Luận văn Những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam

Chủ trương chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã là một thành tựu to lớn của Đảng ta.Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam liên tục phát triển đồng thời từng bước hội nhập vào tiến trình phát triển hiện đạI của nền kinh tế toàn cầu, làm cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đạI hoá của Việt Nam đạt được những kết quả to lớn.

pdf38 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2418 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đề pháp lý vững chắc để điều chỉnh các quan hệ kinh tế, duy trì sự ổn định lâu dài của nền kinh tế quốc dân nhằm thực hiện sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế quốc dân, pháp luật tạo cơ sở pháp lý cần thiết để kết hợp hài hoà phát triển kinh tế với phát triển xã hôị và bảo vệ môi trường. - Kế hoạch: Kế hoạch là quá trình xây dựng, quán triệt, chấp hành và giám sát, kiểm tra việc thực hiện phương án hành động trong tương lai. Kế hoạch bao gồm các nội dung: chiến lược phát triển kinh tế xã hội, quy hoạch dự án, ngân sách. Trong đó chiến lược phát triển kinh tế, xã hội là đường lối chung trong một thời gian dài ( ở nước ta thường là 10 năm), quy hoạch phát triển kinh tế tập hợp các mục tiêu và sự bố trí, sắp xếp các nguồn lực tương ứng để thực hiện các mục tiêu không gian và thời gian, kế hoạch trung hạn ( kế hoạch 3 năm, kế hoạch 5 năm) là phương tiện chủ yếu để cụ thể hoá các mục tiêu và các giảI pháp đã được lựa chọn trong chiến lược. Trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thì kế hoạch kết hợp với thị trường là hai công cụ quản lý của nhà nước. Sự đIều tiết của thị trường là cơ sở phân phối các nguồn lực, còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của thị trường, làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng của kế hoạch. - Lực lượng kinh tế của nhà nước: Nhà nước quản lý nền kinh tế không chỉ bằng các công cụ pháp luật, kế hoạch hoá, mà còn bằng lực lượng kinh tế của tập thể để chúng dần trở thành nền tảng của nền kinh tế, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bên vững. Nờ đó nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết, hướng dẫn nền kinh tế theo mục tiêu kinh tế, xã hội do kế hoạch đặt ra. - Chính sách: Chính sách là một trong các công cụ chủ yếu mà nhà nước sử dụng để quản lý nền kinh tế. Mỗi chính sách là một tập hợp các giải pháp nhất định để thực hiện các mục tiêu quan trọng trong quá trình đạt tới các mục tiêu chung của sự phát triển kinh tế xã hội. Có hai nhóm: Chính sách kinh tế , chính sách cơ cấu kinh tế, chính sách tàI chính, chính sách tiền tệ, chính sách giá cả..., và chính sách xã hội: chính sách dân số, chính sách lao động và việc làm, chính sách giáo dục, chính sách bảo vệ mội trường...Trong đó có hai loại chính sách quan trọng tác động trực tiếp đến nền kinh tế được nhà nước sử dụng thường xuyên để điều tiết vĩ mô nền kinh tế đó là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ. Chính sách tài chính, đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh hưởng quyết định đến sử dụng ngân sách nhà nước, Nhà nước đIều chỉnh phân bố các nguồn lực kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng, đảm bảo công bằng trong phân phối và thực hiện các chức năng của mình. Nộ dung của ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu và khoản chi. Bộ phận chủ yếu của các khoản thu là thuế. Chính sách thuế đúng đắn không chỉ tạo thu cho ngân sách mà còn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiều dùng. Chính sách tiền tệ: là một công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu, vai trò của nó trong điều tiết vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chính sách tiền tệ phảI khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng. Trong chính sách tiền tệ, lãi suất là công cụ quan trọng, là phương tiện đIều tiết cung, cầu tiền tệ. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân hàng sẽ tác động trực tiếp đến nền kinh tế. - Các công cụ điều tiết kinh tế đối ngoại: để mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều công cụ, trong đó chủ yếu là thuế xuất nhập khẩu. Thông qua các công cụ đó, nhà nước có thể khuyến khích xuất khẩu , bảo hộ hợp lý sản xuất trong nước, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta, giữ vững được độc lập , chủ quyền , bảo vệ được lợi ích quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. 3.2. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. 3.2.1. KháI niệm thành phần kinh tế nhà nước Việc đề ra quan đIểm” thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với các thành phần kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân” là một trong những thành tự to lớn của đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng CSVN, nó đánh dấu một sự chuyển biến căn bản trong nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về con đường đI lên CNXH cũng như các yếu tố cơ bản cấu thành nên nền kinh tế đó. Tuy nhiên, hiện nay, trong giới hạn lý luận cũng như trong một số cán bộ Đảng viên và quân chúng nhân dân, nhận thức về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước vẫn chưa được thấu đáo, thậm chí một số người còn chưa rõ thành phần kinh tế nhà nước là gì, nó có giống với kinh tế quốc doanh trước đây không. Thành phần kinh tế nhà nước dựa trên cơ sở quan trọng là sở hữu nhà nước về tư liệu sản xuất. Một số người cũng nhất trí cho rằng thành phần kinh tế nhà nước phảI dựa trên sở hữu nhà nước, nhưng họ coi mọi sở hữu nhà nước, kể cả sở hữu trong các cơ quan hành chính sự nghiệp là thành phần kinh tế nhà nước. Quan niệm như thế là sai lầm. PhảI phân biệt nhà nước với tư cách là một lực lượng kinh tế, kiểm soát nền kinh tế theo các nguyên tắc của thị trường với Nhà nước là một lực lượng chính trị với các phương tiẹn vật chất đảm bảo cho sự thống trị chính trị đó. Chỉ có sở hữu nhà nước với tư cách một lực lượng kinh tế, một chủ thể kinh tế trong nền kinh tế thị trường mới là sở hữu thuộc thành phần kinh tế nhà nước. Với quan niệm như thế, thành phần kinh tế nhà nước bao gồm các yếu tố cấu thành: - Yếu tố thứ nhất là hệ thống các doanh nghiệp Nhà nước(DNNN): Đây là các tổ chức kinh tế mà Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn đIều lệ hoặc cổ phần vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH. DNNN có hai loại: Loại hoạt động kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận và loại hoạt động công ích không vì mục tiêu lợi nhuận . NgoàI ra còn có loại nằm giữa hai loại trên như những tổ chức kinh tế đang quản lý, duy tu, bảo dưỡng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế: cầu, đường, sân bay, bến cảng... loại này có xu hường chuyển hoá từng phần sang một hoặc hai loại trên. - Yếu tố thứ hai là hệ thống tàI chính của Nhà nước. Ngày nay khi mà xu hướng mở rộng phân phối qua ngân sách nhà nước đã trở thành phổ biến ở các quốc gia, thì ở nước ta do nhà nước có vai trò to lớn trong đảm bảo công bằng, nên tàI chính nhà nước trở thành lực lượng kinh tế đáng kể. Từ ngân sách nhà nước có thể hình thành các luồng tàI chính khác nhau như đầu tư vào các doanh nghiệp không phảI doanh nghiệp nhà nước để sinh lãI, cho vay tín dụng... Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường hiện đại, khi vốn trở thành một trong những ngồn lực sản xuất chủ yếu thì một phần tàI chính nhà nước, kể cả chi tiêu ngân sách thường xuyên trở thành lực lượng kinh tế lớn. - Yếu tố thứ ba: là hệ thống dự trữ, tàI nguyên đất đai, vùng biển thuộc sở hữu nhà nước. Do đặc thù xã hội chủ nghĩa nên ở nước ta toàn bộ đất đai, mặt biển không phận đều thuộc sở hữu nhà nước. Các bộ phận đất đai nhà nước giao cho dân sử dụng lâu dài. Cũng có bộ phận đất đai, mặt biển, tàI nguyên, không phận.. Nhà nước cho thuê và có thu nhập. Thu nhập đó có thể táI đầu tư, củng có thể cho vay hoặc chuyển giao cho công dân dưới hình thức nào đó. Dù mục đích sử dụng có thể khác nhau, song không phủ nhận rằng sở hữu đất đai, mặt biển, bầu trời cùng với dự trữ quốc gia đã làm cho nhà nước thực sử là chủ thể kinh tế mạnh không chỉ có khả năng tham gia vào các quá trình kinh tế mà còn có thể đóng vai trò đIều tiết, định hướng và kiểm soát các quá trình kinh tế đó. - Yếu tố thứ tư: là hệ thống dịch vụ nhà nước.kể cả dịch vụ thu phí và dịch vụ không thu phí. Khác với quan niệm sai lầm trước kia cho rằng của cảI chỉ tồn tại dưới dạng vật chất hữu hình, ngày nay kinh tế học hiện đại cho rằng của cảI còn là những dịch vụ với tư cách là hàng hoá vô hình nhưng có vai trò thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và làm tăng chất lượng của cuộc sống và cũng được tính vào GDP. Những dịch vụ nhà nước có thể kể ra như dịch vụ ngân hàng, dịch vụ hảI quan, dịch vụ thủ tục hành chính cho hoạt động kinh tế như kiểm soát, thị trường tiền, thị trường chứng khoán, thị trường vốn. Với việc cung cấp các dịch vụ này, nhà nước có thể tác động vào thị trường và qua thị trường tác động vào nền kinh tế. nhân tố này góp phầnlàm cho tiềm lực kinh tế của nhà nước được nhân bội lên. Tóm lại: Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước(DNNN), các sở hữu nhà nước như đất đai, ngân sách, lực lượng dự trữ, kể cả một phần vốn của nhà nước đưa vào các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Nghĩa là hệ thống kinh tế nhà nước gồm hai bộ phận cấu thành : DNNN và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp. 3.2.2. Vì sao kinh tế nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt nam, mỗi thành phần đều có vai trò vị trí và đóng góp nhất định vào phát triển kinh tế đất nước song do tính chất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta cần đặc biệt nhấn mạnh thành phần kinh tế nhà nước ( KTNN), KTNN làm chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Việc xác lập vai trò chủ đạo của thành phần KTNN là vấn đề có tính nguyên tắc và là sự khác biệt có tính bản chất giữa KTTT định hướng XHCN với KTTT tư bản CN. Tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta đã quyết định KTNN phảI giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Bởi lẽ mỗi một chế độ xã hội đều có một sơ sở kinh tế tương ứng với nó, KTNN cùng với Kinh tế tập thể tạo nên nền tảng cho chế độ XH mới – XHCN ở nước ta. Cụ thể, KTNN phảI giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế vì những lý do sau: Thứ nhất, KTNN dựa trên chế độ công hữu (sở hữu nhà nước) về tư liệu sản xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hướng xã hội hoá của lực lượng sản xuất. ở đây cần phân biệt hình thức sở hữu và chủ sở hứu. Nhà nước - đạI diện cho toàn dân - là chủ sở hữu tư liệu sản xuất, tàI sản công cộng cảu toàn dân. Thứ hai, KTNN nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xương sống ccủa nền kinh tế , do đó nó có khả năng, đIều kiện chi phối hoạt động của các thành phần kinh tế khác, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo huớng đã định. Thứ ba, KTNN là lực lượng bảo đảm cho sựphát triển ổn định của nền kinh tế, là lực lượng có khả năng can thiệp, đIều tiết hướng dẫn, giúp đỡ, và liên kết tạo đIều kiện cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển. Thứ tư, KTNN có thể tác động tới các thnàh phần kinh tế khác không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế mà còn bằng con đường gián tiếp thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thượng tầng XHCN. Thứ năm, KTNN dẫn đầu trong việc áp dụng khoa học công nghệ hiện đạI tiên tiến, do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh đóng góp phần lớn cho ngân sách nhà nước và tự tích tụ để không ngừng táI sản xuất mở rộng. Thứ sáu, KTNN là lực lượng nòng cốt hình thành các trung tâm kinh tế, đô thị mới, là lực lượng có khả năng đầu tư vào những lĩnh vực có vị trí quan trọng sỗng còn nhưng ít ai dám đầu tư vì đòi hỏi vốn lớn mà thời gian thu hồi vốn chậm. 3.2.3 Nội dung vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước TạI đạI hội VIII Đảng Cộng sản Việt Nam, nội dung vai trò chu đạo của thành phần kinh tế nhà nước đã được khẳng định: “Tiếp tục đổi mới và phát triển có hiệu quả KTNN để làm tốt vai trò chủ đạo: Làm đòn bẩy đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế và giảI quyết những vấn đề xã hội; mở đường, hướng dẫn, hỗ trợ các thành phần khác cùng phát triển; làm lực lượng vật chất để nhà nước thực hiện các chức năng đIều tiết và quản lý vĩ mô; tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới”. Như vậy vai trò chủ đạo của thành phần KTNN gồm những nội dung sau: _ KTNN là lực lượng mở đường, hỗ trợ, định hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước. KTNN có khả năng, đIều kiện về mọi mặt để đáp ứng tốt nhất cho việc thực hiện các kế hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng, cảI tạo, nâng cấp kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông, đIện, các công trình công cộng khác phục vụ cho sản xuất và đời sống trong suốt quá trình công nghiệp hoá, hiện đạI hoá đất nước, theo mục tiêu xã hội chủ nghĩa. KTNN có đIều kiện để đI đầu trong việc tập trung nghiên cứu xây dựng và phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn, sản xuất những hàng hoá mà trong nước có lợi thế, có khả năng cạnh tranh, thị trường có nhu cầu và đem lạI lợi nhuận cao, thu hút và sử dụng được nhiều lao động tạo đà cho kinh tế phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế; đI đầu trong cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật về nghiên cứu chế tạo, triển khai công nghệ mới, chuyển giao công nghệ truyền thống đóng vai trò quyết định trong việc thăm dò và các thành phần kinh tế khác khai thác tàI nguyên nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm trong nước, vừa khai thác có hiệu quả tàI nguyên , vừa bảo vệ môI trường sinh thái. Kinh tế nhà nước còn là lực lượng đI đầu trong việc đổi mới và nâng cao trình độn nănglực quản lý kinh tế, cả về dổi mới trang thiết bị, cũng như cách tổ chức và phân phối, là tấm gương tiêu biểu cho các thành phần kinh tế khác trong nền kinh tế đất nước thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về mọi lĩnh vực, đặc biệt là giảI quyết việc làm, thực hiện luật Luật lao dộng, xoá đòi giảm nghèo...đI đầu trong việc đóng góp vào ngân sách quốc gia. KTNN là lực lượng xung kích của nhà nước trong việc hìnhthành , xây dựng các trung tâm kinh tế,văn hoá, xã hội và phân bố dân cư. Những trách nhiệm trên đây của KTNN về thực chất là tạo nền tảng kinh tế - xã hội, định hướng nền kinh tế phát triển đúng hưóng, hợp quy luật, nhanh và bền vững. _ KTNN là lực lượng vật chất quan trọng, chủ yếu nhất để nhà nước đIều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế.Nhà nước cỉ có thể đIều tiết được nền kinh tế khi có trong tay một tiềm lực kinh tếmạnh. KTNN chính là chỗ dựa vật chất to lớn, tạo ra Iềm lực kinh tế mạnh để nhà nước thực hiện yêu cầu đó. Trong KTNN, hệ thống, hệ thống doanh nghiệp nhà nước là lực lượng chủ lực tạo ra tiềm lực vật chất của kinh tế nhà nước, có ở những khâu trọng yếu cảu nền kih tế, cung ứng phần lớn những tư liệu sản xuất chủ yếuvà tư liệu tiêu dùng thiết yếu, đóng vai trò nòng cốt trong việc củng cố , phát triển các bộ phận cấu thành hệ thống KTNN, góp phần tích cực vào tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Bên cạnh hệ thống DNNN, kinh tế nhà nước còn có tiềm lực mạnh về nguồn vốn từ ngân sách, hệ thống ngân hàng, bảo hiểm, đủ năng lực đầu tư vào kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội như giao thông, quy hoạch và xây dựng các khu công nghiệp, thực hiện các dự án phát triển khu dân cư... KTNN là lực lượng vật chất quan trọng nhất để nhà nước thực hiện quản lý vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo nền kinh tế phát tiển ổn định, bảo đảm những cân đối lớn và đủ khả năng sẵn sàng ứng phó với những đột biến trong nền kinh tế, hạn chế những khuyết tật của cơ chế thị trường. _ KTNN là đòn bẩy để tăng trưởng kinh tế và giảI quyết các vấn đề xã hội của đất nước. Nhà nước sử dụng lực lượng kinh tế của nhà nước để đầu tư cho những ngành, những khu vực, những công trình kinh tế trọng đIểm, tạo “đầu tàu” kéo nền kinh tế của từng ngành, vùng phát triển đI lên; tập trung xây dựng các khu vực kinh tế trọng đIểm, cá khu công nghiệp với vự phân bố hợp lý theo vùng, miền, địa bàn để phát huy lợi thế, khả năng về mọi mặt, làm thay đổi bộ mặt kinh tế từng địa bàn, vùng, miền cả nước. KTNN còn được sử dụng chủ yếu vào thực hiện các chương trình giảI quyết việc làm, vay vốn xoá đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống, đồi trọc...góp phần giảI quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động, giảm bớt sự phân tầng xã hội do cơ chế thị trường gây ra. II. Thực trạng những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta 1. Thực trạng vai trò quản lý kinh tế của nhà nước 1.1 Mặt mạnh trong quản lý kinh tế của nhà nước ta ĐạI hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt lớn trong lịch sử kinh tế nước ta, lần đầu tiên chủ trương chuyển đổi nền kinh tế từ tập trung kế hoạch hoá sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đề ra. Sau khi đề ra chủ trương đúng đắn, nhà nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã không ngừng tìm tòi học hỏi cách quản lý kinh tế thị trường ở các nước khác đồng thời vận dụng một cách sáng tạo vào nền kinh tế của trong nước nhằm đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nó. Nhờ đó Kinh tế Việt Nam vượt qua được một giai đoạn thử thách gay go, thu được những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực. GDP liên tục tăng với tốc độ cao, xuất khẩu tăng, tỉ trọng ngành nông nghiệp giảm xuống, tỉ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ tăng lên, đời sống nhân dân ngày một nâng cao. Nhà nước ta đã nhận thức rõ các công cụ quản lý kinh tế và vận dụng chúng một cách linh hoạt trong từng hoàn cảnh khác nhau. Đồng thời không ngừng bổ sung hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, và liên tục sửa đổi cho phù hợp với đIều kiện hoàn cảnh mới. Nhiều bộ luật mới được ra đời như Luật doanh nghiệp, luật thương mạI, luật đầu tư,vv.. làm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả hơn. Để phát triển kinh tế trong đIều kiện nguồn vốn trong nước thiếu, nhà nước ta thực hiện chiến lược kinh tế mở nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoàI vào Việt Nam cụ thể là vốn ODA và vốn FDI. Những hoạt động cụ thể là cho ra đời các chính sách thu hút đầu tư, tạo môI trường đầu tư thông thoáng, đơn giản hoá thủ tục đầu tư, xây dựng Luật đầu tư nước ngoàI vv..Kết quả là vốn đầu tư vào Việt Nam liên tục tăng, nhiều khu công nghiệp được xây dựng góp phần tăng GDP và tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động.Hiện nay có hơn 4500 doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã thành lập và hoạt động tại Việt Nam, luôn có tốc độ tăng trưởng cao, năm 2004 đóng góp khoảng 16% vốn đầu tư phát triển của xã hội, gần 10% GDP và ngân sách nhà nước. NgoàI ra trong những năm qua, nhà nước ta đã hoàn thành tốt chức năng bảo đảm ổn định chính trị xã hội, tạo môI trường hoà bình để nền kinh tế phát triển bền vững. 1.2 Mặt yếu trong quản lý kinh tế của nhà nước ta Tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng quản lý kinh tế của nhà nước ta vẫn còn tồn tạI nhiều yếu kém. Trước hết là hệ thống pháp luật tuy đã liên tục được sửa đổi và hoàn chỉnh nhưng vẫn chưa đầy đủ và còn nhiều sai sót. Tình trạng gian lận thương mạI, cạnh tranh bất bình đẳng có xu hướng gia tăng và tinh vi phức tạp hơn vì quy định của pháp luật chưa đầy đủ và việc thực thi pháp luật chưa nghiêm. Hiện nay chúng ta có 4 luật là luật doanh nghiệp nhà nước(sửa đổi), luật doanh nghiệp, luật đầu tư, luật hợp tác xã (sửa đổi) trong đó vẫn thể hiện sự đối xử phân biệt giữa các thành phần kinh tế. Các chính sách đầu tư, vốn vay chưa khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển vẫn dành sự ưu ái đặc biệt cho doanh ngiệp nhà nước. Một số lĩnh vực kinh tế còn thiếu các quy định cụ thể của pháp luật nên hoạt động thiếu hiệu quả. Chức năng quản lý các thị trường đặc biệt là thị trường hàng hoá dịch vụ còn nhiều khiếm khuyết. Danh mục hàng hoá, dịch vụ do Nhà nước quản lý giá, quản lý bằng hạn ngạch hoặac giấy phép tuy đã giảm nhưng vẫn còn nhiều so với các nước khác. Hơn thế nữa, trong không ít trường hợp độc quyền nhà nước đã trở thành độc quyền doanh nghiệp nhà nước. Nguyên tắc doanh nhân, doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được tự do kinh doanh theo pháp luật trong tất cả các ngành nghề má pháp luật không cấm tuy đã được xác lập bằng các quy định của pháp luật (Luật doanh nghiệp, luật thương mạI), nhưng thực tế vẫn tồn tạI không ít những trở ngạI do cơ chế xin cho và và do cách nghĩ, cách làm cũ vẫn còn tồn tạI ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức trong cơ quan công quyền. Hiện tượng ngăn sông, cấm chợ, chia cắt thị trường theo địa phương, theo ngành, theo thành phần kinh tế tuy về cơ bản đã được loạI trừ, nhưng không phảI đã chấm dứt hoàn toàn. Luật Cạnh tranh và kiểm soát độc quyền có vị trí quan trọng đặc biệt trong nền kinh tế thị trường, đảm bảo cho thị trường phát triển có trật tự, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng. Tuy nhiên đến nay dự án luật này tuy đã được Quốc hội thông qua nhưng chưa có hiệu lực thi hành. Cải cách thủ tục hành chính trong thời gian qua tuy đã được tiến hành nhưng kết quả vẫn chưa được bao nhiêu, thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, cửa quyền. Hiện nay, đầu tư nước ngoài vào Việt Nam liên tục tăng nhanh nhưng nhà nước ta chưa kịp thời chỉ ra phương hướng đổi mới kinh tế hợp tác, quản lý kinh tế hợp tác còn sơ hở, việc thành lập doanh nghiệp đầu tư nước ngoài gắn liền với các dự án đầu tư lại bị giới hạn về thời gian hoạt động và hình thức đầu tư (liên doanh, hợp đồng hợp tác kinh doanh, 100% vốn nước ngoài), doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chỉ được tổ chức hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn với nhiêù quy định đặc thù trái với các nguyên tắc của kinh tế thị trường như: về vốn, về nguyên tắc biểu quyết và các thủ tục khác. 1.3 Nguyên nhân những mặt yếu kém trong quản lý kinh tế của nhà nước ta Những yếu kém, bất cập trong hoạt động quản lý kinh tế của nhà nước ta còn tồn tại là do nhiều nguyên nhân cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quyền. Nguyên nhân khách quan là sự phá hoại của các thế lực thù địch và chèn ép về thương mại của các nước có thế lực kinh tế và chính trị mạnh.Nhưng nguyên nhân chính vẫn là nguyên nhân chủ quan. Thứ nhất là do nền kinh tế thị trường mới được hình thành chưa lâu, trong khi đó nền kinh tế kế hoạch hoá lại tồn tại một thời gian dài và đã khắc sâu trong tư tưởng của một thế hệ. Vì vậy đội ngũ quản lý kinh tế trong nhà nước chưa bắt kịp với sự đổi mới, vẫn còn chịu ảnh hưởng của cách nghĩ, cách làm cũ. Thứ hai là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thể chế kinh tế xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử, nó sử dụng cơ chế thị trường là sản phẩm của chủ nghĩa để xây dựng XHCN. Vì vậy về lý luận cũng như nội dung quản lý kinh tế của nhà nước nhằm giữ cho nền kinh tế phát triển ổn định theo định hướng XHCN cần được thử nghiệm và tổng kết. Quá trình đó tất yếu phải có nhiều lần thất bại và cần có thời gian. Một nguyên nhân quan trọng khác là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước ta gay nên tệ nạn quan liêu, tham nhũng. Trong đó nạn tham nhũng đang ở tình trạng đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nước ta vẫn có thể coi là một nước nghèo nhưng lại là một trong những nước có tỉ lệ tham nhũng cao nhất thế giới. 2. Thực trạng về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước Như đã trình bày ở phần trước,thành phần KTNN bao gồm 2 bộ phận cấu thành: DNNN và kinh tế nhà nước phi doanh nghiệp. Trong đó doanh nghiệp nhà nước đóng vai trò chủ đạo của KTNN.Vai trò chủ đạo của DNNN thể hiện ở chỗ duy trì tỷ trọng tương đối lớn trong những cân đối then chốt về sản lượng chủ yếu, cân đối ngoạI tệ, nộp ngân sách. Vai trò nêu gương dẫn dắt cảu DNNN thể hiện ở hiệu quả kinh tế, tiến bộ công nghệ, năng suất lao động, khả năng cạnh tranh của DNNN trong từng ngành và trong quá trình hội nhập. Vì vậy trong vai trò chủ đạo của thành phần KTNN, hiệu quả sản xuất, kinh doanh của DNNN đóng vai trò hết sức quan trọng. Trong những năm vừa qua, DNNN đã có những bước tiến mới phát triển và ngày càng hoàn thiện. Những mặt làm được của DNNN như hội nghị TƯ 3 khoá IX đã đánh giá:” DNNN đã chi phối được các ngành, lĩnh vực then chốt và sản phẩm thiết yếu của nền kinh tế, góp phần chủ yếu để KTNN thực hiện vai trò chủ đạo ổn định và phát triển kinh tế xã hội, tăng thế và lực của đất nước. DNNN chiếm tỉ trọng lớn trong tổng sản phẩm trong nước, trong tổng thu nngân sách, kim ngạch xuất khẩu và công trình hợp tác đầu tư với nước ngoài; là lực lượng quan trọng trong thực hiện các chính sách xã hội, khắc phục hậu quả thiên tai và bảo đảm nhiều sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội, quốc phòng, an ninh. “ Theo kết qủa đIều tra doanh nghiệp tính đến ngày 1\1\2004 cho thấy DNNN chiếm 8,5% số lượng doanh nghiệp cả nước và 48,5% lao động, 62,1% về nguồn vốn, 57,5% về doanh thu và 52,6% về nộp ngân sách. Hệ thống DNNN đã tạo ra được một lực lượng vật chất cần thiết cho việc tác động chi phối và hợp tác trong thực hiện cân đối chủ yếu của nền kinh tế, ngày càng khẳng định vai trò nòng cốt, dẫn dắt, lôI cuốn và hỗ trợ các thành phần kinh tế khác hoạt động hướng vào mục tiêu chung do nhà nước dề ra . Tuy nhiên, bên cạnh những kết qủa nêu trên, DNNN hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém: _ Số DNNN kinh doanh bị lỗ còn chiếm tỉ trọng cao, trong khi tỉ trọng vốn đầu tư vào DNNN là cao nhất (chủ yếu là vốn từ ngân sách nhà nước). Năm 2004, số DNNN có lãI chỉ chiếm 83%, số doanh nghiệp bị lỗ chiếm 14,7%.ĐIều đó đòi hỏi cần xem xét lạI mục đích đầu tư, ngành nghề đầu tư, lĩnh vực đầu tư và các chính sách quản lý vốn trong DNNN. _ Nợ của DNNN còn lớn. Tổng số nợ phảI thu là 96,775 tỷ đồng, bằng 51% tổng số vốn và bằng 23% tổng doanh thu; tổng số nợ phảI trả là 207,789 tỷ đồng. Nếu bù trừ giữa nợ phảI trả với nợ phảI thu thì DNNN vẫn còn nợ 111,014 tỷ đồng, bằng 58,6% tổng số vốn nhà nước tạI DNNN. Thực tế đó đặt ra vấn đề: muốn sắp xếp lại, chuyển đổi sở hữu và nâng cao hiệu quả hoạt độngcủa DNNN thì không thể không giảI quyết vấn đề nợ, bàI toán giảI quyết nợ của DNNN cũng phảI được đặt ra _ Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và DNNN nói riêng còn yếu. Trong tương lai gần, nếu hàng rào thuế quan và phi thuế quan với các nước ASEAN được dỡ bỏ, thì hàng hoá do các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất khó cạnh tranh được với hàng nhập khẩu. Các mặt hàng như máy móc, thiết bị, phân bón, linh kiện điện tử và vi tính.. chủ yếu là nhập khẩu. Một số mặt hàng trong nước đã sản xuất được như sắt, thép, xi măng , giấy, đường, bột ngọt, ô tô, xe máy, kính xây dựng ... nhưng kém hàng nhập khẩu cả về chất lượng và giá cả. Sở dĩ lâu nay các doanh nghiệp sản xuất các hàng hoá này còn hoạt động được một phần rrất quan trọng là nhờ chính sách bảo hộ của nhà nước (theo thống kê hiện nay thì mức độ bảo hộ đối với đồ uống là 50%, đường là 32,4%, gạch và gạch ốp lát là 48%, chất tẩy rửa là 39%, đồ dùng gia đình là 60%, xe máy, xe đạp là 59%, hàng may mặc là 42%...Thực trạng đó đòi hỏi phải sắp xếp, cơ cấu lại các doanh nghiệp và DNNN, đồng thời cũng cần có sự hỗ trợ từ phía nhà nước để giúp DNNN nâng cao sức cạnh tranh trê thị trường trong nước và quôc tế. _ Việc sắp xếp đổi mới và cổ phần hoá DNNN còn chậm so với mục tiêu và kế hoạch đặt ra: còn nhiều DNNN có quy mô nhỏ, hiệu quả kinh doanh thấp, làm ăn thua lỗ kéo dài đã làm hạn chế vai trò chủ đạo của KTNN, đồng thời cũng làm chậm tiến trình phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta. Từ khi thực hiện chính sách cổ phần hoá doanh nghiệp vào năm 1992 theo chỉ thị số 202 và chỉ thị số 84 của thủ tướng chính phủ thì tới nay có khoảng 1400 doanh nghiệp được cổ phần hoá còn hưon 4200 DNNN chưa cổ phần hoá. Như hội nghị TƯ khoá IX đã nêu: “Việc sắp xếp, đổi mới nhất là cổ phần hoá DNNN theo tinh thần nghị quyết TƯ 3 thực hiện chậm so với mục tiêu đề ra”. Trong khi việc sắp xếp đổi mới các doanh nghiệp chỉ đạt 81% kế hoạch đề ra thì cổ phần hoá DNNN chỉ đạt 63%. Riêng 6 tháng đầu năm2004 chỉ đạt 20% kế hoạch, chưa noi đến tình trạng chung là doanh nghiệp thực hiện cổ phần hoá mới chỉ dừng lại ở quy mô vừa và nhỏ, thể hiện ở số vốn của các DNNN đã được cổ phần hoá chưa nhiều nên tác động tích cực của giảipháp này đến việc nâng cao sử dụng vốn của nhà nước chưa cao. Những tồn tại yếu kém trên do những nguyên nhân chủ yếu sau: _ Chủ trương, chính sách và pháp luật cơ bản thể hiện tinh thần xoá bỏ cơ chế bao cấp đối với DNNN, nhưng trên thực tế hoạt động quản lý đã có lúc, có nơi vẫn có sự bao cấp dưới hình thức khác nhau như trợ giá, bù lỗ, hỗ trợ xuất khẩu, ưu đãi trong quan hệ tín dụng...Bao cấp sinh ra ỷlại, không chịu đổi mới, bao cấp cũng là nguyên nhân dẫn đến không bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, do vậy cũng không thể có nền kinh tế thị trường thật sự, đồng thời bao cấp cũng gây ra tâm lý không muốn rời xa nhà nước,không muốn chuyển đổi hình thức sở hữu daonh nghiệp. NHưng cũng cần phân biệt hìh thức bảo trợ trực tiếp cho DNNN với vai trò hỗ trợ của Nhà nước để thúc đẩy phát triển doanh nghiệp bằng các biện pháp phù hợp với cơ chế thị trường. _ Việc quy hoạch các DNNN còn chậm , sự khẳng định ngành, lĩnh vực then chốt nhà nước cần đầu tư 100% cốn chưa cụ thể, dẫn đén tình trạng chờ đợi, không muốn cổ phần hoá hoặc chuyển đổi sang hình thức sở hữu khác, làm cho hoạt động của DNNN kém hiệu quả và dậm chân tại chỗ. _ Các quy định về cổ phần hhoá DNNN chưa thật sự phù hợp với thực tế và có xu hướng vận động khách quan của các quan hệ kinh tế, tài chính làm ảnh hưởng dến tốc độ cổ phần hoá, như các quy định về định giá doanh nghiệp khi chuyển đổi; phương thức bán cổ phần ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp; tỉ lệ cổ phần nhà nước chi phối; người nước ngoài được mua không quá 30% cổ phần của doanh nghiệp được cổ phần hoá. Đây là những vấn đề cần nghiên cứu bổ sung và sửa đổi lại cho phù hợp hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc cổ phần hoá. _ Hiện nay vẫn còn phần lớn DNNN có công nghệ lạc hậu, phương pháp quản lý sản xuất, kinh doanh và trình độ lao động chưa đáp ứng được với yêu cầu thực tế. Do đó ăng suất lao động thấp, chất lượng sản phẩm kém, giá thành cao, dẫn tới kết quả và khả năng cạnh tranh trên thị trường của DNNN bị hạn chế. TRong khi đó vốn cho sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn thiếu nghiêm trọng, tình tạng chiếm dụng vốn của nhau trong kinh doanh còn diễn ra khá phổ biến, làm cho vốn càng bị thiếu trầm trọng hơn. _ Vaii trò lãnh đạo của tổ chức Đảng trong DNNN còn chịu sự lãnh đạo vừa chồng chéo vừa phân tán, chưa gắn nhiệm vụ chính trị của tổ chức Đảng cấp trên với tổ chức Đảng tại doanh nghiệp.Tuyệt đại đa số lãnh đạo của doanh nghiệp lad Đảng viên nhưng quá nhiều người “bằng mặt” nhưng không “bằng lòng”, mất đoàn kết. _ Cơ chế giám sát tài chính quá yếu, thiếu trung thực. Một thực tế là nhiều doanh nghiệp được đánh giá lãi ( dều có duyệt quyết toán hàng năm, thậm chỉ cả kiểm toán) nhưng khi bàn giao giám dốc, khi tổ chức lại thì vỡ ra thua lỗ lớn, thậm chí rất lớn. III Nhứng giải pháp tăng cườngvai trò quản lý của nhà nước và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. 1. Những giải pháp tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước Vai trò quản lý kinh tế nhà nước là nhân tố quyết định nhất đảm bảo cho tính định hướng XHCN của nền KTTT ở Việt Nam. Để nhà nước làm tốt vai trò quản lý của mình, đưa nền kinh tế phát triển bền vững theo định hướng đã chọn, cần có những giải pháp sau: _ Tiếp tục đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế, trước hết phải xác định rõ phạm vi, nội dung quản lý nhà nước về kinh tế; tách chính quyền ra khỏi các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trừ một số ít công trình, dự án dịch vụ công thiết yếu, chính quyền là chủ đầu tư trực tiếp tổ chức đấu thầu thực hiện, chính quyền các cấp sẽ không tham gia vào các dự án sản xuất kinh doanh; doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải đóng vai trò chủ chốt trong tất cả các hoạt động ddầu tư, kinh doanh. Nhà nước trung ương tập trung xây dựng hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch,kế hoạch phát triển kinh tế xã hội chung của cả nước; thực hiện các biện pháp điều tiết vĩ mô đối với toàn bộ đối với toàn bộ nền kinh tế. Chính quyền các địa phương cần được phân cấp đầy đủ hơn quyền hạn và trách nhiệm trong việc tổ chức thực thi pháp luật về kinh tế do nhà nước trung ương ban hành, xây dựng và tổ chức thực thi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội của địa phương , đồng thời hỗ trợ, tạo thuận lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân và doanh nghiệp trên địa bàn. _ Đổi mới công tác kế hoạch cả về nội dung lẫn phương pháp. Tập trung nhiều hơn cho cho đổi mới công tác xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế xã hội. Chiến lược và quy hoạch phải được xây dựng trên cơ sở thông tin, số liệu khoa học chuẩn xác với sự tham gia rộng rãi của các cơ quan tổ chức, người dân, đặc biệt là các viện nghiên cứu, các nhà khoa học. Sau khi xây dựng xong phải được công bố phổ biến rộng rãi để định hướng cho xã hội, người dân tham gia thực hiện. Các kế hoạch phát triển kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm cảu cả nước cũng như các địa phương phaỉ hết sức cụ thể, và chỉ nên bao gồm một số ít chỉ tiêu định hướng về tăng trưởng ổn định kinh tế vĩ mô, xoá đói giảm nghèo, văn hoá, y tế, xã hội, môi trường, chương trình đầu tư công cộng... _ Hoàn thiện và sử dụng có hiệu lực và hiệu quả hệ thống công cụ điều tiết vĩ mô. Mục tiêu điều tiết vĩ mô và mục tiêu yêu cầu tổng thể đã được xác định trong kế hoạch nhà nước phải là căn cứ chủ yếu để chế định chính sách tài chính, tiền tệ. Chính sách tài chính phải trởt hành công cụ quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tối ưu hoávà điều tiết thu nhập, thực hiện xoá đói giảm nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo và trình độ phát triển giữa các tầng lớp và các vùng. Chính sách tiền tệ phải phát huy tác dụng quan trọng trong bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền và kinh tế vĩ mô. _ Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính. Phải cương quyết xoá bỏ bao cấp, giảm thiểu tối đa cơ chế xin cho, xin cấp phếp; mở rộng chế độ đăng ký; thực hiện nguyên tắc người dân và doanh nghiệp được làm những gì mà pháp luật không cấm, công chức chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định, thực hiện quản lý nhà nước bằng pháp luật. _ Đơn giản hoá thủ tục đầu tư, thành lập daonh nghiệp, gia nhập thị trường một cách tối đa trên cơ sở quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư, doanh nhân, doanh nghiệp. Nhà nước chỉ phê duyệt cấp phép các dự án quan trọng liên quan đến an ninh kinh tế, có ảnh hưởng đến tài nguyên môi trường, đến quy hoạch tổng thể và các dự án cho Chính phủ đầu tư. Đối với các dự án còn phải phê duyệt, cấp phếp đầu tư, cần có quy chế phân cấp hợp lý theo chính quyền các địa phương theo nguyên tắc phân quyền gắn vơí trách nhiệm, mở rộng phân cấp gắn với tăng cường kiểm tra giám sáy cảu cấp trên đối với việc thi hành luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch chung của cấp dưới... _ Đổi mới cơ chế quản lý về thuế trên cơ sở hoàn thiện pháp luaatj về thuế theo hướng đơn giản, mặt bằng về thuế rộng, tỷ lệ thuế thấp, thu và quản lý thuế nghiêm túc. Đẩy nhanh việc áp dụng chế độ để doanh nhân, doanh nghiệp khai nộp thuế, cơ quan thuế giám sát kiểm tra thay cho cách để cho cán bộ thuế trực tiếp tính thuế, thu thuế như lâu nay. _ Đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội về các sản phẩm, dịch vụ công bằng việc xác định rõ những sản phẩm, dịch vụ nào thuộc trách nhiệm nhà nước phải cung cấp miến phí hoặc không thể thương mại hoá, còn lại là những sản phẩm, dịch vụ công cộng được xã hội hoá. Đối với loại sản phẩm dịch vụ công thứ nhất, nhà nước căn cứ vào tính hiệu quả để quyết định thông qua tổ chức của mình hay các đơn vị sự nghiệp hoặc thông qua đấu thầu để có được sản phẩm dịch vụ cung cấp cho xẫ hội. Đối với loại sản phẩm dịch vụ công thứ hai, cần phải mở rộng để các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia. Do vậy đồng thời với việc đổi mới hoàn thiện thể chế daonh nghiệp, cần tiếp tục đổi mới hoàn thiện thể chế các đơn vị sự nghiệp khoa học, giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, thông tin... _ Nâng cao phẩm chất đạo đức của đội ngũ công chức nhà nước, xây sựng bộ máy lãnh đạo, quản lý nhà nước trong sạch. Nền kinh tế nước ta có thể quá độ lên CNXH chính là cố điều kiện tiên quyết: chính quyền thuộc về nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo cảu Đange Cộng sản Việt Nam. Chỉ có một nhà nước mà đội ngũ của nó là những người toàn tâm , toàn ý phục vụ nhân dân mới có thể ngăn ngừa được nguy cơ đưa nền kinh tế nước ta đi chệch hướng XHCN.Cần có những biện pháp điều tra làm rõ và trừng phạt nghiêm khắc những hành vi tham nhũng nhằm giảm tệ nạn tham nhũng trong bộ máy nhà nước ta. 2. Những giải pháp tăng cường vai trò chủ đạo của thnah phần kinh tế nhà nước, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước Để tăng cường vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước đảm bảo tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta cần phải nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước_là nhân tố đóng vai trò chủ đạo của KTNN. Những giải chủ yếu bao gồm: _ Sớm thành lập tập đoàn đầu tư nhà nước chuyên lo quản lý, sử dụng vốn sở hứu nhà nước tại doanh nghiệp. Tập đoàn đầu tưnhà nước do chính phủ quyết định thành lập. Tập đoàn chịu trách nhiệm phê duyệt điều lệ định hướng chiến lược phát triển và nhân sự của doanh nghiệp. Tập đoàn làm chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước ở tất cả cac doanh nghiệp nhà nước. Bằng giải pháp này , Bộ quản lý ngành sẽ chỉ còn chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành, không còn chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước như hiện nay, khắc phục tình trạng “ vừa đá bóng vừa thổi còi”, phân biệt quản lý nhà nước với quản lý doanh nghiệp, một vấn đề rất bức xúc lâu nay chưa giải quyết. Một số ý kiến lo ngại cho rằng khu vực nhà nước ở nước ta hiện còn rất lớn, tất cả các bộ quản lý chuyên ngành đều có chức năng đại diện chủ sở hữu vốn chủ sở hữu vốn nhà nưóc ở các doanh nghiệp thuộc ngành mình quản lý mà việc quản lý còn chưa tốt, vậy một tập đoàn đầu tư sẽ hoạt động thế nào. Thực ra, khó khănvề chuyển đổi tổ chức, những lực cản liên quan đến lợi ích, đến thói quen của cách làm cũ là điều chúng ta phải tính đến nhưng nhất định phải làm được. Điều quan trọng là mô hình mới nhờ tách được những chức năng quản lý doanh nghiệp ra khỏi chức năng quản lý nhà nước, những tiêu cực do tình trang “ vừa đá bóng vừa thổi còi” gây nên sẽ không còn nữa, trách nhiệm quản lý được nâng lên. Mô hình mới cũng cho phép công tác quản lý được thực iện tập trung, thống nhất và đồng bộ hơn, đỡ cồng kềnh hơn, thời gian xử ký nhan hơn. Hiệu quả quản lý từ đó chắc chắn sẽ được nâng cao. _ Khẩn trương tiến tới tất cả các loại hình doanh nghiệp đều thực hiện chung một luật doanh nghiệp. Hiện nay DNNN còn được quá nhiều ưu đãi dưới nhiều hình thức như ưu đãi về thị trường kinh doanh, về tín dụng, khoanh nợ, xoá nợ, dàn nợ tràn lan vô thời hạn, bao cấp về sư dụng đất đai,.. Tình trạng phân biệt đối xử nêu trên làm cho môi trường cạnh tranh không lành mạnh, làm chậm trễ thêm tiến trình thực hiện cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. _ Rà soát, sắp xếp lại, thu gọn bớt DNNN theo hướng vốn thuộc sử hữu nhà nước chỉ đầu tư vào những lĩnh vực mà các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không đủ khả năng về vốn, về kĩ thuật, hoặc một số mặt hàng trước mắt cần bảo hộ của nhà nước trong thời gian nhất định. Giảm cơ cấu về số lượng doanh nghiệp tới giới hạn cần thiết. Theo đó, tiếp tục phân loại doanh nghiệp nhà nước theo bốn nhóm đã xác định. Nhóm 1, là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt, liên quan đến quốc phòng, an ninh, bí mật quốc gia. Nhóm 2 , là những doanh nghiẹp hoạt dộng trong những ngành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, những ngành mà khu vực kinh tế tư nhân không có khả năng đầu tư . Nhóm 3, là những doanh nghiệp có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh và sinh lợi lớn tạo nguồn thu chủ yếu vào ngân sách nhà nước. Nhóm 4, là các doanh nghiệp còn lại, cần được đẩy mạnh việc cổ phần hoá và các giải pháp đa dạng hóa hình thức sở hữ. Cơ cấu, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước là nhiệm vụ của chủ sỏ hữu doanh nghiệp nhà nước, vì vậy cần giao cho cơ quan trực thuộc Chính phủ có dủ quyền hạn để làm việc này(ngoài ra còn phải có những tiêu thức cụ thể cho việc sắp xếp, quy hoạch lại DNNN). _ Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần hoá DNNN bằng việc triển khai đồng bộ những biện pháp chủ yếu sau: Một là đổi mới quá trình cổ phần hoá, từ cổ phần hoá chủ yếu là donh nghiệp nhỏ thua lỗ chuyển sang cổ phần hoá cả những doanh nghiệp lớn, các tổng công ty, các doanh nghiệp làm ăn có lãi; từ cổ phần hoá DNNN trong một số lĩnh vực rất hạn chế sang cổ phần hoá các doanh nghiệp ở hầu hết các lĩnh vực kinh tế, văn hoá; từ hình thức cổ phần hoá nội bộ là chính sang bán ra bên ngoài, kể cả cho các nhà đầu tư cho nước ngoài. Hai là, tiếp tục lựa chọn một số tổng công ty DNNN lớn trong các lĩnh vực nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn để thí diểm cổ phần hoá. Tuỳ theo đặc diểm và nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà lựa chọn hình thức cổ phần hoá phù hợp theo nguyên tắc: dơn giản thủ tục , sau cổ phần hoá doanh nghiẹp mạnh hơn về vốn, thay đổi phương thức quản trị doanh nghiệp , thêm bạn hàng chiến lược, mở rộng thị trường vốn công nghệ đảm bảo lợi ích chi người lao động , không gây thất thoát tài sản nhà nước. Ba là đổi mới cách xác định giá trị doanh nghiệp gắn với đổi mới phương thức bán cổ phiếu đối vơí doanh nghiệp cổ phần hoá. Mở rộng hình thức định giá thông qua các tổ chức thẩm định giá, kiểm toán, tư vấn tài chính đối với doanh nghiệp vừa và lớn; đối với tổng công ty nên thuê các tổ chức định giá nước ngoài; đồng thời gắn quá trình CPH với niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. _ Chuyển đổi mô hình hoạt động của các công ty nhà nước hiện nay sang mô hình công ty mẹ-công ty con. Hoạt động trong mô hình các tổng công ty nhà nước hiện nay quyền tự chủ của của các doanh nghiệp thành viên vẫn chưa được tôn trọng đầy đủ. Theo quy định hiện hành, rấy nhiều vấn đề quan trọng như kế hoạch hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm , phần lớn cac dự án đầu tư, tổng biên chế lao động, đơn giá tiền lương , nhiều vấn đề về thanh lý tài sản, về giải quyết công nợ tồn đọngvv..đều phải chờ ý kiến phê duyệt của tổng công ty mới được thực hiện. Nhiều trường hợp bỏ lỡ thời cơ kinh doanh. Trong quy dịnh hiện hành cũng chưa có diểm nào nói rõ quyền hạn của tổng công ty và công ty thành viên trong việc phân phối sử dụng số lợi nhuận còn lại của tổng công ty thành viên sau khi nộp thuế. Thực hiện mô hình công ty mẹ-công ty con, moi hoạt động của công ty con dược thực hiện theo luật doanh nghiệp, vì vậy mọi phiền hà chậm trễ do cơ chế xin-cho, phê duyệt trước đây sẽ không còn nữa, trách nhiệm và quyền tự chủ của doanh nghiệp được nâng cao, đồng thời về phía mình các tổng công ty nhà nước cũng có quỳen cao hơn trong việc thực hiện quá trình tích tụ và tập trung vốn của mình. HIện nay một số công ty đã tiến hành chuyển dổi sang mô hình này và đã đạt được những thành công đáng kể, năng suất sản lượng tăng lên rõ rệt mặc dù lao động dược giảm bớt. _ Tiếp tục đổi mới căn bản cơ chế quản lý các dự án đầu tư với tư cách là đại diện chủ sử hữu vốn tại DNNN , các cơ quan quản lý nhà nước chỉ nên phê duyệt dịnh hướng vào những dự án đầu tư có giá trị từ 50% vốn điều lệ của doanh nghiệp trở lên. Tầm quan trọng của mỗi dự án phụ thuộc vsào điều kiện cụ thể của từng doanh nghiệp. Việc phân biệt tầm quan trọng của các dự án theo kiểu phân loại A, B, C, như hiện nay là không hợp lý. _ Tách việc thực hiện các chính sách xã hội ra khỏi hoạt động kinh doanh. Kinh doanh là hoạt động kiếm lời. Thực hiện chính sách xã hội thuộc trách nhiệm của nhà nước. Giá cả của sản phẩm cần được xác định trên cơ sở giá thị trường. NHà nước yêu cầu doanh nghiệp bán sản phẩm cho các đối tượng thuộc diện bảo đảm chính sách xã hôị thì nhà nước phải bù chênh lệch cho doanh nghiêp hoặc có các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về thị trường, về thuế, về tín dụng, về đào tạo, về chuyển giao công nghệvv.. Kết luận Chủ trương chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghiã là một thành tựu to lớn của Đảng ta.Trong những năm vừa qua, nền kinh tế Việt Nam liên tục phát triển đồng thời từng bước hội nhập vào tiến trình phát triển hiện đạI của nền kinh tế toàn cầu, làm cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đạI hoá của Việt Nam đạt được những kết quả to lớn. Tuy nhiên con đường đI đến đích xã hội chủ nghĩa còn nhiều gian nan, thử thách.Trên con đường này, hai nhân tố quan trọng giúp cho nền kinh tế nước ta đI đúng hướng chính là vai trò quản lý kinh tế của nhà nước và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước.Vai trò của nhà nước là bảo đảm ổn định chính trị, kinh tế, xã hội; định hướng cho sự phát triển kinh tế, đIều tiết để kinh tế phát triển ổn định; đảm bảo cho nền kinh tế phát triển có hiệu quả; Khắc phục và hạn chế các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực hiện công bằng xã hội. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước thể hiện ở chỗ kinh tế nhà nước là lực lượng mở đường, hỗ trợ và định hướng cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo mục tiêu kinh tế, xã hội của đất nước; Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất để nhà nước đIều tiết và quản lý vĩ mô nền kinh tế; Kinh tế nhà nước là đòn bẩy để tăng trưởng kinh tế và giảI quyết các vấn đề xã hội. Mặc dù trước đây chưa có tiền lệ sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội nhưng bằng lý luận và những thực tiễn bước đầu ở Việt Nam chứng tỏ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không phảI là ảo tưởng mà là có thể thực hiện được nếu biết kết hợp vai trò quản lý của nhà nước cùng với vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước để đảm bảo tính định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế đồng thời không ngừng nỗ lực tăng cường hiệu quả hoạt động của hai nhân tố này. Hiện tạI vai trò quản lý kinh tế của nhà nước ta cũng như vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước tuy đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng nói chung vẫn còn nhiều yếu kém. Có nhiều nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan nhưng nguyên nhân chính là do nền kinh tế thị trường mới được hình thành nên những tư tưởng, quan niệm cũ của cơ chế kế hoạch hoá vẫn còn tồn tạI, ngoàI ra là do sự thụ động, thiếu tìm tòi sáng tạo của đội ngũ quản lý. Tuy nhiên nếu chúng ta thực hiện tốt những giảI pháp được đưa ra và cùng với quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, nhất định công cuộc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam sẽ thành công. Tài liệu tham khảo Tạp chí Lý luận chính trị, số 3- 2004, số 8- 2004 Tạp chí kinh tế và phát triển Tạp chí Cộng sản, số 18( tháng 9 năm 2004) Giáo trình Kinh tế học chính trị Mác-Lênin-Nxb Chính trị quốc gia Tạp chí Kinh tế và dự báo số 5/2004 Tạp chí quản lý kinh tế Mục lục I. Lý luận chung về kinh tế thị trường( KTTT) định hướng XHCN. .......................... 1 2. Kinh tế thị trường..................................................................................................... 1 1.1. Khái niệm KTTT ............................................................................................................... 1 1.2. Cơ chế thị trường ............................................................................................................. 1 2. Kinh tế thị trường định hưỡng XHCN...................................................................... 3 2.1. Khái niệm KTTT định hướng XHCN ............................................................................ 3 2.2. Sự khác nhau giữa kinh tế thị trường TBCN và KTTT định hướng XHCN ............ 3 3. Những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN của nền KTTT ở VN ............... 5 3.1. Vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước............................................................................ 5 3.1.1 Chức năng quản lý kinh tế của Nhà nước .................................................................. 5 3.1.2. Nội dung quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam ....................................................................................................10 3.1.3. Các công cụ quản lý kinh tế của nhà nước XHCN ở Việt Nam ............................11 3.2. Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. ...................................................13 3.2.1. KháI niệm thành phần kinh tế nhà nước .................................................................13 3.2.2. Vì sao kinh tế nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo.....................................................15 3.2.3 Nội dung vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước ..................................16 II. Thực trạng những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN của nền KTTT ở nước ta .......................................................................................................................... 18 1. Thực trạng vai trò quản lý kinh tế của nhà nước ......................................................... 18 1.1 Mặt mạnh trong quản lý kinh tế của nhà nước ta .......................................................18 1.2 Mặt yếu trong quản lý kinh tế của nhà nước ta ...........................................................19 1.3 Nguyên nhân những mặt yếu kém trong quản lý kinh tế của nhà nước ta ............. 20 2. Thực trạng về vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước ...............................21 III Nhứng giải pháp tăng cườngvai trò quản lý của nhà nước và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước................................................................................ 25 1. Những giải pháp tăng cường vai trò quản lý kinh tế của nhà nước ...........................25 2. Những giải pháp tăng cường vai trò chủ đạo của thnah phần kinh tế nhà nước, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước .......................................................................26 Kết luận Tài liệu tham khảo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Những nhân tố bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở Việt nam.pdf
Luận văn liên quan