Luận văn Phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông công nghiệp - Dịch vụ ở tỉnh Bến Tre (2000 2010)

Luận văn góp một phần nhỏ vào việc xác định trình độ lao động và tình hình phân công lao động đã được thể hiện ở thực trạng sản xuất của các ngành kinh tế trong tỉnh; khẳng định các chỉ tiêu kinh tế của tỉnh nhằm hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế nông -công nghiệp - dịch vụ hiện đại từ nay đến năm 2010, từ đó đề ra những giải pháp cần thiết có thể phân công lao động hợp lý hơn nhằm đạt được chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh. Về lâu dài, Bến Tre cần có một chiến lược phát triển kinh tế xã hội, về quy hoạch phát triển kinh tế từng ngành, từng vùng mà tương ứng với nó là phải xây dựng một chiến lược khoa học về đào tạo nguồn lao động, về phân công lao động xã hội ở Bến Tre cho hiện tại và tương lai.

pdf83 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3278 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông công nghiệp - Dịch vụ ở tỉnh Bến Tre (2000 2010), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ủa nước ta hiện nay cho thấy nơi nào có nền công nghiệp, dịch vụ phát triển chậm, nơi đó sẽ tụt hậu càng xa hơn. Bài học đó có ý nghĩa chung cho cả nước cũng như đối với Bến Tre nói riêng. Vậy muốn không rơi vào con đường luẩn quẩn, muốn không bị tụt hậu thì phần công lao động xã hội phải hướng vào công nghiệp và dịch vụ. 3.1.3.2. Phân công lao động trong nội bộ ngành kinh tế Thực tế lịch sử kinh tế xã hội đã chỉ rõ, để tăng năng suất lao động thì sự phân công lao động trong nội bộ ngành nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan trọng trong giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hóa, vì nền sản xuất nông nghiệp nhỏ, tự túc tự cấp không thể làm cơ sở cho sự phát triển của công nghiệp. Nhằm thỏa mãn những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chung đến năm 2010, việc bố trí quy hoạch các ngành và cũng từ đó phân công lao động cho thích hợp ở Bến Tre sẽ là nông - lâm - ngư và công nghiệp. Trong điều kiện đất nông nghiệp coi như bão hòa và năng suất một số cấy trồng khó có thể tăng nhanh, các mục tiêu phát triển về nông nghiệp nhằm vào đảm bảo chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa, gia tăng thu nhập và hiệu quả sản xuất, tạo nhiều việc làm, tạo tiền đề cho một nông thôn hiện đại, phát triển toàn diện, đa dạng, cân đối và bền vững. Về công nghiệp, dựa trên cơ sở những quan điểm phát triển công nghiệp chung của cả nước và xuất phát từ đặc điểm riêng của Bến Tre về vị trí địa lý, tiềm năng các nguồn lực thì quan điểm phân bố công nghiệp và cũng chính là quan điểm phân công lao động công nghiệp được xác định là: phân bố công nghiệp gắn với phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hóa. Trước mắt ưu tiên những nơi có điều kiện cơ sở hạ tầng thuận lợi, tạo cơ hội giảm chi phí sản xuất, nâng cao khả năng cạnh tranh. Từng bước đưa công nghiệp về các vùng nông thôn theo hướng bố trí các xí nghiệp vệ tinh các điểm công nghiệp... đặc biệt là các loại hình công nghiệp quy mô nhỏ nhằm thúc đẩy công nghiệp tập trung ở những nơi có cơ sở hạ tầng thuận lợi nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển công nghiệp giảm chi phí đầu tư có điều kiện quản lý ô nhiễm môi trường. Riêng các ngành thuộc khu vực dịch vụ, các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, văn hóa xã hội sẽ được bố trí cân đối với nhu cầu phát triển và khả năng của nền kinh tế. Trong nội bộ ngành nông nghiệp, về trồng trọt, chỉ tiêu năm 2010, cây lương thực sẽ chiếm 24,5% diện tích đất nông nghiệp (năm 1998 là 36,5%), 23,7% giá trị sản xuất. Sản lượng dự kiến sẽ tăng từ 348 ngàn tấn năm 1998 lến 420 ngàn tấn năm 2010, bình quân trên 270 kg/người. Cây ăn quả dự kiến phát triển nhanh với diện tích từ 32 ngàn ha năm 2000 lên 41 ngàn ha năm 2010; chiếm 29,5% diện tích, 37,7% giá trị sản xuất. Về cơ cấu cây trồng cũng sẽ chuyển dịch theo hướng cây lâu năm ngày càng chiếm ưu thế hơn cây hàng năm, để đến năm 2010 tỷ lệ giữa cây - cây lâu năm sẽ là 43 - 57%. Cây công nghiệp ngắn ngày giảm nhẹ diện tích, ổn định khoảng 15.500 ha, cây công nghiệp dài ngày vẫn giữ khoảng 33 ngàn ha, có thể phát triển thêm một số ít và đẩy mạnh tiến trình cải tạo, đầu tư thâm canh. Về chăn nuôi, gồm nuôi gia súc gia cầm, nuôi thủy sản. Sự cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi đòi hỏi phải phân bố một lực lượng lao động thích đáng cho chăn nuôi để đáp ứng nhu cầu về thực phẩm cho địa phương và cho cả việc trao đổi trong nước và quốc tế. Vì thế cơ cấu giữa trồng trọt và chăn nuôi của Bến Tre cần đạt là: Chỉ tiêu (%) 2000 2005 2010 Giá trị sản xuất Trồng trọt 69,4 67,1 63,3 Chăn nuôi 30,6 32,9 36,7 Giá trị tăng thêm Trồng trọt 73,8 73 70,7 Chăn nuôi 26,2 27 29,3 Trong chăn nuôi, quy hoạch và phân bố nuôi thủy sản tăng nhanh, thu hút lực lượng lao động nhiều hơn, giá trị sản xuất sẽ tăng nhanh năm (2000 là 1365 tỷ đồng, năm 2005 là 2167 tỷ và năm 2010 là 3369 tỷ). Nuôi gia xúc gia cầm tuy có tăng về sản lượng nhưng không phân bố thêm lực lượng lao động mà đòi hỏi nâng cao trình độ của người lao động. Việc phát triển rộng rãi các ngành, nghề khác trong nông thôn cũng là một hướng quan trọng của phân công lao động mới, vì sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ, ở những vùng sản xuất nhiều vụ thì tính thời vụ càng nghiêm ngặt. Riêng Bến Tre, tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn năm 1999 mới đạt 74,02%, thực tế đó đòi hỏi một mặt phải cơ giới hóa và cải tiến công cụ để hạn chế tính nghiêm ngặt của mùa vụ, mặt khác phải phát triển các nghề để tận dụng tối đa nguồn lao động có lúc nhàn rỗi. Xét về mặt lịch sử phát triển của phân công lao động xã hội thì đây là bước phân công tất yếu giữa nông nghiệp và thủ công nghiệp đã từng diễn ra ở nước ta và nhiều nước khác.Trong điều kiện Bến Tre hiện nay, đây chính là một hướng phân công lao động hết sức quan trọng vừa phục vụ yêu cầu thâm canh tăng năng suất lao động trong nông nghiệp vừa sử dụng tốt nguồn lao động xã hội. Ngành công nghiệp ở Bến Tre từ 1990 đến 1999 tỷ lệ liên tục giảm trong tổng sản phẩm của tỉnh, nếu tính cả tiểu thủ công nghiệp và xây dựng thì năm 1990 chiếm 17,7%, đến năm 1999 còn 10,4%. Vì vậy, muốn cho nền kinh tế phát triển cần xác định chỉ tiêu phấn đấu cho công nghiệp, phân công lao động trong nội bộ ngành công nghiệp. Mục tiêu phát triển công nghiệp của Bến Tre từ nay đến năm 2010 là: công nghiệp cần khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên hiện có và các nguồn nguyên liệu từ nông sản như lương thực, mía, trái cây. Nâng cao giá trị chế biến bằng các biện pháp tinh chế sâu, đa dạng hóa mẫu mã sản phẩm. Công nghiệp cần đáp ứng yêu cầu cao nhất của nhiệm vụ phát triển kinh tế biển, một thế mạnh đặc thù của Bến Tre. Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp, hội nhập với thị trường ASEAN và thế giới. Do đó, cần từng bước chuyển dịch cơ cấu nội bộ các ngành công nghiệp theo hướng vừa tạo được mối liên kết công nghiệp, vừa tạo sự chuyển dịch từ công nghệ thấp, từng bước chuyển sang công nghệ cao, tạo khả năng nâng cao năng suất và chất lượng. Phấn đấu đến năm 2010 tỷ lệ công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp trong tổng sản phẩm của tỉnh tăng dần lên từ 8,2% năm 1998 lên 10% năm 2005 và đến 14% năm 2010. Nhằm thực hiện phân công lao động trong nội bộ ngành công nghiệp, Bến Tre sẽ hoạch định 4 cụm công nghiệp tập trung chính: Cụm công nghiệp phường 8 - Phú Hưng - Mỹ Thạnh (60 ha). Cụm công nghiệp Tân Thạch (20 ha) Cụm công nghiệp An Hiệp (30 ha) Cụm công nghiệp Tân Phú - Phúc Túc (20 ha) Ngoài ra sẽ bố trí một số cụm công nghiệp quy mô nhỏ (10 ha) ở các huyện như cụm công nghiệp Chợ Lách, cụm công nghiệp Tiệm Tôm huyện Ba Tri, cụm công nghiệp Bình Thắng (Bình Đại), cụm công nghiệp Nhuận Phú Tân (Mỏ cày). Với quy hoạch các khu công nghiệp như trên, Bến Tre đề ra chỉ tiêu cụ thể một số ngành công nghiệp chính như: Công nghiệp xay xát đảm bảo sản lượng xay xát đạt 390 ngàn tấn vào năm 2010. Công nghiệp chế biến đường đạt 10 tấn mía cây /ngày ở nhà máy đường An Hiệp. Củng cố các cơ sở sản xuất nước mắm hiện có, phấn đấu nâng cao độ đạm từ 12% lên 16% vào năm 2001; tăng sản lượng tiêu thụ từ 5,1 triệu lít năm 1999 lên 5,7 triệu lít vào năm 2010. Ngoài ra, tỉnh còn vạch chỉ tiêu cụ thể cho một số công nghiệp chế biến khác như nước khoáng, thủy sản, trái cây, dừa; công nghiệp may mặc, gia công giầy thể thao, công nghiệp cơ khí phục vụ các ngành nghề khác. Như vậy, việc quy hoạch cụm công nghiệp, xác định các mũi công nghiệp chính và đề ra chỉ tiêu phấn đấu cũng chính là vạch hướng phân công lao động cho nội bộ ngành công nghiệp, nó vừa góp phần giải quyết nạn tồn đọng một số mặt hàng nguyên liệu của tỉnh vừa góp phần thiết thực sử dụng tốt nguồn lao động xã hội. 3.1.3.3. Phân công lao động giữa các vùng kinh tế trong tỉnh ở nước ta vấn đề phân bố lao động và dân cư giữa các vùng trong nước diễn ra một cách tự phát và cả tự giác liên tục cả quá trình công nghiệp hóa. Đây là việc nhằm khai thác tiềm năng của đất nước và nó còn mang ý nghĩa quan trọng trong việc kết hợp xây dựng kinh tế với củng cố quốc phòng. Đối với toàn bộ nền kinh tế cũng đối với mỗi ngành kinh tế, đi liền với phân công lao động theo ngành là phân công lao động theo vùng kinh tế. Ngành sản xuất nào đó có thể được sản xuất trên nhiều vùng lãnh thổ, một vùng lãnh thổ có thể chỉ có một ngành, có thể có nhiều ngành sản xuất khác nhau, do đó vùng lãnh thổ có thể phát triển chuyên môn hóa sản xuất, có thể phát triển sản xuất tổng hợp nhiều ngành. Vùng kinh tế được hình thành do yêu cầu sản xuất và những tất yếu kỹ thuật hình thành, nó được phân chia theo sự chuyên môn hóa của và theo kết cấu của sản xuất. Trên địa bàn tỉnh có thể có nhiều vùng kinh tế khác nhau. Phân vùng kinh tế tạo điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng những thành tựu khoa học vào sản xuất, nâng cao trình độ tổ chức và quản lý kinh tế. Phân vùng kinh tế sẽ thúc đẩy sản xuất đi từ sản xuất nhỏ, riêng lẻ đến sản xuất tập trung, có quy mô lớn hơn, tạo điều kiện đi lên sản xuất lớn phù hợp với yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đây cũng là điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động từ đó chuyển dần một bộ phận lao động sang những ngành nghề mới hoặc bổ sung nguồn lao động cho những vùng khác. Phân vùng kinh tế mới có thể đảm bảo sự phát triển cân đối kinh tế của quốc gia, của một tỉnh, nó thúc đẩy quá trình phân công lao động xã hội, phân bố dân cư. Căn cứ vào đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, đã Bến Tre đã quy hoạch thành ba vùng kinh tế: - Vùng I, nước ngọt (tiểu vùng), gồm toàn bộ diện tích, huyện Chợ Lách và 9 xã của huyện Châu Thành với tổng diện tích 32.580 ha, chiếm 14,24% diện tích toàn tỉnh. Đây là vùng có điều kiện sản xuất nông nghiệp thuận lợi, thích nghi nhất cho kinh tế vườn với diện tích cụ thể cho các loại cây. Diện tích (ha) % so với toàn tỉnh Cây ăn trái 14.574 52,68 Dừa 2.486 7,85 Lúa 2.870 5,46 Về chăn nuôi, chủ yếu là nuôi gia cầm thả vườn và nuôi heo ở quy mô gia đình. - Vùng II là vùng lợ, gồm thị xã Bến Tre, huyện Mỏ Cày, huyện Giồng Trôm, một số xã thuộc huyện Bình Đại, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú với tổng diện tích 114.380 ha, chiếm 50,01% diện tích toàn tỉnh. Đây là vùng có diện tích lớn với diện tích rộng có đặc điểm tự nhiên chênh lệch nên vùng này được chia thành hai phân vùng IIa và IIb. + Phân vùng IIa là phân vùng có đặc tính lợ - ngọt chiếm ưu thế, với diện tích 49.730 ha chiếm 21,74% diện tích toàn tỉnh. Cây chủ lực của phân vùng này là dừa và vườn cây ăn trái, ngoài ra lúa và mía mỗi loại trên 5 ngàn ha. Diện tích (ha) % so với toàn tỉnh Dừa 11.679 36,90 Cây ăn trái 7.268 26,27 Lúa 5.463 10,40 Mía 5.443 33,92 + Phân vùng IIb với diện tích 64.650 ha, chiếm 28,27% diện tích toàn tỉnh, phân vùng này có cây chủ lực là lúa và mía, ngoài ra vườn dừa cũng chiếm 1/3 diện tích dừa của tỉnh, xu hướng chuyển dần đất trồng mía và dừa sang trồng cây ăn trái. Diện tích (ha) % so với toàn tỉnh Lúa 17.856 33,99 Dừa 9.867 31,18 Mía 8.914 55,56 Cây ăn trái 4.547 16,44 - Vùng III là vùng mặn, vùng này cũng được chia làm 2 phân vùng IIIa và IIIb. + Phân vùng IIIa gồm 8 xã của huyện Bình Đại, 10 xã của huyện Ba Tri và 7 xã của huyện Thạnh Phú với diện tích là 40.886ha, chiếm 17,88% diện tích toàn tỉnh. Phân vùng này trồng lúa và dừa, ngoài ra có một ít mía và cây ăn trái, rau màu trên vùng giồng cát. Diện tích (ha) % so với toàn tỉnh Lúa 24.884 47,37 Dừa 7.552 28,86 Mía 1.688 10,52 Cây ăn trái 1.266 4,58 + Phân vùng IIIb gồm 3 xã của huyện Bình Đại, 5 xã của huyện Ba Tri và 3 xã của huyện Thạnh Phú với tổng diện tích 40.870 ha, chiếm 17,87% diện tích toàn tỉnh. Đây là vùng đặc trưng cho sản xuất lâm ngư nghiệp, chỉ có một ít lúa, dừa phân tán và cây ăn trái, thổ cư trên giồng cát, chăn nuôi khác kém phát triển nên không đáng kể. Diện tích (ha) % so với toàn tỉnh Lúa 1.462 2,78 Dừa 65 0,21 Cây ăn trái 10 0,04 Trên đây là quy hoạch phân vùng kinh tế từ nay đến năm 2010 nhằm tổ chức sản xuất và phân công lao động xã hội chặt chẽ hơn, cũng từ đó có kế hoạch đầu tư nguồn lao động, đầu tư khoa học công nghệ vào sản xuất từng vùng cho thích hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế hiện có của Bến Tre. Ngoài phân vùng kinh tế, trong quy hoạch phát triển kinh tế của tỉnh đến 2010, tỉnh còn có quy hoạch xây dựng thị xã và hệ thống đô thị. Hiện nay, dân số đô thị ngày càng tăng, tính đến năm 1998 chiếm 113 ngàn người (8,75% dân số). Dân số các đô thị ngày càng tăng và chiếm tỷ trọng lớn trong dân số của tỉnh là xu hướng tất yếu của quá trình công nghiệp hóa hiện nay, nhưng số dân ở đô thị hiện có của Bến Tre có phần quá tải so với trình độ phát triển công nghiệp, nhất là thị xã, thị trấn. Do đặc điểm tình hình dân cư đô thị ở Bến Tre trước đây như: di dân tránh bom đạn trong chiến tranh, sau đó ở lại đô thị; số dân ở nông thôn ra đô thị làm việc trong các cơ quan nhà nước; số dân ở nông thôn thiếu việc làm ra đô thị buôn bán rong; số dân được đào tạo khoa học kỹ thuật còn ít, do vậy nhất thiết phải tiến hành quy hoạch và cải tạo đô thị theo hướng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Chỉ tiêu phát triển hệ thống cụm đô thị với khoảng 347 ngàn dân, bao gồm thị xã Bến Tre đạt tiêu chuẩn đô thị loại 3, thị trấn Mỏ Cày và Ba Tri thành đô thị loại 4; còn 5 thị trấn trung tâm các huyện khác thành đô thị loại 5; nâng 4 tiểu đô thị (Tiên Thủy, Lộc Thuận, Phước Mỹ Trung, Hương Mỹ) thành các thị trấn và nâng cấp 20 thị tứ. Trong thời gian tới, từng bước tái bố trí và bổ sung các khu chức năng nội thị, chỉnh trang phát triển và bổ sung hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng phúc lợi xã hội, các công trình công cộng đồng bộ với phát triển kinh tế - xã hội và tương ứng với phần đô thị mở rộng. 3.1.3.4. Về mối quan hệ trong phân công lao động giữa kinh tế với quốc phòng kỹ thuật, đầu tư giống,... còn đòi hỏi nguồn lao động có trình độ chuyên môn cao, lao động trẻ, khỏe, nên cần đầu tư có trọng điểm trong điều kiện hiện nay, xác định vùng kinh tế trọng điểm, tổ chức sản xuất theo quy hoạch sẽ thúc đẩy phân công lao động. Xuất phát từ đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội của Bến Tre, UBND tỉnh đã đề ra các chương trình kinh tế trọng điểm gắn với vùng kinh tế như: chương trình phát triển kinh tế vườn nằm trong vùng ngọt, nhằm ổn định và hoàn chỉnh dần diện tích canh tác (52,68% diện tích của tỉnh dành cho trồng cây ăn quả - 14.574 ha); các cây, con trọng điểm có năng suất chất lượng và hiệu quả cao, đủ sức cung cấp cho thị trường trái cây tươi trong nước và ra nước ngoài, cung cấp bình ổn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong tỉnh và trong vùng. Chương trình phát triển kinh tế biển nằm trong phân vùng IIIb (vùng mặn), nhằm ổn định và hoàn chỉnh dần diện tích nuôi trồng là 39.333 ha, phát triển việc nuôi trồng trọng điểm và lực lượng dánh bắt để việc đánh bắt có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao, đủ sức cung cấp cho thị trường tiêu thụ tưới ksống trong nước và cả ra nước ngoài, cung cấp bình ổn nguyên liệu cho công nghiệp chế biến trong tỉnh và trong vùng. Chương trình công nghiệp hóa nhằm tăng nhanh tốc độ phát triển công nghiệp và các ngành tiểu thủ công nghiệp nằm rải rác ở các vùng kinh tế của tỉnh với số vốn đầu tư dự kiến là 3.049 tỷ đồng. Trong các chương trình trọng điểm nêu trên, chương trình phát triển kinh tế biển là chương trình trọng điểm ưu tiên hàng đầu. Bến Tre là một tỉnh có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú lại ở vào phía Đông Nam của đất nước, thuận tiện cho việc giao thông đường thủy với các tỉnh lân cận, với khu vực Đông Nam bộ và cả các nước trong khu vực Đông Nam á. Trong lịch sử Bến Tre là nơi tiếp nhận vũ khí từ Bắc vào Nam để chống ngoại xâm, nhưng cũng là nơi chiến tranh khốc liệt trên bộ và cả trên sông. Trong xây dựng đất nước, Bến Tre đã và đang cùng cả nước luôn sẵn sàng chống lại mọi âm mưu và thủ đoạn nô dịch từ bên ngoài. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta đã chỉ rõ: "Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước. Không ngừng nâng cao giác ngộ và cảnh giác chính trị của nhân dân, xây dựng vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân, kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân trong điều kiện mới, với những lực lượng nòng cốt tinh nhuệ" [12, tr.16 - 17]. Mặc dù hiện nay đất nước hòa bình, ổn định kinh tế - xã hội, nhưng phân công lao động hợp lý, quy hoạch dân cư cũng là bố trí lực lượng sẵn sàng chiến đấu trên mọi lĩnh vực. Thực hiện phân công lao động làm tăng năng suất lao động xã hội đồng thời cũng làm cho an ninh quốc phòng được cungr cố vững chắc. Hiện nay, Bến Tre với 783.818 người dân trong độ tuổi lao động, trong đó nam giới ở độ tuổi sẵn sàng chiến đấu bảo vệ ở cơ sở là 204.482 người, vì thế tỉnh đã quy hoạch và tiến hành phân bố lao động cho vùng biên giới phía Đông, nhằm chăn nuôi và khai thác thủy sản, đồng thời về lâu dài cũng tạo thành thế phòng thủ mới cho tỉnh và cho đất nước. Mặt khác, tỉnh đã có quy hoạch toàn diện lực lượng sản xuất và phân bố dân cư như sắp xếp mạng lưới các đô thị, cụm công nghiệp, bố trí lại các điểm dân cư ở nông thôn. Tất nhiên, quy hoạch này sẽ được điều chỉnh cùng với sự phát triển về khoa học kỹ thuật và những nhận thức mới về an ninh quốc phòng. 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện phân công lao động theo hướng hoàn thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre Theo định hướng phát triển của Bến Tre là từ nay đến năm 2010 nền kinh tế - xã hội của tỉnh sẽ tiến tới hoàn chỉnh dần cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ tạo cơ sở những năm sau đó chuyển dịch thành cơ cấu kinh tế công - nông nghiệp và dịch vụ phát triển góp phần quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long. Từ định hướng trên, một trong những chỉ tiêu cơ bản mà tỉnh phấn đấu là GDP bình quân đầu người đạt khoảng 560 - 600 USD vào năm 2010. Để đạt được chỉ tiêu đề ra ngoài những giải pháp như tỉnh đã đề ra như: huy động vốn đầu tư, khai thác và sử dụng hiệu quả các tài nguyên thiên nhiên, phát triển nguồn nhân lực, đẩy mạnh hợp tác kinh tế trong ngoài nước, mở rộng và hoàn thiện thị trường ; Bến Tre cần thực hiện một số giải pháp để đẩy mạnh phân công lao động như sau: 3.2.1. Đẩy mạnh việc phân bổ lao động vào các ngành, nghề trong các vùng kinh tế Phân chia vùng kinh tế nhằm đầu tư đúng hướng sức người, sức của vào phát triển các ngành, nghề phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể nhằm đạt năng suất lao động cao hơn, tạo ra thu nhập cao cho người lao động, qua đó mà tăng cường năng lực tích lũy cho quá trình tái sản xuất mở rộng. Như trên đã nói, trong quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010, tỉnh Bến Tre đã hình thành 3 vùng kinh tế, phân định ranh giới, diện tích và hoạch định những ngành, nghề cụ thể có thể phát triển có hiệu quả. Đối với vùng ngọt (vùng I), về chăn nuôi, có cơ cấu chủ yếu là chăn nuôi gia cầm và chăn nuôi heo trên quy mô gia đình. Nhưng nhu cầu của địa phương rất đa dạng và phong phú, vì vậy, quy hoạch nuôi heo, nuôi gia cầm là chưa đủ mà cần đưa vấn đề xây dựng nghề cá nước ngọt; vì lượng ao, đầm, mương vườn vùng ngọt không phải nhỏ, nhưng việc nuôi tôm nước ngọt mới đưa vào thí điểm và chắc chắn rằng nuôi tôm không phải dễ lại thêm chi phí rất cao. Trên thực tế, hàng ngày địa phương vẫn phải đưa cá nước ngọt từ các tỉnh lân cận về để đáp ứng nhu cầu của nhân dân địa phương, mặc dù lượng cá biển có thừa, do đó nghề nuôi cá nước ngọt không thể không đặt ra. Về quy hoạch dân cư cho các vùng. Chúng ta đều biết trong quá trình sản xuất đòi hỏi sự két hợp lao động - tư liệu lao động và đối tượng lao động. ở Bến Tre đối tượng lao động trong tự nhiên thì nhiều như biển cần khai thác, ao hồ cần nuôi thả, đất đai cần tăng vụ; về tư liệu lao động, tỉnh có kế hoạch đầu tư cho từng ngành, nhưng về lao động cần phải có quy hoạch dân cư cho các vùng chưa được đề cập cụ thể. Trong phân công lao động xã hội, nhân khẩu là một yếu tố quan trọng và cần tập trung ở mức độ nhất định thì mới có thể thực hiện được sự phân công lao động, vì nếu trong vùng kinh tế có dân cư quá ít thì không thể phát triển ngành nghề. Tuy nhiên, vấn đề này còn tùy thuộc vào điều kiện sản xuất của từng địa phương, nhưng mật độ dân số đến một mức độ nhất định cho nhu cầu phát triển kinh tế vẫn là một nội dung có tỉnh quy luật của phân công lao động xã hội. Trong quá trình phân công lao động xã hội, nhiều địa phương rất quan tâm đến việc phân bố lao động và dân cư giữa các vùng trong tỉnh cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ . Riêng Bến Tre, vấn đề phân bổ lao động và dân cư giữa các địa bàn trong tỉnh đã diễn ra trong lịch sử và trong quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa qua theo thực tế khách quan. Nhưng để đạt được mục tiêu kinh tế - xã hội đề ra cho năm 2010, tỉnh cần chủ động phân bố lại dân cư cho các vùng kinh tế, nhằm khai thác mọi tiềm năng của địa phương mà còn mang ý nghĩa quan trọng trong việc kết hợp kinh tế với củng cố an ninh quốc phòng. Suốt 15 năm qua, công cuộc đổi mới đất nước đã mang lại những thành tựu kinh tế - xã hội đáng trân trọng, Bến Tre cũng hòa cùng với sự phát triển chung đó của xã hội. Bến Tre là tỉnh nông nghiệp chậm phát triển, trong đó có nguyên nhân do sự phân bố lực lượng lao động chưa hợp lý nên chưa khai thác hết và có hiệu quả các tiềm năng kinh tế của tỉnh, vì vậy muốn phát triển kinh tế, thực hiện dần công nghiệp hóa các lĩnh vực, kết hợp giữa kinh tế và quốc phòng thì công việc cấp bách hiện nay là bố trí lại lực lượng lao động, phân bổ lại dân cư và vào các vùng, ngành kinh tế. Sự phân công lao động và phân bố dân cư giữa các vùng kinh tế trong tỉnh đòi hỏi cần được quán xuyến trong suốt quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình công nghiệp hóa. Nội dung của việc bố trí lực lượng lao động giữa các vùng trong tỉnh hiện nay là giảm bớt số dân cư ở thành thị khi công nghiệp chưa yêu cầu tập trung quá đông đúc; sắp xếp lại các điểm dân cư cho từng huyện, xã. Phân công lao động kết hợp với phân bố dân cư hiện nay ở Bến Tre chủ yếu là để phát triển nông, ngư nghiệp. Khi có cơ sở nông, ngư vững chắc, thì tập trung sức phát triển công nghiệp; từ đó tiếp tục phân công lao động và tập trung dân cư, mở mang các khu kinh tế công nghiệp, dần dần hình thành những đô thị mới. Tóm lại, phân công lao động giữa các vùng trong tỉnh cần phát huy tính chủ động sáng tạo nghề của nhân dân lao động, chú trọng hơn nữa vấn đề bảo vệ môi trường, chú ý những mặt hàng tuy không xuất khẩu nhưng đáp ứng nhu cầu của địa phương và cần kết hợp chặt với việc phân bố dân cư mới mong đạt mục tiêu kinh tế - xã hội của năm 2010 và chuẩn bị phát triển công nghiệp giai đoạn tiếp sau. 3.2.2. Phân công lao động giữa các ngành sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất cho hợp lý Phân công lao động dưới chế độ xã hội mới trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỷ trọng lao động phân bố cho các ngành kinh tế quốc dân sẽ chuyển biến theo hướng là lao động trong các ngành công nghiệp, giáo dục, y tế, khoa học, dịch vụ tăng lên; còn lao động trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, trong bộ máy quản lý Nhà nước giảm xuống. Phân công lao động giữa các ngành sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất là một trong những quan hệ tỷ lệ quan trọng của phân công lao động xã hội. ở những ngành sản xuất vật chất phát triển căn cứ vào số lượng người lao động tăng lên và năng suất lao động tăng, trong đó năng suất lao động quyết định đối với việc tăng của cải vật chất cho xã hội. ở những ngành không sản xuất vật chất, việc tăng khối lượng và mở rộng phạm vi phục vụ quần chúng gắn liền với việc số lượng lao động tăng lên ở những ngành này. Bến Tre là một tỉnh nông nghiệp, dân số nông nghiệp ngày càng tăng (1990 là 1.028 ngàn người, 1998 là 1.105 ngàn người), tỷ lệ cũng tăng từ 83,41% lên 85,45% dân số. Dân số phi nông nghiệp ngày càng giảm (năm 1990 là 16,59%, năm 1998 là 14,55%). Thực trạng trên cho thấy lao động ở ngành nông nghiệp của Bến Tre còn quá lớn, điều này sẽ ảnh hưởng nặng nề cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Mặt khác, nó cũng thể hiện trình độ mọi mặt của những người lao động ở những ngành không sản xuất vật chất cũng thấp, vì lao động trong những ngành này đều có tác động qua lại lẫn nhau. Do vậy, trong công tác quản lý điều hành chung của tỉnh, cần có sự chỉ đạo để chọn lọc và chủ động hơn nữa trong việc phân công lao động giữa các ngành sản xuất vật chất và các ngành không sản xuất vật chất. Về vấn đề này C.Mác đã cho rằng: "Với một số lượng sản phẩm như nhau, nhưng nếu số người sản xuất càng ít so với số người không sản xuất thì một nước lại càng giàu hơn. Bởi vì số lượng tương đối ít của người sản xuất chỉ là một biểu hiện khác của mức tăng tương đối của năng suất lao động" [9, tr.302]. Trong công cuộc xây dựng xã hội mới ở nước ta, xu hướng chung là: + Giảm số lượng lao động trong các cơ quan quản lý hành chính hoặc tăng với nhịp độ rất chậm bằng con đường cải tiến và hoàn thiện các cơ quan Nhà nước. + Tăng nhanh số lượng lao động trong các ngành khoa học, văn hóa, giáo dục, bảo vệ sức khỏe và mở rộng dịch vụ công cộng. ở thời kỳ đầu của công cuộc xây dựng xã hội mới, việc xây dựng cơ cấu kinh tế phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh từng địa phương nhằm mở rộng phân công lao động tại chỗ, sử dụng càng cao quỹ thời gian lao động của cá nhân, của gia đình người lao động,... là điều cấp bách; tuy nhiên, cho đến nay ở những địa phương, đặc biệt là một số địa phương mà qua thời gian dài vẫn còn là tỉnh nghèo, trong đó có Bến Tre thì nên mạnh dạn sắp xếp lại lao động trong các ngành không sản xuất vật chất, để tất cả các ngành có thể tác động lẫn nhau, cùng nhau phát triển. 3.2.3. Đào tạo cán bộ quản lý, công lành nghề Tỉnh Bến Tre, sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, đã thu được nhiều thành tựu đáng kể trên nhiều mặt. Tuy nhiên, cho đến nay sự phát triển kinh tế của tỉnh vẫn chưa vững chắc, một trong những nguyên nhân dẫn đến nền kinh tế của tỉnh trong thời gian qua chậm phát triển, có những mặt còn yếu kém mà trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VI Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã nêu là: thiếu đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh và cán bộ kỹ thuật giỏi. Chúng tôi cũng phải thừa nhận rằng trong số 2.907 cán bộ sản xuất kinh doanh thì phần lớn có tuổi đời trẻ, có kiến thức và năng lực quản lý kinh doanh. Nhưng một bộ phận đội ngũ cán bộ "có trình độ và năng lực quản lý kinh tế - xã hội chưa ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mới, còn bất cập về nhiều mặt như: kiến thức về kinh tế thị trường , quản lý Nhà nước, pháp luật, kỹ năng hành chính, ngoại ngữ, tin học và kiến thức khoa học - công nghệ hiện đại"[29, tr.11]. Để đạt được chỉ tiêu kinh tế - xã hội đề ra cho năm 2010, cần xây dựng chiến lược cán bộ, trong đó có cán bộ quản lý kinh tế nhằm đào tạo cán bộ có kiến thức về kinh tế thị trường và quản trị doanh nghiệp, hiểu biết về khoa học công nghệ, pháp luật và thông lệ quốc tế; đào tạo cán bộ một cách có hệ thống theo từng ngành nghề, tránh tình trạng chắp vá, bổ nhiệm trước đào tạo sau như hiện nay. Việc bố trí sử dụng cán bộ quản lý cần chú trọng đến trình độ khoa học - công nghê, chọn người có lòng say mê đến công việc, có đầy tâm huyết để chăm lo cho việc phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động có chất lượng, cần tránh việc bố trí cán bộ chạy theo hình thức, chạy theo số lượng. Công tác quản lý kinh tế là hoạt động của con người, nó nằm trong hệ thống hoạt động nói chung của con người, cho nên nó có quan hệ mật thiết với các hoạt động khác của Đảng, của Nhà nước và của các tổ chức quần chúng. Do đó, nó cần có sự phối hợp chặt chẽ của cả hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa nhằm quản lý kinh tế không đi chệch hướng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm có sự hỗ trợ và điều chỉnh khi cần thiết. Do vậy, Tỉnh cần có chính sách bảo vệ sức khỏe cho người lao động, chính sách đối với giáo dục; thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ lao động đang làm việc để thích ứng với yêu cầu hiện tại về nhân lực. Báo cáo tại lớp nghiên cứu Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, giáo sư Trần Hồng Quân đã nhấn mạnh: "Công tác đào tạo phải giúp cho người lao động có thể thích ứng và cơ động trong thị trường sức lao động, có thể chuyển nghề, cho nên nội dung và phương pháp giáo dục - đào tạo phải có những thay đổi phù hợp với khoa học - công nghệ tiên tiến, với kinh tế công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với quan hệ và giao lưu quốc tế mở rộng... do đó đào tạo ban đầu chính quy cần theo diện rộng, có tính cơ bản, kết hợp với bồi dưỡng cập nhật thường xuyên" [14, tr.36]. Mặt khác, cần chú trọng công tác đào tạo đội ngũ lao động. Mặc dù đến cuối tháng 8 năm 2000 "số lao động được dạy nghề tăng từ 6,3% lên 8%" [23, tr.7], nhưng rõ ràng là còn quá thấp. Vì vậy, cần phải khôi phục các trường đào tạo nghề hiện có, mở rộng diện và đối tượng đào tạo nhằm bổ sung một số công nhân kỹ thuật có tay nghề vào phục vụ cho các ngành công nghiệp. Tăng cường quy mô đào tạo nghề bằng nhiều hình thức để đạt được tỷ lệ lao động qua đào tạo cao hơn. Ngoài ra, tỉnh cần có chính sách đưa một bộ phận lao động đi đào tạo ở các trung tâm đào tạo lớn qua việc tuyển chọn nhiều mặt và hỗ trợ kinh phí, nhằm tạo đội ngũ lao động kỹ thuật đầu đàn cho tỉnh. Kết hợp chặt chẽ xây dựng những chương trình đào tạo kỹ thuật và dạy nghề với việc giáo dục phổ thông tại địa phương. Cần xây dựng và thực hiện quy hoạch việc bố trí sử dụng, đãi ngộ chuyên viên và học viên tốt nghiệp nhằm giữ lại đội ngũ này, đồng thời thu hút những người lao động có tay nghề cao đang làm việc ở các tỉnh khác. Trong việc đào tạo đội ngũ lao động, ngoài việc đào tạo nghề chuyên biệt, cần chú trọng thêm việc giáo dục phẩm chất đạo đức tác phong; trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh ý thức trách nhiệm, tôn trọng pháp luật,... tinh thần tự hào dân tộc, địa phương, cần giáo dục để người lao động xóa đi mặc cảm phải làm thuê cho tư nhân trong điều kiện cần thiết khách quan hiện nay. Sử dụng lao động thích hợp còn đòi hỏi chính quyền lưu tâm hơn cho đội ngũ lao động kế tục, do vậy cần tổ chức phổ biến luật giáo dục đến toàn dân nhằm mở mang dân trí. Tỉnh nên có chính sách miễn giảm tất cả các khoản đóng góp của học sinh tiểu học và mầm non, có như vậy mới có điều kiện thực hiện chủ trương phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở, hạn chế tối đa tình trạng các em chưa đến tuổi lao động phải lao động nặng nhọc. Ngoài ra, chính quyền cũng cần quy định và có chính sách hỗ trợ buộc người lao động có trình độ học vấn nhất định theo độ tuổi, tạo điều kiện để nâng dần trình độ nghề nghiệp thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa các ngành kinh tế. Chính quyền cũng cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với những người lao động có trình độ cao, nhằm nâng cao tỷ lệ, lao động có tay nghề cao của tỉnh. 3.2.4. Bồi dưỡng, giáo dục các nhà kinh doanh trong các ngành tiểu, thủ công nghiệp nhỏ Mặc dù Bến Tre đã có đội ngũ các nhà kinh doanh công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; tuy nhiên, việc kinh doanh đem lại hiệu quả chưa cao, chưa thu hút nhiều lao động địa phương, chưa tiêu thụ hết nguồn nguyên liệu tại chỗ như dừa, trái cây khác; cho nên người nông dân phải bán dừa cho các tỉnh lân cận và cho Trung Quốc; trong khi nguồn lao động tại chỗ chưa sử dụng hết. Thực tế trên đòi hỏi phải đẩy mạnh bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ các nhà kinh tế để họ kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn. Bởi vì kinh doanh muốn đạt hiệu quả đòi hỏi người kinh doanh phải có kiến thức nhất định về chuyên môn sản xuất, về quản lý doanh nghiệp; phải nhạy bén với thị trường hàng hóa do mình sản xuất, nắm giữ thị trường và mở rộng thị trường sản phẩm của mình. Do vậy, chính quyền địa phương cần quan tâm bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ doanh nghiệp, vì đội ngũ này chưa đáp ứng yêu cầu hiện nay. Hơn nữa, trong số họ phần lớn đều xuất thân từ những người nông dân cá thể nhỏ, ít nhiều gì họ cũng còn ảnh hưởng nặng nề tư tưởng của người sản xuất nhỏ, chưa từng tổ chức sản xuất với quy mô rộng lớn. Đào tạo, bồi dưỡng để các nhà kinh doanh hiểu biết hơn về nghiệp vụ quản lý, về yêu cầu của một sản phẩm trên thị trường, nghiệp vụ quản lý sẽ được nâng dần trong thực tiễn quản lý kinh doanh; tuy nhiên, nhà doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ cũng cần được trang bị kiến thức tối thiểu về quản lý doanh nghiệp, về quan điểm đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta để họ thực hiện theo đúng chủ trương chính sách, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển. Đào tạo, bồi dưỡng để các nhà kinh doanh có tầm nhìn xa hơn, rộng hơn nhằm có kế hoạch lâu dài trong việc kinh doanh, vì phần lớn trong số họ, do thành phần xuất thân, nên khó tránh khỏi chỉ thấy lợi trước mắt mà quên việc kinh doanh lâu dài. Ngoài ra, đào tạo bồi dưỡng còn nhằm mục đích giúp các nhà kinh doanh đủ khả năng chuyển đổi nghề khi cần thiết. Để khuyến khích phát triển nghề mới, thúc đẩy phân công lao động, chính quyền địa phương cần có chính sách miễn thuế có thời hạn cho những nhà kinh doanh mới hình thành nghề mới hoặc giảm đáng kể thuế có thời hạn cho họ. Cần giúp đỡ tìm thị trường đầu tư hoặc thị trường bán hàng hóa có biện pháp ổn định, duy trì, phát triển thị trường đối với những sản phẩm mới của địa phương. 3.2.5. Xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng cơ sở Kết cấu hạ tầng là toàn bộ các ngành phục vụ các lĩnh vực sản xuất và không sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Sự phát triển các ngành của kết cấu hạ tầng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền sản xuất xã hội và nâng cao hiệu quả sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển thì vai trò của kết cấu hạ tầng sản xuất cũng tăng lên. ở Bến Tre, hệ thống kết cấu hạ tầng và công trình công cộng chưa đồng bộ, cho nên nó đã kìm hãm tốc độ phát triển của tỉnh trong những năm qua. Trong định hướng phát triển đến năm 2010, tỉnh có đề ra định hướng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và công trình công cộng đồng bộ như hệ thống giao thông chính kết hợp với các tuyến kinh tế đô thị, hoàn chỉnh hòa mạng bưu chính viễn thông, mở rộng và xây dựng mới các công trình y tế,... Tuy nhiên, tỉnh chưa có định hướng cho phát triển kết cấu hạ tầng và công trình công cộng ở cơ sở, nhưng xây dựng và phát triển kinh tế xã hội thì phải ở từng cơ sở, từng xí nghiệp. Nếu kinh tế ở cơ sở không phát triển được thì không thể nói kinh tế của tỉnh phát triển. Vì vậy, để thúc đẩy phân công lao động xã hội nhằm hoàn chỉnh dần cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ hiện đại, cần phải có chủ trương và giải pháp xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng cơ sở. Việc hoàn thiện dần kết cấu hạ tầng cơ sở ở nước ta nhiều địa phương đã tiến hành và đạt kết quả khá tốt. ở Bến Tre hiện nay: - Một là, chính quyền cần kêu gọi nhân dân thực hiện việc xây dựng những công trình phục vụ cho sản xuất và đời sống ở cơ sở, bởi vì trong điều kiện kinh tế hiẹn nay, tỉnh khó có thể chu toàn đến tận cơ sở xã, phường. - Hai là, chính quyền cần mạnh dạn kêu gọi tư nhân, kiều bào Việt Nam ở nước ngoài đầu tư xây dựng và thu hồi vốn dần qua sự đóng góp của nhân dân. Có như thế mới mong đạt chỉ tiêu kinh tế xã hội đề ra. Việc kêu gọi nhân dân đóng góp hay tư nhân thực hiện những công trình phục vụ cho sản xuất ở cơ sở đòi hỏi phải có sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, sự ký kết hợp đồng của Nhà nước, có như thế thì mọi việc phục vụ cho sản xuất mới đi đúng hướng xã hội chủ nghĩa. 3.2.6. Cần có chính sách hỗ trợ vốn cho những doanh nghiệp nhỏ nằm trong cơ cấu kinh tế cần khuyến khích Trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay, các nhà doanh nghiệp tư nhân cũng như của Nhà nước vẫn phải cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Trong điều kiện về vị trí địa lý của Bến Tre hiện nay, vấn đề đầu tư để phát triển ngành nghề tư ngoài tỉnh về rất hạn chế, những nhà đầu tư trong tỉnh mới nổi lên vài năm gần đây chủ yếu là phát triển tiểu thủ công nghiệp, vốn rất nhỏ bé. Do vậy, để cho việc cạnh tranh của các doanh nghiệp theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chính quyền địa phương không chỉ gọi vốn đầu tư trong và ngoài tỉnh, mà cần có chính sách hỗ trợ vốn cho những doanh nghiệp nhỏ. Bởi vì, chỉ có kiến thức quản lý thì chưa đủ, cần phải có vốn để đủ sức cạnh tranh hàng hóa trên thị trường trong nước và vươn ra cạnh tranh với nước ngoài trên nhiều mặt. Nhiều doanh nghiệp nhỏ chỉ có vốn cố định, còn vốn lưu động của họ rất ít cho nên họ rất dễ bị thua thiệt dẫn đến ngưng hoạt động khi gặp đối thủ mạnh, đặc biệt là từ ngoài tỉnh như: - Về khoa học công nghệ, Bến Tre cần đầu tư nhiều. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, đối với những cơ sở tiểu thủ công nghiệp cần một số vốn để tu chỉnh, trang bị những công cụ ở mức thấp cho phù hợp với trình độ của người lao động, nhằm duy trì số lao động đang sử dụng và có thể từng bước thu hút thêm lao động tạo sự ổn định về kinh tế xã hội của tỉnh. - Về nguồn nguyên liệu, thực tiễn đã cho chúng tôi thấy rõ rằng các doanh nghiệp nhỏ không đủ vốn để chuẩn bị nguyên liệu đưa vào sản xuất liên tục, họ đành phải cho lao động từng thời kỳ; có nghĩa là không sử dụng hết khả năng lao động của người lao động, do phải chờ vòng quay của quá trình sản xuất. Như vậy, khi vòng quay đã đến, cần đưa nguyên liệu về sản xuất thì lại không còn nguyên liệu, do các doanh nghiệp ngoài tỉnh đã thu gom hết. Thế là Bến Tre đã nghèo lại càng nghèo so với các tỉnh lân cận vì không sử dụng hết thời gian lao động, mặc dù có nguyên liệu, có lao động tại địa phương. - Về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Thị trường đòi hỏi chất lượng hàng hóa; khâu bảo quản, mẫu mã và cả về yêu cầu tiếp thị. Nhưng bảo quản hàng hóa, mẫu mã đòi hỏi một số vốn nhất định, do vậy việc hỗ trợ vốn cho các nhà kinh doanh nhỏ là điều cấp bách hiện nay. Về mặt này Bến Tre còn phải học hỏi nhiều ở các tỉnh bạn mới mong thoát khỏi cảnh nghèo nàn hiện nay. Về thị trường tiêu thụ sản phẩm, tỉnh cũng cần có chính sách khuyến khích nhân dân đầu tư công nghệ chế biến, trước mắt là sơ chế trái cây bằng cách giảm hoặc miễn thuế có thời hạn; triển khai thực hiện dự án xây dựng nhà máy chế biến trái cây sớm hơn, không đợi đến năm 2006. Ngoài ra, tỉnh cần tạo điều kiện để trung tâm thương mại có thể ký hợp đồng bán một số loại nông sản dài hạn cho các tỉnh hoặc ra nước ngoài. Đó là giải pháp tình thế về thị trường tiêu thụ, nhưng về lâu dài, tỉnh cần quan tâm đẩy mạnh công tác hướng dẫn chọn giống, hướng dẫn kỹ thuật để có năng suất chất lượng cao đủ sức cạnh tranh với các tỉnh và cả nước. Kết luận 1. Phân công lao động xã hội là một quá trình tất yếu khách quan của xã hội loài người. Mỗi quốc gia có những bước tiến về phân công lao động xã hội khác nhau. Đối với nước ta, việc phấn đấu đi lên xã hội hiện đại để được "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" từ một nước nông nghiệp lạc hậu thì không thể không đẩy mạnh phân công lao động xã hội trong tất cả các ngành, vùng kinh tế. Bến Tre không nằm ngoài xu thế chung của đất nước. 2. Phân công lao động xã hội là một quy luật của quá trình chuyển hóa sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, một yếu tố động và cách mạng trong mọi quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Phân công lao động xã hội ở Bến Tre cũng gồm nhiều nội dung, ở đây chúng tôi chỉ tập trung vài nét trong lĩnh vực kinh tế. Phân công lao động giữa các ngành kinh tế tập trung nghiên cứu thực trạng sản xuất của các ngành kinh tế để nắm bắt tình hình lao động và phân công lao động hiện nay. Từ đó nghiên cứu việc thực hiện phân công lao động nhằm khai thác có hiệu quả các lợi thế của tỉnh, hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế nông -công nghiệp - dịch vụ hiện đại đến năm 2010. Phân công lao động trong nội bộ ngành kinh tế được nghiên cứu thực trạng sản xuất của các ngành kinh tế, chỉ tiêu của tỉnh đến năm 2010 và quy hoạch cây trồng, vật nuôi, ngành sản xuất cụ thể, xác định các mũi kinh tế chính cũng là hướng phân công lao động trong nội bộ ngành. Phân công lao động giữa các vùng kinh tế trong tỉnh, tập trung nghiên cứu làm rõ điều cần thiết khách quan cho việc phát triển kinh tế, xác định các chỉ tiêu kinh tế đề ra cho các vùng cũng chính là đề ra hướng phân công lao động giữa các vùng kinh tế của tỉnh. Kết hợp phân công lao động tại chỗ với xây dựng vùng kinh tế trọng điểm, nghiên cứu những ưu thế của phân công lao động tại chỗ và hướng tập trung phát triển kinh tế ở vùng trọng điểm. Kết hợp phân công lao động với yêu cầu củng cố quốc phòng bảo vệ tổ quốc, nghiên cứu nguồn lao động trong độ tuổi sẵn sàng chiến đấu, khẳng định sức mạnh bảo vệ tổ quốc của người lao động, xác định vị trí kinh tế, quân sự vùng biển của Bến Tre trong hiện tại và mai sau. 3. Hiện nay nguồn lao động ở Bến Tre bộc lộ nhiều hạn chế: người lao động nhiều mà không mạnh, chưa có đội ngũ công nhân công nghiệp, công nhân lành nghề, còn một phần khá đông người lao động chưa có việc làm và thiếu việc làm, trình độ người lao động trực tiếp sản xuất nông nghiệp với năng suất lao động thấp, lao động công nghiệp rất ít; phân công lao động chủ yếu là tự phát. Công tác giáo dục - đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu cung cấp lao động có trình độ chuyên môn cao. Một bộ phận cán bộ sản xuất kinh doanh chưa đạt trình độ và nang lực quản lý kinh tế - xã hội ngang tầm với yêu cầu và nhiệm vụ mới, một bộ phận yếu về phẩm chất chính trị, đạo đức. Bên cạnh đó tội phạm và tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng. Những yếu kém trên đây có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân khách quan và cả chủ quan yêu cầu đặt ra cho Bến Tre hiện nay là phải tìm cách khắc phục những yếu kém, xây dựng cho được đội ngũ lao động thực sự đáp ứng yêu cầu hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ hiện đại và kể cả các ngành không sản xuất vật chất. 4. Để đáp ứng yêu cầu phân công lao động xã hội theo hướng hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ở Bến Tre cần có những giải pháp khoa học cụ thể. Trong phạm vi của một luận văn tốt nghiệp cao học, chúng tôi xác định một số giải pháp cụ thể là: Phân vùng kinh tế để phân công lao động gồm vùng ngọt, vùng lợ, vùng mặn nhằm đạt được chỉ tiêu kế hoạch đề ra, mà muốn thực hiện được điều đó cần phát huy tính nhạy bén sáng tạo của người lao động trong việc phát triển nghề, cần chăm lo giải quyết việc làm, kể cả những người lao động từ Bến Tre còn đang đi tìm việc nơi khác, cần quy hoạch dân cư cho từng vùng kinh tế của tỉnh. Cải tiến công tác quản lý kinh tế, mà muốn thực hiện được cần có chính sách đào tạo, sử dụng cán bộ và quan điểm sử dụng cán bộ của cả hệ thống chính trị. ổn định thị trường tiêu thụ sản phẩm qua việc thực hiện chính sách đầu tư công nghiệp chế biến, chính sách hướng dẫn chọn giống cây con, phát triển thêm nghề mới nhằm thực hiện tốt phân công lao động, xây dựng kết cấu hạ tầng cơ sở qua việc tổ chức nhân dân lao động cùng nhau thực hiện hoặc kêu gọi tư nhân đầu tư. Chủ động phân công lao động giữa các ngành sản xuất vật chất và các ngành không sản xuất vật chất để các ngành thúc đẩy nhau phát triển. Thực hiện một số chính sách cụ thể như tổ chức bồi dưỡng, đào tạo các nhà kinh doanh tiểu thủ công nghiệp nhỏ; sử dụng lao động thích hợp thể hiện ở chế độ chính sách đãi ngộ người lao động có tay nghề cao, chính sách đào tạo bồi dưỡng đội ngũ lao động; chính sách hỗ trợ vốn cho những doanh nghiệp nhỏ; xây dựng cơ sở hạ tầng. Những giải pháp đó là cần thiết và thực tế có khả năng thực hiện được. 5. Luận văn góp một phần nhỏ vào việc xác định trình độ lao động và tình hình phân công lao động đã được thể hiện ở thực trạng sản xuất của các ngành kinh tế trong tỉnh; khẳng định các chỉ tiêu kinh tế của tỉnh nhằm hoàn thiện dần cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ hiện đại từ nay đến năm 2010, từ đó đề ra những giải pháp cần thiết có thể phân công lao động hợp lý hơn nhằm đạt được chỉ tiêu kế hoạch của tỉnh. Về lâu dài, Bến Tre cần có một chiến lược phát triển kinh tế xã hội, về quy hoạch phát triển kinh tế từng ngành, từng vùng mà tương ứng với nó là phải xây dựng một chiến lược khoa học về đào tạo nguồn lao động, về phân công lao động xã hội ở Bến Tre cho hiện tại và tương lai. Tài liệu tham khảo [1]. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII, Báo nhân dân ngày 29-6-1996. [2]. Bộ lao động - Thương binh và xã hội (2000), Nxb Thống Kê. [3]. C.Mác - Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội. [4]. C.Mác - Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội. [5]. C.Mác - Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 6, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội. [6]. C.Mác - Ăngghen (1994), Toàn tập, tập 16, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội. [7]. C.Mác - Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, phần 1, Nxb CTQG - Sự thật, Hà Nội. [8]. C.Mác (1962), Hệ tư tưởng Đức, Nxb Sự thật, Hà Nội. [9]. C.Mác (1965), Các học huyết về giá trị thặng dư, Nxb Sự thật, Hà Nội. [10]. C.Mác - Ăngghen - Lênin - Xtalin (1977), Về phân công lao động xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. [11]. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ tỉnh Bến Tre. [12]. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội. [13]. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb CTQG, Hà Nội. [14]. Giáo sư Trần Hồng Quân (Tháng 9/1996), Kế hoạch phát triển giáo dục và đào tạo giai đoạn 1996 - 2000 và định hướng đến 2020, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. [15]. Giáo trình kinh tế học chính trị Mác - Lênin, Nxb CTQG Hà Nội, 1999. [16]. Lênin Toàn tập, tập 3, Nxb Tiến bộ Matxcơva, 1976. [17]. Sở khoa học công nghệ và môi trường (Tháng 5/1999), Báo cáo hiện trạng môi trường tỉnh Bến Tre. [18]. Sở Khoa học công nghệ và môi trường (tháng 10/1995), Đánh giá khái quát đặc điểm tự nhiên tài nguyên thiên nhiên tỉnh Bến Tre. [19]. Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Bến Tre (1998), Báo cáo kết quả điều tra đời sống kinh tế - xã hội hộ nghèo. [20]. Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Bến Tre (ngày 15/5/2000), Báo cáo về việc thực hiện công tác giải quyết việc làm của Trung tâm dịch vụ việc làm. [21]. Sở Lao động - Thương bình và xã hội Bến Tre (6/6/2000), Báo cáo công tác giới thiệu lao động đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài (từ 1998 đến nay). [22]. Tạp chí cộng sản, số 15 (8/2000). [23]. Tỉnh ủy Bến Tre, Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VII. [24]. Từ điển triết học (1986), Nxb Sự thật, Hà Nội. [25]. Từ điển kinh tế chính trị học (1987), Nxb Sự thật, Hà Nội. [26]. ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre, Báo cáo phác thảo quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre thời kỳ 1999 - 2010) (Tóm lược). [27]. UBND tỉnh Bến Tre, Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội năm 1999 và phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội năm 2000. [28]. UBND tỉnh Bến Tre, Hội nghị sơ kết một năm thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo (tháng 6/1999 - 6/2000) và kế hoạch 6 tháng cuối năm 2000. [29]. UBND tỉnh Bến Tre, Đề án tổng quan quy hoạch đào tạo cán bộ đến năm 2010. [30]. [31]. [32]. [33]. Một số quy ước trong luận văn [34]. [35]. [36]. [37]. CNKT : Chứng nhận kỹ thuật [38]. CNTB : Chủ nghĩa tư bản [39]. ĐH : Đại học [40]. Khu vực I : Ngành sản xuất nông nghiệp (nông, lâm, ngư nghiệp). [41]. Khu vực II : Ngành sản xuất công nghiệp (công nghiệp, tiểu - thủ công nghiệp, xây dựng). [42]. Khu vực III : Ngành dịch vụ [43]. PTTH : Phổ thông trung học [44]. THCN : Trung học chuyên nghiệp [45]. THCS : Trung học cơ sở [46]. TTCN : Tiểu - thủ công nghiệp [47]. XHCN : Xã hội chủ nghĩa [48]. Mục lục [49]. Trang Mở đầu 1 Chương 1: Phân công lao động xã hội với việc hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế 6 1.1. Khái lược một số vấn đề lý luận cơ bản về phân công lao động xã hội và cơ cấu kinh tế 6 1.2. Tác động của phân công lao động xã hội đối với việc hình thành cơ cấu kinh tế 16 Chương 2: Thực trạng phân công lao động xã hội và những vấn đề đặt ra hiện nay ở tỉnh Bến Tre 25 2.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội có ảnh hưởng đến tiến trình phân công lao động của tỉnh 25 2.2. Thực trạng của việc phân công lao động ở tỉnh Bến Tre 35 2.3. Yêu cầu kinh tế - xã hội cấp bách khách quan phải đẩy mạnh phân công lao động hình thành cơ cấu kinh tế mới ở Bến Tre 46 Chương 3: Phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện phân công lao động xã hội ở tỉnh Bến Tre từ nay đến năm 2010 55 3.1. Phương hướng, nội dung phân công lao động xã hội ở Bến Tre 55 3.1.1. Phương hướng 55 3.1.2. Mục tiêu cụ thể về phân công lao động 57 3.1.3. Nội dung phân công lao động theo hướng hình thành và hoàn 58 thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm thực hiện phân công lao động theo hướng hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre 70 3.2.1. Đẩy mạnh phân bổ lao động vào các ngành, nghề trong các vùng kinh tế 70 3.2.2. Phân công lao động giữa các ngành sản xuất vật chất và không sản xuất vật chất cho hợp lý 72 3.2.3. Đào tạo cán bộ quản lý, công nhân lành nghề 74 3.2.4. Bồi dưỡng, giáo dục các nhà kinh doanh trong các ngành tiểu, thủ công nghiệp nhỏ 77 3.2.5. Xây dựng và hoàn thiện kết cấu hạ tầng cơ sở 78 3.2.6. Cần có chính sách hỗ trợ vốn cho những doanh nghiệp nhỏ nằm trong cơ cấu kinh tế cần khuyến khích 79 Kết luận 82 Tài liệu tham khảo 85 Phụ lục 87 [50]. [51]. [52].

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phân công lao động xã hội theo hướng hình thành và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông công nghiệp - dịch vụ ở tỉnh Bến Tre (2000 2010).pdf
Luận văn liên quan