đen 17270,4 10.866 23.355 26.55 9 - 6404,4 63 1248 9 215 3.204 114 Tổng 23.694,4 17.164 ,4 29.307 34.01 0 Nguồn: Số liệu phòng tài chính – kế toán 3. Công nghệ và trang thiết bị sản xuất. Vì trước đây Công ty là một doanh nghiệp Nhà nước với các thiết bị chế biến đều cũ kỹ và lạc hậu, chủ yếu là do Liên Xô và Trung Quốc sản xuất, cho nên năng suất thấp và chất lượng sản phẩm kém. Đến năm 1993 Công ty đã thay thế toàn bộ thiết bị sao chè của Trung Quốc bằng thiết bị sao chè của Đài Loan là 4 chiếc. Với hệ thống này năng suất tăng 1,5 lần so với máy sao chè của Trung Quốc, chè sao đạt chất lượng và đảm bảo vệ sinh công nghiệp đạt tiêu chuẩn quốc tế. Năm 1994 Công ty đã đầu tư máy đóng gói chè túi lọc của Italia với công suất 150 gói chè/phút. Với thiết bị này sản phẩm đã đạt chất lượng tương đương với sản phẩm chè Liptons của Anh nhưng giá chỉ bằng 1/2 giá bán của chè Liptons. Năm 1997 Công ty quyết định đầu tư 12 tỷ đồng để xây dựng một nhà máy sản xuất chè ORTHODOX tại Định Hoá Thái Nguyên với công suất 12 tấn chè búp tươi/ngày. Đến nay, chè Kim Anh đã được sản xuất trên dây truyền công nghệ hiện đại của Italia duy nhất có tại Việt Nam nhằm tiêu chuẩn hoá nguyên liệu đảm bảo vệ sinh, tiện lợi cho người sử dụng và tạo nên sự trang nhã cho sản phẩm. Công nghệ chế biến Đài Loan đã làm giảm lượng tananh và các dư lượng hoá học có trong chè. Công thức hương tối ưu với nhiều vị thuốc bắc, thuốc nâm của hệ thức hương tối ưu với nhiều vị thuốc bắc, thuốc nam của hệ thảo dược, như đại hồi tiêu hồi, hoa cúc, ngâu, sen... sản phẩm chè Kim Anh đã đăng ký độc quyền về mẫu mã bao bì nhằm đảm bảo uy tín chất lượng trên thị trường. Dưới đây là quy trình sản xuất 2 loại chè xanh và đen. Quy trình sản xuất chè xanh (công nghệ của Đài Loan) + Giai đoạn 1: Sơ chế + Giai đoạn 2: Tinh chế 2. Quy trình sản xuất chè đen (công nghệ của Liên Xô cũ) + Giai đoạn 1: Sơ chế + Giai đoạn 2: Tinh chế Trước khi vào giai đoạn tinh chế nếu độ ẩm của chè > 7% thì sấy lại, tiếp đó sàng phân loại sau quá trình này chè được phân làm 2 nhóm khác nhau. - Nhóm hàng tốt gồm những loại chè: OP, P, FBOP - Nhóm hàng TB gồm những loại chè: PS, PTS, F, D 4. Nguồn nhân lực. Con người luôn là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự thành công hay thất bại trong mọi hoạt động sản xuất của Công ty. Hiện nay Công ty có 450 cán bộ Luộc (trần) Chè Rửa Chè (làm nguội) ép khô Rũ tới Vò Sấy khô Sấy khô Sàng phân loại Lấy búp Sao hươn g ủ hương (40-45 ngày) Sàng tách hương Ba o gó Kéo chè t0 từ 50-600C trong vòng 6-8h Mô lần 1 Sàng tới Vò lần 2 Lên men (3h) Xấ y kh Sấy khô Sàng phân loại Đấu trộn Đóng gói công nhân viên và đội ngũ cán bộ phần nào đã được trẻ hoá, lành nghề năng động, sáng tạo và có tính kỹ luật cao. Nhiều tổ chức sản xuất bậc thợ. Nâng cao tay nghề và trình độ của người lao động để thích ứng với dây truyền công nghệ sản xuất mới là tiền đề nâng cao chất lượng sản phẩm của Công ty. Bên cạnh đó Công ty đã nâng cao trình độ quản lý của cấp lãnh đạo nhằm nắm bắt kịp thời những tiến bộ của công nghệ mới, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về nhà quản trị giàu chất xám, phát huy tính năng động và quyết đoán của mỗi thành viên rong Công ty. Biểu 6: Kết cấu lao động của Công ty từ năm 1998-2001 Chức danh Năm 1998 Tổng số Năm 99 Tổng Năm 2000 Tổng Trình độ HV Trình độ HV Trình độ HV ĐH, CĐ TC PT ĐH, CĐ TC PT ĐH, CĐ TC PT - NV văn phòng, ( Bộ phận QL QLPX) 24 16 2 42 24 16 0 40 25 20 0 45 - Lái xe 3 5 8 3 5 8 3 5 8 - CN cơ khí 2 4 6 2 4 6 2 4 6 - CN trực tiếp sản xuất 3 50 26 0 313 0 50 256 306 0 306 77 385 Bảo vệ – Nhân viên khác 8 8 8 8 8 8 Tổng số 29 73 27 5 377 26 73 269 370 27 333 90 450 Qua trên, ta có thể nhận thấy rằng, Công ty cổ phần chè Kim Anh hiện nay đã có những nguồn nội lực khá ổn định và vững chắc tạo ra những điều kiện thuận lợi như đáp ứng kịp với sự thay đổi của nhu cầu thị trường, tăng sức cạnh tranh của mặt hàng chè thương phẩm... cho Công ty trong việc củng cố, mở rộng và phát triển thị trường chè nói trên và xuất khẩu trong tương lai. c. Thị trường nội tiêu. Đã từ lâu chè đã đi vào cuộc sống hàng ngày của mỗi người dân Việt Nam, uống chè đã trở thành một thòi quen tạo nhã.Ngày nay không chỉ có những người vừa uống chè mà cũng đã có phần lớn tầng lớp thanh niên có thú vui uống chè. Không chỉ có vậy mà họ còn có nhu cầu về chè, có chất lượng cao, tiện lợi và hợp vệ sinh.. Nhằm đáp ứng nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng, Công ty đã cho ra đời những sản phẩm mới có chất lượng cao như chè túi lọc, chè sen, chè Nhài, chè Dâu... do vậy, Công ty đã xây dựng và hoàn thiện hệ thống hơn 50 đại lý phân phối sản phẩm từ miền trung trở ra và hầu hết các tỉnh phia Bắc. Đặc biệt trong năm 2000, Công ty đã mở rộng thị trường chè tại Thành Phố Hồ Chí Minh, Huế và mở thêm 2 tổng đại lý phân phối sản phẩm tại các tỉnh phía Nam. Do tính chất đặc điểm của sản phẩm, thời điểm mà thị trường có nhu cầu cao nhất là vào dịp tết Nguyên Đán. Tuy nhiên sự phát triển của nhu cầu thị trường về sản phẩm chè tăng nên đã kéo theo s phát triển của những Công ty sản xuất kinh doanh chè trong và ngoài nước, xuất hiện những đối thủ cạnh tranh, đó là yếu tố khách quan. Do đó lượng sản phẩm tiêu thụ trong nước của Công ty cũng bị giảm sút. Trước tình hình đó Công ty đã và đang chủ động hướng vào thị trường xuất khẩu. d. Thị trường xuất khẩu. Trong khi thị trường trong nước đang gặp khó khăn nhất định thì thị trường nước ngoài đang mở ra những cơ hội phát triển hết sức thuận tiện . tuy nhiên những thị trường này đòi hỏi chất lượng sản phẩm rất cao và chửng loại sản phẩm đa dạng. Do vậy, Công ty xuất khẩu phần lớn là hàng hoá nguyên liệu, sản phẩm cuối cùng chiếm một tỷ lệ nhỏ. Những nước mà Công ty xuất khẩu chè đó là, Nga, Trung Quốc, Pháp, Hồng Kông, LiBi, Singapor, Irắc, Iran, Đài Loan, Mỹ.... Thực tế Công ty đã có những năm làm công tác xuất khẩu và phàn lớn sản phẩm chè là xuất khẩu (chiếm 70-80% tổng sản lượng) nhưng sản lượng chè Công ty trực tiếp xuất khẩu còn ít, chủ yếu xuất khẩu phải thông qua và chịu sự điều phối của Tổng Công ty chè Việt Nam. Do vậy, phần này không có số liệu cụ thể vê từng thị trường xuất khẩu của Công ty. Hàng năm doanh số xuất khẩu chè chiếm trên 80% trong tổng doanh thu của Công ty, cho nên vấn đề chính về thị trường là thị trường nước ngoài, Đây là triển vọng để Công ty có thể mở rộng thị trường và khuyếch trương uy tín của Công ty trên thị trường thế giới. Để thực hiện là thị trường tiêu thụ, vì đó là mục tiêu lớn nhất để cho một ngành sản xuất kinh doanh phát triển, nó quyết định toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh và sự phát triển trong tương lai. Để giữ vững thị trường đã có và ngày càng mở rộng nhiều hơn quan trọng là phải tạo ra được sản phẩm chè có chất lượng cao, bao bì đẹp thu hút được người tiêu dùng, giá thành hợp lý, sản phẩm cạnh tranh được trên thị trường mà trong đó chất lượng là nhân tố quyết định hàng đầu. Trong những năm qua, Việt Nam chủ trương mở rộng các mối quan hệ tham gia tích cực vào các tổ chức kế toán thế giới và khu vực, nên thị trường xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam đã có những thay đổi rõ rệt theo chiều hướng đa phương hoá. Hiện nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại kế toán với 120 nước và vùng lãnh thổ. Theo 1 số chuyên gia kế toán thì có tới 90% kim ngạch xuất nhập khẩu tập trung vào 14 nước trong đó Châu á có 9 nước, Châu Âu có 5 nước. 1. Khái quát về chất lượng và giá cả một số loại chè xuất khẩu chủ yếu của Công ty KATEACO. Như chúng ta đã biết, chất lượng của chè không chỉ phụ thuộc vào khâu chế biến công nghiệp mà còn chịu ảnh hưởng của giống chè, phương thức hái chè, quá trình canh tác, công tác bảo quản, đóng gói, vận chuyển. Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty là chè đen (chiếm hơn 90% tổng sản lượng xuất khẩu) Chất lượng chè xuất khẩu của Công ty trong những năm qua khá ổn định vì được sản xuất trên dây chuyền công nghệ hiện đại, có đủ điều kiện đảm bảo vệ sinh công nghiệp (như đã nêu ở phần công nghệ và trang thiết bị sản xuất, ...) và nguyên liệu chè được lấy từ những vùng nguyên liệu chọn lọc. Do đó sản phẩm chè xuất khẩu của Công ty đã có sức cạnh tranh trên thị trường nước ngoài. Tuy nhiên, năm 2001, theo xu thế chung của thị trường thế giới giá chè xuất khẩu của Công ty đã giảm từ 10-15% và giá chè xuất khẩu trung bình còn 1700-1800 USD / tấn trong khi đó giá chè của Việt Nam đã thấp hơn so với giá xuất khẩu bình quân hàng năm của thế giới khoảng 10%. Như vậy, để có thể nâng cao giá chè xuất khẩu của Việt Nam không chỉ đòi hỏi nổ lực hơn nữa của Công ty KAATEACO mà còn là của toàn ngành chè Việt Nam. Theo các nhà phân tích hiệp hội chè thế giới, nhu cầu tiêu dùng chè trong năm 2000 và 2001 giảm là do người sản xuất không chú ý đến chất lượng giống chè. 2. Cơ cấu mặt hàng chè xuất khẩu của Công ty. Trong những năm qua Công ty rất chú ý tới cơ cấu mặt hàng chè xuất khẩu vào các khu vực thị trường. Tình hình cơ cấu các loại chè xuất khẩu vào các khu vực thị trường được thể hiện qua bảng dưới đây. ĐVT: % khối lượng Năm Loại chè 1998 1999 2000 2001 Chè OP đen Chè FBOP đen Chè P đen Chè BPS đen Chè F xanh Chè xanh ĐB dóng bóng 31,4 15,3 21,5 10,1 4,6 5,1 40,2 15,8 19,6 14,7 13,4 6,3 37,4 511 32,7 10,2 4,2 4,5 35,9 14,2 30,8 10,6 3,3 5,2 Nguồn: Phòng kế hoạch Từ bảng 7, ta thấy rằng: cơ cấu các chủng loại chè đen xuất khẩu của Công ty chiếm tỷ trọng rất lớn, chiếm trên 90%. Như vậy, nhu cầu tiêu dùng trên thế giới chủ yếu là chè đen, mặt khác chất lượng của loại chè này rất phù hợp với thị hiếu của người Châu Âu và Châu á. Trong cơ cấu chè đen thì 2 loại chè cao cáp chè BOP đen và BPS đen có chiều hướng giảm tỷ trọng trong khi đó 2 loại chè OP đen và chè P đen có xu hướng tăng. Nguyên nhân chủ yếu là giá của 2 loại chè cao cấp có xu hướng tăng dẫn đến lợi nhuận thu được các từ việc nhập khẩu thấp hơn các loại chè khác. Mặt khác, nhu cầu tiêu thụ chè cấp thấp hiện nay có xu hướng tăng lên nên chắc chắn các loại chè cao cấp có chiều hướng giảm tỷ trọng. Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, các công nghệ chế biến chè cấp thấp dần dẫn được đổi mới cho phù hợp với chất lượng chế biến ra trong khi đó các công nghệ chế ra các loại chè cao cấp rất đắt. Vì vậy, chất lượng của loại chè cấp thấp luôn được cải tiến còn chất lượng cảu các loại chè cấp thì không mấy thay đổi cho nên người tiêu dùng sẽ chuyển sang tiêu dung chè cấp thấp ngày càng nhiều hơn. 3. Đối thủ cạnh tranh và những sản phẩm thay thế. a. Môi trường trong nước. Hiện nay, nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng khan hiếm, môi trường cạnh tranh đang biến đổi theo chiều hướng giá tăng, nhu cầu cũng được tăng lên từ phía các doanh nghiệp và các cá nhan. Do đó, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành là yếu tố không thể tránh khỏi, chính điều đó vừa tạo ra những cơ hội đồng thời tạo ra những mối đe doạ cho các doanh nghiệp trong nội bộ ngành. b. Môi trường quốc tế. Do Công ty sản xuất chè xuất khẩu nên sản phẩm được đem đi tiêu thụ ở nhiều nước trên thế giới, vì thế không tránh khỏi các đối thủ Công ty trên thương trường quốc tế. Hầu hết các Công ty chè này phần lớn là ở các nước có điều kiện địa lý, khí hậu thuận lợi cho việc phát triển như Trung Quốc, Xrilanca, ấn Độ, Idonesia, Kenia... họ lại hơn hẳn về trình độ sản xuất, công nghệ chế biến, cơ sở vật chất và trang thiết bị. Vì vậy, việc cạnh tranh của Công ty ở thị trường nước ngoài đòi hỏi nổ lực nhiều hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Nước ta hiện nay đang đứng thứ 9 trên thế giới về xuất khẩu chè. Trong khi các nước xuất khẩu lớn như ấn độ, Xrilanca, Kenia.. còn rất ít hoặc không còn khả năng mở rộng diện tích trồng và phát triển chè thì nước ta còn khả năng rất lớn khoảng 20.000 ha chè chưa khai phá. Với tư cách là một Công ty hàng đầu trong tổng Công ty chè Việt Nam, có dây truyền công nghệ cao, Công ty KATEACO đang có những cơ hội để mở rộng và thâm nhập thị trường quốc tế. c. Mối đe doạ từ những sản phẩm thay thế. Trong thời đại ngày nay, thời đại công nghệ, nhu cầu của ngưòi tiêu dùng không những đòi hỏi sản phẩm có chất lượng cao mà còn phải tiện dụng, hợp vệ sinh và các nhu cầu tập quán, sở thích khác nhau. Vì vậy mà trên thị trường hiện nay đã có rất nhiều loại sản phẩm đồ uống khác nhau như Coca – Cola, Pepsi trà Dilmah, Lipton, cà phê, bia, rượu... Mối đe doạ này sẽ ngày càng lớn nếu như người sản xuất kinh doanh chè không luôn luôn cải tiến, đa dạng hoá sản phẩm chè của mình cho phù hợp với nhu cầu tiện dụng của người tiêu dùng. Rất nhiều người thích uống chè nhưng vì tính không tiện dụng nưh hiện nay mà người ta tìm những sản phẩm khác thay thế. Vấn đề đặt ra là nhà sản xuất kinh doanh chè cần cải tiến và đa dạng hoá sản phẩm của mình đến mức nào để người tiêu dùng có thể chấp nhận được và thói quen sở thích của họ được đáp ứng mọi lúc mọi nơi như những sản phẩm đồ uống. e. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong những năm qua của Công ty KATEACO. 1. Tình hình tiêu thụ các mặt hàng. Sự hoạt động có hiệu quả của bộ máy quản lý cùng với các chính sách đúng đắn về sản phẩm, giá cả, thị trường ... của Công ty KATEACO đều được phản ánh rõ rệt và chân thực qua kết quả tiêu thụ sản phẩm của Công ty trong những năm qua (từ 1998-2001) được thể hiện qua bảng dưới đây. (Xem biểu 8 trang 32) Qua biểu 8 ta thấy rằng: Lượng sản phẩm tiêu thụ qua từng năm của Công ty đều tăng lên. Lượng sản phẩm bán ra năm 1999 tăng 34% so với năm 1998 năm 2000 tăng 28% so với năm 1999 và năm 2001 tăng 3% so với năm 2000. Do Công ty đã dự báo được tình hình giá chè trên thị trường thế giới sẽ giảm nên lượng sản phẩm có trong năm 2001 chỉ tăng 2% và lượng sản phẩm tiêu thụ chỉ tăng 3% so với năm 2000. Qua đó, có thể thấy tỷ trọng lượng chè xuất khẩu năm 1998 chiếm 38% sản lượng tiêu thụ. Nhưng năm 1999, lượng chè xuất khẩu đã tăng lên đạt 66,7% và nhờ nắm bắt và khai thác đúng thị trường mà năm 2000 lượng chè xuất khẩu của công ty đạt tới 82% và 83,8% năm 2001. Trước tình hình thị trường trong nước còn ít khả năng mở rộng và có sự cạnh tranh gay gắt của các công ty trong nước và ngoài nước. Công ty KATEACO đã tích cực tìm kiếm thị trường chè xuất khẩu đồng thời nhanh chóng linh hoạt đổi mới mẫu mã, nâng cao chất lượng sản phẩm… và sắp xếp lại bộ máy quản lý sản xuất một cách phù hợp nên đã giảm được giá thành sản phẩm. Từ khi đi vào cổ phần hoá, công ty đã đầu tư một số thiết bị máy móc hiện đại nhờ đó mà chất lượng chè ngày càng được nâng cao. Năm 1999 sản lượng chè xuất khẩu đạt 903.166 kg đạt giá trị kim ngạch xuất khẩu là 1.535.048 USD, năm 2000 sản lượng chè xuất khẩu đạt 1427459 kg tương ứng với 2430540 USD; năm 2001 sản lượng chè xuất khẩu đạt 1497.415 kg nhưng do giá chè trên thị trường thế giới giảm nên chỉ đạt kim ngạch xuất khẩu là 2610.850 USD. Trong khi đó, sản lượng chè nội tiêu giảm dần qua các năm. Năm 1999 tiêu thụ được 451.516 kg so với năm 1998 (624.134 kg) giảm 27,7%, năm 2000 giảm 31% so với năm 1999 và năm 2001 giảm 8% so với năm 2000. Như vậy, từ năm 1998 đến năm 2001, sản lượng chè nội tiêu đã giảm 53,9%. Nhìn chung tổng sản lượng tiêu thụ của công ty tăng lên qua các năm, nhưng có sự không đồng đều giữa các chủng loại sản phẩm chủ yếu tập trung vào xuất khẩu. Tình hình tiêu thụ chè hướng nội tiêu đang gặp những khó khăn nhất định về dung lượng thị trường và có sự cạnh tranh từ rất nhiều các công ty trong và ngoài nước. Nhận thức được vấn đề này, ban lãnh đạo công ty đang có những chiến lược củng cố và khắc phục những khó khăn nhằm đáp ứng tối ưu thị trường trong nước. Đối với thị trường xuất khẩu, công ty đang có những thuận lợi và sẽ tiếp tục giữ vững và củng cố nâng cao hơn nữa chất lượng chè xuất khẩu, trong quá trình tìm kiếm, mở rộng và xâm nhập thị trường thế giới. 2. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty KATEACO: Qua phân tích các chỉ tiêu trong những năm gần đây ta thấy công ty đã đạt được những kết quả đáng khích lệ trong sản xuất kinh doanh, kế hoạch hàng năm vượt mức, doanh thu tăng, đời sống cán bộ công nhân viên chức được cải thiện, hoàn thành các chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước và đảm bảo kinh doanh có lãi. Biểu 10: Tình hình thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu từ năm 1998- 2001 Qua một số chỉ tiêu chủ yếu thực hiện được qua các năm có thể đánh giá chung như sau: - Thứ nhất: Công ty có tốc độ phát triển nhanh. Nhìn vào biểu 10 ta thấy các chỉ tiêu đều hoàn thành vượt mức kế hoạch, năm sau cao hơn năm trước, giá trị sản xuất công nghiệp tăng nhanh qua các năm. Giá trị sản xuất công nghiệp năm 1999 là 18.321.642 nghìn đồng, tăng 52% sov ới giá trị sản xuất công nghiệp thực tế năm 1998, năm 2000 tăng 39% sovới năm 1999 và năm 2001 tăng 13,0% so với năm 2000. Doanh thu thực tế năm 1999 tăng 11% so với năm 1998, năm 2000 tăng 33% sovới năm 99 và năm 2001 chỉ tăng 5% so với năm 2000 là do giá chè chứng khoán trong năm này đã giảm. Lợi nhuận năm 1999 tăng 64% so với năm 1998, năm 2000 là năm thành công nhất từ trước tới nay của công ty, lợi nhuận trong năm 2000 đạt 1511420 nghìn đồng tăng 286% so với năm 1999; năm 2001 tăng 42,9% so với năm 2000 Hệ số doanh lợi vốn của công nghiệp cũng tăng đều qua các năm, cụ thể: năm 1998 công ty cứ bỏ ra 1000 đ tiền vốn thì thu được 6,7 đồng lợi nhuận, năm 1999 là 16,7, năm 2000 là 39,3 đồng lợi nhuận và năm 2001 đã tăng lên 53,9 đồng lợi nhuận trên 1000 đ tiền vốn. Tỷ suất lợi nhuận của công ty năm 1998 là 6,6 đồng lợi nhuận trên 1000 đ doanh thu, năm 1999 là 15,8 đồng lợi nhuận, năm 2000 là 34 đồng lợi nhuận và năm 2001 tăng lên 46 đồng lợi nhuận trên 1000 đ doanh thu. -Thứ hai: đời sống người lao động trong công ty ngày càng được nâng cao, thu nhập bình quân/người/tháng trong năm 1998 là 500 nghìn đồng, nhưng đến năm 2001 là 810 nghìn đồng. Về phía các cổ đông thì công ty đã tạo được một niềm tin vững chắc đối với họ. Điều đó được thể hiện qua cổ tức bình quân hàng năm tăng đều đặn, năm 1998 cổ tức bình quân là 4,6% đến năm 2001 đã tăng lên 18,86%. Công ty luôn hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu nộp ngân sách Nhà nước, cụ thể là chỉ tiêu nộp ngân sách năm 1999 tăng 37% so với năm 1998, năm 2000 tăng 8% so với năm 1999 và năm 2001 tăng 12,5% so với năm 2000. Với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn như hiện nay, nhiều doanh nghiệp chè còng sản xuất cầm chừng hoặc đóng cửa, nhưng công ty KATEACO vẫn đứng vững và phát triển. - Thứ ba: sản phẩm của công ty thực sự đã có uy tín đối với khách hàng, công ty sản xuất đến đâu tiêu thụ hết đến đó. - Thứ tư: Những thành tựu đạt được trong hoạt động sản xuất kinh doanh đã tạo ra một chỗ đứng thuận và uy tín của công ty đối với các doanh nghiệp trong ngành cũng như trên thị trường. 3. Một số hạn chế trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty: - Chưa tận dụng tối đa năng lực sản xuất (vào thời điểm bán chạy) chưa khắc phục được tính thời vụ trong sản xuất. - Do hạn chế về chất lượng, mẫu mã, chủng loại sản phẩm, đóng gói và bảo quản sản phẩm nên khối lượng và giá chè xuất khẩu còn thấp chưa tương xứng với năng lực. Sản lượng chè công ty trực tiếp xuất khẩu còn ít, chủ yếu xuất khẩu phải thông qua Tổng công ty chè Việt Nam nên có nhiều phiền phức, khó khăn và trở ngại, không phát huy được tính năng động của công ty trong công tác nghiên cứu, tìm kiếm và thâm nhập thị trường nước ngoài. - Chi phí cho các hoạt động quảng cáo còn thấp (chỉ chiếm 4% doanh thu) - Cơ chế hoạt động của hệ thống đại lý phân phối sản phẩm của công ty còn cần phải được cải tiến, đổi mới phù hợp với những diễn biến phức tạp của thị trường và đảm bảo đáp ứng quyền lợi kinh tế thoả đáng cho các đại lý trên cơ sở các đại lý hoàn thành nghĩa vụ của mình. - Định giá bán sản phẩm có mặt hàng còn cao chưa phù hợp với mức thu nhập của các đối tượng tiêu dùng. Chương III: một số đề xuất về biện pháp phát triển thị trường xuất khẩu chè đối với công ty kateaco I- Bối cảnh chung về thị trường chè thế giới và chiến lược phát triển chè trong thời gian tới của nước ta: 1. Vài nét về tình hình sản xuất và tiêu thụ chè thế giới: Trên thế giới hiện nay có 30 nước trồng chè với diện tích 2,5 triệu ha và sản lượng hàng năm biến động trên dưới 3 triệu tấn, năng suất bình quân chưa vượt quá 4 tấn/ha. Nước có sản lượng cao nhất hiện nay là Kenya với 2665 tấn chè khô trung bình mỗi năm. Đây cũng là nước có tốc độ tăng cao nhất thế giới là 150% trong vòng từ năm 1989- 1995. Hai nước có tốc độ tăng cao sau Kenya là Liên Xô (cũ) 98%, ấn Độ 35%. Năm nước có diện tích trồng lớn nhất thế giới là Trung Quốc, ấn Độ, Srilanca, Thổ Nhĩ Kỳ và Indonesia đã chiếm 75% diện tích chè trên thế giới, nước nhỏ nhất trong làng chè là Camơrun chỉ trồng 1000 ha với mức tăng trưởng 3%/năm. Do áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới cũng như đưa năng suất bình quân đạt đến 2 tấn/ha. Điển hình là Trung Quốc có diện tích chè là 923.712 ha, năng suất trung bình đạt 1,6 tấn/ha với sản lượng 1810502 tấn. ấn Độ có diện tích trồng chè 1,4 triệu ha (năm 2001) với sản lượng 2.842.210 tấn, năng suất bình quân đạt 2 tấn/ha. Diện tích chè trên thế giới biến động, bởi vì chỉ có những nước có điều kiện thiên nhiên ưu đãi mới có thể trồng và phát triển được cây chè. Về phân bố diện tích thì 12 nước châu á chiếm khoảng 88%, Châu Phi là 8% (12 nước) và Nam Mỹ chiếm 4% (4 nước). Như vậy chè chủ yếu được trồng ở châu á và đây là cái nôi phát triển của cây chè nơi mọi điều kiện đất đai, khí hậu phù hợp với sinh trưởng của cây chè. Về sản lượng chè trên thế giới vụ 2000- 2001 đạt 2,976 triệu tấn, giảm 2% so với cùng kỳ năm trước. Nguyên nhân chính là do thu hoạch chè giảm ở một loạt nước sản xuất nhiều chè như ấn Độ, Indonesia và một số nước châu Âu, đồng thời giá chè năm 2001 đã giảm khoảng 10% do nhu cầu giảm. Tiêu thụ chè trên thế giới trong 5 năm 1993- 1997 tăng 16,7% từ năm 1997- 2001 tăng 5,6%. Thị trường nhập khẩu chè thế giới gần đây có xu hướng tăng nhưng tốc độ tăng chậm, hàng năm thế giới nhập khoảng hơn 1 triệu tấn chè. Lượng cung trong năm 2000 là 2,09 triệu tấn và cầu là 2,03 triệu tấn, năm 2001 lượng cung là 2,14 triệu tấn và cầu là 2,07 triệu tấn. Như vậy cung cầu là tương đương. Các nước tiêu thụ chè lớn là ấn Độ với 50% sản lượng sản xuất, Trung Quốc là 70%, Anh khoảng 200.000 tấn/năm (trung bình 4,5 kg/người/năm) và Liên Xô (cũ) 100.000 tấn/năm. Tiếp đến là Mỹ, Ai Cập, Nhật Bản, Marocco, Hà Lan. Như vậy, các nước sản xuất chè lớn đồng thời cũng là nước tiêu thụ nhiều chè. Các nước Trung Cận Đông uống chè là chính, bình quân 4,5 kg/người/năm như Iran, Iraq… Tuy chất lượng chè của những nước này hàng năm không cao nhưng xét về mặt dung lượng thì trong hàng năm thì sản lượng chè trong nước chiếm khoảng 50% còn số lượng nhập khẩu chiếm khoảng 80%. Hơn nữa, về mặt chủng loại chè đây cũng là thị trường dễ tiêu thụ. Biểu 11: Tình hình nhập khẩu chè của một số nước chủ yếu trên thế giới: (Đơn vị: tấn) Nước 1999 2000 2001 1. Liên Xô (cũ) 350.784 368.032 397.523 2. Anh 310.732 330.425 351.327 3. Pakistan 218.423 214.413 220.427 4. Mỹ 152.731 166.427 172.731 5. Ai Cập 118.640 120.420 135.720 6. I raq 273.413 289.429 476.423 7. Nhật 201.109 219.777 236.222 8. I ran 247.416 270.467 283.668 Nguồn: Tea Statisties 2000- 2001 Trong những năm trước giá chè trên thế giới giảm chậm nhưng nói chung là ổn định. Năm 1995 do tình trạng thiếu lao động, hạn hán, sâu bệnh, thiếu phân bón và chi phí cho đầu vào sản xuất cao nên giá chè đã giảm mạnh tren 20% sovới các năm trưóc. Đến năm 2001, giá chè trên thế giới giảm khoảng 10% vì nhu cầu tiêu dùng giảm do người sản xuất không chú ý đến chất lượng giống chè. Giá chè trên thế giới hiện nay trung bình là 2480 USD/tấn. Giá chè được hình thành và được điều chỉnh theo giá đấu giá hàng tuần. Ba thị trường đấu giá lớn là London, Calleha, Colombo (chiếm 90% sản lượng chè trao đổi của thế giới). Nhưng nhìn chung giá chè vẫn do cung- cầu trên thị trường quyết định. 2. Khái quát về chiến lược phát triển kinh tế của Việt Nam đến năm 2005: Trong những năm gần đây, do các chủ trương chính sách và đường lối đúng đắn, nền kinh tế đã tiến những bước vững chắc trong công cuộc đổi mới CNH- HĐH đất nước. Tận dụng những thành tựu đã đạt được, lấy đó làm mốc cho việc phát triển cho những năm tiếp theo. Do vậy, trong những năm tới, chiến lược phát triển của Việt Nam được đặt ra là: tạo tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, bền vững, tập trung sức cho mục tiêu phát triển và tăng trưởng bằng cách đẩy mạnh quá trình CNH- HĐH đất nước, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, cải tiến cơ chế quản lý một cách hài hoà, năng động để có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm cao. Muốn đạt được như vậy thì nhiệm vụ đặt ra là phải: - Phát triển các ngành công nghiệp, trước tiên là công nghiệp tiêu dùng và công nghiệp xuất khẩu. - Khai thác thế mạnh của cả nước, mỗi ngành, mỗi vùng, để tập trung thích đáng nguồn lực cho các lĩnh vực, các địa bàn trọng điểm có điều kiện sớm đưa lại hiệu quả cao. - Củng cố mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại mở rộng thị trường xuất khẩu, tăng khả năng xuất khẩu các mặt hàng đã thông qua chế biến với hàm lượng kỹ thuật cao, hướng vào xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của đất nước, xuất khẩu các mặt hàng có tính chiến lược như gạo, cà phê, chè… bằng cách đầu tư đổi mới dây chuyền, công nghệ, tổ chức lại sản xuất các mặt hàng xuất khẩu nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu. Thực hiện đổi mới cơ cấu hàng xuất khẩu, đưa hàng xuất khẩu qua chế biến từ 60% hiện nay lên 80% vào năm 2005, trong đó chế biến đạt 65%. Tạo thêm mặt hàng xuất khẩu mới có khối lượng lớn, tìm kiếm mặt hàng dịch vụ mới, tăng khối lượng các mặt hàng có giá trị cao. Chiến lược của nước ta đối với việc xuất khẩu chè, đó là: - Tranh thủ mọi nguồn vốn đầu tư để xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị máy móc hiện đại, dây chuyền công nghệ phù hợp để tạo ra được chất lượng sản phẩm tốt có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. - Đối với thị trường xuất khẩu, ta chủ trương lấy thị trường I raq, Nhật làm nòng cốt từ đó mở rộng ra các thị trường khác. Bên cạnh đó không bỏ qua các thị trường truyền thống cũ. - Nhà nước cùng các doanh nghiệp tham gia tìm kiếm thị trường nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu, đồng thời khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia xuất khẩu chè nhằm thu hút nhiều lao động, giải quyết việc làm đáng kể cho người lao động, nâng cao đời sống của đồng bào dân tộc vùng cao. - Cho đến năm 2005, chiến lược phát triển cây chè của nước ta là: + Kế hoạch trồng mới thêm 10.000 ha chè. Trong đó, miền Bắc chiếm 6.300 ha, miền Trung chiếm 1200 ha, miền Nam chiếm 2500 ha. Đến năm 2005 phấn đấu đạt diện tích trồng chè trong cả nước là 88 nghìn ha. + Sản lượng chè khô đến năm 2005 đạt 100 nghìn tấn, Năng suất bình quân 7,5 tấn/ha chè búp tươi. + Xuất khẩu 70 nghìn tấn với kim ngạch 140 - 160 triệu USD cho đến nay, chè là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, chủ lực trong chiến lược xuất khẩu của Việt Nam. Vì vậy, chiến lược xuất khẩu chè trong những năm tới là một trong những chiến lược quan trọng có ý nghĩa cả về mặt kinh tế và xã hội. II. Những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu chè ở công ty kateaco trong thời gian tới: Xuất khẩu chè của Việt Nam nói chung và của công ty KATEACO nói riêng, trong những năm qua vẫn còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Chè nước ta là mặt hàng có nhiều mặt lợi thế trong việc xuất khẩu, vì vậy, việc đẩy mạnh xuất khẩu chè là cần thiết và phải được tìm hiểu nghiên cứu một cách kỹ lưỡng để đưa ra những biện pháp cụ thể có hiệu quả nhằm đẩy mạnh xuất khẩu chè trong những năm tới, cố gắng hoàn thành và vượt mức những chỉ tiêu đặt ra cho năm nay và năm 2005. Từ việc phân tích và xem xét thực trạng của việc sản xuất va xuất khẩu chè trong những năm qua và dựa trên triển vọng cung cầu chè trên thế giới, chúng ta thấy rằng: trong vấn đề sản xuất và tiêu thụ chè còn một số khiếm khuyết mà chúng ta cần phải xem xét lại để có những chiến lược, những mục tiêu không những cho năm nay mà còn cho những năm tới sao cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của công ty KATEACO hiện nay. Công ty KATEACO với vai trò là một trong những công ty đi đầu trong ngành chè Việt Nam, công ty đã có những bước đi mạnh trong quyết định thực hiện cổ phần hoá. Xuất phát từ quan điểm của công ty khi tiến hành cổ phần hoá, là một công ty sản xuất kinh doanh có uy tín trên thị trường trong và ngoài nước, sự thay đổi về cơ cấu quản lý dẫn đến sự thay đổi về cơ cấu lao động, nguồn vốn và các tiền đề vật chất khác nhằm mục đích nâng cao tính hiệu quả và sự phát triển bền vững của công ty. Điều này đã tạo ra cho công ty nhiều thuận lợi và cũng như những khó khăn thử thách trong việc củng coó, mở rộng và phát triển thị trường chè nội tiêu, đặc biệt là trên thị trường xuất khẩu. Để không chỉ vượt qua những khó khăn thử thách đó, mà còn có thể thu được lợi nhuận tối đa, củng cố và nâng cao vị thế của công ty trên thương trường, đồng thời, đảm bảo tính an toàn trong kinh doanh. Điều này đòi hỏi nỗ lực hơn nữa trong việc đẩy mạnh xuất khẩu chè của công ty KATEACO và cần có các chính sách hỗ trợ từ phía ngành chè Việt Nam và chính phủ. A. Về phía công ty KATEACO cần phải: 1. Luôn chăm lo cải tiến phương thức hoạt động và quản lý: 1.1. Về mặt tổ chức: Trên cơ sở mục tiêu, chiến lược kinh doanh đã xác định, công ty cần xây dựng và không ngừng hoàn thiện tổ chức bộ máy của mình để thực hiện chức năng quản trị kinh doanh, tạo điều kiện cho công ty tồn tại và phát triển. Tổ chức bộ máy của công ty phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ đề ra để tạo lập năng lực hoạt động mới, thúc đẩy kinh doanh phát triển, tiết kiệm chi phí và nâng cao hiệu quả kinh tế. Về nguyên tắc phải xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ trước mắt và dự kiến xu thế phát triển của công ty để lựa chọn cơ cấu tổ chức quản trị phù hợp. Cơ cấu tổ chức bộ máy phải được thiết kế trong thời gian tới. Chỉ nên thay đổi khi có yêu cầu khách quan và sự đòi hỏi từ bên trong công ty. Tổ chức bộ máy phải thích nghi với tình hình, nhiệm vụ kinh doanh đặt ra. Với vai trò quan trọng nói trên, tổ chức bộ máy của công ty luôn phải đảm bảo các nội dung sau: Một là, lựa chọn mô hình tổ chức quản trị và phương án mạng lưới kinh doanh tối ưu đối với công ty Hai là, quy định rõ chức năng nhiệm vụ, phương thức hoạt động, lề lối làm việc của từng bộ phận, từng khâu trong bộ máy hệ thống tổ chức của công ty. Ba là, xây dựng và không ngừng hoàn thiện điều lệ (hoặc quy chế ) tổ chức và hoạt động của Công ty. Bốn là, xác định nhân sự, tuyển chọn và bố trí những cán bộ quản lý vào những khâu quan trọng để đảm bảo sự vận hành và hiệu lực của cả bộ máy. Năm là, thường xuyên xem xét, đánh giá thực trạng của bộ máy và cán bộ để có biện pháp chấn chỉnh và bổ sung kịp thời, tạo điều kiện cho bộ máy có sức mạnh phù hợp, luôn đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ kinh doanh của Công ty. 1.2. Các yếu tố đầu vào: a) Vốn: Vốn là điều kiện tiên quyết, quan trọng nhất cho sự ra đời, tồn tại và phát triển đối với tất cả các doanh nghiệp. Đó là một nguồn lực quan trọng để phát huy tài năng của ban lãnh đạo công ty, đồng thời, vốn cũng là điều kiện để thực hiện các chiến lược, sách lược kinh doanh. Sử dụng vốn trong kinh doanh thương mại là một khâu có tầm qua ntrọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh. Tuy nhiên, việc sử dụng vốn kinh doanh lại là kết quả tổng hợp của tất cả các khâu, các bộ phận trong kinh doanh, từ phương hướng kinh doanh đến các biện pháp tổ chức thực hiện, cũng như quản lý, hạch toán theo dõi, kiểm tra, nghệ thuật kinh doanh, và cơ hội kinh doanh. Mục đích của việc sử dụng vốn trong kinh doanh là nhằm đảm bảo nhu cầu tối đa về vốn cho sự phát triển sản xuất kinh doanh hàng hoá trên cơ sở nguồn vốn có hạn được sử dụng một cách hợp lý, tiết kiệm đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Để đạt mục đích trên, yêu cầu cơ bản của sử dụng vốn là: 1. Đảm bảo sử dụng vốn đúng phương hướng, đúng mục đích và đúng kế hoạch kinh doanh của công ty 2. Chấp hành đúng các quy định và chế độ quản lý lưu thông tiền tệ của Nhà nước 3. Hạch toán đầy đủ, chính xác, kịp thời số vốn hiện có và tình hình sử dụng vốn kinh doanh của công ty. Những biện pháp cần phải áp dụng để sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế là: Một là, tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động Hai là, tiết kiệm chi phí sử dụng hợp lý tài sản, giảm thiệt hại Ba là, tăng cường công tác quản lý tài chính Để đánh giá việc bảo toàn vốn kinh doanh, cần phải đánh giá theo thực tế của tài sản, vật tư hàng hoá ở từng thời điểm hoặc kết thúc niên độ kế toán. Công ty phải xử lý bằng cách cộng thêm hoặc trừ bớt thu nhập trước khi xác định thu nhập, cuối cùng và phân phối sử dụng thu nhập ấy. Những nhân tố cần phải tính đến khi xem xét hiệu quả sử dụng vốn: Tỷ lệ lạm phát, tỷ suất lãi tiền vay và tiền gửi ngân hàng; tỷ giá thực tế thị trường của đồng tiền Việt Nam với vàng và ngoại tệ có khả năng chuyển đổi ở thời điểm đánh giá… c) Nguồn nhân lực Nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp là con người, nói một cách cụ thể hơn là toàn bộ nhân sự của doanh nghiệp. Chính vì vậy, chính sách tuyển dụng lao động phải trở thành chính sách then chốt trong vận hành doanh nghiệp, trong đó nổi lên vấn đề là những người được tuyển dụng phải thoả mãn đầy đủ các yêu cầu vận hành của doanh nghiệp,bảo đmả thực hiện chiến lược kinh doanh của công ty Ngày nay, khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ và liên tục cùng với sự bùng nổ thông tin, cạnh tranh trên thương trường ngày càng quyết liệt… đòi hỏi công ty phải thường xuyên chăm lo đến việc đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh. Cùng với việc đào tạo và bồi dưỡng nhân lực phải thường xuyên cải tiến tổ chức lao động trong các khâu kinh doanh, khuyến khích mọi người phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao năng suất lao động và chất lượng công việc, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả lao động, tăng thu nhập cho tập thể và cá nhân. d) Nguồn nguyên liệu: Chất lượng sản phẩm chè, đặc biệt là sản phẩm chè xuất khẩu là vấn đề hết sức quan trọng, nó quyết định sự sống còn của sản phẩm, nói đúng hơn là nó quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty trên thương trường. Chất lượng chè không chỉ phụ thuộc vào quá trình thu hái, bảo quản, trang thiết bị, công nghệ sản xuất mà nó còn phụ thuộc rất lớn từ giống chè. Do vậy, công ty cần phải tạo quỹ hỗ trợ cho vùng nguyên liêu, cần phải nhân ra diện rộng những giống chè đã được kiểm định là có năng suất, chất lượng tốt và khả năng chóng chịu cao như chè PH1, chè Shan, các giống chè nhập từ Đài Loan, Nhật Bản, ấn Độ. Bố trí giống chè phải gắn với thị trường tiêu thụ và phù hợp với từng khu vực . 2. Đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ sản xuất: Trang thiết bị công nghệ sản xuất cũng là một yếu tố quan trọng quyết định đến chất lượng sản phẩm. Hiện nay, công ty KATEACO đã có thiết bị dây chuyền sản xuất chè túi lọc của Italia, duy nhất có tại Việt Nam và một số dây chuyền công nghệ chế biến chè hiện đại của ấn Độ và Đài Loan. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu đòi hỏi chất lượng sản phẩm ngày càng cao của người tiêu dùng, công ty cần phải luôn đổi mới trang thiết bị công nghệ sản xuất sao cho phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh của công ty và những đòi hỏi khắt khe của thị trường. Đồng thời, đổi mới trang thiết bị phải luôn gắn với trình độ quản lý. Hàng năm, công ty cần tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ KCS và nghiệp vụ quản lý cho cán bộ trong công ty. 3. Nâng cao chất lượng dịch vụ, phát triển kèm theo để nâng cao mô hình cạnh tranh: Dịch vụ trong hoạt động sản xuất kinh doanh thương mại có vị trí quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó có quan hệ chặt chẽ từ khâu sản phẩm hàng hoá được sản xuất ra đến khi sản phẩm được đưa vào tiêu dùng. Phát triển hoạt động dịch vụ trong kinh doanh thương mại nhằm mục tiêu phuc vụ khách hàng tốt hơn, tạo ra sự tín nhiệm, sự chung thuỷ và sự gắn bó của khách hàng với công ty, từ đó công ty thu hút được nhiều khách hàng bán được nhiều sản phẩm, nâng cao được vòng quay của vốn lưu, động phát triển được thế và lực của công ty và cạnh tranh thắng lợi. Xuất phát từ ý nghĩa, tác dụng của hoạt động dịch vụ trong sản xuất kinh doanh. Công ty cần phải phát triển nâng cao chất lượng một số dịch vụ sau : 1. Dịch vụ trước khi bán sản phẩm hàng hoá: bao gồm dịch vụ về thông tin, giới thiệu, quảng cáo, chào hàng, về loại hàng hoá và các dịch vụ kèm theo, các dịch vụ về chuẩn bị hàng hoá, đóng gói sản phẩm theo yêu cầu của khách hàng, đặt hàng trước, ký hợp đồng…, các dịch vụ về triển lãm hàng hoá tại các hội chợ, tại quầy hàng giới thiệu sản phẩm và bầy mẫu hàng. 2. Dịch vụ trong khi bán hàng là các dịch vụ giao tiếp giữa khách hàng và công ty. Dịch vụ này bao gồm: Các dịch vụ giới thiệu hàng hoá sản phẩm, hướng dẫn lựa chọn hàng hoá bốc xếp hàng hoá và giao hàng một cách nhanh gọn, kịp thời, giảm thời gian chờ đợi của khách hàng và phương tiện vận chuyển. 3. Dịch vụ sau bán hàng: mở hội nghị khách hàng thu thập ý kiến của khách hàng về chất lượng hàng hoá, giao nhận, thanh toán và thanh lý hợp đồng của năm báo cáo và kí kết hợp đồng mới. 4. Nghiên cứu phát triển thị trường, hệ thống phân phối và giới thiệu sản phẩm: a. Nghiên cứu phát triển thị trường: Nghiên cứu thị trường là xuất phát điểm để định ra các chiến lược kinh doanh của công ty, từ chiến lược đã xác định công ty tiến hành lập và thực hiện kế hoạch kinh doanh, chính sách thị trường. Nghiên cứu thị trường là việc cần thiết, đầu tiên đối với mỗi doanh nghiệp khi bắt đầu kinh doanh, đang kinh doanh hoặc muốn mở rộng và phát triển kinh doanh. Vì thị trường không phải là bất biến mà luôn biến động, đầy bí ẩn và thay đổi không ngừng. Do đó, nghiên cứu thị trường là việc làm thường xuyên của công ty. Mục đích của việc nghiên cứu thị trường là nghiên cứu xác định khả năng bán một loại mặt hàng hoặc nhóm mặt hàng nào đó trên địa bàn xác định. Trên cơ sở đó nâng cao khả năng cung ứng để thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Quá trình nghiên cứu thị trường hàng hoá được thực hiện qua 3 bước: thu thập thông tin, xử lý thông tin và ra quyết định. Các thông tin thu thập được trong quá trình nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết thị trường sẽ giúp đỡ công ty đánh giá được các nhân tố chủ yếu có tác động đến sự lựa chọn cách thức thâm nhập, các trung gian phân phối và cách thức quan hệ với các trung gian đó. Những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn cách thức thâm nhập đó là: - Điều kiện thị trường: bao gồm các yếu tố như số lượng và cơ cấu của tập hợp khách hàng tiềm năng, đặc điểm của nhu cầu, mong muốn và thị hiếu tiêu dùng của khách hàng, trình độ phát triển kinh tế của thị trường, tình hình cạnh tranh và mức độ phát triển của cơ sở hạ tầng thương mại, các yếu tố về chính trị và pháp luật. - Đặc tính của sản phẩm: sản phẩm khác nhau sẽ có những yêu cầu khác nhau trong quá trình tiêu thụ và sử dụng, và do đó đòi hỏi phải có các phương thức thâm nhập thích hợp - Khả năng của doanh nghiệp: thể hiện ở năng lực quản lý kinh nghiệm hoạt động trên thị trường nước ngoài, quy mô của công ty và chủng loại sản phẩm, sức mạnh về tài chính và khả năng huy động nguồn vốn bổ sung. b. Xây dựng hệ thống phân phối và giới thiệu sản phẩm Công ty cần mở các văn phòng đại diện tại một số nước là khách hàng chính của công ty để tăng sự tiếp cận của sản phẩm đối với khách hàng quốc tế, đồng thời tăng cường quảng cáo và giới thiệu sản phẩm (hiện tại chi phí này chỉ chiếm 4% doanh thu) 5. Quản lý chất lượng sản phẩm trước và sau sản xuất Trước hết là áp dụng đồng bộ quá trình công nghệ thu hoạch chế biến và bảo quản, chè Việt Nam nói chung chủ yếu được chế biến thông qua chế biến khô, đây là phương pháp chế biến đơn giản nhất, rẻ tiền nhất. Nhưng vấn đề quan trọng là phải chủ động và kiên quyết không ủ đống chè nhằm tránh tình trạng lên men. Mặt khác, cần tăng cường quản lý chặt chẽ khâu thu hái, chế biến và bảo quản bằng nhiều biện pháp quản lý kỹ thuật, quản lý xã hội để loại bỏ tình trạng thu hái chè còn xanh và lẫn nhiều cây dại. Công ty cần cố gắng làm hàng xuất khẩu theo tiêu chuẩn Việt Nam để thúc đẩy sản xuất, nâng cao chất lượng xuất khẩu và thực hiện được giá bán cao hơn. Bên cạnh đó, công tác giám định chất lượng sản phẩm phải được tiến hành thường xuyên, góp phần cải tiến và nâng cao chất lượng xuất khẩu. Ngoài 5 giải pháp cơ bản trên đây, công ty cần phải có phương pháp phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh, cụ thể là: 1. Giảm tối thiểu rủi ro bằng phương pháp phân tích môi trường kinh doanh, phân tích hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để loại trừ hoàn cảnh phát sinh ra rủi ro. Trên cơ sở phân tích các yếu tố của môi trường kinh doanh, phân tích các hoạt động kinh doanh của từng bộ phận trong công ty, của từng mặt hàng kinh doanh bằng số liệu chính xác, cụ thể để đề ra chiến lược kinh doanh hiệu quả, thực hiện phân tích kinh doanh là công ty đã loại bỏ phần nào rủi ro trong kinh doanh 2. Tiết kiệm để bù đắp mất mát rủi ro bằng lập quỹ dự phòng tài chính Qũy dự phòng tài chính lập ra nhằm bảo toàn vốn kinh doanh của doanh nghiệp, trả lương cho cán bộ công nhân viên trong thời kỳ kinh doanh khó khăn và đáp ứng nhu cầu chi tiêu cấp thiết khác của công ty 3. Chia sẻ rủi ro bằng phương pháp đa dạng hoá trong kinh doanh. Mục đích của đa dạng hoá trong kinh doanh là nhằm phân tán rủi ro vào các mặt hàng, các lĩnh vực kinh doanh khác nhau, bảo đảm cho công ty luôn hoạt động trong hành lang của sự an toàn, đồng thời tận dụng tối đa cơ sở vật chất kỹ thuật và khả năng lao động của doanh nghiệp. Cơ sở để tổ chức đa dạng hoá kinh doanh là công ty phải nắm được bí quyết kỹ thuật trong việc sản xuất chế tạo sản phẩm, trong vận chuyển, tiêu thụ hàng hoá để có thể cạnh tranh được với các đối thủ cạnh tranh cùng mặt hàng và cùng lĩnh vực kinh doanh đó 4. Phòng ngừa bằng phương pháp Hedging: là việc lợi dụng giao dịch khống của sở giao dịch thông qua mua hoặc bán, sản phẩm nào đó nhằm tái bình quân, một tình thế ngược lại với hiện tại, để tránh được rủi ro có biến động về giá cả. 5. Bảo hiểm cho hàng hoá, tài sản kinh doanh bảo hiểm ra đời do sự tồn tại khách quan của rủi ro, là để bù đắp về tài chính nhằm khắc phục hậu quả của rủi ro chứ không phải để ngăn chặn rủi ro, khi tham gia hoạt động bảo hiểm công ty cần phải chú ý: - Xác định rõ các loại rủi ro nào cần bảo hiểm - Cân nhắc nên mua loại bảo hiểm nào - Bảo hiểm bao nhiêu cho đủ Trong thế giới kinh doanh hiện đại, rủi ro bất trắc có rất nhiều. Vì vậy, nhà kinh doanh phải dám mạo hiểm và biết mạo hiểm, sẵn sàng chấp nhận rủi ro sau khi đã phân tích, tính toán, tìm ra các phương pháp phù hợp phòng ngừa rủi ro và không ngừng hoàn thiện các phương pháp đó mơí mong nhận được phần thưởng là lợi nhuận trong kinh doanh B. Về phía chính phủ: 1. Vẫn luôn coi trọng ngành chè là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển với chiến lược lâu dài và đi vào chiều sâu nhằm phát huy nội lực và sử dụng tối đa lợi thế so sánh của đất nước. 2. Chính phủ cần có chính sách ưu tiên đầu tư và kêu gọi đầu tư vào ngành chè nhằm đưa ngành chè trở thành một trong những ngành có cơ cấu sản xuất hợp lý hiện đại từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay phần lớn máy móc, thiết bị của các cơ sở thuộc ngành chè đều cũ nát, lạc hậu không đáp ứng được yêu cầu hiện tại, ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng chè sau chế biến, vì vậy việc đầu tư vào máy móc kỹ thuật là một yêu cầu cấp thiết đối với ngành chè. 3. Chính sách huy động vốn từ các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước tạo môi trường kinh doanh thông thoáng, có lợi nhất cho các nhà đầu tư, trên cơ sở lợi ích toàn bộ nền kinh tế 4. Chính phủ có biện pháp chỉ đạo đối với các hoạt động xúc tiến thương mại có quy mô quốc tế nhằm giới thiệu sản phẩm chè ra thị trường thế giới, ký kết các hiệp định song phương và đa phương, tham gia các tổ chức kinh tế mậu dịch tự do đối với các hàng hoá có thế mạnh, củng cố và tìm kiếm thị trường xuất khẩu, đặt các văn phòng đại diện giới thiệu sản phẩm ở nước ngoài 5. Có chính sách khuyến khích hỗ trợ xuất khẩu như trợ cấp về giá và thưởng tiền cho các doanh nghiệp xuất khẩu được nhiều sản phẩm. 6. Thành lập các ban chuyên trách nhằm nắm bắt nhanh nhạy những thông tin diễn biến về thị trường chè thế giới, để cung cấp cho các doanh nghiệp 7. Thành lập mới và nâng cao trách nhiệm của các tổ chức quản lý về chất lượng chè Việt Nam nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, và đưa ra một tiêu chuẩn chất lượng cho chè Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế. C. Về phía ngành chè: Trên cơ sở định hướng phát triển của ngành chè giai đoạn 2001- 2010 và các giải pháp nhằm giúp đỡ các nhà xuất khẩu của Chính phủ, ngành chè cần có những đối sách cụ thể nhằm phát huy tối đa lợi thế so sánh và sự "ưu ái" đó đối với ngành chè. Cụ thể như sau: 1. Đầu tư từng bước nâng cao chất lượng chè xuất khẩu 2. Củng cố những thị trường cũ và tìm kiếm thị trường mới. 3. Tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu 4. Nâng cao trình độ quản lý, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh của chè Việt Nam trên thị trường thế giới 5. Mở rộng hệ thống bán buôn và lẻ kết hợp với marketing quốc tế mặt hàng chè trên thị trường nước ngoài. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kinh doanh quốc tế- NXB Giáo dục -1997 2. Quản trị doanh nghiệp thương mại- NXB Giáo dục -1996 3. Tư vấn quản lý- NXB Lao động 1995 4. Kinh tế vĩ mô- N Gregory- Mankiw 5. Giáo trình Kinh doanh thương mại quốc tế _ Trường ĐH Quản lí - Kinh doanh Hà Nội 6. Quan hệ Kinh tế đối ngoại - Trường ĐH Quản lí - Kinh doanh Hà Nội 7. Marketing thực hành _ Trường ĐH Quản lí - Kinh doanh Hà Nội

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf100223_9837.pdf