TCH là một xu thế, một quá trình khách quan cho nên không thể đảo
ngược, nó vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng vừa có những
thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia ở trình độ kém phát triển.
TCH nói chung, một mặt là sự tiếp nối sự khẳng định và hoàn thiện các khuynh
hướng đã hình thành từ lâu trong lịch sử thế giới, mặt khác, nó cũng là một hiện
tượng mới bắt đầu bằng toàn cầu hoá về kinh tế, rồi dần dần lôi cuốn toàn cầu hoá
về một số lĩnh vực văn hoá và tác động mạnh mẽ đến chính trị.
70 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 5567 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những mảng tối của Toàn cầu hóa và giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2005. Tr242.
nền tài chính của nhiều nước rất dễ bị các tay đầu cơ quốc tế lũng đoạn. Một số
những nhà phân tích quốc tế có lý do để chỉ trích vai trò và trách nhiệm của tập
đoàn Soros trong khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á. Cuộc khủng hoảng tiền tệ
nổ ra đầu tiên ở Thái Lan và Hàn Quốc năm 1997 đã làm tổn đến thu nhập việc
làm ở các nước châu Á.
Mặt khác, trong nền kinh tế TCH không một quốc gia nào nằm ngoài quỹ
đạo chung, sân chơi chung. Mọi dân tộc đều bị ảnh hưởng và có trách nhiệm trước
những quan hệ toàn cầu và nẩy sinh hiệu ứng lớn đến tất cả các nước. Ví dụ chấn
động của chủ nghĩa khủng bố (những sự kiện 11/9); đại dịch HIV, SARS; hiện
tượng Enino, bão Cachina ở Mỹ… đặc biệt, gần đây người ta đã bàn nhiều đến
vấn đề bảo vệ môi trường như một điều kiện của tăng trưởng bền vững. Bởi lẽ
tăng trưởng kinh tế nhưng bảo vệ môi trường kém, thương mại trong TCH đã làm
tăng quy mô và tốc độ tiêu thụ của các nguồn lực; thúc đẩy lối sống tiêu dùng
nhiều và gây ô nhiễm cao. Đây có thể là sức ép mà mỗi nước đang phát triển phải
tính đến sự lựa chọn các dòng nhập khẩu hàng hoá và vốn đầu tư, nhất là công
nghệ từ các nước phát triển ...
Mặt tích cực và tiêu cực do xu thế TCH tạo ra đối với các quốc gia dân tộc
tồn tại đan xen nhau. Tuy nhiên, mức độ và tính chất tác động của chúng đến đâu
phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể, mà ở đó vai trò của nhân tố chủ quan có ý
nghĩa quyết định. Mặt tích cực và mặt tiêu cực cùng tồn tại một cách hữu cơ trong
một xu thế, có thể tạo ra thuận lợi hay khó khăn, cơ hội hay thách thức; thời cơ
hay nguy cơ. Điều đó phụ thuộc vào tình hình cụ thể và hiệu quả hoạt động thực
tiễn của nhân tố chủ quan. Nhìn từ chiều sâu này, TCH tự nó hàm chứa một cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc.
48
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP CỦA VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP
Đại hội IX của Đảng xác định đúng đắn rằng phải "chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả
hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ
môi trường" (18). Đây là con đường, biện pháp tốt nhất để chúng ta góp phần đấu
tranh chống lại những mặt trái của TCH mang tính chất tư bản chủ nghĩa và đấu
tranh thực hiện một TCH dân chủ, công bằng, bình đẳng hưóng tới xã hội chủ
nghĩa, cộng sản chủ nghĩa trong tương lai.
Trong những điều kiện cụ thể, đối với nước ta, hội nhập quốc tế không chỉ là
quá trình diễn ra dưới sức ép của xu hướng tất yếu mà còn là một quá trình mang
tính chủ động. Sự chủ động này xuất phát không chỉ từ việc nhận rõ lợi ích to lớn
do quá trình này mang lại mà còn từ ý nghĩa gay gắt đặt ra từ quá trình đó.
Tuy nhiên, phải nói rằng không thể nhận thức đầy đủ những cơ hội cũng như
thách thức đó ngay lập tức. Vì thế không dễ dàng gì khi đưa ra chính sách xử lý có
hiệu quả các tác động của TCH. Tính phức tạp của vấn đề, như đã nói, không chỉ
ở số lượng lớn hay sự đa dạng của các tác động mà chủ yếu ở mỗi quá trình, mỗi
sự tác động mang tính hai mặt (tích cực và tiêu cực) và tất cả lại tác động trong sự
ước chế lẫn nhau. Bản chất của vấn đề ở đây là tồn tại mối quan hệ hữu cơ giữa
lợi thế và thách thức của những nước đi sau khi giải quyết vấn đề của mình trong
bối cảnh hiện đại.
3.1. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI
NHẬP QUỐC TẾ.
Công cuộc đổi mới đất nước trong thời gian qua đã khẳng định vấn đề TCH và
hội nhập quốc tế là sự tất yếu của quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong thời
kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Quan điểm của Đảng ta về đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện dân chủ, công bằng, văn minh đã
49
(18) Báo cáo chính trị Đại hội IX - VKĐHIX - tr.3
đặt ra việc nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế có thể đánh giá:
cùng với sự phát triển nội lực mang ý nghĩa quyết định, vấn đề TCH, hội nhập
kinh tế quốc tế là một yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế của nước ta.
Quá trình TCH và hội nhập đưa lại những thời cơ và vận hội đối với các quốc gia
trong đó có nước ta, song cũng tồn tại những khó khăn thách thức.
3.1.1.Những cơ hội.
- Có cơ hội tiếp nhận nhanh chóng công nghệ - kỹ thuật trên một dải đất
rộng. Điều đó có nghĩa là Việt Nam cũng có điều kiện thuận lợi để lựa chọn kỹ
thuật - công nghệ thích hợp cũng như khả năng tiếp nhận những loại công nghệ
cao nhằm tạo ra bước nhảy vọt và trình độ kinh tế trong nỗ lực vượt đuổi các
nước đi trước.
- Có điều kiện tham ra nhanh vào hệ thống phân công lao động quốc tế
hiện đại. Đối với nước ta, ngoài sự thuận lợi về công nghệ - kỹ thuật nêu trên, cơ
hội nay còn được nhân lên bởi nước ta nằm trong khu vực có tiềm năng tăng
trưởng và biến đổi cơ cấu rất lớn, vị trí điạ lý thuận lợi cho giao lưu quốc tế.
- Có cơ hội thị trường thế giới lớn để phát triển đất nứơc. Vai trò quyết định
của thị trường nói chung đối với phát triển kinh tế khi lựa chọn kinh tế thị trường
là mô thức phát triển của thị trường thế giới nói riêng khi theo đuổi định hướng
tăng trưởng xuất khẩu, xác nhận tầm quan trọng chiến lược của lợi thế này. Cơ hội
thị trường được hiểu theo hai nghĩa cụ thể:
Thứ nhất, Qúa trình di chuyển công nghệ - kỹ thuật trên thế giới đang diễn ra rất
nhanh, nó tạo ra những khoảng trống thị trường cho các nước đi sau (thị trường
trong khuôn khổ chuyển dịch cơ cấu kiểu “làn sóng”).
Thứ hai, Tiềm năng thị trường trên thế giới nói chung có tốc độ ra tăng cao, đặc
biệt là thị trường cho các sản phẩm hiện đại, có nghĩa là có sự chuẩn bị sẵn sàng
về thị trường để tất cả các nước có cơ hội tiếp cận. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng
cơ hội thực tế là không ngang nhau giữa các nước.
50
- Cơ hội tiếp cận các nguồn vốn quốc tế đang mở ra rất lớn cho tất cả các
nước, với các nước nghèo và có xuất phát điểm thấp như nước ta, rõ ràng đây là
một lợi thế tiềm năng rất lớn. Ngoài ra như đã nói vị thế địa - kinh tế của nước ta
cũng góp phần làm tăng cơ hội này.
- Với sự phổ biến rộng rãi của hệ thống thông tin - viễn thông toàn cầu
nước ta có điều kiện thuận lợi để nhanh chóng nâng cao trình độ dân trí trên mọi
lĩnh vực, làm cho dân cư ở tất cả các vùng có thể tiếp xúc với nền văn minh nhân
loại. Trong bối cảnh nguồn nhân lực trí tụê và có trình độ, kỹ năng cao ngày càng
trở thành ưu thế chiến lược rất lớn của phát triển, yếu tố này càng có tầm quan
trọng to lớn.
- Vai trò quan trọng ngày càng gia tăng của cộng đồng thế giới trong việc
giải quyết các vấn đề toàn cầu, nhất là các vấn đề tranh chấp và xung đột, hàm
chứa khả năng to lớn trong nỗ lực duy trì sự ổn định chính trị - quân sự - xã hội
như là điều kiện thiết yếu cho sự phát triển của từng quốc gia. Các mối liên hệ
quốc tế mà nước ta có thể tạo lập khi tham ra hội nhập quốc tế, trong bối cảnh đó,
có tác dụng rất tích cực trong việc duy trì thế ổn định của phát triển đất nước.
Tuy nhiên khi nhìn nhận các cơ hội hay khía cạnh tác động tích cực TCH,
cần chú ý 2 điểm:
Thứ nhất: đây là những lợi thế tiềm năng. Đối với nước nghèo, càng chậm phát
triển thì càng khó biến tiềm năng đó thành hiện thực. Một tiềm năng đã có sẵn thì
mấu chốt là ở chỗ chuẩn bị các điều kiện bên trong để phát huy lợi thế đầy đủ đến
mức nào.
Thứ hai: Nếu xét từ góc độ khác nhau, những khuynh hướng tác động nêu trên có
thể hàm chứa những khía cạnh bất lợi thậm chí tiêu cực (ví dụ: cơ hội tiếp cận dễ
dàng nền tài chính bao hàm ngay trong nó cả nguy cơ phải đương đầu với những
biến động bất thường ngoài sự kiểm soát của mình trên thị trường này).
3.1.2. Những thách thức lớn đang đặt ra.
Một khái quát có thể nêu cách thúc đẩy đối với nước ta hiện nay là phải
tham dự một “cuộc chơi lớn trong khi các điều kiện cơ bản đảm bảo cho sự thành
51
công lại rất thiếu thực lực yếu ớt cộng thêm vào đó sự mới mẻ, xa lạ của các
nguyên tắc trò chơi (chưa nắm vững trò chơi) trong khi áp lực về thời gian (tốc
độ) và và tính khắc nghiệt của trò chơi sòng phẳng quá lớn là thực chất của vấn
đề. Bên cạnh đó, sức phản kích từ các phía các thế lực cản trở, phá hoại đối với nỗ
lực phát triển của ta không phải là nhỏ.
Đảng ta đã nhấn mạnh rằng hiện nay và nhiều năm tới, nước ta vẫn là một
nước nông nghiệp kém phát triển, điểm xuất phát thấp, khoảng cách phát triển
giữa nước ta và các nước phát triển còn rất lớn, trong khi đó đất nước đi lên trong
điều kiện cách mạng công nghệ phát triển như vũ bão, cuộc cạnh tranh quốc tế
ngày càng quyết liệt; nếu chúng ta không vươn lên được thì nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế sẽ trở thành hiện thực, lúc đó tình hình sẽ phức tạp. Mặt khác,
trước mắt trong nội bộ chúng ta, tệ tham nhũng, quan liêu, lãng phí và sự thoái
hoá về phẩm chất đạo đức của cán bộ, đảng viên, nói chung là tình trạng suy thoái
- có xu hướng về kinh tế, làm sai lệch việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, tạo cơ sở để cho kẻ địch thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”,
phá nội bộ nước ta.
TCH và hội nhập kinh tế quốc tế càng phát triển thị trường càng mở rộng,
thương mại càng tự do thì sức ép về tính cạnh tranh càng cao đối với mỗi doanh
nghiệp, mỗi cá nhân. Có thể nói TCH, hội nhập kinh tế quốc tế đang tạo ra yêu
cầu, động lực và điều kiện để phát triển nguồn nhân lực, đào tạo và nâng cao tay
nghề, chuyên môn, kĩ thuật, nâng cao năng lưc quản lí và tác phong, kỉ luật lao
động. Đây vừa là thuận lợi, cũng vừa là thách thức với các doanh nghiệp và người
lao động nước ta.
Quá trình TCH và hội nhập quốc tế có tính chất hai mặt, vừa tại ra cơ hội
vừa đặt ra những thách thức cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.
Những cơ hội mà TCH, hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra là khách quan và tiềm
tàng. Song những thách thức của nó cũng rất lớn. Bứt phá để vươn lên hay chấp
nhận tụt hậu, điều đo tuỳ thuộc vào sự phấn đấu của mỗi quốc gia.
3.1.2.1.Vấn đề tụt hậu xa hơn về kinh tế.
52
Trong cuộc hội nhập và đua tranh với thế giới, chúng ta thấy rõ một thực tế
là nước ta vẫn có thể tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và
trên thế giới. Điều này biểu hiện ở một số điểm:
Một là, chúng ta vào “đường đua” trong điều kiện xuất phát điểm thấp, thể
hiện ở cở sở hạ tầng của nền kinh tế còn yếu kém, trình độ khoa hoc công nghệ và
trình độ dân trí chưa cao, năng xuất lao động thấp, thu nhập bình quân trên đầu
người còn thấp. Tiềm lực yếu, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn quá yếu.
Bằng chứng là, cùng chịu áp lực biến động giá trên thị trường trên thế giới những
năm tháng qua chỉ số giá tiêu dùng ở các nước trong khu vực tăng không đáng kể:
Thái Lan là 1,7%; Malayxia là 2,2%; Indonexia là 1,8%; Trung Quốc là 2,9%
trong khi con số này ở nước ta là 6,19%(19). Có nghĩa là năng lực cạnh tranh của ta
kém xa các nước láng giềng. Trong khi những yếu tố lợi thế như lao động rẻ hay
giá năng lượng thấp chưa được khai thác triệt để thì các chi phí khác lại quá cao:
chi phí thuê đất cao, chi phí vận tải, đặc biệt là chi phí “bôi trơn”; công nghệ sản
xuất lạc hậu (đi sau so với các nước trong khu vực khoảng chừng 20-30 năm); cơ
sở hạ tầng yếu, nền công nghiệp lệ thuộc gần như hoàn toàn vào nguyên liệu nhập
khẩu...Cộng thêm với năng lực quản lý còn yếu, quan liêu, tham nhũng (đặc biệt ở
các doanh nghiệp nhà nước). Tất cả đã đẩy giá thành các sản phẩm trong nước lên
tới mức trần, có nghĩa là không còn khoảng trống an toàn để dự phòng về giá.
Chính vì vậy, khi một yếu tố sản xuất nào đó thay đổi, ngay lập tức tác động trực
tiếp đến giá thành sản phẩm. Sản xuất với tình trạng lúc nào cũng căng dây cót về
giá như thế thử hỏi làm gì còn sức để tăng cường năng lực cạnh tranh (20).
Hai là, về thời gian có phần đi sau nhiều nước. Chúng ta thực hiện đẩy tới
một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong khi nhiều nước đã vượt
qua giai đoạn này.
Ba là, môi trường cạnh tranh về vốn và kỹ thuật đối với các nước đang phát
triển nói chung và Việt Nam nói riêng rất gay gắt và quyết liệt. Nước nào cũng
muốn tìm mọi lợi thế để thu hút đầu tư từ các nước phát triển nên phải chịu nhiều
thua thiệt nhất định.
53
3.1.2.2.Những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Trong thời đại TCH và hội nhập, chúng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường phải có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị
trường có mặt tích cực và thúc đẩy và giải phóng mọi năng lực sản xuất xã hội,
(19) kinh tế Việt Nam sau một năm vào WTO: Nỗi lo và hy vọng –Tạp chí tia sáng,số 1 ngày 5 -1 -2008.
(20) kinh tế Việt Nam sau một năm vào WTO:nỗi lo và hy vọng –Tạp chí tia sáng,số 1 ngày 5 -1 -2008.
kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá, cải tiến kỹ thuật ...Tuy nhiên cơ chế thị
trường lại như con ngựa bất kham tự phát dẫn tới đến tiêu cực như phân hoá giàu
nghèo, lối sống thực dụng chạy theo đồng tiền, xói mòn đạo đức, suy đồi bản sắc
dân tộc ...Đồng thời nền kinh tế thị trường TCH tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng rất
lớn gây ra đảo lộn lớn với kinh tế xã hội. Vì vậy phải tìm mọi biện pháp vừa tận
dụng và phát huy mặt tích cực đồng thời ngăn ngừa hạn chế mặt tiêu cực của nó.
3.1.2.3.Tình trạng tham nhũng và tệ quan liêu.
Đây là những vẫn đề rất nhức nhối đối với xã hội đó là sự suy đồi phẩm chất,
lối sống cách mạng của cán bộ Đảng viên. Tệ quan liêu dẫn tới việc cán bộ cơ
quan nhà nước xa rời nhân dân, không hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân vì
vậy mối quan hệ giữa Đảng với dân, giữa nhà nước với dân rất dễ bị ảnh hưởng.
Nạn tham nhũng xói mòn cả sức mạnh vật chất và tinh thần của quốc gia làm
giảm niềm tin của nhân dân đối với nhà nước, với Đảng. Để tiến hành hội nhập
đổi mới đất nước có hiệu quả Đảng ta và nhân dân đã kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng và tệ quan liêu.
3.1.2.4. Âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch.
Hiện nay, chúng ta đã có quan hệ ngoại giao với hơn 160 nước trên thế giới.
Trong khi bạn bè xa gần rất có thiện cảm và tích cực giúp đỡ Việt Nam xây dựng
đất nước thì vẫn có những thế lực tiếp tục chống phá nước ta. Lợi dụng các vấn
đề dân tộc, tôn giáo tuyên truyền những tư tưởng phản động, kích động nhân dân
... gây mất ổn định chính trị, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. Nhân dân ta đoàn
kết với nhân dân thế giới, nhưng cũng kiên quyết đấu tranh chống những hành
động thù địch cản trở con đường đi tới của quốc gia mình.
54
Quá trình TCH và hội nhập kinh tế quốc tế có tính chất hai mặt, vừa tạo ra
cơ hội vừa đặt ra những thách thức cho các nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam. Những cơ hội mà toàn cầu hoá hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những khách
quan và tiềm tàng song những thách thức của nó rất lớn. Bứt phá để vươn lên hay
chấp nhận tụt hậu, điều đó phụ thuộc vào sự phấn đấu của mỗi quốc gia.
Những thách thức nêu trên là những vấn đề to lớn và cơ bản đang đặt ra trong
hành trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Nó đòi hỏi Đảng, Nhà nước và
nhân dân Việt Nam phát huy tối đa nội lực và tinh thần đoàn kết dân tộc, tận dụng
thời cơ, có những bước đi, giải pháp phù hợp nhằm hạn chế tối đa những tổn thất
trong thời đại toàn cầu hoá hội nhập hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, giữ
vững đập lập chủ quyền an ninh quốc gia.
3.2. GIẢI PHÁP CỦA VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP.
Quá trình TCH và hội nhập đưa lại những thời cơ và vận hội đối với các
quốc gia trong đó có nước ta, song cũng tồn tại những khó khăn thách thức.
Những khó khăn thách thức đó một mặt bắt nguồn từ chính quá trình TCH trong
điều kiện chi phối của chủ nghĩa tư bản, mặt khác với nước ta còn bắt nguồn từ
những khó khăn, yếu kém về trình độ phát triển kinh tế thị trường và theo đó là
những khó khăn về doanh nghiệp, về quản lý nhà nước, về hiểu biết thị trường
quốc tế…Do vậy, cần phải đẩy mạnh quá trình đổi mới, xây dựng chiến lược tổng
thể, về hội nhập, xác định rõ hơn lộ trình, từ đó phải có kế hoạch cụ thể trong việc
chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp để tận dụng tối đa lợi thế so sánh, khai thác
tốt nhất nguồn lực quốc tế. Đồng thời cần phải đặc biệt nâng cao cảnh giác, chống
chiến lược “diễn biến hoà bình” của các thế lực phản động quốc tế. Đa phương
hoá trong hoạt động đối ngoại là quan điểm đúng đắn của Đảng, song để thực hiện
quan điểm đó cần nắm vững mối quan hệ giữa kinh và chính trị, nắm vững lý luận
của V.I.Lênin về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kì quá độ, trong đó vai trò
nhà nước là đặc biệt quan trọng.
3.2.1.Tiếp tục đổi mới tư duy, lý luận, kinh tế.
55
Tiếp tục đổi mới tư duy, lý luận, kinh tế, từ đó có được các chủ trương,
chính sách kinh tế phù hợp để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh là đòi hỏi bức
xúc của đất nước ta hiện nay. Yêu cầu của việc đổi mới tư duy, lý luận là một mặt
phải xuất phát từ thực tiễn phát triển của Việt Nam, nhất là thực tiễn của 20 năm
đổi mới vừa qua, mặt khác phải phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, tách rời
một trong hai yêu cầu đó đều sẽ dẫn đến những sai lầm và hậu quả nghiêm trọng
cho đất nước.
Việt Nam chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Vì vậy cần xác định rõ mức độ thị trường mà Việt Nam cần xây dựng
là thế nào. Một nền kinh tế thị trường đầy đủ, hoàn hảo hay thị trường nửa vời.
Hiện tại chúng ta vẫn chưa thật rõ ràng về vấn đề này, do đó một số chính sách
vẫn còn mập mờ. Mặt khác, cũng cần phải xác định rõ thế nào là định hướng xã
hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ nghĩa có gì khác với quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội. Nếu ta không làm rõ thì khó có được đường lối, chủ trương, chính
sách đúng cho sự phát triển của nền kinh tế.
Trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua, tư duy và lý luận kinh tế của Đảng và
Nhà nước ta có những đổi mới khá quan trọng. Những thành tựu chúng ta đã đạt
được trong thời gian qua là nhờ sự đổi mới này. Tuy nhiên, cùng với thời gian,
nhiều vấn đề trước đây được coi là đổi mới thì giờ đây đã trở nên lạc hậu. Nếu
chúng ta vẫn giữ những tư duy lý luận kinh tế như trước đây thì sẽ rất khó tạo ra
sự phát triển đột phá cho nền kinh tế trong những năm sắp tới.
3.2.2. Xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường.
Trong hơn 20 năm đổi mới và hội nhập, chúng ta đã cố gắng tạo ra một môi
trường pháp lý tương đối rõ ràng, minh bạch và chặt chẽ cho mọi thành phần kinh
tế tham gia trong nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan (đang trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường, thiếu những
hiểu biết về các luật và thông lệ quốc tế, đội ngũ cán bộ làm luật mới được đào
tạo...), nên chưa thể xây dựng ngay được một hệ thống pháp luật đồng bộ, và hội
nhập với quốc tế được. Chính vì thế, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ
56
thống pháp luật nhằm tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi cho các thành phần kinh
tế hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn vẫn đang là yêu cầu bức xúc. Trong việc xây
dựng và hoàn thiện môi trường pháp lý cần đặc biệt lưu ý một số đặc điểm sau
đây:
Một là, hoàn thiện pháp luật về sở hữu. Đây là cơ sở để tạo ra động lực huy
động mọi nguồn lực trong và ngoài nước phục vụ cho sự phát triển, đảm bảo cho
người đầu tư yên tâm đầu tư vào phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Hai là, hoàn thiện cơ chế đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tạo lập môi
trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, phù hợp với các cam kết quốc tế và lộ
trình hội nhập mà Việt Nam đã ký kết và công bố.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật tương thích với kinh tế thị
trường, bảo đảm cho nền kinh tế vận hành theo đúng quy luật khách quan của nó.
Hướng chung của việc hoàn thiện hệ thống luật này là: Đơn giản hơn, thông
thoáng hơn, khoa học hơn, hội nhập với quốc tế hơn, đồng thời thuận tiện cho các
cơ quan quản lý nhà nước trong việc kiểm tra, kiểm soát khi cần thiết.
Bốn là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tài nguyên và môi trường, bảo đảm
gắn kết một cách chặt chẽ giữa đẩy mạnh phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường
tự nhiên, môi trường văn hoá, môi trường đạo đức của dân tộc. Có chế tài nghiêm
minh trong việc xử lý các hành vi vi phạm đến môi trường của đất nước (theo
nghĩa rộng), nhằm đảm bảo cho kinh tế phát triển bền vững, văn hoá, xã hội, đạo
đức của con người ngày càng tốt đẹp.
Năm là, nền kinh tế nước ta đang tham gia hội nhập quốc tế ngày càng sâu
sắc và toàn diện, vì thế cần có sự quan tâm đặc biệt đến viêc xây dựng các văn
bản pháp luật và các thiết chế cần thiết nhằm bảo vệ nền kinh tế nước nhà như:
quy chế về tối huệ quốc, các biện pháp tự bảo vệ khi nền kinh tế thế giới có những
biến động bất lợi, các quy định về chống bán phá giá, chống trợ cấp, cũng như các
biện pháp đối kháng trong thương mại quốc tế...
Thể chế kinh tế thị trường ở nước ta hiện đang từng bước được hình thành,
tuy nhiên cho đến nay thể chế đó vẫn chưa đồng bộ, chưa bảo đảm cho nền kinh tế
57
vận hành một cách thuận lợi. Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường đặt ra các
vấn đề sau đây:
- Vấn đề trước hết và có tính quyết định là phải tập trung toàn bộ các loại
thị trường trong nền kinh tế, bảo đảm cho nền kinh tế thật sự vận hành theo cơ chế
thị trường và tuân thủ theo các quy luật của nền kinh tế thị trường. Trong thời gian
qua chúng ta đã rất cố gắng, song về cơ bản thì mới có thị trường hàng hoá và
dịch vụ thông thường là phát triển tương đối nhanh, sớm hội nhập được với nền
kinh tế trong khu vực và thế giới, chúng ta cần tạo ra các điều kiện cởi mở, thông
thoáng, rõ ràng và minh bạch (nhất là các điều kiện để tham gia thị trường, vấn đề
bảo hộ của Nhà nước đối với người và tài sản khi họ tham gia vào thị trường đó
...) để cho các thị trường trên có thể nhanh chóng ra đời và đi vào hoạt động.
- Vấn đề thứ hai trong xây dựng thể chế kinh tế thị trường là phải tập trung
đổi mới các chức năng quản lý kinh tế của bộ máy nhà nước. Nhà nước cần quan
tâm nhiều hơn đến việc nâng cao chất lượng xây dựng chiến lược, quy hoạch và
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Cũng như tính khoa học, tính thực tiễn của
các chủ trương chính sách; đồng thời giảm nhanh sự can thiệp trực tiếp vào các
hoạt động sản xuất - kinh doanh - dịch vụ của các doanh nghiệp. Nhà nước tạo
môi trường pháp lý, môi trường kinh tế cho các doanh nghiệp hoạt động, kiểm tra
giám sát sự hoạt động của các doanh nghiệp, can thiệp, điều tiết ở một mức độ
nhất định khi nền kinh tế có những dấu hiệu biến động bất lợi và thực hiện việc
thu thuế để có nguồn kinh phí phục vụ cho sự phát triển chung của đất nước. Việc
sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất bao nhiêu và tiêu thụ ở đâu là việc
của các doanh nghiệp, nhà nước không nên can thiệp. Vấn đề cốt lõi của thể chế là
phải tạo ra các chủ thể tham gia thị trường đích thực, đồng thời cũng phải tạo ra
sự bình đẳng giữa họ với nhau khi tham gia hoạt động trong nền kinh tế thị
trường. Đây là việc không hề đơn giản, song chúng ta phải tập trung mọi nỗ lực để
làm.
3.2.3.Tiếp tục đổi mới hệ thống chính sách kinh tế.
58
Những đổi mới kinh tế trong chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước đã
mang lại sự phát triển đáng tự hào của nền kinh tế nước ta trong suốt hai mươi
năm đổi mới vừa qua. Tuy nhiên, ngày nay thế và lực của nước ta không còn như
trước nữa, trình độ, nhận thức của người dân cũng như điều kiện kinh tế của họ
cũng đã khác xưa rất nhiều, đặc biệt trong bối cảnh quốc tế và khu vực cũng đã
thay đổi hết sức căn bản. Vì thế, nghiêm túc mà xem xét, chúng ta thấy không ít
chính sách kinh tế đã bắt đầu rơi vào lỗi thời, tác dụng thúc đẩy sự phát triển đối
với nền kinh tế dường như không còn nữa. Việc tiếp tục đổi mới hệ thống chính
sách kinh tế do đó đã thực sự trở thành bức xúc.
Chính sách kinh tế có nhiều, song cần quan tâm đặc biệt đến việc đổi mới
chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, chính sách đầu tư, chính sách
tài chính tiền tệ, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế ...là những chính sách có tác
động to lớn và trực tiếp đối với sự phát triển của nền kinh tế.
3.2.3.1. Chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần.
Thực tiễn phát triển của nền kinh tế trên thế giới, cũng như nước ta trong
hơn 20 năm đổi mới và hội nhập vừa qua cho thấy, khu vực kinh tế dân doanh (tư
nhân) ngày càng có vai trò quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế của đất
nước. Quốc gia nào biết phát huy vai trò của khu vực kinh tế của dân doanh, quốc
gia đó sẽ đạt tốc độ phát triển cao và phát triển ổn định, ngược lại sẽ rơi vào cảnh
khó khăn, trì trệ.
Ở nước ta trong những năm sắp tới, cần có chính sách khuyến khích phát
triển khu vực kinh tế dân doanh mạnh mẽ hơn nữa, và nên coi khu vực này là
động lực phát triển của nền kinh tế nước nhà. Cần mạnh dạn và kiên quyết xoá bỏ
mọi rào cản đối với khu vực kinh tế dân doanh (cả nhận thức và hành động), tạo
điều kiện cho nó phát triển bình đẳng với kinh tế nhà nước.
Đối với khu vực nhà nước, chỉ nên phát triển ở lĩnh vực mà luật pháp cấm
tư nhân làm, hoặc không cấm nhưng tư nhân chưa đủ khả năng và chưa muốn
làm, song xã hội rất cần có nó.
59
3.2.3.2. Chính sách đầu tư.
Trong thời gian qua, do chúng ta mới vào nền kinh tế thị trường, nên dân
nước ta còn rất nghèo, chưa có đủ điều kiện để đầu tư và phát triển các hoạt động
sản xuất - kinh doanh - dịch vụ, nhất là những dự án có quy mô tương đối lớn, đòi
hỏi trình độ kỹ thuật tương đối cao. Do đó, dường như mọi lĩnh vực phát triển của
đất nước, nhà nước đều phải đầu tư.
Tình hình ngày nay, tiềm lực của nhân dân ta ngày nay đã khá hơn trước rất nhiều.
Chính vì thế đã đến lúc nhà nước phải đổi mới chính sách đầu tư. Đầu tư của nhà
nước giờ đây nên ưu tiên tập trung cho việc xây dựng, phát triển và hiện đại hoá
hệ thống kết cấu cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an
ninh quốc phòng, cho việc phát triển nhân lực của đất nước, cho việc củng cố bộ
máy quản lý và giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm thực hiện từng bước mục
tiêu công bằng; còn đầu tư phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ để
cho tư nhân làm (đương nhiên phải có sự hỗ trợ của nhà nước).
Kết hợp hài hoà giữa việc đầu tư để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và
đầu tư để giải quyết các vấn đề xã hội.
Việt Nam không phải phát triển nền kinh tế thị trường đơn thuần như nhiều nước
khác, mà là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì thế
mục tiêu mà Việt Nam cần phấn đấu để đạt được không chỉ có dân giàu, nước
mạnh, mà còn phải thực hiện xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Đây là yêu
cầu rất khó, song chúng ta phải làm và làm tốt.
Để làm được điều này, như đã trình bày ở trên, nhà nước phải có chính sách huy
động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển và
ổn định. Tập trung đầu tư cho phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng, bảo đảm vừa
đồng bộ vừa hiện đại, bảo đảm bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Đồng thời
tăng cường hơn nữa việc đầu tư cho việc phát triển hệ thống y tế, giáo dục và văn
hoá, ưu tiên hơn trong việc đầu tư cho các vùng nghèo nhằm giảm bớt khoảng
cách so với các vùng phát triển. Việc tăng cường đầu tư và thực hiện đồng bộ, có
hiệu quả các trương trình phát triển kinh tế gắn với chính sách xã hội, đảm bảo
60
tăng trưởng nhanh, bền vững là một yêu cầu cấp thiết của sự nghiệp đổi mới toàn
diện và hội nhập quốc tế của nước ta.
3.2.3.3.Chính sách tài chính, tiền tệ.
Đối với tài chính, hướng đổi mới ở đây là phải có chính sách cởi mở, thông
thoáng để thu hút một cách tối đa mọi nguồn lực tài chính ở trong và ngoài nước
phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều hết sức quan
trọng ở đây là phải sửa đổi hệ thống luật cho phù hợp với thời đại và thông lệ
quốc tế, phải cải cách mạnh mẽ nền hành chính quốc gia sao cho gọn nhẹ, rõ ràng,
minh bạch, từ đó tạo ra môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài
nước.
Cùng với việc thu hút nguồn tài chính cho đầu tư phát triển, cần phải có
chính sách phù hợp để tăng nguồn thu cho ngân sách quốc gia, cũng như quản lý
và sử dụng có hiệu quả phục vụ cho sự phát triển của đất nước tránh lãng phí, thất
thoát ,tham nhũng. Phải có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp tăng nhanh
và lành mạnh nguồn lực tài chính của doanh nghiệp một cách thường xuyên và
liên tục.
Đối với tiền tệ, hướng đổi mới và thực hiện nhanh việc cổ phần hoá các
ngân hàng thương mại. Xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ theo nguyên tắc
thị trường, tiến tới thực hiện đầy đủ các chuẩn mực và thông lệ quốc tế về hoạt
động ngân hàng. Thực hiện chính sách lãi suất thoả thuận theo nguyên tắc thị
trường. Củng cố đồng tiền Việt Nam, để trong vài năm tới nó có thể trở thành
đồng tiền chuyển đổi.
Bên cạnh đó, nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập sâu vào nền
kinh tế toàn cầu và chịu tác động của dòng vốn quốc tế tiềm ẩn các yếu tố dẫn đến
khủng hoảng thì nguy cơ khủng hoảng có thể xẩy ra. Cho nên đưa ra các biện
pháp phòng ngừa là điều có ích. Từ cuộc khủng hoảng Châu Á có thể đưa ra một
số biện pháp phòng ngừa : thứ nhất, đó là chính sách về tỷ giá, áp dụng tỷ giá linh
hoạt cho từng thời kỳ; thứ hai, kiểm soát chặt chẽ dòng tư bản, có những biện
61
pháp nhằm hạn chế dòng vốn đầu cơ; thứ ba, cải cách hệ thống tài chính ngân
hàng.
3.2.3.4.Chính sách hội nhập kinh tế quốc tế.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách và pháp luật phục vụ hội nhập
kinh tế theo hướng: cởi mở, thông thoáng, phù hợp với xu thế phát triển của thời
đại và với thông lệ của quốc tế nhằm tạo điều kiện cho nước ta có thể thu hút
được ngày càng nhiều hơn các nguồn lực ở bên ngoài, đặc biệt là vốn, công nghệ
hiện đại và phương pháp quản lý tiên tiến để phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Mặt khác, hệ thống chính sách đó cũng tạo điều kiện thuận lợi
hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận với thị trường quốc tế, liên kết, liên
doanh, với các doanh nghiệp của các nước trong hoạt động sản xuất - kinh doanh -
dịch vụ, từ đó tăng cường thêm uy tín của các danh nghiệp Việt Nam cũng như
các sản phẩm do doanh nghiệp Việt Nam sản xuất.
Đương nhiên, hệ thống chính sách này cũng phải đảm bảo cho chúng ta bảo
vệ được nền kinh tế của mình khi nền kinh tế thế giới có những biến động bất
động bất lợi. Hoàn thiện hệ thống luật pháp phù hợp, đồng bộ với quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và phù hợp với thông lệ quốc tế. Thực hiện
biện pháp này, ngoài việc xây dựng và ban hành hệ thống luật pháp đồng bộ, có
hiệu quả, phù hợp với sự chuyển đổi của nền kinh tế, còn cần phải diều chỉnh hệ
thống luật pháp có liên quan phù hợp với luật pháp quốc tế. Cần từng bước chấp
nhận những phán xét của các cơ quan trọng tài quốc tế để giải quyết các tranh
chấp với các đối tác nước ngoài mà không phải thông qua phán quyết cuối cùng
của toà án trong nước.
3.2.3.5. Tiếp tục chuyển dich cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Thời gian vừa qua, cơ cấu của nền kinh tế nước ta đã từng bước chuyển
dịch theo hướng tiến bộ. Tuy nhiên cơ cấu ấy vẫn chưa phù hợp với nền kinh tế
hiện đại, khu vực nông - lâm - ngư nghiệp còn quá cao (trên 20%), khu vực dịch
vụ vẫn còn thấp hơn công nghiệp và xây dựng.
62
Trong những năm tới cần tập trung cao độ cho việc thay đổi cơ cấu của nền
kinh tế. Phải giảm nhanh cơ cấu của khu vực nông - lâm - ngư nghiệp, tạo mọi
điều kiện cho các hoạt động dịch vụ phát triển. Trên cơ sở đó từng bước tăng tỷ
trọng của khu vực dịch vụ trong cơ cấu GDP cả nền kinh tế.
Đi liền với chuyển dịch cơ cấu ngành, phải đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
các thành phần kinh tế cho phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước; chú ý
thoả đáng đến chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế, có chính sách đầu tư thoả đáng
cho các vùng khó khăn, chậm phát triển mà trước hết là đầu tư cho hệ thống cơ sở
hạ tầng kinh tế - xã hội như: giao thông, thuỷ lợi, điện, thông tin liên lạc, cung cấp
nước sạch, y tế, giáo dục ...; cùng với đó là việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao
động cho phù hợp; phải khẩn trương chuyển dịch cơ cấu kỹ thuật và công nghệ
của tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế. Hiện nay, trong nền kinh tế
nước ta, công nghệ cao chỉ chiếm khoảng trên 10%. Đây là lý do quan trọng giải
thích vì sao năng suất lao động của chúng ta còn thấp, chất lượng các sản phẩm
làm ra chưa cao và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường không
lớn.
3.2.3.6. Có cơ chế và chính sách hợp lý để thu hút, phân bổ và sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực, chính sách đào tạo nguồn nhân lực quốc gia.
Tiếp tục cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư, để có thể thu hút ngày càng
nhiều các nguồn vốn đầu tư của nước ngoài (kể cả FDI, ODA, và các nguồn vốn
của các phi chính phủ). Mặt khác có chính sách khuyến khích người Việt Nam
đang sinh sống, làm ăn và định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Phải có chính
sách khai thác có hiệu quả và sử dụng tiết kiệm các nguồn lực tự nhiên như: đất
đai, tài nguyên nước, khoáng sản, rừng và biển.
Chúng ta cần biết rằng, nền kinh tế tri thức đang từng bước hình thành và
tri phối sự phát triển của nền kinh tế trên thế giới. Trong điều kiện ấy, nước nào
có nguồn nhân lực có trình độ cao, nắm được các công nghệ tiên tiến thì nước đó
sẽ phát triển nhanh, ngược lại sẽ rơi vào tình trạng tụt hậu. Chính vì thế, việc tăng
cường đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý, doanh nhân và nâng cao trình độ tay nghề
63
cho nghề cho người lao động để có đủ trình độ và năng lực thực hiện quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế, là một công việc quan trọng bởi đội ngũ cán bộ của nước ta
hiện tại còn yếu về chất lượng và thiếu về số lượng. Đặc biệt, đội ngũ cán bộ nước
ta còn rất yếu về am hiểu luật pháp quốc tế và trình độ ngoại ngữ, đây lại là những
yêu cầu rất quan trọng của đội ngũ cán bộ trong quá trình hội nhập. Mặt khác,
việc đào tạo đội ngũ doanh nhân và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao
động cũng là một yêu cầu cấp bách. Để giải quyết khó khăn này, bên cạnh sự hỗ
trợ của chính phủ, các doanh ngiệp cần chủ động tìm kiếm các nguồn hỗ trợ về tài
chính và thực hiện đa dạng hoá loại hình đào tạo, đa dạng hoá phương thức đào
tạo.
Việc tập trung mọi nỗ lực để đào tạo nhanh đội ngũ lao động có số lượng đông
đảo, có cơ cấu ngành nghề hợp lý, đặc biệt là có trình độ cao, có khả năng tiếp cận
được với những thành tựu về khoa học và công nghệ, biết vận dụng nó một cách
sáng tạo để giải quyết những vấn đề thực tiễn do sự phát triển của đất nước đặt ra
là đòi hỏi vô cùng bức xúc. Để làm được điều này cần làm một cuộc cách mạng
đối với nền giáo dục của nước nhà, tiếp cận được với nền giáo dục đào tạo hiện
đại mà nhân loại đã đạt được.
Mặt khác, cần tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách với việc nghiên cứu khoa
học. Chương trình và đề tài nghiên cứu phải giao đúng địa chỉ thực hiện, phải gắn
công tác với ứng dụng thực tế. Phải dành vốn đầu tư nhiều hơn cho khoa học và
công nghệ, hình thành quỹ hỗ trợ cho hoạt động nghiên cứu và triển khai các kết
quả nghiên cứu, quỹ hỗ trợ rủi ro trong nghiên cứu khoa học. Có chính sách đãi
ngộ thoả đáng đối với các nhà khoa học thực sự có cống hiến cho sự phát triển của
đất nước. Tránh tình trạng “chảy máu chất xám”.
3.2.3.7. Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và chiến lược hội nhập
quốc tế dài hạn; nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế; thực hiện các
biện pháp lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia.
Việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn phải dựa trên cơ
sở những căn cứ khoa học vững chắc, để làm định hướng cho việc xây dựng một
64
chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với điều kiện của nước ta. Trên cơ sở
chiến lược hội nhập kinh tế quốc tế, xây dựng một kế hoạch cam kết về mức độ
mở cửa thị trường phù hợp với điều kiện trong nước và với yêu cầu của các tổ
chức kinh tế quốc tế khu vực và thế giới.
Kế hoạch cam kết mở cửa thị trường bao gồm những nội dung cơ bản như:
Xây dựng và công bố công khai lịch trình từng bước điều chỉnh thuế quan không
chỉ riêng với AFTA mà còn phải hướng tới thoả mãn điều kiện của cả APEC và
WTO; xây dựng và công bố công khai lịch trình loại bỏ hàng rào phi thuế quan và
các quy định hạn chế số lượng như quy định cấp giấy phép xuất - nhập khẩu, quy
định hạn ngạch; công bố công khai các thủ tục xuất - nhập khẩu, thủ tục hải quan,
tiêu chuẩn kiểm dịch... và từng bước điều chỉnh cho phù hợp với chuẩn mực quốc
tế .
Nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thực chất là nâng cao năng
lực cạnh tranh của các ngành kinh tế, của từng doanh nghiệp. Muốn vậy bản thân
doanh nghiệp xác định phải chấp nhận cạnh tranh để tồn tại và phát triển trong
quá trình hội nhập quốc tế. Nhà nước đóng vai trò hỗ trợ và đào tạo môi trường
pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp cạnh tranh một cách bình đẳng không
phân biệt chủ thể là trong nước hay ngoài nước. Tiếp tục đổi mới hệ thống doanh
nghiệp nhà nước thông qua sắp xếp lại cho hợp lý và thực hiện cổ phần hoá doanh
nghiệp.
Muốn lành mạnh hoá trước hết phải cơ cấu lại nguồn thu ngân sách một
cách hợp lý để bù đắp lại phần thiếu hụt do cắt giảm thế quan. Mặt khác, cần phải
rà soát và xem xét lại cơ cấu chi ngân sách cho hợp lý để đảm bảo cân đối thu -
chi của ngân sách. Cần phải xây dựng định hướng đầu tư đúng đắn từ các nguồn
của ngân sách nhà nước, của các thành phần kinh tế, nguồn đầu tư nước ngoài
trong đầu tư và phát triển kinh tế. Mạnh dạn đầu tư một số lĩnh vực: Khoa học-
công nghệ giáo dục, đào tạo, các ngành công nghiệp mũi nhọn để tạo đà cho việc
phát triển kinh tế tri thức ở nước ta.
65
3.2.3.8. Tìm cách thức và mô hình phát triển có hiệu quả, tiếp tục đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập
kinh tế quốc tế.
Một mô hình phát triển đúng đắn và có kết quả phải là một mô hình cụ thể,
tự thân, bắt nguồn từ động lực bên trong và tận dụng được các yếu tố bên ngoài.
Có những cách thức phát triển truyền thống là tuần tự, đi từng bước vững chắc,
chỉ có thể rút ngắn chứ không thể bỏ qua các giai đoạn phát triển của sức sản xuất;
nhưng cũng có cách thức phát triển vừa tuần tự, vừa nhảy vọt, đi tắt, đón đầu. Để
phát triển nền kinh tế đất nước.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá được tiếp tục đẩy mạnh sẽ thúc đẩy tốc độ tăng
trưởng kinh tế, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức cũng là giải pháp hữu hiệu để
có thể vừa tăng tốc, vừa đi tắt đón đầu; là con đường thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa
hơn so với các nước xung quanh, giữ vững ổn định kinh tế - chính trị - xã hôi, bảo
đảm độc lập tự chủ, tự lực, tự cường đi đôi với việc mở rộng hợp tác quốc tế, đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ với bên ngoài; lấy phát huy nguồn lực con
người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; kết hợp công nghệ
truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại xây dựng
những tố chất của kinh tế tri thức ở những khâu quyết định. Công nghiệp hoá hiện
đại hoá phải theo định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp kinh tế với quốc phòng an
ninh.
3.2.4. Tiếp tục hoàn thiện, đổi mới thể chế chính trị, giữ vững và duy
trì ổn định an ninh, chính trị.
Thể chế chính trị của chúng ta được xây dựng trong thời kỳ cách mạng dân
tộc dân chủ sau đó từng bước được hoàn thiện trong thời kỳ xây dựng và phát
triển nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp. Trong
hơn 20 năm đổi mới vừa qua, thể chế chính trị cũng đã có nhiều thay đổi quan
trọng, từ đó tạo ra được động lực vật chất và tinh thần to lớn cho sự phát triển của
đất nước. Tuy nhiên, giờ đây trước thời cơ và thách thức mới đang đặt ra nếu
66
không tiếp tục hoàn thiện và đổi mới, thì thể chế chính trị của chúng ta khó có thể
tạo ra được sức mạnh của toàn dân tộc để phục vụ cho sự phát triển và hội nhập
của đất nước ta. Đây là vấn đề đang được đặt ra khá bức xúc hiện nay. Hướng
hoàn thiện và đổi mới chính trị cần tập trung vào các vấn đề chủ yếu như: tiếp tục
đổi mới tổ chức và hoạt động của quốc hội, nâng cao chất lượng của đại biểu quốc
hội; tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của chính phủ theo hướng xây dựng
nền hành chính thống nhất thông suốt trong một hệ thống chính trị trong sạch,
vững mạnh; tiếp tục thực hiện cải cách tư pháp theo hướng lấy toà án làm trọng
tâm, tổ chức toà án theo khu vục; nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng
nhân dân vào uỷ ban nhân dân; đổi mới tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam...Mặt khác, nhà nước cũng cần có cơ chế và chính sách khuyến khích sự
hình thành và phát triển của các hiệp hội nghề nghiệp. Bởi lẽ đây là mô hình tổ
chức có vai trò quan trọng trong việc giúp người dân phát triển các hoạt động sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ theo hướng hiện đại và hội nhập quốc tế.
Củng cố xây dựng Đảng về mọi mặt nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng
trong điều kiện mới. Đảng phải có một đội ngũ Đảng viên có năng lực thực sự và
trung thành tuyệt đối với Đảng, vì thế việc củng cố xây dựng Đảng về mọi mặt
luôn là đòi hỏi thường xuyên.
Đẩy mạnh cải cách hành chính công, nâng cao hiệu lực của nhà nước về kinh tế.
Trong những năm qua, chương trình cải cách hành chính chưa thực sự đạt yêu cầu
đề ra và còn tồn tại rất nhiều vấn đề cần tiếp tục giải quyết. Đại hội Đảng lần thứ
X đã xác định rõ những nhiệm vụ chủ yếu của cải cách hành chính trong những
năm tới. Cần tập trung đẩy nhanh việc xây dựng nhà nước pháp quyền trên các
mặt: hệ thống thể chế, chức năng nhiệm vụ, tổ chức bộ máy; tiếp tục làm rõ chức
năng nhiệm vụ của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước; cải cách thể
chế, kiên quyết khắc phục tình trạng kém hiệu lực, nhũng nhiễu của các cơ quan
hành chính nhà nước, đơn giản hoá các thủ tục hành chính; nâng cao năng lực, đổi
mới phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức.
67
Việt Nam tham gia vào xu thế TCH với tư cách là một nước xã hội chủ
nghĩa khi phong trào cộng sản quốc tế đang rơi vào tình trạng thoái trào và khi các
thế lực chống cộng quốc tế chưa từ bỏ âm mưu chuyển hoá thể chế chính trị ở
Việt Nam bằng “diễn biến hoà bình”. Trong khi bốn nguy cơ mà Đại hội Đảng lần
thứ VII nêu ra đến nay vẫn chưa hề suy giảm, mà nếu không sớm đẩy lùi được
những nguy cơ này thì “diễn biến hoà bình” càng tác động vào nền tảng chính trị -
tư tưởng của chế độ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Khó khăn ở đây là chúng ta
chỉ thắng được kẻ thù bên ngoài khi thắng được kẻ thù bên trong.
Để đảm nhiệm được nhiệm vụ to lớn trong giai đoạn mới, Đảng ta phải tiếp
tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của mình, khắc phục các khuyết điểm các biểu hiện tiêu cực và yếu kém; thực
sự là đảng trí tuệ, đảng của niềm tin, đảng là đạo đức văn minh, xứng đáng với vị
trí và vai trò mà dân tộc và đất nước giao phó.
3.2.5. Chăm lo các vấn đề văn hoá, xã hội.
Đảng ta xác định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực
thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ trọng tâm của văn hoá, văn nghệ là góp phần xây dựng con người Việt
Nam phát triển toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối
sống, có nhân cách tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng. Mọi mặt hoạt động của lĩnh
vực văn hoá là nhằm xây dựng và phát triển nền vă hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, đồng thời có sự tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại. Trong khi
mở cửa quan hệ với bên ngoài, luôn thực hiện phương châm: hội nhập nhưng
không hoà tan, mở cửa nhưng không đánh mất mình, kiên quyết chống văn hoá lai
căng, độc hại.
Hệ thống chính sách xã hội mà chúng ta đang thực hiện và tiếp tục hoàn
thiện dựa trên cơ sở những quan điểm lớn của Đảng: tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình
phát triển. Công bằng xã hội thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất
lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, cũng như ở việc tạo công ăn việc làm, điều
68
kiện phát triển năng lực của mọi thành viên trong cộng đồng; khuyến khích làm
giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp
nghĩa. Vấn đề quan trọng đang đặt đối với công tác xã hội là chống tội phạm,
chống tham nhũng, buôn lậu, đẩy lùi tệ nạn xã hội. Tìm đúng nguyên nhân từng tệ
nạn; thưc hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục, kinh tế, hành chính và pháp luật
để phòng, chống có hiệu quả.
Đối với nước ta, quá trình TCH, hội nhập quốc tế vừa là một cơ hội cũng
vừa là một thách thức. Đảng ta vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ nghĩa Mác-
Lênin về chủ nghĩa xã hội và điều kiện cụ thể của Việt Nam, nhất là những
nguyên lý về chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ, nâng cao tính hiệu
quả trong quản lý nhà nước và sự nỗ lực của mọi ngành, mọi cấp để thực hiện
khai thác tốt nhất, hiệu quả nhất nguồn lực quốc tế, giữ gìn và phát huy bản sắc và
truyền thống tốt đẹp cuả dân tộc để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong điều kiện TCH, quốc tế
hoá đời sống kinh tế- xã hội hiện nay.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VỀ GIẢI PHÁP CỦA VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH
HỘI NHẬP.
Nâng cao nhận thức của các cấp các ngành, các doanh nghiệp và toàn xã
hội về hội nhập quốc tế, thấy rõ thách thức và thời cơ, sự hợp tác và cạnh tranh
trong hội nhập, từ đó tích cực chuẩn bị những điều kiện cần thiết để hội nhập
thành công, khắc phục tư tưởng thụ động, ỷ lại, trông chờ vào bảo hộ, trợ cấp của
nhà nước.
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia mà
cốt lõi là hệ thống các chính sách cạnh tranh. Theo hướng này, cần nhanh chóng
hoàn thiện hệ thống luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.
Hoàn thiện và nâng cao hiệu quả của hệ thống văn bản pháp luật phục vụ phát
triển kinh tế trong điều kiện hôị nhập kinh tế quốc tế.
Nắm vững và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam. Thực hiện công cuộc đổi mới đất
69
nước và hội nhập quốc tế đi đúng hướng. Tránh nguy cơ chệch hướng Xã hội chủ
nghĩa
KẾT LUẬN
TCH là một xu thế, một quá trình khách quan cho nên không thể đảo
ngược, nó vừa tạo ra những cơ hội cho sự phát triển nhưng cũng vừa có những
thách thức đối với các quốc gia, nhất là các quốc gia ở trình độ kém phát triển.
TCH nói chung, một mặt là sự tiếp nối sự khẳng định và hoàn thiện các khuynh
hướng đã hình thành từ lâu trong lịch sử thế giới, mặt khác, nó cũng là một hiện
tượng mới bắt đầu bằng toàn cầu hoá về kinh tế, rồi dần dần lôi cuốn toàn cầu hoá
về một số lĩnh vực văn hoá và tác động mạnh mẽ đến chính trị. Từ khi liên xô và
các nước Xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới hai
cực thực sự đã trở thành thế giới một cực với một siêu cường duy nhất là Mỹ. Và
ngày nay, Mỹ đang từng bước thực hiện chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường
quyền nhằm biến TCH thành Mỹ hoá cả về kinh tế, văn hoá và chính trị, nuôi hy
vọng chiếm địa vị độc tôn và bá chủ thế giới.
Thật ra, không phải mọi quốc gia đều tham gia vào quá trình TCH với mức
độ giống nhau và đều được bình đẳng như nhau. Khi tham gia TCH, các nước
phát triển có rất nhiều lợi thế phần còn lại của thế giới thì chịu thiệt thòi về nhiều
mặt và gặp nhiều thách thức. Tuy nhiên, trong điều kiện thế giới ngày nay, các
quốc gia không thể tẩy chay TCH hoặc đứng ngoài quá trình TCH. Vấn đề đối với
tất cả các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước kém phát triển, là phải có
chiến lược thích ứng và khôn ngoan để vượt qua thách thức chớp lấy thời cơ trong
quá trình hội nhập thế giới, phải có ý thức giữ vững chủ quyền quốc gia, độc lập
dân tộc, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ để đưa quốc gia, dân tộc mình đến chỗ phát triển
và phồn vinh.
Một cách khái quát TCH là một “sân chơi lớn” mà các quốc gia trên thế
giới tham gia vào đều phải nhận thức rõ về nó, nhận thức rõ những thuận lợi và
70
thách thức đối với chính quốc gia mình để tham gia vào đó một cách có hiệu quả
nhất. Những cơ hội và những tác động tích của hội nhập là rất lớn, song những
thách thức, thậm chí tác động tiêu cực là không nhỏ, đặc biệt là ở thời kỳ đầu của
tiến trình hội nhập. Nhưng điều cần khẳng định là những thách thức này đều có
thể dự đoán được và sự tồn tại của chúng là tạm thời bởi lẽ chúng có thể được
khắc phục nếu một nước có đủ năng lực phát triển, có đủ sức mạnh cạnh tranh và
nền kinh tế đã trở nên linh hoạt trong hệ thống kinh tế thị trường thế giới.
Đối với Việt Nam, trong bối cảnh đặc biệt của thế giới và trong nước hiện
nay, vừa tạo cho Việt Nam những triển vọng mới đầy hứa hẹn, vừa đặt ra những
nhiệm vụ mới hết sức to lớn và nặng nề, thuận lợi và khó khăn, thời cơ và nguy cơ
đan xen nhau và cùng tác động tới chiều hướng phát triển đất nước. Vấn đề là phải
chủ động nắm bắt thời cơ, tích cực tham gia quá trình hợp tác, phân công lao động
quốc tế, phát huy lợi thế có sẵn và tìm lợi thế so sánh để vươn lên, phát triển
nhanh và vững chắc, tận dụng thế và lực đã có sẵn tạo ra thế và lực mới đồng thời
luôn luôn tỉnh táo, kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ, kể cả nguy cơ
mới nảy sinh, đảm bảo cho sự phát triển ổn định và đúng hướng. Xuất phát từ tình
hình như thế, chúng ta có thể tin tưởng vững chắc rằng Việt Nam đang trong thế
vươn tầm, kiên định con đường đã lựa chọn, có đủ lực và trí tuệ để tiến bước cùng
thế giới, tiến bước cùng thời đại; nhất định thực hiện được mục tiêu: dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- Những mảng tối của TCH và giải pháp của Việt Nam trong tiến trình hội nhập.pdf