Thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam vẫn chứa đựng nhiều bất cập như
quy mô thị trường nhỏ, hình thức dịch vụ đơn điệu, hệ thống chính sách
và luật pháp còn khập khi ễng và ch ưa đồng bộ, ngu ồn nhân lực có tr ì nh độ
th ấp, kỹ năng không cao, sức cạnh tranh của các doanh nghi ệp rất h ạn chế ngay
cả tr ên thị tr ường nội đị a. H ầu hết c ác công ty bảo hiểm và các ng ân hàng Việt
Nam chưa có đủ kh ả năng cạnh tranh để tự đứng vững trên th ị trường tự do, chứ
chưa n ói đến vi ệc mở r ộng thị tr ường ra bên ngoài. Do đó, Vi ệt Nam s ẽ ph ải đối
mặt v ới r ất nhi ều khó kh ăn n ếu muốn đảm bảo được mục ti êu phát tri ển nội l ực,
bảo vệ th ị tr ường nội đị a trước áp lực ng ày càng t ăng của h ội nh ập quốc t ế, đồng
th ời m ở r ộng th ị tr ường hơn khi thực hi ện đầy đủ các q uy chế của AFTA, APEC
và WTO trong giai đoạn tới.
- Đồng thời, thông qua việc phân tích những quy định và yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế của GATS và trong các Hiệp định AFAS, Hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ về dịch vụ tài chính, cùng với việc phân tích những cam kết tự do
hoá ngành dịch vụ tài chính của một số nước, Việt Nam cũng có thể rút ra cho
mình nhiều bài học kinh nghiệm để có thể chuẩn bị sẵn sàng cho việc gia nhập
WTO. Bởi những lợi ích mà Việt Nam sẽ đạt được sau khi trở thành Thành viên
chính thức của WTO là to lớn và không thể phủ nhận. Mặt khác, khi tham gia hội
nhập, Việt Nam sẽ gặp phải những thách thức, khó khăn, phải tuân thủ những
nguyên tắc mà WTO đề ra, đặc biệt là nguyên tắc tự do hóa thương mại. Việc
tuân thủ những nguyên tắc này không phải là đơn giản, nhất là với các nước đang
trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Tuy nhiên, để đạt được những lợi ích
đó, trớc hết phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận những kết quả không mong muốn
ít nhiều sẽ xảy ra khi cải cách, thay đổi các chính sách trong nước. Ngành dịch vụ
tài chính Việt Nam cần sẵn sàng cho sự thay đổi đó.
111 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến cuối năm 1997 do ảnh hưởng của khủng hoảng tiền
tệ, đồng đôla Singapore đã bị mất giá 20% và tăng trưởng kinh tế năm
1998 giảm mạnh chỉ còn 1,3%. Do nền kinh tế vững cộng thêm chính
sách kinh tế của Chính phủ có hiệu quả, Singapore được đánh giá là nước
phục hồi nhanh và mạnh nhất khu vực, năm 1999 tăng trưởng đạt 5,5%,
xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục 382 tỷ USD. Tăng trưởng kinh tế năm
2000 đạt trên 9%. Singapore cũng được coi là nước đi đầu trong việc
chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức. Hiện nay, Singapore đang tập trung
khai thác triệt để công nghệ thông tin để nâng cao sức cạnh tranh của nền
kinh tế. Thu nhập tính theo đầu người: 24.000 USD/người/năm, đứng thứ
2 ở Châu Á sau Nhật Bản. 23
Singapore cũng đã áp dụng những biện pháp tích cực trong việc
phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm và ngân hàng.
Đối với dịch vụ bảo hiểm.
- Cơ quan Tiền tệ Singapore (MAS) là cơ quan quản lý độc lập đối với
hoạt động kinh doanh bảo hiểm, cho phép tự do tiếp cận thị trường bảo
hiểm trực tiếp thông qua:
+ Bãi bỏ hạn chế phần vốn góp nước ngoài là 49%;
+ Không giới hạn số lượng doanh nghiệp có vốn nước ngoài trên thị
trường;
+ Tháng 8/1999, cho phép doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được thành
lập các chi nhánh tại Singapore và cho phép các nhà bảo hiểm và tái bảo
hiểm đa ngành tham gia vào kinh doanh bảo hiểm bảo lãnh tài chính.
- 78 -
- Dành NT cho các doanh nghiệp nước ngoài trong hầu hết các hoạt động
kinh tế;
- Kể từ tháng 10/1997, quy định tăng vốn thành lập doanh nghiệp tối
thiểu là 25 triệu Đô la Singapore đối với bảo hiểm trực tiếp và tái bảo
hiểm và 400.000 Đô la Singapore đối với bảo hiểm phụ thuộc. Nhà đầu tư
phải đặt cọc (ký quỹ) tại ngân hàng của Singapore ít nhất 500.000 Đô la
Singapore đối với mỗi loại hình hoạt động kinh doanh là bảo hiểm trực
tiếp, tái bảo hiểm hay bảo hiểm phụ thuộc. Tất cả các doanh nghiệp bảo
hiểm phải định kỳ trình báo cáo tài chính cho MAS phê duyệt.
- Áp dụng mức thuế ưu đãi là 10% đối với thu nhập của các công ty bảo
hiểm từ kinh doanh bảo hiểm ngoài lãnh thổ.
- MAS đã thực hiện các biện pháp minh bạch hoá thị trường bảo hiểm
như sau:
+ Đưa ra Các tiêu chuẩn Quản lý Công ty phù hợp với các Thực tiễn
Quốc tế Tốt nhất (international best practices);
+ Uỷ ban về Phân phối Hiệu quả Bảo hiểm Nhân thọ được thành lập tháng
3/2000 đã đề xuất nâng cao chất lượng quy trình tư vấn bán hàng, quảng
bá sản phẩm, và các yêu cầu đào tạo chuyên môn cho các nhà trung gian
bảo hiểm;
+ MAS đã tiến hành xây dựng 1 khuôn khổ pháp lý đối với các Nhà tư
vấn Tài chính Độc lập (IFAs) trong hoạt động đại lý bảo hiểm nhân thọ
Đối với dịch vụ ngân hàng
Hệ thống ngân hàng của Singapore có sự tham gia của các ngân hàng nước
ngoài, đặc biệt trên 80% tài sản của các ngân hàng trong nước đều thuộc quyền
kiểm soát của 4 ngân hàng lớn nhất là: Development Bank of Singapore.
Overseas Chinese banking Corporation, Overseas Union Bank và United
Overseas bank.
- 79 -
- Về chính sách mở chi nhánh ngân hàng nước ngoài, mỗi ngân hàng chỉ
được mở 1 chi nhánh độc lập và được hoạt động một số nghiệp vụ cũng
như tất cả các nghiệp vụ ngân hàng. Thời gian qua, vẫn cấp giấy phép mới
nhưng chủ yếu chỉ cấp giấy phép hoạt động ngân hàng hạn chế, ngân hàng
hải ngoại hoat động bằng ngoại tệ với đối tượng khách hàng chủ yếu là
người không cư trú.
- Mức vốn được cấp ban đầu: lúc đầu là 6 triệu đô la Singapore, tương
đương 3,7 triệu USD; năm 1993 có Luật Ngân hàng sửa đổi, trong đó quy
định 200 triệu đô la Singapore
- Về nội dung và phạm vi hoạt động của Ngân hàng nước ngoài,
Singapore quy định 3 loại giấy phép khác nhau: Giấy phép hoạt động tất
cả các nghiệp vụ NHTM (giấy phép đầy đủ) ; giấy phép hoạt động ngân
hàng hạn chế; giấy phép hoạt động ngân hàng hải ngoại (offshore
banking).
3.1.3 Các bài học kinh nghiệm rút ra
3.1.3.1 Kinh nghiệm tổ chức quản lí
Về tổ chức quản lí nhà nước, hiện nay chúng ta có ngân hàng nhà
nước quản lí dịch vụ ngân hàng, còn bảo hiểm chịu sự quản lí của 3 hệ
thống cơ quan quản lí nhà nước về bảo hiểm: Cơ quan bảo hiểm Việt nam
quản lí bảo hiểm xã hội, Bộ y tế quản lí bảo hiểm y tế và Vụ Bảo hiểm
Bộ tài chính quản lí hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Sự phân tách này tạo
ra một sự không thống nhất, đôi khi chồng chéo và phức tạp trong hoạt
động quản lí. Như vậy, ngành ngân hàng thì đã rõ rồi, nhưng đối với hoạt
động bảo hiểm, nên chăng chỉ cần duy trì 2 cơ quan quản lí là đủ, ví dụ:
cơ quan bảo hiểm Việt Nam quản lí cả hệ thống bảo hiểm xã hội và bảo
hiểm y tế, Vụ bảo hiểm Bộ tài chính quản lí hoạt động kinh doanh bảo
hiểm, hoặc tiến tới hình thành một cơ quan quản lí độc lập hoạt động bảo
hiểm như trường hợp Singapore.
- 80 -
3.1.3.2 Cần tập trung khuyến khích đầu tư nước ngoài
Việt nam cần thấy được tầm quan trọng của việc tập trung khuyến
khích đầu tư nước ngoài, loại bỏ dần những quy định mang tính phân biệt
đối xử giữa các doanh nghiệp kinh doanh dich vụ trong nước và nước
ngoài.
Đối chiếu với Thái Lan và Singapore, có thể thấy thị truờng dịch vụ
tài chính của ta còn duy trì nhiều hạn chế về tiếp cận thị truờng và đãi ngộ
quốc gia, cụ thể:
- Thứ nhất, Việt Nam hạn chế phương thức 1 và 2: Tổ chức, cá nhân
có nhu cầu bảo hiểm chỉ được tham gia bảo hiểm tại doanh nghiệp bảo
hiểm hoạt động ở Việt Nam, trừ các sản phẩm bảo hiểm mà doanh nghiệp
bảo hiểm trong nước chưa cung cấp được (Điều 6 - Luật kinh doanh bảo
hiểm); Không được phép tái bảo hiểm toàn bộ trách nhiệm đã nhận bảo
hiểm cho doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, nếu tái bảo hiểm bắt buộc,
doanh nghiệp phải tái bảo hiểm theo tỷ lệ 20% trách nhiệm cho Công ty
Tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (Điều 9 - Luật kinh doanh bảo hiểm và
Điều 22 - Nghị định 42); Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm phải mua bảo
hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho hoạt động của mình tại doanh nghiệp
bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam (Điều 92 - Luật kinh doanh bảo hiểm).
Trên thực tế, Thái Lan và Singapore đã gần như loại bỏ toàn bộ các hạn
chế này để đa dạng hoá sản phẩm cho người tiêu dùng.
Hay đối với dịch vụ ngân hàng, pháp luật về ngân hàng Việt Nam
hiện hành chỉ thực sự cho phép các ngân hàng nước ngoài được cung cấp
vào Việt Nam các dịch vụ ngân hàng truyền thống như dịch vụ chấp nhận
tiền gửi, cho vay, dịch vụ thanh toán, chuyển tiền. . . Tuy nhiên, việc cung
cấp các dịch vụ này của ngân hàng và tổ chức tín dụng nước ngoài phải
chịu một số hạn chế nhất định, trong khi đó cả Thái Lan và Singapore đều
hầu như không hạn chế đối với các hình thức dịch vụ ngân hàng.
- 81 -
- Thứ hai, về phương thức 3, khác với Thái Lan và Singapore, Việt
Nam chưa cho phép doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài được thành lập
chi nhánh tại Việt Nam. Còn ngân hàng nước ngoài được mở chi nhánh
tại các tỉnh, thành phố trực thuộc TW nhưng không được mở chi nhánh
phụ thuộc của chi nhánh đó. Tại nơi đã có chi nhánh, ngân hàng nước
ngoài không được đặt văn phòng đại diện. Chi nhánh Ngân hàng nước
ngoài không được mở các điểm giao dịch dưới bất kỳ hình thức nào ngoài
trụ sở chi nhánh của mình
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài có thể được thực hiện một số hoặc
toàn bộ các nghiệp vụ ngân hàng, theo quy định cụ thể của Ngân hàng nhà
nước quy định trong giấy phép, phù hợp với loại hình và quy mô của
TCTD được cấp giấy phép. Tóm lại, hoạt động ngân hàng vẫn dưới sự
giám sát quản lí của nhà nước.
- Thứ ba, về phương thức 4, pháp luật Việt Nam hiện hành chưa chấp
nhận việc người nước ngoài cung cấp dịch vụ nói chung gồm cả dịch vụ
bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng với tư cách cá nhân họ chỉ được phép
cung cấp dịch vụ thông qua sự hiện diện thương mại của các tổ chức cung
cấp dịch vụ nước ngoài và còn quy định khắt khe hơn hai nước Thái Lan
và Singapore ở chỗ : Về nguyên tắc, Việt Nam chỉ cho phép các doanh
nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh thuê và sử dụng các chuyên
gia nước ngoài trong trường hợp khẩn cấp hoặc khi công việc yêu cầu
chuyên gia có chuyên môn kỹ thuật cao mà lao động Việt Nam chưa đáp
ứng được. Các chuyên gia nước ngoài để được vào làm việc tại Việt Nam
phải có giấy phép lao động do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cấp.
Nhưng trên thực tế, vấn đề gây khó khăn nhất cho lao động nước ngoài
vào Việt Nam làm việc là vấn đề thủ tục xin cấp giấy phép lao động. Các
thủ tục liên quan đến hợp pháp hoá lãnh sự, công chứng, và xác minh lý
lịch tư pháp của các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam thường rất
phức tạp, gây khó khăn cho lao động nước ngoài.
- 82 -
3.1.3.3 Đàm phán mở cửa thị trường cần được thực hiện
theo phương châm “từng bước và thận trọng, đồng thời đẩy
nhanh tự do hoá khi cần thiết”
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt nam trong lĩnh vực bảo
hiểm và ngân hàng đã có những bước tiến cụ thể. Đó là, Việt nam đã tham
gia Diễn đàn các cơ quan quản lí bảo hiểm ASEAN, tham gia Hiệp hội
các cơ quan quản lí bảo hiểm quốc tế IAIS, là thành viên của tổ chức
thanh toán liên ngân hàng toàn cầu SWIFT… Việt nam cũng đã kí kết và
đang thực hiện Hiệp định thương mại Viêt Nam - Hoa Kỳ. Đây là một
bước tiến quan trọng, mở đầu cho quá trình thực hiện các cam kết quốc tế
cụ thể về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính cho nước ngoài, là cơ sở cho
quá trình đàm phán gia nhập WTO.
Mở cửa thị trường dịch vụ tài chính là một công cụ hữu hiệu để thu
hút vốn, công nghệ, trình độ quản lí và chuyên môn tiên tiến từ nước
ngoài. Do đó việc đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ tài chính cần
“từng bước và thận trọng” như Thái Lan (chỉ cho phép công ty bảo hiểm
nước ngoài được thành lập 1 chi nhánh tại Thái Lan và chi nhánh đó
không được tiến hành kinh doanh hoạt động môi giới và đại lí bảo hiểm)
cho doanh nghiệp trong nước có thời gian đủ dài để nâng cao năng lực
cạnh tranh, nhưng cần đẩy nhanh tự do hoá theo kinh nghiệm của Thái
Lan (tăng phần góp vốn nước ngoài lên 25% trong các doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước, tiếp tục tăng lên 49% trong năm 2003, duy trì mức giới
hạn đến năm 2013, dự kiến tự do hoá hoàn toàn thị trường bảo hiểm trước
năm 2020)
3.1.3.4 Cần mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp
Hiện nay ta duy trì một số hạn chế như: Doanh nghiệp bảo hiểm
không được phép đồng thời kinh doanh bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm
- 83 -
phi nhân thọ, trừ trường hợp doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ kinh doanh
nghiệp vụ bảo hiểm sức khoẻ, bảo hiểm tại nạn con người bổ trợ cho bảo
hiểm nhân thọ (Điều 60 - Luật kinh doanh bảo hiểm). Trong khi đó, cả
Thái Lan và Singapore đều cho phép doanh nghiệp kinh doanh cả 2 loại
nghiệp vụ này, gọi là bảo hiểm hỗn hợp. Tất nhiên việc cho phép này sẽ
gây khó khăn nhất định cho công tác giám sát tài chính của doanh nghiệp
nhưng thực tế lâu nay tổng công ty Bảo hiểm Việt nam đã thực hiện cả hai
nghiệp vụ này.
Những chính sách hạn chế và kinh nghiệm của 2 nước Thái Lan và
Singapore trong việc phát triển, mở cửa thị trường dịch vụ tài chính, điển
hình là dịch vụ bảo hiểm và ngân hàng được mô tả ở như trên đã cho ta
thấy những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm hơn nữa để có thể có được
chính sách đúng đắn trong lĩnh vực dịch vụ tài chính trong giai đoạn hiện
nay. Bởi vậy, đứng trước những yêu cầu hội nhập quốc tế, thị trường dịch
vụ tài chính phải có những bước tiến mới để phù hợp với tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực.
3.2 ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG DỊCH
VỤ BẢO HIỂM VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP
3.2.1 Định hƣớng phát triển dịch vụ bảo hiểm
3.2.1.1 Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ bảo
hiểm
Xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra trong mọi lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội tại một bất kì một quốc gia nào trên thế giới. Vai trò của
toàn cầu hoá đã được khẳng định và đã trở thành một xu thế tất yếu đối
với mọi nền kinh tế. Việc mở của thị trường tài chính trong đó có bảo
hiểm là yêu cầu bắt buộc đối với bất kỳ quốc gia nào khi gia nhập WTO.
Nhận thức được vai trò của hội nhập quốc tế và toàn cầu hoá các nhà
hoạch định chính sách đã đưa ra một số quan điểm định hướng cho việc
- 84 -
xây dựng đường lối phát triển cho ngành bảo hiểm Việt Nam trong thời
gian tới:
• Thứ nhất, thị trƣờng bảo hiểm Việt nam phải đáp ứng đƣợc
những đòi hỏi của nền kinh tế tức là phát triển thị trƣờng dịch vụ bảo
hiểm phải phù hợp với chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của đất n-
ƣớc.
Nhà nước đã đặt ra nhiều mục tiêu kinh tế xã hội khá cao cho giai
đoạn 2001 - 2010 như: nhịp độ tăng trưởng GDP hàng năm là 7,5%, giá
trị sản xuất nông, lâm, ngư, nghiệp tăng 4,8%/năm, giá trị sản xuất công
nghiệp tăng 13%/năm, giá trị dịch vụ tăng 7,5%/năm..., và GDP của năm
2010 tăng ít nhất gấp đôi năm 2000 19 .Để thị trường bảo hiểm Việt Nam
có thể đáp ứng được những đòi hỏi của nền kinh tế Việt Nam cũng như
tác động vào nền kinh tế bằng nguồn vốn đầu tư nhàn rỗi và là tấm lá
chắn cho nền kinh tế bằng bồi thường cho những rủi ro tổn thất thuộc
trách nhiệm bảo hiểm thì ngành bảo hiểm cần phải có sự cố gắng về mọi
mặt và đặc biệt phải có định hướng chiến lược phát triển đúng đắn và tư-
ơng đối lâu dài.
• Thứ hai, trên khía cạnh toàn cầu hoá, thị trƣờng bảo hiểm Việt
Nam sẽ mở rộng cửa cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài.
Trên thực tế từ năm 1994 khi NĐ100/CP ra đời thì số lượng các
công ty bảo hiểm cũng tăng lên nhanh chóng và có mặt của các công ty có
vốn đầu tư nước ngoài. Ví dụ như trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ tuy
mới ra đời từ năm 1996 thì đến nay cũng đã có thêm bốn công ty chủ yếu
là các công ty có vốn đầu tư nước ngoài (Công ty Chingfong Manulife,
Bảo Minh CMG, Prudential và Công ty Bảo hiểm quốc tế Mỹ AIA). Và
trong tương lai chắc chắn thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ có sự góp mặt
của nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài khác.
• Thứ ba là mở rộng thị trƣờng khai thác và đa dạng hoá sản phẩm.
- 85 -
Mục tiêu mà ngành bảo hiểm Việt Nam cần phấn đấu là phải nâng
tỷ trọng doanh thu phí bảo hiểm trên GDP từ 1.3%GDP như hiện nay lên
đến 2% vào những năm 2005 - 2010, để vừa tăng khả năng đáp ứng cho
các rủi ro được bảo hiểm phát sinh trong nền kinh tế vừa tạo nguồn vốn
đầu tư dài hạn cho nền kinh tế tham gia và thúc đẩy quá trình hình thành
thị trường tài chính ở Việt Nam. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải đẩy
mạnh các hoạt động kinh doanh bảo hiểm, đa dạng hoá các loại hình
doanh nghiệp bảo hiểm. Hiện nay thị trường bảo hiểm nói chung hầu như
chỉ tập trung ở các thành phố lớn như Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh,
Hải Phòng, Đà Nẵng,...Trong khi tiềm năng phát triển thị trường bảo hiểm
ở các tỉnh và thành phố khác là khá lớn nhưng vẫn chưa được khai thác
triệt để.
Trong hoàn cảnh thị trường bảo hiểm ở các thành phố lớn gần như
đã bão hoà, các công ty bảo hiểm có động thái bắt đầu mở rộng khai thác
ở các tỉnh và thành phố khác. Thị trường tập trung chủ yếu vào một số
tỉnh vùng đồng bằng có mức sống trung bình khá so với cả nước.
Đa dạng hoá sản phẩm cũng đồng nghĩa với việc mở rộng thị trư-
ờng. Hiện nay cơ cấu sản phẩm khá đa dạng nhưng vẫn còn thiếu một số
sản phẩm đặc trưng. Giá cả sản phẩm còn chưa phù hợp đã ảnh hưởng
nhiều đến hoạt động triển khai bán hàng của các công ty. Việc đa dạng
hoá sản phẩm, chú trọng đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm sẽ là xu
hướng tất yếu của các công ty để phát triển.
• Cuối cùng, cạnh tranh trong trong xu thế hợp tác là xu thế phát
triển chung của thị trƣờng bảo hiểm Việt Nam trong giai đoạn mới.
Cạnh tranh là tất yếu xảy ra với bất kỳ một thị trường nào. Cạnh
tranh không lành mạnh bằng cách hạ phí bảo hiểm nhằm lôi kéo khách
hàng, mở rộng điều kiện bảo hiểm vô hạn, quảng cáo tràn lan đều không
mang lại lợi ích lâu dài mà chỉ làm tình hình thị trường thêm tồi tệ đi, gây
nguy hiểm cho cả công ty và khách hàng. Nhất là trong thời gian tới khi
- 86 -
mà thị trường bảo hiểm Việt Nam tiếp nhận thêm một số công ty bảo
hiểm với tiềm lực kinh tế mạnh thì cạnh tranh kiểu đó sẽ tự đưa mình đến
chỗ phá sản.
Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam cũng đã được thành lập ngày
19/12/1999 nhằm tăng cường sự hợp tác giữa các công ty bảo hiểm và hạn
chế sự cạnh tranh tiêu cực. Trong thời gian tới Hiệp hội sẽ có những biện
pháp nhằm hạn chế tối đa sự cạnh tranh không lành mạnh, thúc đẩy thị tr-
ường bảo hiểm Việt Nam phát triển theo đúng đường lối của Đảng và Nhà
nước.
3.2.1.2 Các định hướng chủ yếu
Bảo hiểm là một ngành dịch vụ tài chính mang tính toàn cầu, rủi ro
bảo hiểm không giới hạn trong phạm vi một nước, các doanh nghiệp bảo
hiểm phải thực hiện liên kết đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm để phân tán rủi
ro và cùng nhau gánh chịu tổn thất xảy ra. Do vậy, thị trường bảo hiểm
các nước chịu sự tác động lẫn nhau, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau.
Hơn nữa, theo yêu cầu thực hiện những cam kết trong quan hệ thương mại
song phương và đa phương của việt nam với các nước trong khối
ASEAN, EU, Hoa Kỳ, tiến tới thực hiện các cam kết quốc tế khi Việt nam
gia nhập WTO, việc hội nhập quốc tế trong lĩnh vực bảo hiểm đòi hỏi thị
trường bảo hiểm phải tăng năng lực cạnh tranh, phát triển phù hợp với
tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đặt
ra mục tiêu phát triển thị trường dịch vụ bảo hiểm theo các hướng sau:
- Xây dựng và phát triển thị trường bảo hiểm với đầy đủ các yếu tố
của thị trường, tăng tỷ trọng hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên tổng giá
trị dịch vụ nói riêng và GDP nói chung, thực hiện chức năng bảo hiểm là
công cụ để bảo vệ nền kinh tế trước các nguy cơ rủi ro và là công cụ để
huy động vốn cho đầu tư phát triển, đáp ứng yêu cầu tăng trưởng kinh tế
với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 7,5%/năm trong 10 năm tới.
- 87 -
- Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có khả năng tài chính vững
mạnh, năng lực kinh doanh và công nghệ quản lí được hiện đại hoá, đội
ngũ cán bộ làm công tác trong ngành bảo hiểm có trình độ đủ đáp ứng nhu
cầu cạnh tranh hội nhập.
- Người dân có điều kiện tiếp cận các loại sản phẩm bảo hiểm với
chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế. Các doanh nghiệp bảo hiểm có
đủ khả năng cung cấp các loại sản phẩm phục vụ các nhu cầu bảo hiểm cơ
bản của nền kinh tế và của các tầng lớp dân cư, đặc biệt là các chương
trình bảo hiểm phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, bảo hiểm nhân thọ dài
hạn theo hướng phát huy nội lực, chủ động thu hút ngoại lực.
- Quản lí, giám sát phải được thực hiện dựa trên hệ thống các chỉ tiêu
quản lí và chỉ tiêu tài chính khách quan, phù hợp với yêu cầu, thực tiễn
kinh doanh bảo hiểm của nước ta và các ngyên tắc, chuẩn mực quốc tế ;
công nghệ quản lí, giám sát được hiện đại hoá, đội ngũ cán bộ quản lí có
đủ tri thức và năng lực quản lí bảo đảm thị trường bảo hiểm hoạt động an
toàn, có hiệu quả.
3.2.2. Giải pháp phát triển thị trƣờng bảo hiểm
Trong những năm tới, thị trường bảo hiểm Việt nam đứng trước các
cơ hội thuận lợi cho sự phát triển, đó là: Nhà nước quan tâm hơn đến việc
khuyến khích phát triển thị trường bảo hiểm bằng việc ban hành Luật kinh
doanh bảo hiểm và các quy định có liên quan; Nền kinh tế nước ta đang
hồi phục và bắt đầu bước vào giai đoạn ổn định và phát triển với tốc độ
cao, thu nhập của người dân ngày càng được cải thiện, tạo nguồn tài chính
cho việc tham gia bảo hiểm ; đồng thời, nhận thức của trong nhân dân và
các doanh nghiệp, các tổ chức Việt nam về mục đích, ý nghĩa của bảo
hiểm ngày càng tăng ; môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh bảo
hiểm từng bước được hoàn thiện cùng với sự phát triển của khoa học và
công nghệ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm
cũng như từng bước thiết lập một thị trường bảo hiểm cạnh tranh lành
- 88 -
mạnh. Tuy nhiên, bên cạnh đó thị trường bảo hiểm trong thời gian tới
cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, khó khăn, bao gồm: Tác động
tiêu cực của tiến trình tự do hoá, toàn cầu hoá, tiến trình hội nhập về kinh
tế và tác động của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ sau khi được phê
chuẩn và có hiệu lực, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam nhất là các
doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp cổ phần nội địa phải đối mặt trực
tiếp với sự cạnh tranh gay gắt từ các công ty bảo hiểm nước ngoài có tiềm
lực tài chính mạnh hơn rất nhiều lần; sự biến động nhanh của môi trường
kinh doanh và yêu cầu hội nhập vào nền kinh tế tri thức đối với các doanh
nghiệp.
Để thực hiện được các mục tiêu đã đề ra, củng cố vai trò của thị
trường bảo hiểm trong công cuộc CNH, HĐH đất nước, chúng ta cần thực
hiện ngay các giải pháp nhằm khắc phục những điểm yếu, những tồn tại
hiện nay và chuẩn bị tốt để đối phó với những khó khăn, thách thức sắp
tới, nhất là thách thức của hội nhập và toàn cầu hoá.
Giải pháp thứ nhất: Xây dựng chiến lƣợc phát triển và các chính
sách hữu hiệu hỗ trợ sự phát triển của thị trƣờng bảo hiểm:
- Đối với chính sách hội nhập, để từng bước thực hiện của tiến trình hội
nhập và mở cửa thị trường bảo hiểm, cần xác định rõ số lượng các doanh
nghiệp bảo hiểm hợp lý trên thị trường cho từng thời kỳ, nhất là số lượng
các doanh nghiệp có vốn nước ngoài, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong nước đủ mạnh để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh.
Thực hiện mở cửa từng bước các lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, trong
từng giai đoạn có thể giới hạn lĩnh vực bảo hiểm mà các doanh nghiệp có
vốn nước ngoài được phép hoạt động.
- Để nâng cao trình độ của bảo hiểm Việt nam và nhu cầu phát triển kinh
tế xã hội, cần ban hành chính sách hướng các công ty bảo hiểm nước
ngoài vào việc triển khai loại hình bảo hiểm đòi hỏi vốn lớn và công nghệ
- 89 -
bảo hiểm cao mà các doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam chưa đáp ứng
được.
- Củng cố vai trò của doanh nghiệp Nhà nước với tư cách là thành phần
kinh tế chủ đạo thông qua việc tập trung thành lập một tập đoàn kinh
doanh tài chính - bảo hiểm tổng hợp, có đủ vốn và khả năng đóng vai trò
chủ đạo trong nền kinh tế, có khả năng chấp nhận bảo hiểm với mức trách
nhiệm cao, mức giữ lại cao và có khả năng cạnh tranh trên thị trường bảo
hiểm quốc tế.
- Tách chức năng thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội của doanh
nghiệp bảo hiểm nhà nước khỏi chức năng kinh doanh. (Chẳng hạn, đối
với lĩnh vực bảo hiểm nông nghiệp, Nhà nước có thể thành lập doanh
nghiệp bảo hiểm nông nghiệp công ích, như vậy sẽ có doanh nghiệp bảo
hiểm nhà nước chỉ thực hiện chức năng kinh doanh; có doanh nghiệp chỉ
thực hiện các nhiệm vụ chính trị, xã hội-các doanh nghiệp bảo hiểm công
ích).
Giải pháp thứ hai: Hoàn thiện và nâng cao hiệu lực pháp lý của các
quy định của pháp luật điều chỉnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm
nhằm tạo khung pháp lý và môi trƣờng kinh doanh, cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng giữa các doanh nghiệp bảo hiểm
- Cụ thể, hoàn thiện và bổ sung các quy định của Luật kinh doanh bảo
hiểm và các văn bản có liên quan phù hợp với tập quán kinh doanh bảo
hiểm quốc tế về kinh doanh bảo hiểm, điều kiện thực tiễn Việt nam và
mục tiêu, định hướng của Nhà nước về phát triển thị trường bảo hiểm.
Các quy định pháp luật cần tạo ra sự bình đẳng theo hướng các doanh
nghiệp cùng hoạt động trong lĩnh vực thì được hưởng những quyền và
chịu nghĩa vụ pháp luật như nhau, xoá bỏ những quy định quản lý bất lợi
đối với các doanh nghiệp nhà nước.
- Song song với việc xây dựng và hoàn thiện các quy định điều chỉnh hoạt
động kinh doanh bảo hiểm, cần xây dựng một cơ chế kiểm tra, giám sát
- 90 -
hữu hiệu đối với việc thực hiện các quy định của pháp luật nhằm xác lập
và duy trì một thị trường bảo hiểm Việt nam cạnh tranh lành mạnh, tạo
tiền đề cho sự phát triển.
Giải pháp thứ ba: Đa dạng hoá các loại hình sản phẩm, nâng cao
chất lƣợng phục vụ khách hàng; đa dạng hoá kênh phân phối.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm đẩy mạnh đa dạng hoá các loại hình dịch vụ
bảo hiểm nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng và phong phú của thị
trường về bảo hiểm. Trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, các doanh
nghiệp cần chú trọng khai thác đến thị trường là các hộ gia đình, có tiềm
năng lớn nhưng hiện nay mới chỉ bắt đầu khai thác; phát triển và tăng
cường khai thác các sản phẩm bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp. Trong
bảo hiểm nhân thọ, cần phát triển thêm các sản phẩm mới như các sản
phẩm bảo hiểm hỗn hợp có số tiền trả nhiều lần, thời hạn bảo hiểm dài
hơn cũng như các sản phẩm hỗ trợ như bảo hiểm bệnh đặc biệt, bảo hiểm
bệnh người lớn, bảo hiểm bệnh phụ nữ… Đồng thời, các doanh nghiệp
bảo hiểm cần phát triển và cung cấp dịch vụ theo hướng cung cấp dịch vụ
tổng hợp, đó là dịch vụ bảo hiểm kết hợp với các dịch vụ tài chính hoặc
các dịch vụ khác như tư vấn đầu tư, tư vấn tiêu dùng, tư vấn y tế, tư vấn
luật...
- Cùng với việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, các doanh nghiệp bảo
hiểm cần đẩy mạnh đa dạng hoá kênh phân phối như phát triển mạng lưới
đại lý bảo hiểm phi nhân thọ chuyên nghiệp, hợp tác với các ngân hàng,
các tổ chức tài chính để bán các sản phẩm bảo hiểm, bán bảo hiểm qua
internet, qua thư trực tiếp...
Giải pháp thứ tƣ: Tăng cƣờng đào tạo, bồi dƣỡng trình độ nghiệp
vụ, phong cách phục vụ, đạo đức nghề nghiệp và thực hiện tiêu
chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, đại lý làm bảo hiểm; kiện toàn cơ cấu tổ
chức và hoạt động của doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp bảo
hiểm nội địa.
- 91 -
- Việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp, phong cách, tác phong phục vụ cho
các cán bộ, đại lý làm bảo hiểm cũng cần được các doanh nghiệp bảo
hiểm coi trọng nhằm xoá bỏ các hiện tượng như ăn chặn tiền bảo hiểm
của khách hàng, đồng loã với khách hàng để trục lợi bảo hiểm, thái độ
quan liêu, hách dịch, vì lợi ích của bản thân mà tư vấn bất lợi cho khách
hàng...
- Các doanh nghiệp bảo hiểm nội địa, nhất là các doanh nghiệp Nhà nước
cần thực hiện kiện toàn bộ máy tổ chức, trong đó phân định rõ quyền hạn
và nghĩa vụ của các phòng, bộ phận chức năng cũng như mỗi cá nhân theo
hướng đề cao vai trò, trách nhiệm của các phòng, ban, bộ phận và cá nhân
nhằm kích thích sự chủ động, sáng tạo, trách nhiệm cũng như sự phối hợp
công tác của các phòng, ban, bộ phận và cá nhân. Đồng thời, cần hoàn
thiện chế độ phân phối tiền lương, khen thưởng trên cơ sỏ các căn cứ cơ
bản là đóng góp, mức độ phức tạp của công việc và năng lực của mỗi cá
nhân. Đối với các cấp lãnh đạo phòng, ban và cả lãnh đạo doanh nghiệp,
cần thực hiện cơ chế bầu hoặc bổ nhiệm theo nhiệm kỳ nhằm tăng cường
tính năng động, thi đua tích cực cũng như trách nhiệm của đội ngũ lãnh
đạo doanh nghiệp.
Giải pháp thứ năm: Tăng cƣờng các biện pháp hợp tác giữa các
doanh nghiệp bảo hiểm trong nƣớc; nâng cao vai trò của Hiệp hội
bảo hiểm Việt nam; nâng cao uy tín và hình ảnh của thị trƣờng bảo
hiểm Việt nam.
- Các doanh nghiệp bảo hiểm Việt nam cần tăng cường hợp tác để phát
triển và khai thác thị trường bảo hiểm nội địa trong các lĩnh vực như đào
tạo thị trường, khai thác bảo hiểm, duy trì mức phí bảo hiểm tối thiểu,
phòng chống trục lợi bảo hiểm, học tập kinh nghiệm, tạo nguồn cán bộ
bảo hiểm. Đồng thời, cần tăng cường vai trò của Hiệp hội bảo hiểm trong
các lĩnh vực hợp tác giữa các doanh nghiệp bảo hiểm nêu trên.
- 92 -
Giải pháp thứ sáu: Các doanh nghiệp bảo hiểm cần nhanh chóng
nắm bắt và ứng dụng các thành tựu của khoa học và công nghệ, đặc
biệt là công nghệ thông tin vào khai thác và quản lý hoạt động kinh
doanh bảo hiểm.
Công nghệ thông tin ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống
xã hội cũng như trong lĩnh vực kinh doanh. Các doanh nghiệp bảo hiểm
cần nhanh chóng nắm bắt và ứng dụng các thành tựu của công nghệ thông
tin vào khai thác và quản lý hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhằm nâng
cao hiệu quả quản lý, hiệu quả kinh doanh, giảm chi phí quản lý, hạ thấp
phí bảo hiểm để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm quốc tế
và các ngành khác; chuẩn bị tốt các điều kiện để thích ứng với những thay
đổi của môi trường kinh doanh mới, hội nhập vào tiến trình toàn cầu hoá
và nền kinh tế tri thức.
3.3 ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG DỊCH
VỤ NGÂN HÀNG VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP
3.3.1 Định hƣớng phát triển dịch vụ ngân hàng
3.3.1.1 Các quan điểm về việc phát triển dịch vụ ngân
hàng
Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi nhằm khắc
phục tính tự cấp, tự túc, mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học - kỹ thuật
với nước ngoài, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới. Trong
quá trình đó, nhu cầu thu hút, quản lí và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư
nói chung và vốn nước ngoài nói riêng càng trở nên cấp thiết. Chính vì
vậy Đại hội IX của Đảng chỉ rõ : “ Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đi
đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ; kết hợp nội lực với ngoại lực
thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước”. Các hoạt động tài
chính đối ngoại có nhiệm vụ cơ bản và cấp bách là thu hút, huy động các
nguồn vốn quốc tế, phân bổ, quản lí và sử dụng có hiệu quả, đồng thời tạo
- 93 -
nguồn vốn để trả nợ khi đến hạn, nhằm phục vụ cho đường lối, chính sách
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn công nghiệp hóa đất
nước.
Quán triệt tư tưởng này, phát triển ngành dịch vụ ngân hàng Việt Nam cần
được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:
• Nguyên tắc 1: Hội nhập cạnh tranh hay còn gọi là chủ động hội nhập
Đây là quan điểm hội nhập trong đó chủ động gắn liền sự phát triển nền kinh
tế quốc gia với khu vực và thế giới, chủ động khai thác lợi thế so sánh với các
quốc gia khác. Đồng thời, hội nhập không thể tách rời với cạnh tranh, chỉ có cạnh
tranh mới hội nhập được. Quan điểm này là sự phát triển cao hơn của quan điểm
mở cửa có kiểm soát, chủ động đặt nền kinh tế nước ta trước sự cạnh tranh của
các nền kinh tế từ bên ngoài. Đây cũng là quan điểm phải giành thắng lợi trên thị
trường, đồng thời đặt ra yêu cầu và chi phối nhiều chính sách, cơ chế điều hành
nền kinh tế của Việt Nam. Với nguyên tắc này, việc bố trí lộ trình hội nhập cho
đến năm 2020 của Việt Nam cần phải cụ thể hoá được các bước đi chủ động,
tham gia hợp tác với khu vực và quốc tế để phát triển nền kinh tế.
• Nguyên tắc 2: Hội nhập với phát triển bền vững và hài hoà các yếu tố
kinh tế hay còn gọi là hội nhập thận trọng.
Với đặc thù của một nước đang phát triển, các cơ sở kinh tế Việt Nam
còn chưa ổn định và chưa phát triển ở trình độ cao, nên việc hội nhập cần
phải tính đến một cơ cấu kinh tế hài hoà, dài hạn và phát triển bền vững
trong môi trường toàn cầu hoá. Do đó, quan điểm hội nhập cạnh tranh
phải gắn liền với quan điểm phát triển bền vững, đảm bảo hài hoà các yếu
tố phát triển kinh tế đi cùng với tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và tái
tạo môi trường tự nhiên, sinh thái, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc
sống. Hội nhập phải tính đến phát triển trong nước, đảm bảo cho các
doanh nghiệp trong nước có đủ thời gian và điều kiện cạnh tranh hiệu quả
với nước ngoài.
- 94 -
3.3.1.2 Các định hướng chủ yếu
• Giai đoạn 1 (từ nay đến 2005): Giai đoạn hoàn thiện hệ thống ngân
hàng
- Củng cố tăng cường sức mạnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam theo
hướng các hoạt động ngân hàng phải tuân thủ nguyên tắc thị trường và
nguyên tắc an toàn.
- Cơ cấu lại ngân hàng Nhà nước, ngân hàng thương mại.
- Tạo “sân chơi” bình đẳng cho tất cả các ngân hàng và nâng cao tính
minh bạch của hệ thống tài chính. Cụ thể hoá và nới lỏng các điều kiện,
thủ tục cấp phép cho các Tổ chức Tín dụng Quốc tế hoạt động tại Việt
Nam; và các quy định về hạn chế hoạt động dịch vụ ngân hàng và của các
Tổ chức này.
- Tiến hành thí điểm cổ phần hoá một số Ngân hàng thương mại Quốc
doanh với sự tham gia của các ngân hàng nước ngoài.
- Tăng cường khuôn khổ pháp quy và việc giám sát hệ thống ngân hàng.
• Giai đoạn 2 (2006-2010): Giai đoạn thực hiện các yêu cầu đã cam kết
trong khuôn khổ Hiệp định khung về hợp tác Thương mại Dịch vụ
ASEAN, cụ thể:
- Xây dựng môi trường pháp lý cho hệ thống ngân hàng phù hợp thông
lệ quốc tế
- Loại bỏ dần các hạn chế về: số lượng nhà cung cấp dịch vụ ngân
hàng, tổng giá trị các giao dịch về dịch vụ ngân hàng, tổng các hoạt động
tác nghiệp hay tổng số lượng dịch vụ ngân hàng, tổng số người được
tuyển dụng của các tổ chức tài chính nước ngoài;
- Loại bỏ dần, tiến tới không hạn chế việc tham gia góp vốn của bên
nước ngoài dưới hình thức tỷ lệ % tối đa số cổ phiếu nước ngoài nắm giữ.
- 95 -
- Trong giai đoạn này, hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu vươn ra
thị trường tài chính quốc tế.
• Giai đoạn 3 (2010 - 2020): Giai đoạn hội nhập năng động
Cho tới năm 2020, ngành ngân hàng của Việt Nam cần phải phát
triển đầy đủ các yếu tố cần thiết và sẵn sàng hội nhập hoàn toàn vào thị
trường thế giới. Không hạn chế số lượng công ty có vốn nước ngoài được
thành lập, tuy nhiên vẫn phải duy trì điều kiện thành lập căn cứ vào tình
hình phát triển kinh tế và tình hình phát triển thị trường ngân hàng Việt
Nam.
3.3.2 Các giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng:
3.3.2.1 Nhóm giải pháp đối với Ngân hàng Nhà nước:
Để phát huy tốt hơn chức năng và vai trò của mình trong hoạt động
của ngành dịch vụ ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước cần thực
hiện những nhiệm vụ sau:
Giải pháp thứ nhất: Thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, nâng
cao vai trò điều tiết, kiểm soát tiền tệ nhằm ổn định sức mua của
đồng tiền, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trƣởng
kinh tế.
- Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện và có sự phối kết hợp linh hoạt trong điều
hành các công cụ chính sách tiền tệ. Phối hợp với các bộ, ngành để có sự
phối hợp nhịp nhàng hơn giữa các chính sách kinh tế vĩ mô (chính sách
tiền tệ với quản lí nợ của chính phủ, chính sách tài khoá…)
- Bổ sung, sửa đổi hoặc trình chính phủ chỉnh sửa các quy định về quản lí
ngoại hối cho phù hợp với yêu cầu quản lí và phát triển của nền kinh tế
trong xu thế hội nhập. Thực hiện việc phân cấp, uỷ quyền về quản lí ngoại
hối cho các chi nhánh Ngân hàng nhà nước tỉnh, thành phố và tăng cường
công tác nghiên cứu hoạch định chính sách tại Ngân hàng Trung ương.
- 96 -
Giải pháp thứ hai: Tăng cƣờng vai trò thanh tra, giám sát của Ngân
hàng Trung ƣơng, tiếp tục đổi mới và hoàn thiện công tác thanh tra
cả về nghiệp vụ và đội ngũ cán bộ nhằm tạo chuyển biến mạnh về
chất trong hoạt động thanh tra.
- Bám sát thực tiễn hoạt động của các tổ chức tín dụng để sớm phát hiện
và ngăn chặn kịp thời những sai phạm. Tập trung chú trọng thanh tra chất
lượng hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại nhà nước và
công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ của các tổ chức tín dụng nhằm quản lí
tốt chất lượng tín dụng.
- Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác thanh tra, đặc biệt là chất
lượng của các cuộc thanh tra tại chỗ. Chấm dứt việc kết luận thanh tra
không rõ ràng, không quy trách nhiệm cụ thể cho tổ chức, cá nhân vi
phạm
Giải pháp thứ ba: Rà soát lại công tác chuẩn bị các điều kiện cho
việc tham gia vào WTO đúng tiến trình
- Nới lỏng từng bước hạn chế về sự tham gia của các định chế tài chính
nước ngoài tại Việt Nam theo lộ trình mà Chính phủ đã cam kết trong các
Hiệp định về thương mại dịch vụ, như Hiệp định khung về Hợp tác dịch
vụ ASEAN, Hiệp định thương mại Việt - Mỹ.
- Xây dựng hệ thống thanh toán nhằm đảm bảo an toàn, nhanh chóng,
chính xác và tiện lợi cho hoạt động thanh toán của bất cứ ngân hàng nào
trong nước và quốc tế. Xây dựng hệ thống thông tin và tài chính hiện đại,
đảm bảo cho hệ thống tài chính hoạt động an toàn, hiệu quả và dễ giám
sát.
- Ngân hàng nhà nước cần tiếp tục chỉ đạo việc rà soát các văn bản cần
ban hành mới, bổ sung, sửa đổi đặc biệt là các văn bản theo cam kết tại
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
- 97 -
- Rà soát lại quy định về an toàn hệ thống, bao gồm các quy định về vốn
điều lệ, về trình độ của đội ngũ quản lý ngân hàng thương mại, về chế độ
báo cáo tài chính, về quy chế thanh tra, giám sát, về bảo hiểm tiền gửi và
tiền vay và các quy định can thiệp khẩn cấp khác.
3.3.2.2 Nhóm giải pháp đối với các ngân hàng thương
mại:
Xu thế toàn cầu hóa đang mở ra nhiều cơ hội cũng như đặt ra nhiều
thách thức cho ngành dịch vụ ngân hàng Việt Nam. Hầu như các cơ hội
vẫn đang còn ở dạng tiềm năng, việc khai thác và phát huy các cơ hội đó
hiệu quả hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào nỗ lực của bản thân
ngành ngân hàng, trong khi đó, các thách thức tồn tại thật sự, buộc ngành
ngân hàng từng ngày đối mặt với nó. Để có thể đứng vững và phát triển
trước sự cạnh tranh gay gắt của các ngân hàng nước ngoài, để thực hiện
tốt các cam kết mà Việt Nam đã đưa trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và
đẩy nhanh tiến trình gia nhập GATS về dịch vụ ngân hàng, các ngân hàng
thương mại Việt Nam cần thực hiện một số việc cần thiết như:
Giải pháp thứ nhất: Nâng cao năng lực tài chính của các ngân
hàng thƣơng mại giúp tăng cƣờng khả năng hội nhập kinh tế quốc
tế
- Xây dựng các ngân hàng thương mại có quy mô đủ lớn, hoạt động an
toàn, có hiệu quả và có sức cạnh tranh cao, đáp ứng yêu cầu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước. Nâng cao năng lực quản lý và tiềm lực tài
chính của các ngân hàng thương mại trên cơ sở đẩy mạnh tái đầu tư và tái
cơ cấu lại sở hữu, tạo điều kiện cho việc hiện đại hoá hoạt động ngân
hàng. Đồng thời việc cơ cấu lại ngân hàng thương mại phải đảm bảo
không gây trở ngại cho hoạt động tiền tệ - tín dụng - thanh toán đối với
nền kinh tế. Trên cơ sở đó, tăng cường khả năng hội nhập của các ngân
hàng thương mại vào thị trường tài chính quốc tế.
- 98 -
- Phân tách giữa nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng theo nguyên tắc
thương mại phù hợp với cơ chế thị trường và nghiệp vụ tín dụng ưu đãi
theo chính sách của Nhà nước để đảm bảo ngân hàng thương mại huy
động vốn và phân bổ tín dụng có hiệu quả, an toàn, và theo nguyên tắc thị
trường, hạn chế được tình trạng nợ quá hạn quá lớn.
Giải pháp thứ hai: Hoàn thiện môi trƣờng pháp lý đối với dịch vụ
ngân hàng:
- Hoàn thiện các cơ chế, chính sách điều tiết hoạt động thương mại dịch
vụ nói chung và tài chính ngân hàng nói riêng. Các chính sách để hoàn
thiện môi trường pháp lý phải được xây dựng, hoạch định theo hướng hội
nhập và mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng để kích thích nền kinh tế,
các ngân hàng chuyển đổi theo hướng hiệu quả hơn nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh.
Giải pháp thứ ba: Cơ cấu, sắp xếp lại hệ thống ngân hàng một cách
hợp lí
- Xúc tiến các giải pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để đẩy nhanh tiến
độ xử lí nợ tồn đọng của các ngân hàng thương mại, hoàn thành và đưa
vào triển khai phát triển hệ thống quản trị rủi ro, quản lí tài sản nợ - tài sản
có, hệ thống thông tin quản lí và hệ thống kiểm soát nội bộ.
- Giảm chi phí nghiệp vụ: rà soát lại cơ cấu tổ chức của các ngân hàng
thương mại và tiến hành giảm biên chế ở c khâu quản lý và nghiệp vụ cụ
thể, đồng thời áp dụng tiến bộ công nghệ để nâng cao năng suất và hiệu
quả.
- Tăng cường đào tạo và sử dụng cán bộ có năng lực: Đào tạo và đào tạo
lại các bộ phải được coi là một việc làm cấp bách, trước hết ưu tiên đào
tạo cán bộ quản lý với chưng trình đào tạo hiện đại, tiên tiến của thế giới.
- Nâng cao hơn nữa quyền tự chủ tài chính: các ngân hàng thương mại
phải được đảm bảo sự độc lập, tự chủ tài chính và tự chịu trách nhiệm về
- 99 -
kết quả kinh doanh của mình. Đồng thời, Ngân hàng nhà nước cũng phải
phối hợp với Bộ tài chính xem xét, trình chính phủ cấp bổ sung vốn điều
lệ cho các ngân hàng thương mại nhà nước và triển khai thực hiện Đề án
tăng vốn tự có cho các ngân hàng thương mại nhà nước sau khi được Thủ
tướng chính phủ phê duyệt.
- Sửa đổi quy chế: xây dựng quy trình tín dụng, quy trình kiểm soát phù
hợp với tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế.
Giải pháp thứ tƣ: Nâng cao chất lƣợng phục vụ của ngành ngân
hàng:
- Nâng cao năng lực và kinh nghiệm của nhân viên: Hiện nay, nhiều
ngân hàng đang vận dụng nhiều công nghệ mới như: hệ thống chuyển tiền
tự động, hệ thống xử lý thông tin, mạng nội bộ, sản phẩm mạng...đòi hỏi
nhân viên phi thành thạo, nắm bắt và giải quyết tốt chúng trong công việc
thường ngày. Để nâng cao năng lực vận hành hệ thống, nên tổ chức các
lớp đào tạo kỹ năng sử dụng hệ thống công nghệ thông tin, phi chuẩn bị
trước những tình huống sẽ xảy ra khi giao dịch với khách hàng và đề ra
các biện pháp xử lý.
- Chiến lược dịch vụ hướng về khách hàng: Khách hàng được coi như
những nhân viên của ngân hàng, những người tham gia vào quá trình sản
xuất cung cấp dịch vụ. Những ý kiến đánh giá của họ thường rất xác đáng.
Để có được sự tham gia tích cực hơn của khách hàng và hướng dẫn họ
trong các hoạt động của mình, các ngân hàng nên tổ chức các buổi hội
nghị khách hàng, mời họ phát biểu về hoạt động của ngân hàng. Các quy
định thủ tục cần phi được thông báo đầy đủ tới khách hàng để họ có thể
nắm bắt được những chính sách và chiến lược của ngân hàng.
- Tiêu chuẩn hoá các thủ tục và quy trình tiến hành công việc: Các thủ
tục phiền hà, các quy trình tiến hành công việc phức tạp đã làm hạn chế
chất lượng một số dịch vụ của các ngân hàng. Các ngân hàng cần nhanh
chóng nghiên cứu các quy trình hoạt động và giảm những bước không cần
- 100 -
thiết để tạo thuận lợi cho giao dịch của khách hàng cũng như của nhân
viên mình. Các thủ tục cần được tiêu chuẩn hoá và dễ hiểu, cần phi quy
định thời gian tối thiểu cho từng công việc và trách nhiệm của từng cá
nhân khi thực hiện công việc đó.
Giải pháp thứ năm: Ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ mới
trong hoạt động ngân hàng
Các giải pháp công nghệ hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu của
công việc, những lợi ích của công nghệ mới chưa được phát huy nhiều,
tốc độ và một số bất cập vẫn chưa được giải quyết triệt để. Vì vậy, các
ngân hàng cần phải tiếp tục phát triển thêm những công nghệ mới nhằm
hoàn thành phát triển công nghệ và tạo ra những sản phẩm hoàn hảo với
sự hỗ trợ của công nghệ. Cần cố gắng đảm bảo việc ứng dụng công nghệ
trên toàn bộ hệ thống từ Trung ương tới các chi nhánh trực thuộc để tạo ra
tính đồng bộ và tốc độ xử lý cũng như thông tin trao đổi được nhanh
chóng, giải quyết kịp thời yêu cầu của khách hàng.
Tóm lại, trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là công cụ hữu
hiệu để thúc đẩy phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng sản
phẩm, dịch vụ, tạo dựng nên những doanh nghiệp thành đạt, đủ sức cạnh
tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Chìa khoá để nâng cao sức
cạnh tranh của sản phẩm, dịch vụ là mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp phải
nâng cao hiệu quả hoạt động, giảm giá thành và nâng cao chất lượng sản
phẩm, dịch vụ. Hội nhập kinh tế quốc tế đang được đẩy nhanh, thách thức
cạnh tranh gay gắt đang gõ cửa từng doanh nghiệp, nhất là các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tài chính. Lựa chọn duy nhất hiện
nay đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính là phải mở rộng
phát triển, nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh để sẵn sàng bước
vào cuộc chiến sống còn trên thương trường. Thách thức rất nặng nề
nhưng cơ hội mở ra cũng lớn. Chủ động hội nhập là phương châm hành
động đúng đắn mà chúng ta cần sớm thực hiện với sự đồng tâm nhất trí từ
- 101 -
trên xuống dưới, từ phía nhà nước và các doanh nghiệp, có như vậy chúng
ta mới có thể vượt qua thách thức, tận dụng được cơ hội và biến tiềm
năng, lợi thế của mỗi doanh nghiệp nói riêng và của cả ngành dịch vụ tài
chính nói chung thành hiện thực.
- 102 -
KẾT LUẬN
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng với chủ trương đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đã đánh dấu bước khởi đầu cho
tiến trình hội nhập của Việt Nam. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng đã khẳng định phải đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và thế giới. Thực hiện chủ trương của Đảng, cho đến nay, Việt Nam
đã thu được những kết quả quan trọng bước đầu trong quá trình hội nhập,
đặc biệt trong lĩnh vực tài chính. Đó là khai thông được quan hệ với các tổ
chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ tiền tệ quốc tế, Ngân hàng thế
giới, Ngân hàng phát triển châu Á; gia nhập ASEAN (1995), APEC
(1998); ký Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Hiện nay, Việt
Nam đang thực hiện đàm phán gia nhập WTO, tuy chưa đạt đến đích cuối
cùng nhưng những cố gắng này hứa hẹn sẽ đạt kết quả đáp ứng lợi ích của
nhiều bên.
Tất cả những điều trên đây chứng minh một điều rằng hội nhập tài
chính quốc tế không những đang là một xu thế phát triển mạnh mẽ của
quá trình phát triển thế giới mà còn là nguồn sống, là sức sống của nhiều
quốc gia đang phát triển. Và Việt Nam cũng không thể đứng ngoài xu thế
đó. Để khỏi bị gạt ra ngoài lề của sự phát triển, nắm bắt đúng yêu cầu hội
nhập, đề ra mục tiêu, chiến lược phù hợp để tham gia vào quá trình này
trong thời gian càng sớm càng tốt là điều kiện sống còn để Việt Nam có
cơ hội bắt kịp được với trình độ phát triển chung của toàn thế giới, tránh
được nguy cơ tụt hậu vĩnh viễn.
Nắm bắt được tầm quan trọng của việc hội nhập tài chính quốc tế đối
với từng quốc gia, đặc biệt là Việt nam, Luận văn đã chọn nghiên cứu đề
tài „Những giải pháp phát triển thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam
đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế‟. Thông qua đánh giá thực trạng
- 103 -
hoạt động thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam, ta có thể rút ra một số
kết luận:
- Thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam vẫn chứa đựng nhiều bất cập như
quy mô thị trường nhỏ, hình thức dịch vụ đơn điệu, hệ thống chính sách
và luật pháp còn khập khiễng và chưa đồng bộ, nguồn nhân lực có trình độ
thấp, kỹ năng không cao, sức cạnh tranh của các doanh nghiệp rất hạn chế ngay
cả trên thị trường nội địa. Hầu hết các công ty bảo hiểm và các ngân hàng Việt
Nam chưa có đủ khả năng cạnh tranh để tự đứng vững trên thị trường tự do, chứ
chưa nói đến việc mở rộng thị trường ra bên ngoài. Do đó, Việt Nam sẽ phải đối
mặt với rất nhiều khó khăn nếu muốn đảm bảo được mục tiêu phát triển nội lực,
bảo vệ thị trường nội địa trước áp lực ngày càng tăng của hội nhập quốc tế, đồng
thời mở rộng thị trường hơn khi thực hiện đầy đủ các quy chế của AFTA, APEC
và WTO trong giai đoạn tới.
- Đồng thời, thông qua việc phân tích những quy định và yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế của GATS và trong các Hiệp định AFAS, Hiệp định thương mại Việt
Nam - Hoa Kỳ về dịch vụ tài chính, cùng với việc phân tích những cam kết tự do
hoá ngành dịch vụ tài chính của một số nước, Việt Nam cũng có thể rút ra cho
mình nhiều bài học kinh nghiệm để có thể chuẩn bị sẵn sàng cho việc gia nhập
WTO. Bởi những lợi ích mà Việt Nam sẽ đạt được sau khi trở thành Thành viên
chính thức của WTO là to lớn và không thể phủ nhận. Mặt khác, khi tham gia hội
nhập, Việt Nam sẽ gặp phải những thách thức, khó khăn, phải tuân thủ những
nguyên tắc mà WTO đề ra, đặc biệt là nguyên tắc tự do hóa thương mại. Việc
tuân thủ những nguyên tắc này không phải là đơn giản, nhất là với các nước đang
trong quá trình chuyển đổi như Việt Nam. Tuy nhiên, để đạt được những lợi ích
đó, trớc hết phải chấp nhận hy sinh, chấp nhận những kết quả không mong muốn
ít nhiều sẽ xảy ra khi cải cách, thay đổi các chính sách trong nước. Ngành dịch vụ
tài chính Việt Nam cần sẵn sàng cho sự thay đổi đó.
- 104 -
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Aaditya Mattoo (2000). “Dịch vụ tài chính và WTO: Tự do hoá trong các
nền kinh tế đang phát triển và đang chuyển đổi”. Gia nhập WTO: Vấn đề,
thách thức và tác động đến khung pháp lý của Việt Nam, Hà Nội.
2. Ban Thư Ký WTO về Thương mại dịch vụ (10/1999), “Thái lan: Bảng
cam kết cụ thể về dịch vụ”
3. Báo Đầu tư số ra ngày 7/12/2003 và 31/05/2004
4. Báo Thị trường tài chính tiền tệ, số 11 năm 2003 và số 5,8 năm 2004.
5. Bộ Kế hoạch và đầu tư, Dự án VIE/02/009 ngành dịch vụ tài chính
6. Bộ Tài chính (2002), “Tự do hoá dịch vụ tài chính trong khuôn khổ WTO,
kinh nghiệm của các nước”.
7. Bộ Tài chính (2003), “Báo cáo về thị trường tài chính và dịch vụ tài chính
năm 2003”
8. Bộ Thương mại, Dự án VIE/95/015, “Hợp tác dịch vụ trong ASEAN”.
9. Bộ Tư pháp (2003), “Báo cáo tổng hợp kết quả rà soát, đối chiếu các quy
định của WTO với pháp luật Việt nam hiện hành”
10. Đinh Văn Nhã (2002), Hệ thống giải pháp thúc đẩy phát triển thị trường
vốn và thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp bộ, Học viện tài chính - Bộ tài chính, Hà Nội
11. Ngân hàng Nhà nước Việt nam (1/2004), “Báo cáo hoạt động ngân hàng
năm 2003, định hướng nhiệm vụ năm 2004”, Tài liệu Hội nghị tổng kết
hoạt động ngân hàng năm 2003 triển khai nhiệm vụ ngân hàng năm 2004.
12. Nguyễn Hạnh Phúc, “Hệ thống ngân hàng Việt Nam và tiến trình tái cơ
cấu”, Báo Chứng Khoán Việt Nam 5/2000.
13. Tạp chí Ngân hàng, số 3,5 và số chuyên đề năm 2003, số 1 đến 4 năm
2004.
14. Tạp chí Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam số từ số 1 đến số 5/2004
- 105 -
15. Thủ tướng chính phủ (2003), “Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm
Việt nam từ năm 2003 đến năm 2010”, Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg
ngày 29/08/2003
16. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia
Hà nội, 2001.
17. Vụ Âu - Mỹ, Bộ Thương mại (12/2000), “Báo cáo về việc ký kết và
những nội dung chủ yếu của Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ”.
18. Vụ Chính sách Thương mại Đa biên, Bộ Thương mại (1999), “Nghiên cứu
về thương mại dịch vụ”.
19. Vụ Quan hệ quốc tế, Bộ Tài chính (8/1999),“Chiến lược hội nhập quốc tế
trong lĩnh vực tài chính giai đoạn 2000 - 2010”.
20. Thông tin trên các trang web:
www.dei.gov.vn
www.avi.gov.vn
www.usvtc.org
www.mot.gov.vn
www.mofa.gov.vn
www.wto.org
Tiếng Anh
21. GATS, “Opening markets for services”, 1998.
22. Phillip Tan, Country Profile: Singapore insurance industry,
PricewaterhouseCoopers Singapore, 2002
23. WTO, “Financial Services and the GATS: Liberalisation in the
Developing and Transition Economies”, 1998.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3002_8961.pdf