Việc phát triển TMĐT ở Việt nam nói chung và nhất là ở Hà Nội phải
đáp ứng được các yêu cầu sau:
+ Về mặt pháp lý: Việc triển khai TMĐT tại Việt nam phải được các cơ
quan quản lý chức năng có những quy định hướng dẫn, tạo thói quen tiêu
dùng và mua bán trên mạng, làm cho những người mua hàng hiểu rõ quá trình
giao dịch, những vấn đề rủi ro có thể phát sinh. Các văn bản pháp lý ban hành
không quá khó khăn đối với doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng hay không
tạo ra những hạn chế trong quá trình thực hiện. Có như vậy việc triển khai
TMĐT mới phát triển và phù hợp, mang tính thực tiễn cao.
+ Về tính khả thi: Doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh
siêu thị nói riêng phải đánh giá quá trình triển khai, đảm bảo những điều kiện
cần thiết như tài chính, nguồn nhân lực, công nghệ, thời gian.Thực tế cho
thấy nhiều doanh nghiệp trong quá trình triển khai phải dừng lại do gặp những
khó khăn về tài chính do phải bỏ ra khoản tiền lớn để mua công nghệ, nguồn
nhân lực bị hạn chế hoặc nguồn nhân lực không ổn định dẫn đến tình trạng
công việc triển khai bị dở dang hoặc thiếu nhân sự chủ chốt để đảm bảo quá
trình vận hành được ổn định. Công nghệ không ổn định cũng gây ra những
khó khăn trong quá trình điều hành và xử lý thông tin, nhiều tính năng bị hạn
chế hoặc không sử dụng đến hay không phù hợp. Quá trình triển khai TMĐT
cũng đòi hỏi yếu tố thời gian, việc triển khai theo kiểu “ép tiến độ” sẽ không
đảm bảo chất lượng dịch vụ, không phù hợp với quá trình nhận biết và xử lý
thông tin của khách hàng.
105 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2267 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp nhằm phát triển thƣơng mại điện tử đối với các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị tại hà nội và Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à cho cả chủ cửa hàng chắc
chắn họ sẽ phải suy nghĩ lại.
2.3.4 Nguyên nhân của thực trạng
Qua tìm hiểu các website, thu thập thông tin về các siêu thị trên địa bàn
Hà nội cũng như liên hệ trực tiếp tìm hiểu thì kết quả cho thấy là các siêu thị
chưa triển khai hoạt động kinh doanh TMĐT. Nhìn nhận của các doanh
nghiệp có những điểm giống và khác nhau, tuy nhiên có thể đúc kết một số
điểm ảnh hưởng trực tiếp tới việc triển khai TMĐT của các siêu thị như sau:
+ Một số siêu thị lớn như đại siêu thị Big C, siêu thị Metro kinh doanh
trong lĩnh vực hàng thực phẩm và tiêu dùng. Do phần lớn hàng hóa có chu kỳ
sống ngắn, các hàng hóa thực phẩm không thể tồn tại lâu dài, thời gian vận
chuyển hàng từ người bán đến người tiêu dùng mất nhiều thời gian, không
phù hợp với đơn hàng nhỏ, nên việc bán hàng trên mạng là không khả thi.
Thay vào việc triển khai TMĐT thì hình thức kinh doanh bán buôn bán hàng
qua điện thoại (Telesales) đối với các doanh nghiệp được coi là phù hợp và
đang được triển khai.
+ Cơ cấu hàng hóa dịch vụ được giới thiệu trên các website doanh
nghiệp có thể thấy nhóm hàng hóa phổ biến nhất hiện nay là thiết bị điện tử,
viễn thông và hàng tiêu dùng. Do đặc điểm của mặt hàng điện tử, viễn thông
và đồ điện gia đình là mức độ tiêu chuẩn hóa cao, với những thông số kỹ
74
thuật rõ ràng cho phép người tiêu dùng đánh giá và so sánh các sản phẩm mà
không cần đến giám định trực quan. Nhóm hàng này sẽ tiếp tục chiếm ưu thế
khi thâm nhập các kênh tiếp thị trực tuyến trong những năm tới.
+ Các siêu thị trong nước ở quy mô tương đối như Intimex,
Fivimart…thì vẫn chưa triển khai TMĐT. Vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp
này là các doanh nghiệp lớn tầm cỡ quốc tế vẫn chưa triển khai TMĐT là một
câu hỏi cần giải đáp, do vấn đề pháp lý, văn bản pháp quy, thói quen giao
dịch của người tiêu dùng hay các bài toán về lợi ích và hiệu quả kinh tế vẫn
luôn đặt ra.
+ Các siêu thị nhỏ mang tính chất trong nước thì gặp khó khăn trong
vấn đề ngân sách, nhân lực cũng như thời gian cho TMĐT. Các doanh nghiệp
này vẫn nhìn vào các doanh nghiệp siêu thị lớn để thăm dò, tìm hiểu.
2.3.5 Những bài học kinh nghiệm đƣợc rút ra từ thực trạng thƣơng mại
điện tử tại Hà nội và Việt nam
Tại Việt nam, TMĐT ngày càng được ứng dụng và phổ biến. Từ hoạt
động thực tiễn cho thấy trong giao dịch TMĐT trên Internet thường có khả
năng xảy ra một số vấn đề giữa người mua và người bán như: Khách hàng
thanh toán tiền bằng thẻ tín dụng nhưng người bán không giao hàng hay
khách hàng đã thanh toán nhưng người bán giao hàng bị lỗi hoặc hàng kém
chất lượng, hư hỏng...
Để đáp ứng yêu cầu về giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động
thực tiễn TMĐT, Việt nam đã và đang xây dựng những định chế pháp lý liên
quan tới các khía cạnh khác nhau của TMĐT:
+ Tranh chấp tên miền: Khi một công ty triển khai TMĐT thì doanh
nghiệp cần phải đăng ký tên miền, là việc chuyển từ một địa chỉ số IP sang
dạng text quen thuộc. Thay vì đánh xxx.xxx.xxx.xxx hầu hết người dùng đều
thích đánh dấu phẩy “,” cho dễ nhớ và ít lỗi hơn. Đăng ký tên miền thì không
75
khó nhưng để có một tên phù hợp với tên doanh nghiệp, kiểu logo hoặc nhãn
hiệu thì rất khó. Trên Internet thì mọi domain đều cần phải có tính độc nhất để
tránh lỗi truyền thông nhưng nó được ấn định cho lần đăng nhập đầu tiên,
server cơ bản đầu tiên nghĩa là bất cứ một ai cũng có thể đăng ký tên miền.
Các tên miền Internet được thiết lập hoàn toàn dựa trên hai yếu tố riêng biệt là
top level domain (TLD) và second level domain (SLD). TLD chứa đựng các
thông tin gốc của trang web như “.it” của Italia hoặc “.jp” của Nhật và “.za”
của Nam phi. SLD hoàn thành tên miền bằng cách thêm vào tên của công ty
nhãn hiệu, chữ cái đầu, các chữ viết tắt, danh từ hoặc bất cứ một từ nào với
TLD [5, tr.44].
Vấn đề liên quan tới tên miền chính là bản thân tên miền chứ không
phải là nhãn hiệu. Nhiều người đăng ký tên miền cùng nhãn hiệu mà không có
liên quan gì tới chủ sở hữu nhãn hiệu. Trong số này có những người biết được
kẽ hở pháp lý nên đăng ký rồi bán lại tên miền mang tính trục lợi. Những quy
định mới của Việt nam cũng đã đi vào giải quyết vấn đề này. Nếu như nhãn
hiệu đã được đăng ký trước tên miền thì người sở hữu nhãn hiệu đó sẽ được
cấp tên miền. Nếu như nhãn hiệu được thành lập sau khi tên miền đã được
đăng ký thì chủ sở hữu nhãn hiệu không có được tên miền đó. Do đó doanh
nghiệp cần kiểm tra tên miền sẵn có và nhãn hiệu được đăng ký trước khi
đăng ký.
+ Kết nối: Định dạng siêu văn bản cho phép các tài liệu kết nối với
nhau trên Web. Các kết nối không hạn chế với một phần cụ thể nào của trang
web. Bất kể một trang web nào cũng có thể được kết nối với một trang web
khác mà không cần phải đăng ký. Các kết nối được cung cấp như là một dịch
vụ tới các nguồn thông tin khác có cùng nội dung hoặc như là một phương
tiện để kết nối quảng cáo vào một trang web.
Do chưa có một cơ sở pháp lý nào cho trang web nên tất cả mọi người
76
đều dùng kết nối mà không hề bị hạn chế, đây cũng là một thực tế thông
thường khi cung cấp các kết nối tới các trang khác. Vấn đề phát sinh ngay sau
khi các kết nối đượ dùng để ngụy tạo cho việc cung cấp các mẩu thông tin
được tạo ra bởi người khác. Để tạo ra một dịch vụ mới cung cấp các đề mục
cho các tin mới nhất trên các server khác là điều đơn giản. Khách hàng sẽ vào
trang web của doanh nghiệp vì ở đó có các đề mục tin tức mới nhất nhưng tất
cả những gì doanh nghiệp làm là cung cấp kết nối cho công việc người sử
dụng. Thực tế này nếu ở mức kết nối sâu sẽ được coi là vi phạm bản quyền.
+ Nội dung của trang web:
- Vi phạm nhãn hiệu: Những doanh nghiệp thiết kế website phải rất cẩn
thận để không sử dụng bất kỳ tên, logo hoặc các ký hiệu nhận diện của nhãn
hiệu không được doanh nghiệp sở hữu nhãn hiệu đưa ra.
- Thói quen gian lận trong thương mại: Công nghệ đồ thị, hình ảnh, âm
thanh của máy tính cho phép các nhà thiết kế website thực hiện nhiều việc
mang tính sáng tạo và thú vị. Những thao tác của các clip bức ảnh, âm thanh
và hình ảnh đang tồn tại có thể rất thú vị. Tuy nhiên nếu đối tượng bị thao tác
là nhãn hiệu được đăng ký thì những thao tác này có thể vi phạm quyền của
người sở hữu nhãn hiệu.
- Quy định về quảng cáo: Việc quy định chính sách này là cần thiết.
Các chính sách này bao gồm các thông tin về những quảng cáo được phép
như quảng cáo mồi, cho vay và cho thuê, chứng thực chứng nhận, bảo hành
và bảo đảm, giá cả…nhằm quy định các thông báo cụ thể phải được đưa kèm
trong mỗi quảng cáo cho các sản phẩm.
77
CHƢƠNG 3 - GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THƢƠNG MẠI ĐIỆN
TỬ Ở HÀ NỘI VÀ VIỆT NAM
3.1 Sự cần thiết phải phát triển thƣơng mại điện tử ở Hà nội và Việt nam
Thương mại điện tử là toàn bộ chu trình và các hoạt động kinh doanh
liên quan đến các tổ chức hay cá nhân tiến hành các hoạt động thương mại có
sử dụng các phương tiện điện tử và công nghệ xử lý thông tin số hóa, bao
gồm cả sản xuất, phân phối, marketing, mua bán, giao hàng hóa và dịch vụ
bằng các phương tiện điện tử, mạng internet và viễn thông.
Tuy mới xuất hiện và chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong thương mại
song TMĐT đã mang lại những lợi ích to lớn cho doanh nghiệp, chính phủ,
người tiêu dùng và xã hội. TMĐT đã vượt ra khỏi lĩnh vực thương mại, ngày
càng tác động lớn đến các lĩnh vực khác và hứa hẹn mang lại những thay đổi
to lớn và sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài người. TMĐT ngày càng được
sự quan tâm của chính phủ, doanh nghiệp, người tiêu dùng và đang trở thành
một công cụ hữu hiệu trong quá trình toàn cầu hóa và trong xây dựng nền
kinh tế số. Việc TMĐT áp dụng trong xã hội tương lai là điều tất yếu.
Bên cạnh đó TMĐT cũng đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết để khai
thác các lợi ích của TMĐT như vấn đề an toàn, an ninh cho các giao dịch trên
mạng, các vấn đề bảo vệ bí mật, tính riêng tư, các vấn đề về công nghệ thông
tin và truyền thông, cơ sở hạ tầng, các vấn đề về nhân lực, chuyển đổi mô
hình kinh doanh, các vấn đề về quản lý, thay đổi tập quán, thói quen trong
kinh doanh...
Phát triển TMĐT đang là vấn đề đặt ra khi tham gia tổ chức thương mại
thế giới WTO. TMĐT vừa là cơ hội vừa là công cụ hữu hiệu bảo đảm sự bình
đẳng và bứt phá của doanh nghiệp Việt nam trong tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế.
78
Ở Việt nam, ngày 17/10/2000, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam đó ban hành Chỉ thị số 58 - CT/TW về đẩy
mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Ngày 03/12/2002, Thủ tướng Chính phủ đó ra Quyết định số
176/2002/QĐ-TTg thành lập Ban Chỉ đạo Quốc gia về Công nghệ Thông tin
nhằm chỉ đạo thực hiện Chỉ thị 58 trên phạm vi toàn quốc. Chính phủ đã có
Quyết định số 112/2001/TTg ngày 25/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ về
"Phê duyệt Đề án tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 -
2005". Đề án 112 của về Tin học hóa Quản lý Hành chính Nhà nước chưa
thành công nhưng đã rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm. Gần đây, Quyết
định số 222/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch
tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2006 – 2010 cũng đã được ban hành.
Ngày 6 tháng 10 năm 2005, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số
246/2005/TTg phê duyệt tiếp “Chiến lược phát triển CNTT và truyền thông
Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”. Mặc dù chưa đạt
được những thành tựu đáng kể nhưng định hướng của Đảng và Nhà nước Việt
nam là không ngừng phát triển lĩnh vực này tạo điều kiện để công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa phát triển. Định hướng đúng đắn này là cơ hội cho
các doanh nghiệp Việt nam nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh siêu
thị nói riêng trong tương lai.
3.2 Yêu cầu và nguyên tắc phát triển thƣơng mại điện tử ở Hà nội và Việt
nam trong điều kiện hội nhập kinh tế
3.2.1 Nguyên tắc phát triển thương mại điện tử
Việc phát triển TMĐT ở Việt nam nói chung và nhất là ở Hà Nội phải
tuân thủ các nguyên tắc sau:
+ An toàn, bí mật: An toàn dữ liệu và bảo mật thông tin được xem là
nguyên tắc hàng đầu trong quá trình triển khai cũng như phát triển loại hình
79
kinh doanh TMĐT. Sở dĩ như vậy là do xuất phát từ thực tế số vụ tấn công
của các hacker vào các website ngày càng gia với mức độ nghiêm trọng, ban
đầu là chứng tỏ mình sau là với mục đích trục lợi. Tính chất và mức độ nguy
hiểm ngày càng cao do đó nguyên tắc này cần được doanh nghiệp kinh doanh
siêu thị hết sức quan tâm trong quá trình triển khai.
+ Phù hợp hội nhập: TMĐT không chỉ bó hẹp trong phạm vi của một
khu vực hay một lãnh thổ mà nó có tính chất bao trùm, vượt mọi giới hạn
không gian giữa các quốc gia và khu vực. Doanh nghiệp sẽ không thể bán
hàng cho các khách hàng ở các nước khác hay những khu vực cách xa về địa
lý nếu không tính đến mọi vấn đề. Để giải quyết các vấn đề thì doanh nghiệp
phải xác định nguyên tắc hội nhập. Trong quá trình triển khai TMĐT doanh
nghiệp kinh doanh siêu thị cần xem xét các vấn đề về thông lệ kinh doanh
TMĐT, các loại thẻ phù hợp với việc thanh toán quốc tế đảm bảo các giao
dịch được an toàn, các quy định quốc tế và khu vực ban hành có liên quan đến
TMĐT, các công nghệ triển khai TMĐT phù hợp với xu thế phát triển chung,
phù hợp với tập quán kinh doanh của quốc gia và khu vực.
+ Phù hợp với điều kiện kinh tế, thị hiếu Việt nam: Việt nam là một
nước đang phát triển, trình độ nhận thức của người dân và các doanh nghiệp
chưa đạt đến tầm quốc tế. Phong tục, tập quán, văn hóa của người dân Việt
nam nói chung và Hà nội nói riêng cũng có những nét bản sắc riêng có. Công
tác triển khai TMĐT phải cân nhắc tính phù hợp cho từng giai đoạn, phải căn
cứ vào các chính sách của cơ quan nhà nước trong những giai đoạn này. Vấn
đề pháp lý cũng là một vấn đề liên quan đến sự đảm bảo cho TMĐT được
thực thi, tránh những phiền toán và rắc rối cho cả doanh nghiệp và người tiêu
dùng. Các hàng hóa đăng tải trên các phương tiện điện tử cũng cần phải cân
nhắc đảm bảo phù hợp với thị hiếu của khách hàng là những người tiêu dùng.
80
3.2.2 Yêu cầu phát triển thương mại điện tử
Việc phát triển TMĐT ở Việt nam nói chung và nhất là ở Hà Nội phải
đáp ứng được các yêu cầu sau:
+ Về mặt pháp lý: Việc triển khai TMĐT tại Việt nam phải được các cơ
quan quản lý chức năng có những quy định hướng dẫn, tạo thói quen tiêu
dùng và mua bán trên mạng, làm cho những người mua hàng hiểu rõ quá trình
giao dịch, những vấn đề rủi ro có thể phát sinh. Các văn bản pháp lý ban hành
không quá khó khăn đối với doanh nghiệp hoặc người tiêu dùng hay không
tạo ra những hạn chế trong quá trình thực hiện. Có như vậy việc triển khai
TMĐT mới phát triển và phù hợp, mang tính thực tiễn cao.
+ Về tính khả thi: Doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh
siêu thị nói riêng phải đánh giá quá trình triển khai, đảm bảo những điều kiện
cần thiết như tài chính, nguồn nhân lực, công nghệ, thời gian...Thực tế cho
thấy nhiều doanh nghiệp trong quá trình triển khai phải dừng lại do gặp những
khó khăn về tài chính do phải bỏ ra khoản tiền lớn để mua công nghệ, nguồn
nhân lực bị hạn chế hoặc nguồn nhân lực không ổn định dẫn đến tình trạng
công việc triển khai bị dở dang hoặc thiếu nhân sự chủ chốt để đảm bảo quá
trình vận hành được ổn định. Công nghệ không ổn định cũng gây ra những
khó khăn trong quá trình điều hành và xử lý thông tin, nhiều tính năng bị hạn
chế hoặc không sử dụng đến hay không phù hợp. Quá trình triển khai TMĐT
cũng đòi hỏi yếu tố thời gian, việc triển khai theo kiểu “ép tiến độ” sẽ không
đảm bảo chất lượng dịch vụ, không phù hợp với quá trình nhận biết và xử lý
thông tin của khách hàng.
3.3 Những giải pháp nhằm phát triển thƣơng mại điện tử ở Việt nam và
Hà nội
Để đưa TMĐT bước sang giai đoạn mới, phát triển về chất, mở rộng
ứng dụng trong thực tiễn xã hội nói chung cũng như trong các doanh nghiệp
81
kinh doanh siêu thị nói riêng thì còn nhiều việc phải làm để tạo được những
tiền đề phát triển bền vững. Trong đó, trở ngại lớn nhất là nhận thức của
người dân, những khách hàng lẻ của các siêu thị và doanh nghiệp, những
khách hàng mua buôn còn thấp; hệ thống thanh toán điện tử còn nhiều bất
cập; tập quán kinh doanh chưa tương thích; nhân lực thiếu và yếu về kỹ năng
cùng với hạ tầng kỹ thuật chưa đáp ứng. Để khắc phục được những bất cập
này, cần phải có nhiều thời gian, bỏ ra nhiều công sức, tăng cường đầu tư xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, nâng cao nhận thức và kỹ năng TMĐT
cho người dân, doanh nghiệp và toàn xã hội. Một số giải pháp nhằm phát
triển TMĐT bao gồm:
+ Về công nghệ: Để phát triển TMĐT thì những tồn tại về hạ tầng kỹ
thuật và khả năng thanh toán điện tử là những nội dung cần sớm khắc phục.
Muốn làm được việc này thì những yếu tố cấu thành trong hệ thống TMĐT
bao gồm doanh nghiệp; hệ thống tài chính - ngân hàng; hạ tầng kỹ thuật viễn
thông; tổ chức quản lý và cơ sở pháp lý cần phải được xây dựng và khai thác
đồng bộ.
Thực tiễn phát triển TMĐT thời gian qua cho thấy, mối liên kết giữa các
tác nhân chính tham gia là vấn đề mang ý nghĩa then chốt. Sự vận dụng và
sáng tạo của cộng đồng doanh nghiệp là nhân tố quyết định thành công của
mọi giao dịch điện tử khi đưa vào khai thác. Bên cạnh vai trò điều tiết của cơ
quan hoạch định chính sách, dịch vụ tài chính - ngân hàng (tác nhân quan
trọng trong mọi phương thức thanh toán) sẽ góp phần tạo sức kéo của thị
trường để KH &CN và hạ tầng kỹ thuật tạo ra lực đẩy cần thiết. Không có
mạng lưới ngân hàng hiện đại với những tiện nghi phù hợp để thanh toán liên
ngân hàng thì khó có thể thực hiện thành công thanh toán điện tử. Từ hệ thống
thanh toán liên ngân hàng hiện đại, đến hạ tầng thanh toán điện tử đồng bộ và
rộng khắp cho toàn xã hội có khoảng cách khá xa. Lực cản lớn nhất đối với
82
TMĐT ở nước ta hiện nay là sự phân tán và liên kết yếu trong hệ thống ngân
hàng thương mại. Để dịch vụ ngân hàng hỗ trợ hiệu quả cho TMĐT, cần có
sự liên thông cao giữa các ngân hàng thông qua cổng trung gian thanh toán
điện tử với năng lực hoạt động mạnh. Bên cạnh đó, hệ thống an toàn bảo mật
trong thanh toán điện tử cũng cần phải được thiết lập xuyên suốt từ trung
ương đến từng doanh nghiệp. Các vấn đề về bảo mật trang web, các mối nguy
hiểm về tin tặc (hacker) tấn công, tốc độ đường truyền Internet…Khó khăn
này có thể được khắc phục bằng cách lập tường lửa (firewall), thường xuyên
theo dõi các hoạt động của cửa hàng, kiểm tra các nỗ lực xâm nhập của
hacker, thường xuyên cập nhật các bản sửa lỗi mới nhất cho server. Có đội
ngũ nhân viên bảo mật nhằm theo dỏi và chống lại các cuộc tấn công diễn ra
từ bên trong cũng như từ bên ngoài doanh nghiệp.
Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin và chi tiết về từng sản phẩm của các
doanh nghiệp trong cùng một lĩnh vực như cho riêng lĩnh vực siêu thị; xây
dựng sàn giao dịch điện tử về các sản phẩm phù hợp với các siêu thị với sự
tham gia phối hợp của các ngân hàng. Ngoài giới thiệu về sản phẩm của từng
ngành nghề, sàn giao dịch này phục vụ thuận lợi cho các giao dịch mua và
bán.
Các cơ quan chức năng cần hoàn thiện mạng lưới hạ tầng viễn thông,
internet, nhất là ở các tỉnh nơi có hệ thống siêu thị phát triển. Tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị có thể dễ dàng sử dụng các dịch vụ
như điện thoại, fax và truy cập internet để hướng tới việc dễ dàng tiếp cận với
TMĐT.
Nhà nước hỗ trợ để các doanh nghiệp có quy mô nhỏ không làm được
website thì vẫn có thể tham gia TMĐT bằng cách thiết lập một gian hàng trên
chợ “ảo”, việc duy trì gian hàng này hoàn toàn miễn phí. Tại đây, các doanh
nghiệp trong nước và nước ngoài đều có thể tham gia TMĐT tìm kiếm đối
83
tác, sản phẩm, giá cả và phương thức giao dịch chỉ sau một vài cú click chuột.
Tin học hóa quy trình kinh doanh siêu thị cũng quan trọng. Đối với các
doanh nghiệp, việc trả lời thư điện tử một cách đáng tin cậy rất quan trọng,
trong đó cần chú ý yếu tố thời gian. Trả lời ngay trong 24 giờ là yêu cầu rất
bình thường trong giao dịch điện tử. Bên cạnh đó, doanh nghiệp kinh doanh
siêu thị cần cải thiện việc lưu giữ hồ sơ, chứng từ, thực hiện công khai minh
bạch khi trả lời thắc mắc của khách hàng với các thông tin, chứng từ về chất
lượng hàng hóa, thông tin về kiểm dịch... Muốn vậy, tất cả các quy trình đều
phải được tin học hóa để có thể cung cấp ngay lập tức khi đối tác yêu cầu.
Nếu doanh nghiệp kinh doanh siêu thị có vận dụng giao dịch điện tử nhưng
toàn bộ tổ chức vẫn giao dịch trên giấy thì sẽ mất nhiều thời gian chuyển
thông tin sang dữ liệu điện tử.
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng cần được coi trọng. Phần lớn đối
tượng trong TMĐT là các ấn phẩm trí tuệ, đặc biệt là các sản phẩm có thể số
hóa. Các chức năng và kỹ thuật công nghệ trong TMĐT cho phép các chủ thể
tham gia nhân bản không hạn chế số lượng sản phẩm sở hữu trí tuệ với chất
lượng không đổi, đồng thời cho phép chuyển, gửi không hạn chế về mặt số
lượng các bản sao đến các địa chỉ trên toàn cầu trong khoảng thời gian nhanh
nhất. Internet và các hacker được coi là máy sao chụp khổng lồ, vi phạm
thường xuyên quyền sở hữu trí tuệ. Trong khi đó pháp luật về bảo hộ quyền
sở hữu trí tuệ còn chưa hoàn chỉnh, hiệu quả thấp. Đây thực sự là một thách
thức đối với pháp luật để vừa bảo đảm được quyền lợi và khuyến khích chủ
sở hữu trí tuệ vừa bảo đảm cho sự phát triển của công nghệ thông tin, TMĐT.
+ Giải pháp về con người: Phần 1.4.1 có nêu về đặc điểm TMĐT của
Việt nam và Hà nội. Từ kết quả nghiên cứu và phân tích của MKDF cho thấy
con người Việt nam vẫn còn thờ ơ với Internet cũng như TMĐT và hầu như
ưa thích với hình thức kinh doanh truyền thống. Đây là một thói quen văn hóa
84
sinh hoạt của con người Việt nam nói chung và Hà nội nói riêng. Các giải
pháp nhằm thay đổi thói quen sinh hoạt cần được tập trung.
Phải có được một trình duyệt giúp khách hàng thuận lợi nhất để thực
hiện mua hàng nhằm khai thác hiệu quả những tiện ích của công nghệ thông
tin thông qua việc chuyển đổi người mua tiềm năng khi viếng thăm trang web
trở thành người mua thực tế. Tiếp cận thông tin là mục đích cuối cùng của
Internet. Doanh nghiệp cần sẵn sàng chia sẻ thông tin, mang thông tin đến cho
khách hàng, cho đối tác và công chúng. Đó là yếu tố dẫn tới thành công trong
nền kinh tế điện tử.
Do Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị nói
riêng chưa có nhiều kinh nghiệm về TMĐT. Sở dĩ như vậy là do được thừa
hưởng thành tựu công nghệ từ các nước tiên tiến trên thế giới nên công tác
đào tạo, bồi dưỡng kiến thức cho đội ngũ nhân lực tại các doanh nghiệp triển
khai TMĐT bằng cách tổ chức các khoá học để các doanh nghiệp tham gia
cần được chú trọng. Mục đích là để huấn luyện các kỹ năng và thực tế khi
giao dịch, làm ăn với các đối tác trong và ngoài nước.
Nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và người tiêu dùng về các hành
vị gian lận thương mại trực tuyến
+ Giải pháp về mặt pháp lý: Để phát triển TMĐT thì môi trường pháp
lý và tổ chức quản lý hệ thống cũng cần được phải chấn chỉnh cho phù hợp.
Khung pháp lý TMĐT nước ta được hình thành với Luật Giao dịch điện tử và
các nghị định hướng dẫn về TMĐT, giao dịch điện tử... Hệ thống này đã thừa
nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện tử. Tuy nhiên, để đưa chứng từ thanh
toán vào hoạt động tài chính của doanh nghiệp thì vẫn đang cần những thay
đổi tương ứng trong các quy định chuyên ngành của thuế vụ, kế toán, kiểm
toán... và nhất là giá trị pháp nhân của chữ ký điện tử.
85
Nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân. Phần 2.2.2 về thực
trạng mô hình TMĐT có nêu hai vụ tấn công website www.vietco.com và
www.chodientu.com là hai vụ điển hình về vấn đề báo động tình hình an ninh
mạng. Từ thực tế cho thấy ý thức của người dân chưa được tự giác, nhiều nội
dung chính sách phát luật chưa đến với người dân nên xảy ra tình trạng coi
thường, thách thức pháp luật.
Như trên đã nêu, công tác đặt mua hàng qua mạng mà không có người
nhận hàng (chỉ mua thử hay là sự đùa cợt của một số người thiếu ý thức) cũng
là một vấn đề. Xây dựng biện pháp khắc phục những trường hợp này là kiểm
tra số điện thoại, gửi chỉ email xác nhận, yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ
số nhà,…. Nếu thanh toán bằng hình thức chuyển khoản và gửi qua đường
bưu điện thì sẽ tránh được vấn đề này. Các cơ quan ban hành chính sách cần
cụ thể hóa các trường hợp phát sinh tranh chấp khi bán hàng trên mạng để
giúp các khách hàng cảm nhận được tính minh bạch trong các chính sách
pháp luật.
Bên cạnh đó các vấn đề như tranh chấp tên miền cũng cần được xem
xét kỹ khi xây dựng chính sách pháp luật. Nhiều người đăng ký tên miền cùng
nhãn hiệu mà không có liên quan gì tới chủ sở hữu nhãn hiệu. Trong số này
có những người biết được kẽ hở pháp lý nên đăng ký rồi bán lại tên miền
mang tính trục lợi. Những quy định mới của Việt nam cũng đã đi vào giải
quyết vấn đề này. Nếu như nhãn hiệu đã được đăng ký trước tên miền thì
người sở hữu nhãn hiệu đó sẽ được cấp tên miền. Nếu như nhãn hiệu được
thành lập sau khi tên miền đã được đăng ký thì chủ sở hữu nhãn hiệu không
có được tên miền đó. Do đó doanh nghiệp cần kiểm tra tên miền sẵn có và
nhãn hiệu được đăng ký trước khi đăng ký.
Vấn đề kết nối phải được làm rõ trong các văn bản pháp quy. Do chưa
có một cơ sở pháp lý nào cho trang web nên tất cả mọi người đều dùng kết
86
nối mà không hề bị hạn chế, đây cũng là một thực tế thông thường khi cung
cấp các kết nối tới các trang khác. Vấn đề phát sinh ngay sau khi các kết nối
đượ dùng để ngụy tạo cho việc cung cấp các mẩu thông tin được tạo ra bởi
người khác. Để tạo ra một dịch vụ mới cung cấp các đề mục cho các tin mới
nhất trên các server khác là điều đơn giản. Khách hàng sẽ vào trang web của
doanh nghiệp vì ở đó có các đề mục tin tức mới nhất nhưng tất cả những gì
doanh nghiệp làm là cung cấp kết nối cho công việc người sử dụng. Nếu kết
nối ở mức độ sâu sẽ được coi là vi phạm bản quyền.
Các văn bản chính sách pháp luật của Việt nam đưa ra giải pháp quảng
bá tự nguyện đối với các cá nhân các tổ chức doanh nghiệp, tuy nhiên giải
pháp này có những bắt buộc của nó. Mọi hoạt động tự nguyện tự giác thái quá
sẽ dẫn đến sự không hợp lý. Do vậy việc quảng bá tự nguyện cũng cần phải
được giám sát và kiểm tra thường xuyên kịp thời của các cơ quan hữu trách.
Nâng cao trình độ hiểu biết luật pháp thương mại quốc tế để sẵn sàng
đối phó với tranh chấp thương mại trên thị trường ngoài nước khi tham gia
TMĐT. Để phát triển TMĐT, doanh nghiêp cũng cần chủ động và tích cực
tham gia vào tiến trình cải cách hành chính Nhà nước theo hướng điện tử hoá
nền hành chính quốc gia, tham gia dịch vụ công của chính phủ.
Hoàn chỉnh khung pháp lý đối với người tiêu dùng như liên quan đến tín
dụng TMĐT, vấn đề nổi lên là phải bảo vệ được quyền lợi của người tiêu
dùng vì đây là một lĩnh vực mới, chứa đựng nhiều rủi ro. Khác với những
ngân hàng nước ngoài cho vay tín chấp đến 90%, ở nước ta, hầu như mọi
khoản cho vay tiêu dùng đều dựa vào thế chấp. Cho đến nay, chưa có tổ chức
nào làm nhiệm vụ nghiên cứu, tư vấn định mức tín dụng cá nhân. Đây có thể
là khiếm khuyết cần sớm khắc phục thông qua việc hình thành những công ty
cổ phần định mức tín dụng cá nhân theo đề xuất của tổ chức ngân hàng [6, tr.
13].
87
Bên cạnh đó về pháp lý cũng cần hợp tác quốc tế trong việc thực thi các
phán quyết của các cơ quan quốc gia trong giải quyết tranh chấp hay hợp tác,
chia sẻ thông tin điều tra liên quan đến dạng tội phạm công nghệ cao.
Xây dựng chính sách, cơ chế để quản lý thuế trong hợp đồng TMĐT.
Sự tăng trưởng và phát triển nhanh chóng của TMĐT cũng tạo ra các mối
quan hệ về thuế. Các cơ quan thuế thường gặp nhiều khó khăn trong việc xác
định căn cứ tính thuế, thuế suất. Trong trường hợp một công ty TMĐT có số
lượng lớn khách hàng ở các quốc gia khác nhau thường tạo ra sự bất đồng
giữa 2 cơ quan thuế của 2 nước về thẩm quyền, ai được hưởng quyền thu
nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng…Việc xác định được cơ sở thường
trú, địa điểm giao dịch, nơi tiêu thụ trong những trường hợp như vậy sẽ giúp
cho TMĐT có thể phát triển nhanh hơn.
+ Giải pháp theo khu vực, lãnh thổ: Tuyên truyền, đào tạo về TMĐT
cho doanh nghiệp: Các cơ quan thương mại ở Trung ương và địa phương cần
vận động và hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia chương trình phát triển TMĐT.
Huy động các nguồn tài trợ từ Trung ương, các tổ chức thương mại trong và
ngoài nước. Các cơ quan Bưu chính-Viễn thông cần quy hoạch phát triển hạ
tầng viễn thông và Internet. Phối hợp với các cơ quan thương mại trung ương
và địa phương hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ thông tin và
TMĐT, đào tạo các kỹ năng và tư vấn cho doanh nghiệp các vấn đề liên quan
đến công nghệ thông tin và TMĐT ở khía cạnh kỹ thuật.
Do đặc điểm các vùng miền là khác nhau nên các doanh nghiệp kinh
doanh siêu thị khó có thể xác định rõ ràng và chính xác hàng hoá mà khách
hàng cần. Đây là điểm mà các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị cần đi sâu.
Từ việc xác định được nhu cầu thị trường thì mới bán được hàng hóa tới
người tiêu dùng và có doanh số cũng như sinh lời để tái đầu tư phát triển
thương mại điện tử.
88
+ Giải pháp đối với các loại hình kinh doanh nói chung:
Việc xây dựng các hiệp hội để phát triển TMĐT là cần thiết. Các hiệp
hội sẽ tổ chức các cuộc thi về website TMĐT và đánh giá về ứng dụng TMĐT
cho từng loại hình doanh nghiệp trong đó loại hình kinh doanh siêu thị là một
trong những loại hình thiết thực nhất.. Các cuộc thi này một phần sẽ là những
hoạt động quảng bá xúc tiến thương mại của các doanh nghiệp nhưng cũng
đồng thời phát động nên những phong trào ứng dụng TMĐT một cách sâu
rộng hơn.
Các doanh nghiệp Việt nam nói chung và các doanh nghiệp kinh doanh
siêu thị nói riêng cần tìm kiếm thông tin để tham gia vào các tổ chức kinh tế
đa phương
Việc thành lập Ủy ban điều phối và bảo vệ người tiêu dùng và doanh
nghiệp trong quá trình giao dịch TMĐT là cần thiết để bảo vệ môi trường
cạnh tranh lành mạnh trong thời kỳ hội nhập WTO
Các cơ quan nhà nước cần làm gương trong hoạt động phát triển
TMĐT. Cơ quan có liên quan đến doanh nghiệp như địa chính, cấp phép, thuế
quan, hải quan không chịu cải cách hành chính, không coi trọng giao dịch qua
mạng mà vẫn đòi hỏi doanh nghiệp phải đến gặp trực tiếp thì TMĐT không
thể phát triển. Phải đẩy mạnh việc công khai, minh bạch, giảm giao dịch trực
tiếp, tránh sách nhiễu... mới thúc đẩy được sự phát triển của TMĐT.
Doanh nghiệp kinh doanh siêu thị cần có xây dựng chương trình thuyết
phục các nhà cung cấp khác tham gia vào việc kinh doanh trên mạng, chẳng
hạn như ngành hàng văn phòng phẩm, linh kiện điện tử,…Khó khăn này khắc
phục bằng cách kiên trì giải thích và chứng minh cho khách hàng thấy được
những lợi ích cũng như tiềm năng phát triển của con đường kinh doanh bằng
TMĐT
+ Giải pháp đối với điều kiện tự nhiên: Những yếu tố bất lợi của thời
89
tiết cũng là một vấn đề nan giải: xảy ra tình trạng mưa lớn diễn ra suốt ngày,
lũ lụt đột ngột…làm ngập đường xá, các con hẻm,…. Sẽ gây ra rất nhiều khó
khăn trong quá trình giao hàng đến tận tay khách hàng. Khó khăn này có thể
được khắc phục bằng cách gọi điện thoại hoặc gửi email hay dùng bất kỳ
phương tiện giao tiếp nào, chẳng hạn như thông báo tình trạng khó khăn này
ngay trên trang chủ của cửa hàng, để có thể liên hệ với khách hàng hẹn lại vào
một ngày nào đó sẽ giao hàng khi thời tiết khá hơn.
+ Giải pháp kinh doanh và tài chính:
Do phần lớn hàng hóa có chu kỳ sống ngắn, các hàng hóa thực phẩm
không thể tồn tại lâu dài, thời gian vận chuyển hàng từ người bán đến người
tiêu dùng mất nhiều thời gian, không phù hợp với đơn hàng nhỏ, nên việc bán
hàng trên mạng là không khả thi. Thay vào việc triển khai TMĐT thì hình
thức kinh doanh bán buôn bán hàng qua điện thoại (Telesales) đối với các
doanh nghiệp được coi là phù hợp và đang được triển khai. Vì lẽ đó các doanh
nghiệp kinh doanh siêu thị cần phải xây dựng cơ cấu ngành hàng cụ thể thích
hợp với việc kinh doanh trên mạng. Cơ cấu hàng hóa dịch vụ được giới thiệu
trên các website doanh nghiệp chủ yếu là thiết bị điện tử, viễn thông và hàng
tiêu dùng. Do đặc điểm của mặt hàng điện tử, viễn thông và đồ điện gia đình
là mức độ tiêu chuẩn hóa cao, với những thông số kỹ thuật rõ ràng cho phép
người tiêu dùng đánh giá và so sánh các sản phẩm mà không cần đến giám
định trực quan. Vì lẽ đó, việc xây dựng các mặt hàng với các thông số kỹ
thuật được chuẩn hóa cũng là biện pháp tạo lòng tin đối với người tiêu dùng,
phù hợp để phát triển thương mại điện tử.
Vấn đề tài chính cũng là vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Phát triển thương mại điện tử là một quá trình đòi hỏi phải có sự đầu
tư về tài chính bên cạnh việc đầu tư về công nghệ, nhân lực. Các doanh
nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh siêu thị nói riêng cần xây dựng
90
dự toán ngân sách và nguồn vốn tài trợ hoạt động thương mại điện tử một
cách hợp lý, đảm bảo cho TMĐT được phát triển lâu dài, không bị chi phối
bởi vấn đề tài chính trong quá trình triển khai thực hiện.
Bên cạnh việc đầu tư về công nghệ và nhân lực thì các doanh nghiệp
kinh doanh siêu thị nói riêng và doanh nghiệp Việt nam nói chung cần quan
tâm đầu tư vốn cho thương mại điện tử. Các dự toán ngân sách tài chính cho
thương mại điện tử cần được xác định và xây dựng nguồn vốn huy động, đảm
bảo quá trình tiến hành TMĐT được diễn ra liên tục tránh tính trạng đang làm
dở phải bỏ đi vì vấn đề tài chính. Như vậy vừa lãng phí tiền của vừa lãng phí
thời gian, công sức.
+ Giải pháp về hệ thống tổ chức:
Các quy trình bán hàng qua mạng, các chính sách bán hàng qua mạng,
các cam kết với các khách hàng phải được các doanh nghiệp kinh doanh siêu
thị tại Hà nội nói chung và các doanh nghiệp Việt nam nói riêng làm rõ ràng
và cụ thể. Đây là khâu chi tiết, cụ thể của quá trình triển khai thương mại điện
tử. Các quy trình và chính sách phải được xây dựng trên cơ sở hiểu biết rất rõ
các nguy cơ tiền ẩn, các rủi ro có thể phát sinh trong quá trình hoạt động cũng
như sự ban hành hiện hữu của các văn bản pháp quy. Giải pháp này được tiến
hành sau cùng sau khi các giải pháp trên được tiến hành.
Các nhóm giải pháp nêu trên cần được cơ qụan hữu trách đứng đầu là
Bộ thương mại triển khai đồng bộ thì mới đạt được hiệu quả đích thực của nó.
Sự phát triển không cân đối hay không đúng mục đích có thể đưa đến những
vấn đề liên quan đến hiệu quả kinh tế và các nguồn lực của quốc gia
3.4 Các điều kiện để thực hiện giải pháp
3.4.1 Điều kiện đối với nhà nƣớc
Luật giao dịch điện tử
Luật giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 được Quốc hội khóa XI, kỳ
91
họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/3/2006. Luật
gồm 8 chương, 54 điều quy định về thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử và
chứng thực chữ ký điện tử, giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử, giao dịch
điện tử của cơ quan nhà nước, an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật trong TMĐT,
giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử. Phạm vi điều
chỉnh chủ yếu của Luật là giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan
nhà nước, trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại.
Luật giao dịch điện tử nhấn mạnh nguyên tắc tiến hành giao dịch điện
tử là tự nguyện, được tự thỏa mãn về việc lựa chọn công nghệ để thực hiện
giao dịch, trung lập về công nghệ, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn.
Chữ ký điện tử là một nội dung được đề cập đến trong Luật giao dịch
điện tử. Luật công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử, nêu lên nghĩa vụ
của bên ký, bên chấp nhận chữ ký và tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực
chữ ký điện tử và có một chương riêng đề cập đến giao dịch điện tử của cơ
quan Nhà nước.
Tiếp sau Luật giao dịch điện tử, Nghị định của Chính phủ số
57/2006/NĐ-CP ngày 9 tháng 6 năm 2006 về TMĐT cũng ra đời.
Luật thƣơng mại
Luật thương mại (sửa đổi) được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực ngày 1/1/2006 là văn bản pháp lý làm nền
tảng cho các hoạt động thương mại, trong đó có TMĐT. Điều 15 của Luật quy
định: “Trong hoạt động thương mại, các thông điệp dữ liệu đáp ứng các điều
kiện, tiêu chuẩn theo quy định của pháp luật thừa nhận có giá trị pháp lý
tương đương văn bản”. Ngoài ra, tại khoản 4 điều 120 (các hình thức trưng
bày, giới thiệu hàng hóa dịch vụ), trong đó coi “Trưng bày, giới thiệu hàng
hóa, dịch vụ trên Internet” là một hình thức trưng bày, giới thiệu hàng hóa,
dịch vụ.
92
Bộ luật dân sự
Tại khoản 1 điều 124 “Hình thức giao dịch dân sự” của Bộ luật Dân sự
được quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 và có hiệu
lực từ ngày 1/10/2005 quy định: “Quy định giao dịch dân sự thông qua
phương tiện điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch
bằng văn bản”. Bộ luật Dân sự đưa ra quy định cụ thể về các thời điểm giao
kết hợp đồng là thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết.
Địa điểm giao kết hợp đồng dân sự do các bên thỏa thuận, nếu không có địa
điểm thỏa thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng là nơi cư trú của cá nhân hoặc
trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng. Đây là những khái
niệm quan trọng cần tính đến khi xây dựng các văn bản pháp luật liên quan
đến giao kết và thực hiện hợp đồng trong môi trường điện tử.
Luật Hải quan
Luật Hải quan (sửa đổi) được quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông
qua ngày 14/6/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 có bổ sung một số quy
định về trình tự khai hải quan điện tử, địa điểm khai, hồ sơ hải quan điện tử,
thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu bằng TMĐT
Luật sở hữu trí tuệ
Luật sở hữu trí tuệ được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua
ngày 29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/7/2006 thể hiện một bước tiến trong
việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Luật
sở hữu trí tuệ có một số điều khoản liên quan đến TMĐT như quy định về các
hành vi bị xem là xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trong môi trường
điện tử như cố ý hủy bỏ, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện
tử trong tác phẩm, dỡ bỏ hoặc thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình
thức điện tử mà không được phép của chủ sở hữu quyền liên quan. Tuy không
có quy định cụ thể liên quan đến lĩnh vực TMĐT, nhưng các nguyên tắc trong
93
Luật sở hữu trí tuệ có thể áp dụng đối với lĩnh vực này.
Đối với cơ quan quản lý nhà nƣớc
+ Nhanh chóng ban hành đầy đủ các nghị định hướng dẫn Luật Giao
dịch điện tử và Luật Công nghệ thông tin:
Luật Giao dịch điện tử có hiệu lực từ tháng 3 năm 2006 nhưng chưa
thực sự đi vào cuộc sống do thiếu hầu hết các nghị định hướng dẫn. Phần lớn
các dự thảo nghị định này đã được trình lên Chính phủ vào cuối năm
2006.Các cơ quan chủ trì soạn thảo và Chính phủ cần nhanh chóng ban hành
các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Giao dịch điện tử. Đồng thời, Luật
Công nghệ thông tin được Quốc Hội thông qua từ giữa năm 2006 và có hiệu
lực từ đầu năm 2007. Luật Công nghệ thông tin có một số quy định liên quan
đến TMĐT. Cho tới hết năm 2006 Chính phủ chưa ban hành bất cứ nghị định
nào hướng dẫn thi hành Luật Công nghệ thông tin.
Ngoài ra, các cơ quan quản lý nhà nước cần tiếp tục ban hành các văn
bản điều chỉnh những lĩnh vực cụ thể hoặc chi tiết hoá các văn bản đã ban
hành như công nhận giá trị pháp lý của chứng từ điện tử, xử lý các hành vi vi
phạm, tội phạm liên quan đến TMĐT, quy định về bảo vệ người tiêu dùng
trong giao dịch trên mạng, quy định về cạnh tranh lành mạnh, chống gian lận
thương mại trong TMĐT.
Bên cạnh việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các văn bản pháp lý điều
chỉnh hoạt động TMĐT, cần quan tâm đến việc rà soát các văn bản đã ban
hành. Thực tế chỉ ra rằng nhiều hoạt động liên quan đến TMĐT đã được quy
định tại một số văn bản pháp quy, nhưng khi ban hành chưa tính đến những
đặc thù của môi trường mạng nên không đáp ứng được yêu cầu trong TMĐT
và trở thành lực cản cho doanh nghiệp. Các quy định liên quan đến quản lý,
chuyển nhượng tên miền, quản lý website, quản lý quảng cáo thương mại
thông qua các phương tiện điện tử cần phải được thay đổi để tạo thuận lợi hơn
94
nữa cho TMĐT.
+ Nâng cao năng lực quản lý nhà nước về thương mại điện tử tại các
địa phương:
Việc quản lý nhà nước về TMĐT cần đồng bộ giữa Trung ương và địa
phương. Căn cứ trên các mục tiêu và giải pháp được nêu tại Quyết định số
222/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Kế hoạch tổng thể
phát triển TMĐT giai đoạn 2006 - 2010, các cơ quan quản lý nhà nước về
thương mại tại địa phương cần khẩn trương xây dựng kế hoạch triển khai
TMĐT phù hợp với đặc điểm của địa phương, trình Uỷ ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương phê duyệt theo Điều 2 của Quyết định số
222/2005/QĐ-TTg để thực hiện.
Để hỗ trợ triển khai nhiệm vụ quản lý nhà nước về TMĐT tại các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương, trong năm 2006 Bộ Thương mại đã có
hướng dẫn chung. Đồng thời, ngày 20 tháng 11 năm 2006 Bộ Tài chính đã
ban hành Thông tư số 107/2006/TT-BTC hướng dẫn một số điểm về tổ chức
thực hiện dự toán ngân sách nhà nước năm 2007. Các cơ quan quản lý nhà
nước về thương mại tại địa phương cần bám sát Thông tư này để có đủ kinh
phí triển khai nhiệm vụ.
+ Nhanh chóng cung cấp trực tuyến các dịch vụ công liên quan tới
thương mại
Các cơ quan nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động cung cấp trực tuyến các
dịch vụ công liên quan tới thương mại. Tập trung vào những dịch vụ công đáp
ứng nhu cầu cao của xã hội, có lượng giao dịch nhiều hoặc quy trình triển
khai thuận lợi cho giao dịch trực tuyến, đặc biệt các dịch vụ liên quan tới xuất
khẩu, nhập khẩu, đầu tư. Công việc này cần bắt đầu từ việc rà soát, thống kê,
phân loại các dịch vụ công mà mỗi cơ quan đang cung cấp, sau đó công khai
quy trình giải quyết các dịch vụ này trên website của cơ quan.
95
Tiếp theo, cần phân tích các giai đoạn trong quy trình để xác định khả
năng đưa các dịch vụ công này lên mạng, lập dự án để triển khai.
Bên cạnh đó, các cơ quan nhà nước cần tăng cường cung cấp thông tin
kinh tế thương mại cho doanh nghiệp thông qua website và đa dạng hoá các
hình thức trao đổi thông tin với doanh nghiệp và công dân thông qua diễn đàn
tại các website, đối thoại trực tuyến, hội nghị truyền hình trực tuyến.
+ Triển khai từng bước mua sắm chính phủ trên mạng
Mua sắm chính phủ, bao gồm cả hàng hoá và dịch vụ, chiếm tỷ trọng
lớn trong thương mại. Trước hết, các cơ quan nhà nước phải tuân thủ đầy đủ
các quy định của pháp luật hiện hành về đấu thầu, trong đó có các quy định cụ
thể về thông báo mời thầu trên các website đấu thầu của Chính phủ. Ngoài
việc thông báo mời thầu trên mạng, các cơ quan nhà nước cũng cần tiến hành
mua sắm trên mạng. Giai đoạn đầu có thể là những hàng hoá, dịch vụ đơn
giản và tương đối chuẩn hoá như văn phòng phẩm, vé máy bay. Đẩy mạnh
thanh toán không dùng tiền mặt, tạo tiền đề cho giao dịch thanh toán điện tử.
3.4.2 Điều kiện đối với doanh nghiệp
+ Xác định mô hình ứng dụng thương mại điện tử thích hợp: Trong bối
cảnh Việt Nam đã gia nhập WTO, các doanh nghiệp phải đối mặt với sự cạnh
tranh bình đẳng ngay cả với doanh nghiệp nước ngoài. Do vậy, ngày càng
nhiều doanh nghiệp nhận thấy TMĐT là một phương thức giúp doanh nghiệp
nâng cao sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, việc ứng dụng
TMĐT ở mỗi doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào mức độ nhận thức, trình
độ nhân lực, đặc điểm kinh doanh, hạ tầng công nghệ của doanh nghiệp. Do
vậy, doanh nghiệp cần tìm hiểu, quan sát các mô hình thành công và cân
nhắc, tính toán để tìm ra phương thức ứng dụng TMĐT thích hợp với điều
kiện của doanh nghiệp mình.
+ Đầu tư hợp lý cho thương mại điện tử: Khi đã xác định được mô hình
96
ứng dụng TMĐT phù hợp, doanh nghiệp phải cân nhắc tới việc đầu tư cho
TMĐT một cách hợp lý. Bên cạnh việc đầu tư trang thiết bị cho TMĐT, cần
lưu ý tới đầu tư phát triển nguồn nhân lực, thay đổi tổ chức, và những yếu tố
thay đổi khác do việc ứng dụng TMĐT mang lại.
+ Thúc đẩy sự hình thành của các tổ chức hỗ trợ thương mại điện tử:
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp kinh doanh TMĐT cần xây
dựng một tổ chức đại diện cho quyền lợi và tiếng nói của mình, đồng thời là
nơi gặp gỡ, chia sẻ kinh nghiệm, giúp đỡ nhau trong hoạt động kinh doanh.
TMĐT là lĩnh vực mới, có nhiều rủi ro nên càng cần thiết có một tổ chức như
Hiệp hội các doanh nghiệp TMĐT.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm các nước cho thấy những tổ chức như viện
nghiên cứu, trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp ứng dụng TMĐT cũng rất cần
thiết để làm cầu nối giữa cơ quan lập chính sách và doanh nghiệp, đồng thời
là nơi triển khai các chính sách cụ thể trong cuộc sống.
+ Đẩy mạnh các dịch vụ hỗ trợ thương mại điện tử: Các ngân hàng
nhanh chóng kết nối hệ thống thanh toán để phục vụ được nhu cầu thanh toán
trực tuyến. Nghiên cứu xây dựng một trung tâm chuyển mạch duy nhất cho
các giao dịch thẻ nội địa. Đẩy mạnh lắp đặt các điểm chấp nhận thanh toán
(POS).
Cần nhanh chóng thiết lập cơ quan chứng thực chữ ký số quốc gia bên
cạnh việc khuyến khích phát triển dịch vụ chứng thực chữ ký số để doanh
nghiệp và người tiêu dùng yên tâm thực hiện các giao dịch, đặc biệt là các
giao dịch có giá trị lớn hoặc chứa các thông tin quan trọng.
Cần nghiên cứu và hình thành một hệ thống chứng nhận website
TMĐT có uy tín để người tiêu dùng có đủ lòng tin khi tham gia mua bán tại
các website này, từ đó khuyến khích nhiều người tham gia giao dịch TMĐT.
97
3.4.3 Điều kiện đối với ngƣời tiêu dùng
+ Thay đổi tập quán mua sắm, tích cực tham gia mua sắm qua mạng:
Sự thay đổi tập quán mua sắm của hàng triệu người tiêu dùng trên cả nước sẽ
góp phần thúc đẩy TMĐT phát triển nhanh và đa dạng, tạo ra thị trường mới
cho các doanh nghiệp và kích thích các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ
mới. Quá trình tác động qua lại giữa người tiêu dùng và doanh nghiệp trong
phương thức mua bán mới sẽ mang lại lợi ích chung cho toàn xã hội.
+ Nâng cao ý thức sử dụng mạng: Để góp phần tạo nên môi trường
TMĐT lành mạnh, người tiêu dùng cần nâng cao ý thức khi sử dụng mạng,
không góp phần phát tán các virus, phần mềm gián điệp, tránh để bị lừa đảo.
98
KẾT LUẬN
Có thể khẳng định rằng trong thời gian qua TMĐT ở Việt nam đã có
những bước phát triển đáng kể. Các mô hình kinh doanh TMĐT đã và đang
thâm nhập vào từng hoạt động của người dân cũng nhưng từng doanh nghiệp,
các cơ quan công quyền. Mô hình kinh doanh theo kiểu chợ truyền thống dần
dần được thay thế bằng hình thức mua bán tiên tiến hơn, phát triển hơn - đó là
hình thức kinh doanh siêu thị - cao hơn nữa là TMĐT. Chính sách của Đảng
và nhà nước ta cũng không ngừng được củng cố để dần dần hoàn thiện tạo
điều kiện cho mọi thành phần tham gia lĩnh vực TMĐT được đảm bảo thuận
tiện, rõ ràng, giảm thiểu những vấn đề có thể ngăn ngừa được. Sự phát triển
TMĐT trong giai đoạn vừa qua đã có những đóng góp không nhỏ vào sự
thành công trong công cuộc mở cửa và hội nhập kinh tế của đất nước ta.
Bên cạnh sự phát triển cũng mang lại nhiều thách thức như sự bảo đảm
an toàn của giao dịch TMĐT, tính chất pháp lý của các giao dịch, tranh chấp
tên miền nảy sinh, nguồn nhân lực để triển khai TMĐT còn bị hạn chế bởi
trình độ chuyên môn hay số lượng hữu hạn, chi phí triển khai còn là vấn đề
nan giải cho nhiều doanh nghiệp…Những thách thức này nếu không được
khắc phục kịp thời sẽ làm cản trở không nhỏ đến sự phát triển của hoạt động
TMĐT ở nước ta.
Chính vì vậy, sau khi nghiên cứu, tổng kết quá trình hình thành và phát
triển hoạt động TMĐT trong thời gian qua, trên cơ sở đó tối đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao năng lực và hoàn thiện hoạt động TMĐT của Việt
nam nói chung cũng như các doanh nghiệp kinh doanh siêu thị nói riêng trong
thời gian tới như sau:
Về phía nhà nước cần phải tiến tục ban hành và hoàn thiện đầy đủ các
văn bản pháp quy trong lĩnh vực TMĐT nhằm tạo ra sự đồng bộ và rút ngắn
99
khoảng cách trong hoạt động thực tiễn của nghiệp vụ TMĐT ở Việt nam so
với các nước đi trước trên thế giới trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó cần đẩy
nhanh tiến trình đưa các văn bản pháp lý đã ban hành vào thực tiễn, đáng chú
ý nhất là sự đồng thuận của bộ thương mại và các sở ban ngành cấp địa
phương về những vấn đề đảm bảo sự an toàn giao dịch, cách thức giải quyết
những tranh chấp khi pháp sinh giữa các đối tượng tham gia TMĐT. Bộ
thương mại cần tổng kết rút kinh nghiệp từ những doanh nghiệp kinh doanh
siêu thị đi trước nói riêng và những doanh nghiệp kinh nói chung, từ đó nhân
rộng ra để các doanh nghiệp khác tham khảo. Cần xây dựng các hiệp hội hỗ
trợ doanh nghiệp có nhu cầu triển khai TMĐT. Cùng với sự phát triển kinh tế
ngày càng nhanh chóng như hiện nay thì càng xuất hiện nhiều đơn vị tham gia
vào hoạt động kinh doanh TMĐT. Do đó cần phải tạo ra cơ chế hỗ trợ và tạo
điều kiện cho các doanh nghiệp được phát triển, tránh những bất cập không
cần thiết, trong đó đặc biệt hỗ trợ các doanh nghiệp trung gian đứng ra làm
dịch vụ triển khai hoạt động TMĐT cho các doanh nghiệp.
Về phía các doanh nghiệp thì cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ
nhân viên, đầu tư chiều sâu về công nghệ, không ngừng cập nhật các kiến
thức hiểu biết về TMĐT hay công nghệ tiên tiến, nắm bắt nhu cầu tiêu dùng,
tổ chức quản lý tốt giảm thiểu các phát sinh trong quá trình hoạt động TMĐT.
Tôi hy vọng rằng các kiến nghị giải pháp được đưa ra trong cuốn luận
văn này sẽ góp thêm tiếng nói đối với các nhà hoạch định chính sách, các nhà
quản lý trong việc hoạch định chính sách cụ thể cho sự phát triển của TMĐT
trong thời gian tới.
100
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Bộ Thương mại, Trung tâm Thông tin Thương mại, Thương mại điện
tử giành cho doanh nghiệp, Nhà xuất bản Lao động Xã hội, 2006
2. Bộ Thương mại, Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT ở Việt nam giai
đoạn 2006-2010, 2005
3. Nguyễn Danh Lương, Học viện ngân hàng, Những giải pháp nhằm
phát triển hình thức thanh toán thẻ ở Việt nam, 2003
4. Phạm Hữu Khang, Xây dựng và triển khai TMĐT, Nhà xuất bản thống
kê, 2003
5. Daniel Poulin, Cẩm nang pháp lý về TMĐT, Nhà in thông tin kinh tế
đối ngoại, 2002
6. Ngân hàng công thương Việt nam, Chính sách tín dụng đối với thẻ tín
dụng quốc tế Visa/Master, 2003
7. Bộ Thương mại, Báo cáo thực trạng TMĐT Việt nam 2003, 2004 và
2005
8. Trung tâm Internet và TMĐT Intecom, Giải pháp TMĐT B2C, 2005
9. Tiến sỹ Phạm Ngọc Thúy, tiến sỹ Nguyễn Nam Hải, tiến sỹ Đào Thị
Hồng Vân, Thực trạng trong TMĐT, Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật
2004.
10. Công ty VEC, Doanh nghiệp xuất khẩu tận dụng TMĐT để tăng doanh
số, 2005
11. Công ty VEC, Bí quyết Marketing qua mạng, 2005
12. Viện nghiên cứu về đào tạo và quản lý, Xây dựng và triển khai chiến
lược kinh doanh, 2005
13. Phan Lan, Bí quyết kinh doanh trên mạng từ A đến Z khởi điểm và
thành công, Nhà xuất bản văn hóa thông tin, 2005
101
Tài liệu tiếng Anh
1. United Nations, New york and Geneva, E-commerce and Development
Report, 2003
2. H.M.deitel, K.Steinbuhler, E-business and e-commerce for Manager,
Prentice Hall, 2001
3. Daniel Amor, The e-business revolution, Prentice Hall, 2000
4. John Wiley & Son Ltd, Electronic Commerce – Strategies and Models
for business-to-business trading, England, 1999
5. Chaffey, Dave, E-business and E-commerce Management, 2nd edition,
2004
6. Dr. Susanne Teltscher, UNCTAD (United nations conference on trade
and development), E-commerce strategies for Development, June 2002
7. Green Richard Forbes, Supermarkets, January 2nd 1994
8. Michael Levy, Essentials of retailing, 1996
9. Ron Hasty, James Reardom, Retailing Management, The Mac Graw-
Hill Comp, 1997
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3170_0523.pdf