Luận văn Những khuynh hướng sáng tác kịch bản cải lương Nam Bộ trước năm 1945

Mặc khác, giữa cải lương và điện ảnh cũng có những tương đồng nhất định về mặt kịch bản. Mặc dù điện ảnh Hollywood không có cấu trúc năm giai đoạn như cải lương nhưng cấu trúc ba hồi với đường dây phát triển nhân vật của nó lại rất giống. Hay nói một cách khác hơn, hồi hai trong điện ảnh đã bao gồm các giai đoạn: thắt nút, phát triển và cao trào của một kịch bản thông thường. Thế nên, việc tìm thấy những điểm tương đồng giữa một kịch bản cải lương và một kịch bản điện ảnh để soạn một kịch bản cải lương dựa vào loại hình nghệ thuật khá lạ lẫm này là một sự sáng tạo và nỗ lực đáng trân trọng của tác giả. Ngoài Nguyễn Hiền Phú, chúng tôi chưa tìm thấy được soạn giả cải lương trước 1945 nào khác sử dụng hình thức này.

pdf51 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2760 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những khuynh hướng sáng tác kịch bản cải lương Nam Bộ trước năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, kịch bản của hai vở cải lương này đều có một biến cố lớn trong cuộc đời Thúy Kiều. Vở Hoạn Thơ tróc Kiều là biến cố Kiều và Thúc Sinh rơi vào mưu Hoạn Thơ. Hai người gặp nhau nhưng không dám nhận nhau: Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm. Vì tính chất của cải lương là tập trung khai thác các bi kịch nên đây là đoạn rất dễ khai thác và dễ lấy nước mắt người xem. Đoạn Kiều đánh đàn cho Thúc Sinh và Hoạn Thư rất cảm động: Thúy Kiều ngâm: Chừ đem ca tiếu giải phiền Cười nên tiếng khóc, hát nên giọng sầu. Ca tứ đại oán: Thân nghĩ thân luống thẹn với lòng Nghĩ thân rồi bắt não nùng Thân sao mà lắm lần gian truân Trời xanh ghét khách má hồng Nợ phong trần trả bao giờ cho xong Đoạn ruột tầm héo hon Lụy tương tư doanh tròng. Miếng tình chung Nuốt vừa vô cớ sao nghẹn mãi Đứt nối mối tơ lòng Giọt thầm bững khôn ngăn. Có thấu tình chàng chăng hỡi lương nhân. Rõ ràng, dù không sử dụng trực tiếp những câu thơ trong Truyện Kiều nhưng lời ca có những câu thơ được gợi hứng từ Truyện Kiều rất rõ. Chẳng hạn câu hát: Trời xanh ghét khách má hồng tương tự với một câu thơ ở đoạn đầu Truyện Kiều là: Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen. Vở cải lương Kiều du thanh minh cũng có cách khai thác kịch bản tương tự. Kịch bản này chọn khai thác bi kịch khi Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha và trao duyên lại cho Thúy Vân. Đoạn này nằm ở màn thứ sáu. Thúy Kiều (khóc) nói: Em ôi, mở miệng ra thì gở, để dạ vậy sao đành, cậy cùng em chút có thương tình, ngồi cho chị lạy rồi sẽ tỏ. CA TỨ ĐẠI OÁN Xin cậy em em có chịu lời Ngồi lên cho chị lạy rồi, Chị sẻ bày mấy lời ruột gan Rủi thay đứt gánh giữa đàng Nên đã đành dứt tình chàng Kim Tơ thừa mặc em Chấp keo loan cho chàng Vì đâu xui Cuộc biển dâu đổi dời thôi rất lẹ Nặng hiếu nhẹ tình Nên phụ chử sơn minh Nát ruột mà cắn răng đó em Ngày xuân em hỡi còn xuân Có thương tình ruột rà máu mủ Khá thay lời nước non sanh tử Chiếc xoa cùng tờ mây nắm giữ Của tin khi lúc trước, ước thệ nhau cùng. …Còn ghi lòng Em nên vợ nên chồng Chị như có xuống suối vàng Ắt xót người mạng bạc chớ quên. Có thể thấy, đoạn ca Tứ đại oán này hoàn toàn giống với đoạn trao duyên trong Truyện Kiều: Cậy em, em có chịu lời, Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa. Giữa đường đứt gánh tương tư, Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em. Kể từ khi gặp chàng Kim, Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề. Sự đâu sóng gió bất kỳ, Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai?. Ngày xuân em hãy còn dài, Xót tình máu mủ thay lời nước non. Chị dù thịt nát xương mòn, Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây. Chiếc thoa với bức tờ mây, Dyên này thì giữ vật này của chung. Dù em nên vợ nên chồng, Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên. Như vậy, sự khác nhau ở đây chính là mặc dù lời ca cải lương dựa vào lời thơ Truyện Kiều nhưng đã biến đổi đi cho phù hợp với giai điệu của một bài Tứ đại oán. Nếu so sánh về việc vay mượn lời thơ từ Truyện Kiều của Nguyễn Du thì có thể dễ dàng nhận ra, vở cải lương Hoạn Thơ tróc Kiều có sự phóng tác nhiều hơn vở Kiều du thanh minh. Trương Quang Tiền đã sử dụng một số ý thơ trong Truyện Kiều để viết lời riêng cho các nhân vật trong khi đó Phạm Đình Khương chủ yếu chỉnh sửa lời thơ của Truyện Kiều cho khớp với lời nhạc của nhân vật. Cả hai vở cải lương này đều ra đời vào năm 1927 nên theo chúng tôi, sự khác nhau ở đây là do quan điểm sáng tác của mỗi tác giả. Trương Quang Tiền là người sáng tác và chuyển thể rất nhiều vở cải lương như: Mạnh Lệ Quân thoát hài, Phụng Nghi Đình, Triệu Khuông Dẫn đưa Triệu Kinh Vương, Mạnh Lệ Quân chấm trường thi gặp chồng, Tây Thi gặp Phù Ta, Mạnh Lệ Quân chẩn mạch Đông Bình Vương, Hồng y hiệp nữ, Duyên chị tình em, Hồ Bạch Huê vĩnh biệt Tấn vương, Tâm tình xuất thế Tấn vương du xuân, Mẫu đơn tiên xuất thế, Điên vì tình, Giọt máu chung tình, Phụng cầu hoàng duyên, Tứ đổ tường, Mạnh Lệ Quân giả trai, Chiêu Quân lầm kế gian thần, Chiêu Quân giáp mặt Hán Hoàng, Hỏa thiêu Hồng Liên tự…Do đó ông đã có thể định hình phong cách viết kịch bản cho mình và có khả năng phóng tác vững chắc. Ngược lại, số vở cải lương mà chúng tôi sưu tầm được của Phạm Đình Khương chỉ có duy nhất một vở Kiều du thanh minh. Dĩ nhiên không thể khẳng định Phạm Đình Khương chỉ sáng tác duy nhất một vở cải lương nhưng có thể khẳng định số lượng kịch bản do Phạm Đình Khương viết ít hơn Trương Quang Tiền. Cho nên vở Kiều du thanh minh cũng có thể xem là một sự thể nghiệm của nhà xuất bản Phạm Đình Khương trong việc chuyển thể kịch bản cải lương từ truyện Nôm. Không chỉ có Truyện Kiều và Lục Vân Tiên được chuyển thể thành kịch bản cải lương mà những truyện Nôm khuyết danh như: Nhị độ mai, Quan Âm Thị Kính hay Lâm tuyền kỳ ngộ cũng được các soạn giả để ý đến. Nhị độ mai được soạn giả Mộng Trần chuyển thể nhưng vẫn giữ nguyên tên gọi. Tuy nhiên, tên gọi này dùng để chỉ cho đoạn trích Hoa mai nở hai lần trong Hồi thứ tư của Nhị độ mai chứ không phải là toàn bộ câu chuyện. Cũng giống như hai tác giả kể trên, Mộng Trần chỉ chọn một đoạn trong Nhị độ mai để soạn thành cải lương, đó là đoạn: Lương Ngọc giả danh Vương Hĩ Đồng vào ở nhà Trần Đông Sơ tế mai cho đến lúc Trần Đông Sơ nhận ra được. Ngoài ra, Mộng Trần còn chuyển thể thêm hai đoạn thơ khác để tạo một chuỗi liên hoàn ba vở cải lương dựa vào truyện thơ Nôm Nhị độ mai, mỗi vở ông chọn lấy một hồi đặc sắc nhất. Đó là những vở: Hạnh Nguyên cống hồ và Mai Trần tái ngộ. Trong khi chuyển thể, Mộng Trần bám sát cốt truyện chứ không bám sát vào ngôn từ. Mặc dù Nhị độ mai có những câu thơ lục bát rất hay nhưng Mộng Trần không sao chép hoàn toàn những câu lục bát đó. Ông chỉ lấy ý và để cho nhân vật nói bằng lời của mình sao cho gần lời ăn tiếng nói hàng ngày nhất. Chẳng hạn, đoạn Mai Sinh thú thực đã giả dạng Vương Hĩ Đồng trong Nhị độ mai được miêu tả bằng một đoạn lục bát ngắn thì trong kịch bản cải lương, điểm truyện này được đẩy lên cao và nâng tầm kịch tính cho kịch bản. Trong truyện thơ Nôm Nhị độ mai, tác giả viết: Trần-công rằng: "Sự lạ lùng, Hỉ Đồng này thực Mai-công-tử rồi !" Đòi thúy hoàn, mới dạy lời, Dặn dò hãy thử ướm chơi thăm tình. Hoàn rằng: "Hơi hỡi Mai-sinh, Toan gieo cái vạ tày đình cho ai ? Bây giờ Lư tướng nghe hơi, Sai về trách cứ một hai lấy người. Kẻo còn quanh quẩn những lời, "Còn nay Vương thị, còn mai Hĩ Đồng ?" Mai sinh nghe tỏ sự lòng, Uốn lời thú thực phô sòng van lơn : "Mai nay muôn đội ơn hoàn, Mưu gì cứu được khỏi cơn đường cùng." Túy hoàn mới ngỏ thực lòng "Vâng lời tôi thử ướm lời đấy thôi. Mới rồi nhân thấy vị bài, Rõ tình ông dạy cho lời không sao !" Mai sinh ren rén bước vào, Nửa mừng nửa sợ biết bao nhiêu tình. Ông rằng: "Sau những dấu quanh, Nghĩ là ai, chẳng là mình đấy ư ? Thế mà bác cứ thờ ơ, Thứ cho lỗi ấy từ xưa đến rày." Lạy rồi, sinh mới giãi bày Từ ngày về quán từ ngày nghe oan. Bao nhiêu tình tự nguồn cơn, Sơn đông chia bước, Hầu Loan trở lòng, Ơn Đồ Thân, nghĩa Hĩ Đồng, Dây oan khi cởi, cửa không khi nhờ. Bước đường xa, cái sống thừa, Tấc riêng riêng những nào ngờ có nay ! Trong khi đó, vở cải lương Nhị độ mai viết rất rõ đoạn đối thoại giữa Túy Hườn và Mai Lương Ngọc cũng như đoạn đối thoại giữa Mai Sinh và Trần Công về việc giả mạo của chàng. Trong những đoạn đối thoại đó, Mai Sinh luôn cảm thấy áy náy về tội lỗi của mình. Mai Lương Ngọc nói: Vải che mắt thánh bấy lâu Tội đành muôn thác, mặc dầu giết tha. Và ở đoạn khác, chàng nhắc lại: Cái thân lận đận lao đao Giả Hĩ Đồng quảng bao chút phận Miễng sống thừa dòng mai chẳng tận Nay lộ tình lòng càng hối hận Cam đành muôn tội dẫu giết tha dám phiền. Như vậy, theo chúng tôi, sự khác nhau ở đây có nguyên nhân từ quan niệm của chính tác giả. Cải lương ra đời trong thời kỳ này bên cạnh kêu gọi lòng yêu nước còn có vai trò giáo dục, định hướng các phẩm chất đạo đức, trong đó phẩm chất thẳng thắn, nghiêm túc nhận và sửa chữa sai lầm. Mai Sinh phạm tội đóng giả người khác, đó chính là tội lừa dối. Tuy nhiên, bản thân chàng đã nhận thấy sai lầm của mình và sẵn sàng nhận lấy cái chết để chuộc tội dù cho việc giả mạo kia không phải có ý đồ xấu. Chính vì vậy, việc thẳng thắn nhận tội của Mai Sinh được Mộng Trần khai thác triệt để định hướng thanh niên học tập theo gương của chàng. Bên cạnh Nhị độ mai, truyện thơ Nôm khuyết danh được lấy cảm hứng còn có Quan Âm Thị Kính, Lưu Bình Dương Lễ, Lâm tuyền kỳ ngộ…Truyện nôm Quan Âm Thị Kính được hai tác giả chuyển thể là: Nguyễn Công Mạnh với tác phẩm cùng tên, Lê Văn Lưu với tên gọi hơi khác một chút là Thị Kính hàm oan. Truyện Nôm Lưu Bình Dương Lễ được soạn giả Đặng Công Danh lấy cảm hứng, còn truyện Nôm Lâm tuyền kỳ ngộ được Nguyễn Thành Long chuyển thể với tên gọi Bạch viên xuất thế. 2.1.2. Dựa vào tiểu thuyết Việt Nam: Vào thời điểm đầu thế kỷ XX, với sự ra đời và phát triển của báo chí, sự du nhập tiểu thuyết phương Tây và tiểu thuyết Trung Quốc cùng sự phát triển của văn học dịch, tiểu thuyết Việt Nam theo đó cũng có sự phát triển. Vì cải lương ra đời ở Nam bộ nên thời kỳ đầu, những vở cải lương chủ yếu dựa vào tiểu thuyết Nam bộ. Số lượng tiểu thuyết Việt Nam được chuyển thể không nhiều lắm nhưng được sử dụng rất nhiều cho các kịch bản cải lương khác nhau, nhiều nhất có lẽ là Giọt máu chung tình của Tân Dân Tử, Châu về Hiệp phố và Tiểu anh hùng Võ Kiết của Phú Đức. Giọt máu chung tình là tiểu thuyết dã sử về Võ Đông Sơ và Bạch Thu Hà được đông đảo quần chúng yêu thích. Chính vì thế, nó đã được các soạn giả cải lương để ý và chuyển thể. Soạn giả Trương Quang Tiền đã giữ nguyên tên gọi: Giọt máu chung tình khi chuyển thể thành cải lương. Còn soạn giả Nguyễn Hiền Phú thì đổi thành tên: Võ Đông Sơ thám sơn động. Khi viết tiểu thuyết Giọt máu chung tình, Tân Dân Tử đã nhấn mạnh mục đích viết tác phẩm này bằng lời tựa: Thử hỏi Trương Lương, Hàn Tín, Hạng Võ, Tiêu Hà thì sự tích làu thông, còn hỏi ai là anh hùng hào kiệt trong nước thì ngẩn ngơ chẳng biết… như vậy thì người xứ ta chỉ biết khen ngợi, sùng bái người anh hùng liệt nữ khác, mà chôn lấp cái danh giá của người anh hùng liệt nữ trong xứ mình, chỉ biết xưng tụng cái oai phong của người ngoại bang, mà vùi lấp cho lu mờ cái tinh thần của người bổn quốc. Tuy nhiên, lúc chuyển thành kịch bản cải lương, các soạn giả đã tập trung vào hai vấn đề chính: đó là ca ngợi lòng yêu nước của Võ Đông Sơ và tấm lòng chung thủy của Bạch Thu Hà. Đoạn đối thoại giữa Võ Đông Sơ và Hoàng Nhứt Lang trong Võ Đông Sơ thám sơn động của soạn giả Nguyễn Hiền Phú đã phần nào cho thấy điều này: Hoàng Nhứt Lang: Nếu quả nàng Bạch Thu Hà có gửi bức thơ cuối cùng cho ta, thì hãy đưa cho ta xem (lấy bức thơ dở xem chưng hững). Cái bức thơ này nàng gởi cho ai? Tên là Võ Đông Sơ trung úy, chinh phạt giặc Hải khấu! Có phải mi là Võ Đông Sơ làm quan trung úy chăng? Võ Đông Sơ: Phải! Ta đây là Võ Đông Sơ chinh phạt giặc Hải khấu, hồi quốc triều đặng thăng chức Kinh sa đô úy, nàng Bạch Thu Hà là người chung tình của ta vì bị anh nàng là Bạch Xuân Phương ép gả cho Vương Bích nên nàng giữ tiết bỏ nhà trốn đi mới ra thân lưu lạc. Hoàng Nhứt Lang: Nếu vậy quan nhơn đây chính là ân nhân của tôi, vì lúc giặc Hải khấu cướp thuyền của khách thương hồ, lúc đó tôi cũng bị tai nạn, nhờ có quan nhơn chinh phục vẹn bước khải hoàn, anh em tôi mới thoát thân về đây chiêu mộ anh hùng đặng chờ khi hoạt động. Vì chẳng biết nàng Bạch Thu Hà là người chung tình của quan nhơn nên tôi phải phạm lỗi, từ đây tôi xin tự hối ăn năn, mong đại lượng của quan nhơn dung thứ. Có thể nói, yêu nước và thủy chung là hai đức tính truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam nên các soạn giả khai thác đề tài này cũng là nằm trong ý đồ tuyên truyền tinh thần yêu nước sâu rộng trong quần chúng. Mặt khác, mối tình của Võ Đông Sơ và Bạch Thu Hà, tình yêu ngang trái, yêu nhau không đến được với nhau cũng đã khiến cho người xem xúc động rất nhiều. Chính điều này đã làm nên linh hồn của một vở cải lương. Còn Châu về Hiệp Phố và Tiểu anh hùng Võ Kiết là hai tiểu thuyết thuộc thể loại trinh thám, một thể loại tiểu thuyết rất thịnh hành thời bấy giờ. Mặc dù cũng lấy đề tài về tình yêu nhưng Châu về hiệp phố có kết thúc có hậu chứ không bi lụy như Giọt máu chung tình. Tiểu thuyết xoay quanh mối tình của chàng trai có tên là Hoàn Ngọc Ân, chàng sinh viên trường Cao đẳng Y khoa Hà Nội với cô gái có tên là Lệ Thủy, người Sài Gòn xinh đẹp, giàu có nhưng hành tung rất bí ẩn. Tiểu thuyết này được kể bằng những chi tiết, tình tiết kỳ bí cuốn hút nên rất hấp dẫn người xem. Bên cạnh đó, cách kể chuyện cũng rất mới, nhân vật có tính cách mạnh chứ không chung chung như các tiểu thuyết trước đây do đó nó được độc giả lẫn các nhà phê bình đánh giá cao. Chính vì vậy, Trần Tr. Cảnh đã chuyển thể thành cải lương Nghĩa Hiệp thâu Ngọc hoàn nơi nhà Lệ Thủy để công chúng được tận mắt chứng kiến tiểu thuyết yêu thích của mình trên sân khấu. Vở cải lương này đã chọn khai thác đoạn gặp gỡ giữa Lệ Thủy và Nghĩa Hiệp (tức Hoàn Ngọc Ẩn) tại nhà Lệ Thủy. Đây là đoạn đầu của cuốn tiểu thuyết. Vì Lệ Thủy khiến cho hai anh em họ Đặng si tình đem tặng ngọc hoàn gia truyền cho mình và rồi cả hai anh em phải tự vẫn do bị nàng bỏ rơi nên Ngọc Ẩn đổi tên thành Nghĩa Hiệp đến nhà Lệ Thủy đòi ngọc hoàn. Tuy nhiên sau khi lấy được ngọc hoàn, chàng lại nhờ Năm Mạnh đóng giả mình đem nó trả lại cho Lệ Thủy và khuyên Lệ Thủy đưa lại cho chủ cũ là Đặng Nghiêm Huấn, bố của Đặng Thất Tình và Đặng Giao Hoang. Nàng hết sức phân vân. Như vậy, vở cải lương Nghĩa Hiệp thâu Ngọc hoàn nơi nhà Lệ Thủy đã chọn một vấn đề chứ không đi theo nhiều vấn đề như trong tiểu thuyết, đó là việc Ngọc Ẩn đòi ngọc hoàn. Theo chúng tôi, sở dĩ Trần Tr. Cảnh chọn đoạn này bởi vì đây là đoạn đánh dấu cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Ngọc Ẩn và Lệ Thủy, cuộc gặp của hai nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết Châu về hiệp phố. Thứ hai, đoạn này cũng thể hiện diễn biến tâm lý nhân vật rất rõ, đặc biệt là tâm lý của nhân vật Lệ Thủy. Màn mở đầu, Lệ Thủy tâm sự về nỗi khổ trong lòng mình sau khi gây ra cái chết của hai anh em nhà họ Đặng: Mấy lời nguyền em chỉ thệ với nước non: Ngày nào oan gia báo tận, Em mới đành vịnh chử đuốc hoa Bằng chẳng vậy thì bóng thiên nhiên ắt chịu là Cho rảnh ân nước với nợ nhà Cho hay! Sóng khuynh thành giợn khóe thu ba Cỏ cây còn trộm liếc màu hoa Bướm ong lấp ló là đà Sơn khê mà cũng động tình mây mưa! Vì cớ ấy cho nên em: đánh đổi lắm trận tình Xoay sở hóa nên hữu ảnh vô hình Tấm gương trinh em đây vẫn nguyện gìn Cho thỏa tấm lòng mẹ cha nơi âm cung. Quả thật, việc nàng khiến cho hai anh em họ Đặng phải tự sát không phải chủ ý của nàng mà là do lời nguyền của người mẹ trước đây. Ngày xưa, mẹ nàng yêu Đặng Nghiêm Huấn nhưng bị phụ bạc đành phải sang Hồng Kông lấy một người chồng ngoại quốc. Tuy nhiên, lúc lâm chung, mối hận tình xưa bà cũng chưa quên nên để lại lời nguyền là cô con gái yêu quý Lệ Thủy sẽ khiến hai chàng trai nhà họ Đặng tự vẫn vì tình. Lời tâm sự của nàng cho thấy tấm lòng của người con gái hiếu thảo nhưng cũng thấy ẩn chứa đằng sau đó sự khát khao một tình yêu thực sự. Nguyên nhân nàng bày tỏ tâm sự trong đoạn đầu tiên của vở cải lương này là vì nàng cảm thấy khó xử trước bức thư đòi trả ngọc hoàn của Ngọc Ẩn ký tên Nghĩa Hiệp: Lệ Thủy: Chẳng giấu chi liệc vị, số là: em mới tiếp bức thư nhàn, dưới trang ký tên Nghĩa Hiệp rõ ràng, khiến em phải hườn lại ngọc điệp cho chàng. Như ngọc điệp ấy chư quý huynh đã chẳng biết rằng họ Đặng: Lúc sanh tiền vì tình luyến ái, tặng cho em gọi là kỷ niệm, nay người quá vản em vì chữ thủy chung, phải gìn chút dấu tích xưa, Dẫu mà giá đáng mấy tơ hào, em đâu nỡ đem lòng phụ bạc, huống chi là, vàng thiên kim khó sành, ai đi dại gì mà trả lại cho ai. Vì không biết người ký tên Nghĩa Hiệp đó là ai nên nàng hết sức phân vân, thắc mắc. Sau khi gặp rồi có cuộc đấu với Nghĩa Hiệp, người nhà nàng bị thương nên nàng nhờ Ngọc Ẩn cứu giúp, từ đó tâm trạng nàng lại tiếp tục thay đổi. Nàng nghĩ đến Nghĩa Hiệp và trong lòng thực sự cảm thấy thán phục: À, còn người Nghĩa Hiệp nào đây: Mãnh thần lực chi nhường bá vương nước Sở, tài hùng anh nào sức thiên tử nhà Đường: vừa ra tay mấy cậu thảy té nhào, mới bước chơn hoàn ngọc thảy đâu mất, vậy mới đáng gọi là Nghĩa Hiệp! Thiếp thầm nghĩ nếu thật chẳng trộm đạo thừa gió bẻ măng, thì ắt là: anh hùng vĩ đại đua sức. Rồi tâm trạng nàng lại tiếp tục rối bời khi Nghĩa Hiệp nhờ Năm Mạnh đến trả ngọc hoàn cho mình: Chừ ta có nên trả lại cho ông Đặng Nghiêm Huấn không? Thôi đành trả phức cho rồi, chớ để nó càng lắm đều khổ não…!Phải, ta nên trả…mà không! Ta vì tâm sự…như không trả thì Nghĩa Hiệp có chịu thôi đâu! Ôi mà như Nghĩa Hiệp ngày hôm nay đây: Chim mắt lưới trông chi bay nhảy, cá lọt lờ khó tưởng lội ra, tự quyền ta sanh sát thứ tha. Ta chẳng khừng thì va lại làm chi ta đặng kìa? À, phải rồi (trở vô) này Nghĩa Hiệp, ta chẳng muốn khừng trả hoàn ngọc lại. Có thể thấy, Trần Tr. Cảnh đã khai thác khá tốt tâm lý của Lệ Thủy trong vở cải lương nêu trên. Tuy nhiên, theo chúng tôi vẫn còn một nguyên nhân nữa khiến cho Trần Tr. Cảnh chọn khai thác đoạn trích này trong tiểu thuyết: đó là ông muốn đưa lên sân khấu những điểm hấp dẫn, mới mẻ của một tiểu thuyết trinh thám. Ông muốn độc giả trực tiếp chứng kiến những màn võ thuật, những màn đấu súng trên sân khấu. Chính điều này đã làm cho vở cải lương thêm hấp dẫn khán giả và cũng gây sự tò mò cho độc giả. Trong vở cải lương này, Nghĩa Hiệp là một người bí ẩn, đeo mặt nạ, do đó hình tượng nhân vật này cũng tạo được một sức hút nhất định đối với khán giả. Những màn đấu võ, những pha xử lý “nhanh tay lẹ mắt” để lấy được viên hoàn ngọc đã chứng tỏ được anh rất thông minh và khôn ngoan: Trần Vô Cương bị Nghĩa Hiệp đá té nhào, Ái Sắc phóng dao vào mặt Nghĩa Hiệp, bị Nghĩa Hiệp bắt đặng con chót phóng trả lại trúng bắp vế Ái Sắc nên chàng té quỵ bất tỉnh, Bá Hộ vừa cầm súng bắn bị Nghĩa Hiệp phóng một con dao nhằm cườm tay rớt súng xuống vừa nổ, viên đạn bay ra ngoài trúng Hai Dỏng, Nghĩa Hiệp lật đật lượm cây súng lên, Lệ Thủy thấy liền đưa súng ngay mặt Nghĩa Hiệp(...). Lệ Thủy giận quá tri bóp cò súng nổ, Nghĩa Hiệp lách đầu, viên đạn bay phớt đứt dây mặt nạ. Liền tay Nghĩa Hiệp bắn nát bóng đèn điện, trong phòng tối mịt bèn bước lại lấy hoàn ngọc đi mất. Lệ Thủy tỉnh lại chạy đi vặn đèn khác lên mới hay hoàn ngọc đã mất. Đoạn cuối vở cải lương này cũng có một màn giải vây rất thú vị, đó là: Lệ Thủy bị Nghĩa Hiệp (tức Năm Mạnh) đá ngả ghế và bắt tay giựt súng liệng ra sân, Hai Dỏng nhảy vào đánh võ với Mạnh, vừa cơn ấy Hồng Hoa mang mặt nạ nhảy vào đưa súng lên. Có thể thấy, chất “trinh thám” trong vở cải lương này đã được thể hiện bằng những màn đấu võ đẹp mắt, những pha hành động hiện đại. Hình 2.3: Hồng Hoa mang mặt nạ bước vào cầm súng giải vây cho Nghĩa Hiệp (tức Năm Mạnh) Một điều nữa để chuyển thể đoạn trích này thành kịch bản cải lương là vì đoạn trích này về cơ bản cũng đã hoàn chỉnh về mặt cấu trúc: có thắt nút là bức thư của Nghĩa Hiệp, có khủng hoảng là tâm trạng đầy lo lắng của Lệ Thủy, có cao trào là Nghĩa Hiệp đánh nhau rồi lấy ngọc và có cởi nút là Nghĩa Hiệp trả ngọc hoàn lại cho Lệ Thủy và khuyên cô tự mình đem trả lại cho nhà họ Đặng. Mặc dù có thể nói đây là một vở cải lương chuyển thể khá tốt nhưng nó cũng có những hạn chế nhất định của một kịch bản. Đó là khi chuyển thể, vì tuân thủ nội dung của tác phẩm văn học mà Trần Tr. Cảnh đã không đẩy cao xung đột của nhân vật chính. Chẳng hạn, khi đem trả lại ngọc hoàn, thay vì để cho Năm Mạnh đóng giả Nghĩa Hiệp, soạn giả nên để cho Ngọc Ẩn chạm mặt với Lệ Thủy lần nữa. Và ở đoạn cuối, chính Ngọc Ẩn (trong trang phục Nghĩa Hiệp) sẽ tự thoát thân bằng một cách nào đó thể hiện sự khôn khéo của anh ta chứ không nên để nhân vật Hồng Hoa (vợ Năm Mạnh) “nhảy vào” làm nhiệm vụ giải cứu. Cách nhân vật đi vào kịch bản như vậy sẽ không thuyết phục vì trước đó Hồng Hoa chưa bao giờ xuất hiện, chỉ được nghe qua lời kể của Năm Mạnh. Bên cạnh Châu về hiệp phố thì Tiểu anh hùng Võ Kiết cũng là một tiểu thuyết trinh thám gây được nhiều sự chú ý. Tiểu thuyết này ra đời năm 1929 và nằm trong dòng tiểu thuyết yêu nước Nam bộ đầu thế kỷ XX nên đã bị thực dân Pháp cấm phát hành. Tuy nhiên, sự ảnh hưởng của quyển tiểu thuyết này đối với phong trào quần chúng rất lớn nên soạn giả Quần Anh Kiệt đã chuyển thể thành kịch bản cải lương để ngấm ngầm tác động đến phong trào yêu nước sâu rộng. 2.2. Dựa vào lịch sử Việt Nam: Dân tộc Việt Nam có câu tục ngữ: Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh. Do đó không có gì lạ khi thời kỳ này có những vở cải lương lấy đề tài về Hai Bà Trưng như Nữ Trưng Vương của Đặng Thúc Liêng hay Nữ Trưng Vương khởi nghĩa của Kim Chung. Hai vở cải lương này tuy cùng lấy nguồn cảm hứng lịch sử về Hai Bà Trưng nhưng mỗi vở có một cách khai thác vấn đề khác nhau bởi vì hai vở này là sáng tác của hai miền khác nhau. Vở Nữ Trưng Vương khởi nghĩa của Kim Chung là vở cải lương của Bắc Bộ trước năm 1945. Vở cải lương này gần như tuân thủ những sự kiện có thật của lịch sử, từ lúc Thi Sách bị Tô Định bắt, giết khiến Trưng Trắc nổi giận cùng em khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi, Trưng Trắc lên ngôi vua, đóng đô ở Mê Linh. Tuy nhiên, về sau, nhà Hán cử Mã Viện đem quân sang đánh nhằm chiếm đoạt lại đất đai của ta. Vì lực lượng quân của Hai Bà Trưng ít hơn quân ngoại xâm nên Hai Bà Trưng thua trận, phải nhảy xuống sông Hát tự vẫn để bảo toàn khí tiết. Rõ ràng, cách viết kịch bản này của bà Kim Chung có thể nói là tái hiện lại lịch sử trên sân khấu cải lương chứ không tuân theo nguyên tắc của kịch bản. Tuy nhiên, vở diễn này lại tạo được hiệu ứng rất tốt trong lòng công chúng bởi ngôn ngữ của các nhân vật. Vì ra đời trong hoàn cảnh mất nước nên cuộc đời Hai Bà Trưng là tấm gương cho nhân dân ta học tập. Hơn nữa, trong mỗi lời nói mà nhân vật thốt lên đều ngầm thể hiện lời kêu gọi nhân dân ta đứng lên chống giặc. Đây là thủ pháp “mượn xưa nói nay” mà nhiều soạn giả cải lương đã sử dụng. Chẳng hạn, ngay đoạn đầu tiên, khi Cao Doãn và Trương Quán ngồi uống rượu với nhau, họ đã đề cập đến vấn đề này: Cao Doãn: Quân thù. Say cho đảo lộn giang sơn Cho nghiêng lệch đất trời, cho mờ mịt giác quan Chớ tỉnh mà chịu sống đời túi cơm giá áo Tai điếc mắt đuôi trước loài bạo ngược tham tàn. Và trước khi tự vẫn, Hai Bà Trưng đã thể hiện rõ sự khảng khái của mình. Trưng Nhị: Quốc hồn vùng dậy với căm hờn Xông pha yếm khăn không sờn Ơn dân thù nước dập dồn. Giống nòi chờ đợi cuộc sanh tồn Lòng ta tràn ngập bao sóng cồn Bao giờ ta giãi bày tấm sắt son (…) Hai Bà dắt tay nhau đồng ca: Thà thác vinh còn hơn sống nhục. Đời đục ngầu cõi tục lánh xa. Trong khi đó, vở cải lương Nữ Trưng Vương của Đặng Thúc Liêng lại có nhiều điều hư cấu và theo đúng cấu trúc kịch bản hơn. Đây là vở cải lương của Nam Bộ trước năm 1945. Vở cải lương này đề cập đến một nhân vật trung gian có tên là Lý Bấc Giao, kẻ gián tiếp gây ra cái chết của Thi Sách. Lý Bấc Giao vốn là người “ghen ăn tức ở” với Thi Sách nên tìm cách hãm hại. Hắn luôn xúi Tô Định trừ khử Thi Sách. Nhân một lần Tô Định cùng hắn ngồi uống rượu, làm thơ, Thi Sách có việc đến gặp và được lệnh phải làm thơ họa lại thơ Tô Định. Thi Sách làm bài thơ có ý giễu cợt. Tô Định tức giận ra lệnh bỏ Thi Sách vào hồ Thủy ngân. Trưng Trắc hay tin về cái chết của chồng nên đến Sơn Tây tìm gặp Trưng Nhị dựng cờ khởi nghĩa báo thù cho chồng. Trên đường đi, Bà được bà Lạc phu nhân của Lạc tướng Tiền trào giúp đỡ. Sau khi gặp được Trưng Nhị, hai chị em đã tập hợp được đông đảo quân lính, chiêu mộ được tướng sĩ cùng nhau dấy binh đánh đuổi được Tô Định về nước và xưng Vương. Có thể thấy, mặc dù cấu trúc của vở cải lương này chặt chẽ hơn vở cải lương của bà Kim Chung nhưng xung đột của nhân vật chưa đủ mạnh. Lẽ ra soạn giả nên tập trung khai thác sâu hơn mẫu thuẫn giữa Thi Sách và Tô Định mà không cần phải thông qua nhân vật trung gian là Lý Bấc Giao. Mâu thuẫn đối kháng giữa hai nhân vật sẽ làm cho tính cách của các nhân vật được định hình rõ ràng hơn. Ngoài Hai Bà Trưng, những tấm gương liệt nữ khác cũng gợi được cảm hứng cho các soạn giả cải lương như Vương Phi Mỵ Ê, Huyền Trân công chúa…Vương phi Mỵ Ê là vợ của chúa Jaya Sinhavarman II nước Chiêm Thành. Năm 1044, sau khi vua Lý Thái Tông bình Chiêm Thành đã cho triệu Mỵ Ê sang hầu. Tuy nhiên, bà đã lấy chiên trắng quấn vào cổ và nhảy xuống sông Châu Giang tự vẫn. Nhân dân thương tiếc cho tấm lòng của người liệt nữ nên lập đền thờ cúng. Về sau, vua Lý phong cho bà là Hiệp Chính Nương Phu Nhân còn vua Trần Trung Hưng thì phong là: Trinh Liệt Tá Lý Phu Nhân. Câu chuyện đầy cảm động về nàng Mỵ Ê đã được Liễu Thanh Bần tái hiện lại trong vở cải lương Lý Thái Tông bình Chiêm thành; Vương Phi Mỵ Ê vì nước liều mình. Trong vở cải lương này, nhân vật Mỵ Ê được xây dựng là một người phụ nữ rất mạnh mẽ, quyết đoán. Tấm lòng vì vua vì nước của nàng khiến cho những người sống trong thời mất nước đồng cảm và kính phục. Nàng thẳng thắn nói với vua Lý Thái Tông: Nặng vì ơn giang san Tổ Quốc Nỡ đâu nỡ phụ đành sao Ta phải toan trả phu thù, mới an thửa tấc dạ này Ai đi khuất nhục như vầy Ngàn kiếp để cho người mỉa mai Kìa là gương Trưng Trắc Đuổi binh Tàu phục quốc ngày xưa Nào đâu mả quân bá vạn Nay ta dầu cô độc vô thân Thì cũng đòi những gương trung thần Thà cam chịu tử phần Nơi âm đài chẳng hổ với cố nhân. Và trước khi tự vẫn, nàng vẫn thể hiện tinh thần khảng khái của mình: Nước mất nhà tan hận chửa nguôi Thù chồng khôn trả luống bồi hồi Lòng này pha lẫn dòng xanh biếc Gió bụi lao xao nợ phủi rồi. Và cái chết của nàng đã nhận được sự thương tiếc của vua quan nhà Lý, là tấm gương sáng cho người Việt Nam ta đời đời noi theo như lời của vua Lý Nhân Tông: Gương này nên nêu sử xanh Để sau người noi dấu lưu danh Người liệt trinh minh hiếu trung thành Đoàn ta phải khuyên giáo hậu sanh Bắt chước theo gương tiết liệt thơ anh. Bên cạnh tấm gương liệt nữ Mỵ Ê, tấm lòng của Huyền Trân công chúa cũng được các soạn giả cải lương quan tâm khai thác. Vở cải lương Huyền Trân công chúa ca ngợi tấm lòng của nàng công chúa nhà Trần, người đã hy sinh tình riêng (tình yêu với tướng quân Khắc Chung) để lấy Chế Mân, vua nước Chiêm thành nhằm giữ gìn hòa khí giữa hai nước và đổi lấy hai châu Ô, Rý cho nhà Trần. Dù không phải tự vẫn vì đất nước như Hai Bà Trưng hay vương phi Mỵ Ê nhưng việc đánh đổi hạnh phúc cá nhân: xa quê hương đất nước, xa hoàng phụ, hoàng mẫu và nhất là phải xa thượng tướng Trần Khắc Chung…của Huyền Trân đã khiến cho nhân dân thương cảm. Bài dân ca Nước non ngàn dặm ra đi viết theo điệu Nam bình chính là dành cho nàng: Nước non ngàn dặm ra đi... Mối tình chi! Mượn màu son phấn Đền nợ Ô, Ly. Xót thay vì, Đương độ xuân thì. Số lao đao hay là nợ duyên gì?... Nhìn chung, các kịch bản cải lương dựa vào lịch sử Việt Nam mà chúng tôi sưu tầm được đều có nhân vật trung tâm là những người liệt nữ, những người có công với đất nước của mình hoặc hy sinh vì đất nước, không bao giờ khuất phục trước kẻ thù. Tấm gương của họ khiến cho những đấng mày râu phải “hổ thẹn”: Càng thẹn cho nhơ nhuốc mặt này Chí làm trai uổng không nên tài (Lý Thái Tông bình Chiêm Thành, Vương Phi Mỵ Ê vì nước liều mình) Như vậy, nguyên nhân các soạn giả dựa vào những nhân vật lịch sử nêu trên để viết kịch bản là nhằm nhắc nhở, kêu gọi lòng yêu nước bằng những người tấm gương lịch sử “người thật việc thật”. Các vở cải lương dựa vào lịch sử Việt Nam thường tôn trọng các sự kiện lịch sử và đi theo trật tự thời gian của những sự kiện xảy ra trong lịch sử. Sự sáng tạo có chăng là ở lời thoại và tâm trạng nhân vật. Tùy vào quan điểm của mỗi soạn giả trong việc lựa chọn các sự kiện lịch sử và kết thúc ở mốc lịch sử nào. Chẳng hạn, Đặng Thúc Liêng kết thúc câu chuyện Hai Bà Trưng lúc Trưng Trắc giành thắng lợi nhưng Kim Chung lại kết thúc lúc Hai Bà Trưng nhảy xuống sông Hát tự vẫn. Có thể nói, những vở cải lương dựa vào lịch sử quan tâm nhiều đến nhân vật lịch sử còn những vở cải lương phóng tác từ truyện kể thì quan tâm nhiều đến cấu trúc kịch bản. 2.3. Dựa vào văn học các nước: Các vở cải lương thời kỳ này dựa vào văn học các nước rất nhiều, đặc biệt là văn học Trung Quốc và văn học Phương Tây. Những vở cải lương dựa vào văn học Phương Tây là: Hiếu tình của Nguyễn Công Mạnh dựa theo Lecid của Corneille, Sĩ Vân công chúa của Đặng Công Danh dựa theo Tristan et Iseult, Tơ vương đến thác của Ngô Vĩnh Khang dựa vào La Dame aux Camélias của Alexandre Dumas con, Giá trị và danh dự của Huỳnh Thủ Trung dựa theo kịch Lecid, Mộng Hoa Vương của Trần Hữu Trang dựa theo truyện La reine Christine…Còn riêng về văn học Trung Quốc, số lượng tiểu thuyết gợi cảm hứng cho kịch bản cải lương là rất lớn. Đó là những tiểu thuyết kinh điển như: Tây du ký, Tam quốc chí, Đông Chu liệt quốc, Thủy Hử, Phong Thần diễn nghĩa, Thuyết đường…hay những tiểu thuyết được dịch cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX như: Long đồ công án, Phấn trang lầu, Tống từ vân, Quần anh kiệt, Vạn huê lầu, Tiết Đình San chinh tây, Anh hùng náo tam môn giai…Không chỉ lấy đề tài từ tiểu thuyết mà những truyện kể dân gian Trung Quốc như Thanh xà bạch xà, Trinh nữ sự nhị phu… hay những điển cố văn học Trung Quốc về các giai nhân: Chiêu Quân, Tây Thi... cũng đuợc các soạn giả cải lương lưu tâm lựa chọn. Trong những vở cải lương mà chúng tôi sưu tầm được, đáng tiếc những vở cải lương dựa vào văn học phương Tây đều bị thất lạc nên trong tiểu mục này, chúng tôi chủ yếu khảo sát những vở cải lương dựa vào văn học Trung Quốc. Trong số 80 kịch bản cải lương dựa vào văn học Trung Quốc mà chúng tôi sưu tầm được, kịch bản cải lương dựa vào tiểu thuyết chiếm số lượng lớn nhất, thể hiện ở biểu đồ sau: Tỷ lệ: % Tiểu thuyết Điển cố Văn học dân gian Tổng 91.25 3.75 5 100 Hình 2.4. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ kịch bản cải lương lấy đề tài từ văn học Trung Quốc 2.3.1. Dựa vào tiểu thuyết Trung Quốc: Có thể thấy, số lượng kịch bản cải lương dựa vào tiểu thuyết Trung Quốc rất nhiều (73/ 137 kịch bản sưu tầm được). Trong 73 kịch bản cải lương dựa vào tiểu thuyết Trung Quốc mà chúng tôi sưu tầm được, có khoảng 23 tiểu thuyết Trung Quốc được các soạn giả lưu tâm lựa chọn, nhiều nhất là: tiểu thuyết Thuyết Đường (9 kịch bản sử dụng), tiếp đến là Vạn Huê Lầu (7 kịch bản), Tam Quốc chí (6 kịch bản)… Dưới đây là biểu đồ thể hiện số lượng kịch bản cải lương Nam Bộ dựa vào các loại tiểu thuyết Trung Quốc. Đơn vị: Kịch bản Hình 2.5. Biểu đồ thể hiện tỷ lệ kịch bản cải lương dựa vào các loại tiểu thuyết Trung Quốc Có thể thấy, mỗi quyển tiểu thuyết được nhiều soạn giả khác nhau chuyển thể ở những đoạn khác nhau chứ không chỉ có mỗi một soạn giả chuyển thể một quyển tiểu thuyết. Chẳng hạn, trong 137 kịch bản cải lương mà chúng tôi sưu tầm được, tiểu thuyết Thuyết Đường được sáu soạn giả khác nhau chuyển thể, đó là Nguyễn Thành Long với Vợ Ngũ Văn Thiệu bị tên, Ngô Vĩnh Khang với Đường Thế Dân cửa cung treo ngọc đới, Huất Trì giả điên, La Thành thọ tiễn, Nguyễn Hiền Phú với Huất Trì Cung cứu giá Đường Thế Dân, Lý Ngươn Bá xé văn võ thành đô, Nguyễn Văn Năm với Tần Thúc Bảo đả đồng kỳ, Lâm Hoài Nghĩa với Nam Dương thọ khổn, Lưu Quang Mùi với Tống Tửu đơn hùng tín…Có thể thấy, tiểu thuyết Trung Quốc thời kỳ này được chuyển thể nhiều. Bên cạnh nguyên nhân nhiều tiểu thuyết Trung Quốc được chọn dịch đầu thế kỷ XX, sự phát triển rầm rộ của báo chí nên dễ phổ biến nó đến mọi người và sự yêu thích của nhân dân đối với tiểu thuyết chương hồi còn có một nguyên nhân khác không kém phần quan trọng. Vì đây thời kỳ đầu mới ra đời đời nên kịch bản cải lương còn chịu ảnh hưởng rất nhiều của sân khấu hát bội. Trong khi đó, các kịch bản của sân khấu hát bội hầu hết đều dựa vào tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc. Chằng hạn như: tuồng Địch Thanh ly thợn dựa vào tiểu thuyết Vạn Huê Lầu thì cải lương cũng có nhiều vở dựa vào tiểu thuyết này như: Địch Thanh kết duyên Thoại Ba công chúa của Nguyễn Thành Long, Án Trầm Quốc Thanh, Cửu Nhĩ mạo Châu Kỳ của Lê Văn Tiếng… Tóm lại, những tiểu thuyết được dùng chuyển thể thành kịch bản cải lương có đặc điểm: Thứ nhất, đó phải là những tiểu thuyết có chứa những vụ án nào đó khó giải quyết hoặc những vụ án lớn, gây chấn động. Chẳng hạn, những vụ án trong truyện Vạn Huê Lầu như: Cửu Nhĩ mạo Châu Kỳ, Án Trầm Quấc Thanh, Án Bàng Quý Phi, Án Quách Hòe…hay Án Bộc thọ hình trong tiểu thuyết Quần Anh Kiệt đã được chuyển thể thành những vở cải lương cùng tên. Thứ hai, đó phải là những tiểu thuyết về những người phụ nữ thông minh, có tài năng xuất chúng như Mạnh Lệ Quân, Chung Vô Diệm… Thứ ba, đó phải là những tiểu thuyết có những tình huống truyện độc đáo, có thể độc lập làm một kịch bản hoàn chỉnh: tức là có nảy sinh vấn đề, có các khủng hoảng và có cao trào rồi đến kết thúc vấn đề. Chẳng hạn như: Phàn Lê Huê phá trận hồng thủy, Địch Thanh kết duyên Thoại Ba công chúa, Thái sư Văn Trọng giáng thập điều, Triệu Khuông Dẫn đưa Triệu Kinh Vương,... Thứ tư, đó phải là những tiểu thuyết có những tình huống cảm động, thể hiện được tâm trạng và sự phát triển tâm lý nhân vật. Chẳng hạn như: Lưu Yến Ngọc cứu cha đại hiếu, Vợ Ngũ Văn Thiệu bị tên, Hạng Võ biệt Ngu Cơ, Sát thê cầu tướng, Nguyệt Hà Tầm Phu… 2.3.2. Dựa vào điển cố Trung Quốc: Những vở cải lương dựa vào điển cố Trung Quốc mà chúng tôi sưu tầm được gồm có ba vở với hai điển cố tiêu biểu: điển cố Vương Chiêu Quân và điển cố Tây Thi của soạn giả Trương Quang Tiền. Đó là những vở cải lương: Chiêu Quân lầm kế gian thần, Chiêu Quân giáp mặt Hán Hoàng và Tây Thi gặp Phù Ta. Đặc điểm của những vở cải lương này là sử dụng điển tích điển cố hết sức nổi tiếng. Tây Thi và Chiêu Quân là hai trong tứ đại mỹ nhân Trung Quốc. Giai thoại về hai người đẹp này được hầu hết mọi người biết đến. Đặc điểm thứ hai, hai người đẹp này đều hy sinh hạnh phúc cá nhân của mình, đánh đổi sắc đẹp của mình vì hòa bình, vì đất nước. Tây Thi được Việt Vương Câu Tiễn gả cho vua Ngô Phù Sai để làm suy yếu đất nước, trả mối nhục thù. Vương Chiêu Quân được cống sang đất Hồ để giữ hòa khí quốc gia. Tuy nhiên, vì không chịu được cảnh ly biệt nên nàng đã nhảy xuống sông trầm mình nhằm giữ tròn khí tiết. Câu chuyện về nàng khiến cho vua nhà Hán lẫn nhà Hồ đều rơi lệ cảm động. Đặc điểm thứ ba, khi sử dụng các điển cố này, soạn giả đã chọn những đoạn gây cảm động chứ không sử dụng toàn bộ câu chuyện về cuộc đời của hai người đẹp. Điều này khác hẳn với những soạn giả viết kịch bản dựa trên lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, điểm chung của những vở cải lương dựa vào lịch sử Việt Nam và những vở cải lương sử dụng điển cố Trung Quốc (và cũng là những giai thoại dựa trên những sự kiện có thật trong lịch sử) là đều lấy những tích truyện về người phụ nữ. 2.3.3. Dựa vào văn học dân gian Trung Quốc: Trong số 137 vở cải lương mà chúng tôi sưu tầm được, có 4 vở dựa vào văn học dân gian Trung Quốc để sáng tác, đó là vở San hà xã tắc của Nguyễn Hiền Phú dựa vào câu chuyện kể về Bạch Tiên Cô và Đông Phương Sóc, hai vở Bạch nương túy tửu và Nặng nghiệp phong trần của Nguyễn Hữu Chẩn dựa vào truyền thuyết về Thanh Xà Bạch Xà và vở Trinh nữ sự nhị phu của Dương Bá Tường dựa vào truyền thuyết dân gian cùng tên. Có thể thấy, bốn vở cải lương chuyển thể từ văn học dân gian Trung Quốc đều dựa trên những câu chuyện kể dân gian rất nổi tiếng. Đặc điểm chung của những vở cải lương này là trong nội dung kịch bản phải gắn với yếu tố kỳ lạ hoặc kỳ ảo. Trong vở Trinh nữ sự nhị phu, yếu tố kỳ lạ là lấy hai chồng nhưng vẫn được gọi là trinh nữ. Yếu tố kỳ lạ trong vở Bạch nương túy tửu và Nặng nghiệp phong trần là câu chuyện về Bạch nương (tức Bạch xà), rắn nhưng tu luyện thành người. Còn trong truyện San hà xã tắc, yếu tố kỳ ảo là sự xuất hiện của các nhân vật tiên nữ: Hà Tiên cô, Ngọc nữ…Có thể thấy, những yếu tố kỳ lạ và kỳ ảo này đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc tạo nên kịch bản. Nếu không có chúng, kịch bản sẽ không có sức hấp dẫn. Chẳng hạn, nếu Liễu Xuân Nương trong Trinh nữ sự nhị phu chỉ có mỗi mình người chồng là Lang Châu hoặc Lý Ân thì câu chuyện sẽ không phát triển. Nếu Bạch nương là người bình thường chứ không phải rắn tinh thì sẽ không gặp nhiều khó khăn trong tình yêu. Nếu Ngọc nữ là người phàm trần chứ không phải tiên nữ bị đày xuống trần gian thì sẽ không thể có Nhân vật Thạch Kinh Nương (tức Ngọc Nữ) báo phu cừu . 2.4. Dựa vào thực tế xã hội: Trong những kịch bản cải lương trước 1945, mảng cải lương dựa vào thực tế xã hội gây được nhiều sự chú ý cho các nhà nghiên cứu và đóng góp vào sự vận động và phát triển chung của các kịch bản cải lương. Có thể xem những vở cải lương như Đời cô Lựu, Tô Ánh Nguyệt của Trần Hữu Trang là những vở cải lương đạt được độ “chín” về mặt loại thể. Những kịch bản cải lương dựa vào thực tế xã hội là những kịch bản mà do chính các soạn giả sáng tác chứ không lấy ý tưởng từ những tác phẩm văn học khác. Những kịch bản cải lương này có sức hấp dẫn đối với đông đảo quần chúng vì những lý do sau. Thứ nhất, những kịch bản cải lương xã hội cập nhật những vấn đề nóng hổi của xã hội đưa lên sân khấu nên rất có tính thời sự, phản ánh được những vấn đề hiện đại. Ngay cả cách ăn mặc, thói quen của nhân vật cũng giống với đời sống hàng ngày của người dân nên họ rất thích xem. Chẳng hạn vở cải lương Giấc mộng cô Đào của Nguyễn Thành Châu đề cập đến vấn đề khá nóng hổi lúc bấy giờ, đó là tâm lý của những thanh niên xác xơ vì tình. Bối cảnh câu chuyện cũng rất hiện đại, đó là: những hàng rượu mới, những ngôi nhà được trang bị theo phong cách châu Âu: Nhà của Trần Khải Minh, thư ký thương mại. Trần thiết theo tân thời, một bộ salon, vài cái gối nhung, có giá máng áo, nón…Trang phục của nhân vật cũng không còn theo những kiểu ngày xưa nữa mà là áo dài cho nhân vật nữ và âu phục cho nhân vật nam. Hình 2.3: Hồng Hoa mang mặt nạ bước vào cầm súng giải vây cho Nghĩa Hiệp (tức Năm Mạnh) Thứ hai, những kịch bản cải lương xã hội rất gần với lời ăn tiếng nói của nhân dân, sử dụng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu chứ không phải dựa vào cách nói bóng bẩy như trong truyện Nôm hoặc sử dụng các điển tích điển cố như các vở cải lương dựa vào văn học nước ngoài. Đối với những kịch bản cải lương chuyển thể từ các tác phẩm khác, nếu không có sự hiểu biết nhất định thì sẽ khó nắm bắt được tác phẩm cải lương khi nó được diễn trên sân khấu. Chẳng hạn, trong vở cải lương Bên nghĩa bên tình của Trần Quang Hiển, nhân vật đã nói những câu rất giản dị, dễ hiểu, gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Liên Châu: Lệ à, mày đi lấy trầu ăn coi, sao không ở đây cho cô chú sai bảo gì hết vậy? Cứ chạy đi chơi hoài, ngày chí tối kêu mầy như kêu đò. (…) Liên Châu (nói với Bửu Chơn): Chả! Đi làm rể về coi bộ chú tươi cười (còn giấy tờ gì đó, ở nhà thiếu gì là hình là ảnh) mà chú khéo mua thêm hoài treo cho chật. Rõ ràng, cách nói này khác hẳn với cách nói của những nhân vật trong những vở cải lương dựa vào một tác phẩm văn học nào đó. Chẳng hạn, trong vở Hoạn Thơ tróc Kiều của Trương Quang Tiền, lời lẽ của Hoạn Thơ với Kiều giàu tính văn chương hơn: Cha chả, sao mà coi qua sắc diện em buồn bực lắm vậy em! Thôi, lại đây, lại đây hãy lựa dần ít ngón, được em rao nghe thử vài hồi. Nếu trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, câu nói này sẽ được nói lại giản đơn hơn: Chà, sao nhìn mặt em buồn quá vậy. Thôi lại đây, cầm lấy cây đàn chơi cho ta nghe thử vài bài xem sao. Thứ ba, những kịch bản cải lương dựa vào thực tế xã hội góp phần hoàn thiện những đặc tính của sân khấu cải lương. Vì kịch bản được các soạn giả sáng tác riêng biệt cho riêng loại hình sân khấu cải lương nên ngay từ đầu họ đã ý thức được cấu trúc kịch bản phải phát triển như thế nào, xây dựng nhân vật ra sao, sự phát triển tâm lý nhân vật thế nào… chứ không chịu ảnh hưởng từ tính cách nhân vật trong văn học hoặc cấu trúc kịch bản không kể lể theo trật tự phát triển của câu chuyện như trong văn học. Thứ hai, đề tài của những vở cải lương dựa vào thực tế xã hội không chỉ phản ánh xã hội mà còn đề cập đến những mâu thuẫn hiện tại và những vấn đề có tính chất cá nhân và sự giải thoát thực tại bằng giáo lý Phật giáo. Chẳng hạn, vở cải lương Khi người điên biết yêu của Tư Trang, Năm Châu, Năm Nở đã lấy đề tài là tình yêu đặt trong mối quan hệ với Phật giáo. Vở cải lương này đã xây dựng những nhân vật rất rõ ràng và là những con người trong xã hội hiện đại. Cách đặt tên nhân vật cũng không cầu kỳ, đó là: Thi, Bê, Phê. Nhân vật gây ra xung đột trong vở kịch này là Bê, cô gái được Thi và Phê đem lòng yêu mến. Tuy nhiên Bê chỉ yêu mỗi mình Thi vì với cô, Phê luôn là người anh trai dù hai người không có quan hệ ruột thịt. Tâm lý nhân vật được bộc lộ rất rõ, đặc biệt là Thi và Phê, hai tuyến nhân vật đối nghịch. Nhân vật Thi ban đầu là người giàu cảm xúc yêu đương và tràn đầy nghị lực, ý chí: Nếu anh không hiểu thì dầu anh có khổ sở, chịu đau đớn phải xa em đặng tìm cách gầy dựng sự nghiệp, vì yêu em mà anh tin ở lòng anh nên dầu gian lao cực nhọc thế nào anh cũng chẳng quản, miễn anh ráng làm có một số tiền đặng để đảm bảo cuộc tương lai của chúng ta và cho ông già thấy rõ anh là người chân thật. Tuy nhiên, trải qua nhiều biến cố, đặc biệt là sau nỗi oan giết cha người yêu, phải chịu mười lăm năm lưu đày và sau cái chết của Bê, Thi đã chọn cách nương nhờ cửa Phật. Tâm trạng của anh cũng có nhiều thay đổi. Anh không còn sôi nổi, đầy nhiệt huyết như ngày xưa nữa và sau khi biết được tất cả sự thật, biết được kẻ giết cha người yêu, anh cũng không oán, không trách: Trời ơi, tỉnh cơn mê trong hai mươi năm trời. Thi ôi, thôi đã nát tan cuộc đời, chỉ có mong đấng chí tôn a di đà Phật. Cứu giải cho một linh hồn, sám hối sau những lầ ác gian. Sự thế xui nên tôi không còn chi ân hận, tấm thân tôi trót năm năm nay đã gửi nơi Phật đài. Còn nhân vật Phê, tuyến nhân vật phản diện, ngay từ đầu đã bộc lộ sự gian ác của mình trong cách nói chuyện với Thi: Mày, vẫn mày…và cứ luôn luôn mày, mày còn nhớ…gì không? Ta đã cấm mày, cấm mày đến đây, mày đến làm gì đây? Thằng ăn trộm, quân ăn cướp, mày ăn trộm bạc tiền ở chỗ khác rồi mày đến đây ăn trộm bông hoa của tao hả? Vườn của tao, hoa của tao, công tao vun trồng bơn xới, biết chưa? Em của tao…ha…ha (cười), mày muốn ăn trộm em của tao hả, mày muốn ăn cướp em của tao hả…thằng súc sanh (rút con dao găm ở trong người ra). Đi…đi không, tao cho một dao bỏ mạng bây giờ. Và trong cách nói chuyện với bố, hắn cũng không tỏ thái độ lễ phép: A ha, ba đánh tôi, ba muốn giết tôi hả? Được, tôi sẽ làm cái nhà này tan tành rồi tôi mới nghe, ha ha ha (Cười như một người điên rồi bỏ đi…). Tuy nhiên, khi kết thúc vở cải lương, nhân vật Phê đã thú nhận hết mọi tỗi lỗi và chọn cái chết để đền tội: Ôi người sống đã tha tội thì người chết cũng chẳng hẹp lượng gì, giải hết nỗi oan cho Thi, lòng ta dường đã nhẹ, sống là để đền cho hết tội, thì nay tội đã đền xong, dẫu có sống nữa cũng thừa. Kìa cha…kìa em…Thi, Thi sống đi, giã từ Thi ở lại với chúng sinh; còn ta…ta theo cha…theo em ta về bên cõi đời khác. Về cấu trúc, vở cải lương này đã bắt đầu rời xa cấu trúc của một kịch bản kịch nói và đi theo cấu trúc riêng của kịch bản cải lương. Điều này có nghĩa là, mặc dù vở cải lương vẫn có năm giai đoạn như một vở kịch nói thông thường: có mở đầu, thắt nút, các khủng hoảng, cao trào và cởi nút nhưng những điểm truyện của kịch bản nằm ở tâm lý nhân vật. Mở đầu vở cải lương là Bê và Thi bày tỏ tình cảm với nhau. Nút thắt vở cải lương là sự xuất hiện của Phê, người yêu Bê say đắm. Từ nút thắt này, vở cải lương nảy sinh những khủng hoảng: Phê cãi nhau với cha Bê, Phê giết cha Bê nhưng đổ tội cho Thi, Thi bị kết án 15 năm tù khổ sai. Cao trào của vở kịch là cái chết của Bê. Vở kịch được kết thúc bằng cuộc đối thoại giữa Phê và Thi. Thi xa lánh trần tục, chọn cửa Phật làm nơi nương mình nên tha thứ mọi tội lỗi của Phê. Phê thú nhận mọi tội lỗi, giảng hòa với Thi và chọn cái chết để đền tội. Đó là cấu trúc theo kiểu một kịch bản thông thường. Tuy nhiên, vở cải lương này có một cấu trúc khác hơn: đó là cấu trúc tâm lý nhân vật. Mở đầu là tâm trạng của Thi và Bê. Tiếp theo là tâm trạng của Thi, Bê sau khi gặp Phê và những khủng hoảng do Phê gây ra. Cao trào của cấu trúc tâm lý không nằm ở việc Bê thổ huyết ở nhà thương sau khi nghe tin Thi bị tù 15 năm khổ sai mà là cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Phê và Thi tại chùa. Sau cuộc đối thoại này, nhờ sự bao dung của Thi mà Phê mới ngộ ra được vấn đề và chọn cái chết để đền tội. Như vậy, có thể thấy những đặc tính của kịch bản cải lương dựa vào thực tế xã hội như trên phân tích đã góp phần đưa cải lương ra khỏi các hình thức diễn xướng dân gian và nghệ thuật truyền thống như: ngâm thơ, hát bội…để có chỗ đứng mới cho riêng mình. Đặc điểm thứ tư của những kịch bản cải lương xã hội là rất dễ lồng vào đó nội dung yêu nước, kêu gọi nhân dân chống giặc, nêu cao những tấm gương trung liệc và đưa ra những bài học đạo đức để thức tỉnh tầng lớp thanh niên thời bấy giờ. Trong lời tựa của vở cải lương: Tối độc phụ nhơn tâm của Triệu Văn Yên có viết về mục đích của vở cải lương này nói riêng và các vở cải lương xã hội nói chung. Đó là: Bày gương xấu cho người thấy mà tránh, tỏ điều tốt cho thiên hạ biết nghe theo. Những vở cải lương xã hội thời kỳ này gồm có: Bên tình bên nghĩa, Bên tình bên hiếu, Tình hiếu vẹn hai, Châu Trần tiết nghĩa, Nước đời cay đắng, Giấc mộng cô Đào, Linh đình vì lượng sóng tình, Một mối tử thù… Nhìn chung, vấn đề đưa ra trong những vở cải lương thời bấy giờ nhiều nhất là mối quan hệ giữa chữ tình và chữ hiếu hoặc chữ tình và chữ nghĩa. Sở dĩ những vở cải lương bấy giờ hay nhắc đến chữ tình là bởi do sự du nhập của văn hóa phương Tây vào nước ta nên vấn đề cá nhân của con người được nói đến nhiều hơn. Con người có nhiều điều kiện để bộc lộ mình, bộc lộ tình yêu của mình. Nước ta cho đến thời điểm đó vẫn còn chế độ phong kiến, vẫn còn sử dụng những lý thuyết của Khổng Tử, Mạnh Tử…cho nên thanh niên trong nước vẫn còn rụt rè trong chuyện bày tỏ tình cảm. Chính vì vậy, khi văn hóa Pháp theo chân bọn khai thác bóc lột thuộc địa vào nước ta đã khiến cho tư tưởng nhân dân, đặc biệt là của tầng lớp thanh niên thay đổi theo. Họ có quan niệm rộng rãi hơn về tình yêu chứ không còn theo kiểu: cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Tuy nhiên, sự rộng rãi đó nhiều khi đi quá giới hạn cho phép nên sẽ nảy sinh nhiều vấn đề nhất là những vấn đề gia đình, giữa quan niệm cũ và quan niệm mới, giữa chữ hiếu và chữ tình hoặc chữ tình và chữ nghĩa. 2.5. Dựa vào các loại hình nghệ thuật khác: Những vở cải lương dựa vào các loại hình nghệ thuật khác tuy không nhiều nhưng rất đáng chú ý. Đó là vở Nguyệt Kiều xuất gia của Trần Phong Sắc dựa vào vở tuồng San Hậu và đặc biệt là ba vở cải lương của Nguyễn Hiền Phú: Gái trả thù cha, Tình nặng cừu sâu và Hiệp nữ thù tính ghi là dựa theo: Tuồng hát bóng Huê Kỳ. Tuồng hát bóng Huê Kỳ thực chất là tên gọi của một loại hình nghệ thuật mới được du nhập vào nước ta, đó là: điện ảnh. Trong quá trình đi xâm lược nước ta, thực dân Pháp mang theo một số loại hình giải trí để phục vụ nhu cầu của chúng và để tuyên truyền những tư tưởng có lợi cho việc đồng hóa và công cuộc xâm lược của chúng. Chẳng hạn, trong tiểu thuyết Hòn đất của Anh Đức có một đoạn mô tả lại hành động này. Thím và và rất nhiều người dân bị bọn xâm lược lùa đến một hang đá tối tăm để chúng chiếu bộ phim Chiến trận ở Cao Ly nhằm làm cho nhân dân ta khiếp sợ trước quân đội hùng mạnh và vũ khí tối tân của chúng để nhụt ý chí chiến đấu. Tuy nhiên, tuồng hát bóng Huê Kỳ mà những vở cải lương nói trên dựa vào được lấy cảm hứng từ những bộ phim của tác gia điện ảnh nổi tiếng thời bấy giờ: Chaplie Chaplines. Nguyễn Hiền Phú đã đưa vào tác phẩm của mình nhân vật có tên là Sạc Lô (tức Chaplies) để gây sự tò mò cho công chúng. Mặc khác, giữa cải lương và điện ảnh cũng có những tương đồng nhất định về mặt kịch bản. Mặc dù điện ảnh Hollywood không có cấu trúc năm giai đoạn như cải lương nhưng cấu trúc ba hồi với đường dây phát triển nhân vật của nó lại rất giống. Hay nói một cách khác hơn, hồi hai trong điện ảnh đã bao gồm các giai đoạn: thắt nút, phát triển và cao trào của một kịch bản thông thường. Thế nên, việc tìm thấy những điểm tương đồng giữa một kịch bản cải lương và một kịch bản điện ảnh để soạn một kịch bản cải lương dựa vào loại hình nghệ thuật khá lạ lẫm này là một sự sáng tạo và nỗ lực đáng trân trọng của tác giả. Ngoài Nguyễn Hiền Phú, chúng tôi chưa tìm thấy được soạn giả cải lương trước 1945 nào khác sử dụng hình thức này. TIỂU KẾT Trong chương 2, chúng tôi đã nêu và phân tích năm khuynh hướng sáng tác của sân khấu cải lương, đó là: dựa vào văn học Việt Nam, dựa vào văn học các nước, dựa vào lịch sử Việt Nam, dựa vào các loại hình nghệ thuật khác và dựa vào thực tế xã hội. Trong các khuynh hướng nêu trên, khuynh hướng sáng tác dựa vào văn học các nước chiếm tỷ lệ nhiều nhất, đặc biệt là dựa vào tiểu thuyết Trung Quốc. Tuy nhiên, đóng góp lớn nhất cho sân khấu cải lương, góp phần hoàn thiện sân khấu cải lương là những vở có khuynh hướng sáng tác dựa vào thực tế xã hội vì nhờ đặc điểm này mà cải lương được đông đảo công chúng yêu thích. Khuynh hướng sáng tác dựa vào các loại hình nghệ thuật khác, nhất là điện ảnh là một phát hiện thú vị của đề tài. ThS. Đào Lê Na

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdflv_ngon_ngu_hoc_21__1336.pdf
Luận văn liên quan