Luận văn Phân tích giá trị thặng dư về mặt chất và mặt lượng. Ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu vấn đề này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của chúng ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường

Kinh tế thị trường luôn gắn liền với các phạm trù, các quy luật kinh tế của nó, trong đó có phạm trù “giá trị thặng dư”, vì vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay thì sự tồn tại của phạm trù “giá trị thặng dư” là một tất yếu khách quan. Do đó, việc nghiên cứu về “giá trị thặng dư” là một điều cần thiết. Qua sự trình bày, phân tích mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư như trên, có thể đi đến kết luận: “giá trị thặng dư là cái chung cho những xã hội có thời gian lao động vượt khỏi thời gian lao động tất yếu”, nó không phải là phạm trù riêng của CNTB, sự tồn tại của “giá trị thặng dư” là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Phạm trù “giá trị thặng dư” có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kinh tế, phát triển cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, cũng như việc cải thiện đời sống của nhân dân.

pdf34 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2898 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích giá trị thặng dư về mặt chất và mặt lượng. Ý nghĩa thực tiễn rút ra khi nghiên cứu vấn đề này đối với việc quản lý các doanh nghiệp của chúng ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khi giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi, nhờ đó kéo dài thời gian lao động thặng dư. Kéo dài ngày lao động hay tăng cường độ lao động đều là hao phí lao động trừu tượng. Thí dụ: ngày lao động là 12 giờ, gồm thời gian lao động cần thiết: 6 giờ và thời gian lao động thặng dư: 6 giờ. Bây giờ kéo dài ngày lao động thành 18 giờ mà thời gian lao động cần thiết không đổi thì thời gian lao động thặng dư tăng từ 6 giờ lên 12 giờ. Mục đích của nhà tư bản là giá trị thặng dư tối đa (vô hạn), nhưng phương thức sản xuất này không đạt được mục đích đó. Vì ngày lao động bị hạn chế không quá 24 giờ, và trong thực tế, không thể kéo dài đến 24 giờ. Mặt khác, việc kéo dài ngày lao động còn gặp phải sự đấu tranh của công nhân, và sự đấu tranh đó buộc nhà tư bản phải rút ngắn thời gian lao động. Khi độ dài ngày lao động đã được xác định, nhà tư bản phải tìm phương thức khác để sản xuất ra giá trị thặng dư, phương thức đó được gọi là phương thức sản xuất giá trị thặng dư tương đối. (b) Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tương đối Phương thức sản xuất giá trị thặng dư tương đối là phương thức sản xuất giá trị bằng cách rút ngắn thời gian lao động cần thiết trong khi độ dàI của ngày lao động không đổi dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động xã hội. Muốn rút ngắn thời gian lao động cần thiết thì phải giảm giá trị những tư liệu sinh hoạt, bằng cách tăng năng suất lao động xã hội ở những ngành sản xuất ra tư liệu sinh hoạt và ở những ngành sản xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất tư liệu sinh hoạt. Muốn tăng năng suất lao động phải cải tiến sản xuất, đổi mới công nghệ. Những doanh nghiệp nào đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ mới sẽ thu được giá trị thặng dư siêu ngạch. ở đây, giá trị thặng dư siêu ngạch là giá trị thặng dư cao hơn giá trị thặng dư bình thường do có giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội của hàng hoá đó. Thực chất của giá trị thặng dư siêu ngạch chính là giá trị thặng tương đối, bởi vì nó đều do tăng năng suất lao động mà có. Chỉ khác ở chỗ: giá trị thặng dư tương đối do tăng năng suất lao động xã hội, do đó, tất cả các nhà tư bản đều được hưởng. Còn giá trị thặng dư siêu ngạch là do tăng năng suất lao động cá biệt, nên chỉ có những nhà tư bản nào có năng suất lao động cá biệt cao hơn năng suất lao động xã hội thì mới được hưởng giá trị thặng dư siêu ngạch này. Khi các doanh nghiệp đều ứng dụng công nghệ mới và hạ giá trị cá biệt của hàng hoá thì giá trị thị trường sẽ giảm xuống, người tiêu dùng được mua hàng hoá rẻ hơn trước, tức là giá của những tư liệu sinh hoạt giảm, nhờ đó sẽ hạ được thời gian lao động xã hội cần thiết xuống, và nhà tư bản thu giá trị thặng dư tương đối. Do các doanh nghiệp đều có trình độ công nghệ như nhau nên không ai thu được giá trị thặng dư siêu ngạch nữa, giá trị thặng dư siêu ngạch khi đó chuyển thành giá trị thặng dư tương đối. Cần để ý rằng, máy móc (máy móc tiên tiến cũng vậy) không tạo ra giá trị thặng dư, nhưng nó tạo điều kiện để tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị của thị trường, nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên. B. Mặt lượng của giá trị thặng dư Mặt lượng của giá trị thặng dư biểu hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư, ở khối lượng giá trị thặng dư, và ở trong các hình thức của giá trị thặng dư. I. Tỷ suất giá trị thặng dư Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ tính theo phầm trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến (ký hiệu là m’). Như vậy, ta có thể thấy tỷ suất giá trị thặng dư phụ thuộc vào mối quan hệ giữa phần ngày lao động cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động, và thời gian lao động thặng dư. Mà dưới CNTB, phần thời gian lao động thặng dư là phần thời gian lao động không công của người công nhân cho nhà tư bản. Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ (mức độ) bóc lột của nhà tư bản với công nhân, tức là nói lên sự bóc lột theo chiều sâu. Để chứng minh cho kết luận này, ta hãy đi so sánh giá trị thặng dư và phần tư bản trực tiếp sinh ra nó. Nhà tư bản ứng trước một số tư bản là C để tiến hành sản xuất, tìm kiếm giá trị thặng dư, giá trị thặng dư đó được biểu hiện ở phần dư trong giá trị của sản phẩm so với tổng số giá trị của các yếu tố sản xuất ra sản phẩm ấy. Ta có giá trị của sản phẩm (ký hiệu là C’) là: C’ = C + m, trong đó m là giá trị thặng dư. Tư bản C được phân chia thành hai phần: một phần được gọi là tư bản bất biến, ký hiệu là c, chi cho những tư liệu sản xuất; một phần được gọi tư bản khả biến, ký hiệu là v, chi ra để mua sức lao động. Vậy C = c + v. Ví dụ như nhà tư bản đã ứng trước 16 đồng, trong đó c = 12 đồng, v = 4 đồng. Đến đây ta có thể viết lại công thức tính giá trị của một sản phẩm như sau: C’ = c + v + m. Ví dụ như giá trị của sản phẩm đó là C’ = 20 đồng, vậy giá trị thặng dư m = 4 đồng. Như đã làm rõ ở phần trên, thì c là bộ phận giá trị được chuyển hoá toàn bộ vào trong giá trị của sản phẩm, còn v là bộ phận giá trị trực tiếp sinh ra m. Chúng ta đã thấy rằng, trong một ngày lao động, người công nhân không chỉ sản xuất ra giá trị của sức lao động của mình, tức là chỉ sản xuất ra giá trị những tư liệu sinh hoạt hàng ngày cần thiết cho anh ta mà còn tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Vì anh ta sản xuất trong điều kiện có sự phân công lao động xã hội, cho nên anh ta không trực tiếp sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, mà chỉ sản xuất ra giá trị bằng giá trị những tư liệu sinh hoạt của anh ta. Phần ngày lao động mà anh ta dùng để sản xuất ra giá trị những tư liệu sinh hoạt hàng ngày cần thiết đó, ta gọi là thời gian lao động cần thiết, lao động trong thời gian ấy gọi là lao động cần thiết, và lao động này của người công nhân được nhà tư bản trả bằng phần tư bản v. Hay lao động cần thiết được biểu hiện bằng số tư bản v. Phần thứ hai trong ngày lao động, hay là phần thời gian người công nhân làm quá thời gian lao động cần thiết, mà lao động trong phần thời gian này, cũng làm cho người công nhân phải hao phí sức lao động của mình, nhưng lại không tạo ra giá trị nào cho mình cả, mà giá trị tạo ra khi đó là giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Ta gọi phần thời gian này là thời gian lao động thặng dư, lao động trong thời gian này là lao động thặng dư, lao động thặng dư này được biểu hiện bằng giá trị thặng dư m. Tỷ suất giá trị thặng dư theo khái niệm trên là: m’ = m = 4 = 100% v 4 Và theo phân tích trên thì m = lao động thặng dư v lao động cần thiết Công thức tỷ suất giá trị thặng dư : m’= lao động thặng dư , chỉ ra chính lao động cần thiết xác tỷ lệ giữa hai bộ phận cấu thành của ngày lao động. Nếu tỷ lệ đó là 100% , thì người công nhân đã làm nửa ngày cho bản thân, và nửa ngày cho nhà tư bản. Tóm lại, tỷ suất giá trị thặng dư đã biểu hiện chính xác mức độ tư bản bóc lột sức lao động, hay mức độ nhà tư bản bóc lột người công nhân. II. Khối lượng giá trị thặng dư Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng số tư bản khả biến được sử dụng. Ký hiệu là M. Như vậy, khối lượng giá trị thặng dư có thể được biểu hiện bằng công thức: M = m’.V (Trong đó, V là tổng số tư bản khả biến được sử dụng.) Nhìn vào công thức trên ta thấy,ở cùng một trình độ bóc lột (m’) nhất định, nếu nhà tư bản sử dụng càng nhiều tư bản khả biến thì khối lượng giá trị thặng dư thu được sẽ càng lớn. Như vậy,có thể kết luận là, khối lượng giá trị thặng dư phản ánh quy mô của sự bóc lột, hay đó là sự bóc lột theo chiều rộng. III. Sự thay đổi trong đại lượng của giá trị thặng dư Chúng ta giả định rằng: hàng hoá được bán theo giá trị của nó, và giá cả sức lao động có thể cao hơn giá trị của nó, nhưng không bao giờ thấp hơn giá trị của nó. Khi đã giả định như thế thì sự thay đổi của đại lượng giá trị thặng dư sẽ được quyết định bởi 3 nhân tố sau: một là độ dài của ngày lao động; hai là cường độ bình thường của lao động; ba là sức sản xuất của lao động. Mà 3 nhân tố này có thể kết hợp với nhau để tạo ra sự thay đổi của đại lượng giá trị thặng dư. 1. Đại lượng của ngày lao động và cường độ lao động không đổi (cho sẵn), sức sản xuất của lao động thay đổi Đại lượng của ngày lao động không đổi, có nghĩa là giá trị của ngày lao động đó không đổi, hay giá trị mới được tạo ra trong ngày lao động là không đổi. Giá trị mới tạo ra này bao gồm giá trị sức lao động và giá trị thặng dư . Vì thế, trong điều kiện sản xuất nhất định, thì không thể có sự cùng tăng lên hay cùng giảm xuống của giá trị sức lao động và giá trị thặng dư. Do giá trị của sức lao động không giảm xuống, thì giá trị thặng dư không tăng lên, nên để có sự thay đổi của hai đai lượng đó, thì sức sản xuất của lao động phải có sự thay đổi. Giả định: thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, nếu sức sản xuất của lao động tăng lên, thì chỉ cần một thời gian ít hơn 4 giờ để sản xuất ra khối lượng tư liệu sinh hoạt hàng ngày cần thiết mà trước đây phải cần 4 giờ để sản xuất, do đó, giá trị của sức lao động sẽ giảm xuống. Ngược lại, nếu sức sản xuất của lao động giảm xuống, thì giá trị của sức lao động tăng lên. Như vậy, việc tăng năng suất lao động sẽ làm giảm giá trị của sức lao động, và đồng thời làm tăng giá trị thặng dư, trong khi đó, việc năng suất lao động giảm sẽ làm tăng giá trị của sức lao động và làm giảm giá trị thặng dư. Cần phải chú ý là việc tăng hay giảm của giá trị thặng dư bao giờ cũng là kết quả (chứ không phaỉ là nguyên nhân) của việc tăng hay giảm tương ứng của giá trị sức lao động. 2. Ngày lao động không đổi, sức sản xuất của lao động không đổi, cường độ lao động thay đổi Khi cường độ lao động tăng lên, tức là chi phí lao động tăng lên trong một khoảng thời gian, thì một ngày lao động có cường độ cao hơn sẽ sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn so với một ngày lao động có cường độ thấp hơn mà có số giờ lao động ngang nhau. Trường hợp này cũng gần giống như việc tăng sức sản xuất của lao động đều đem lại số sản phẩm lớn hơn trong cùng một thời gian lao động, nhưng giá trị của mỗi một đơn vị sản phẩm trong trường hợp này không đổi vì trước cũng như sau, để làm ra một sản phẩm đều hao phí một lượng lao động như nhau; còn trong trường hợp tăng sức sản xuất của lao động, giá trị của mỗi một đơn vị sản phẩm giảm đi vì nó tốn ít lao động hơn trước. Việc tăng cường độ lao động, làm khối lượng sản phẩm sản xuất ra khi đó tăng lên, giá trị lại không giảm, làm tổng giá trị tăng, trong khi đó giá trị của sức lao động không đổi, do đó, làm giá trị thặng dư tăng lên. Việc đó khác với việc tăng sức sản xuất của lao động, làm cho giá trị của sức lao động giảm đi, mà tổng số giá trị không tăng lên (vì tuy khối lượng sản phẩm tăng, nhưng giá trị của mỗi sản phẩm lại giảm đi tương ứng), do đó giá trị thặng dư tăng lên. 3. Sức sản xuất của lao động và cường độ lao động không thay đổi, ngày lao động thay đổi Ngày lao động có thể thay đổi theo hai chiều, nó có thể được rút ngắn lại hay kéo dài ra. Việc rút ngắn ngày lao động, trong điều kiện năng suất lao động và cường độ lao động không thay đổi, không làm thay đổi giá trị của sức lao động, hay không làm thay đổi số thời gian lao động cần thiết, vì thế nó làm thời gian lao động thặng dư bị rút ngắn, hay làm giá trị thặng dư giảm. Đại lượng tuyệt đối của giá trị thặng dư giảm làm đại lượng tương đối của nó so với đại lượng không đổi của giá trị sức lao động cũng giảm xuống. Nên chỉ có bằng cách giảm giá cả của sức lao động xuống thì nhà tư bản mới không bị tổn thất. Nếu không thì việc rút ngắn thời gian lao động bao giờ cũng gắn liền với sự thay đổi của năng suất lao động và cường độ lao động. Kéo dài thời gian lao động: Giả sử thời gian lao động cần thiết là 4 giờ, hay giá trị của sức lao động là 4 đồng, thời gian lao động thặng dư là 4 giờ và giá trị thặng dư là 4 đồng. Toàn bộ ngày lao động là 8 giờ, và biểu hiện trong sản phẩm là 8 đồng. Nếu ngày lao động được kéo dài thêm 2 giờ, và giá cả sức lao động không thay đổi, thì đại lượng tương đối của giá trị thặng dư tăng lên cùng với đại lượng tuyệt đối của nó. Mà vì giá trị của sức lao động không đổi, giá trị thặng dư lại tăng lên, do đó, đại lượng tương đối của giá trị sức lao động so với giá trị thặng dư sẽ giảm xuống. Như vậy, giá trị thặng dư tăng lên là nguyên nhân làm đại lượng tương đối của giá trị sức lao động giảm. Khi kéo dài ngày lao động cho đến một điểm nhất định, thì sự hao mòn sức lao động tăng lên, người lao động cần nhiều tư liệu sinh hoạt hơn để bù đắp hao mòn đó, do đó, giá cả của sức lao động phải tăng lên, nhưng ngay cả khi giá cả của sức lao động có tăng lên thì giá trị của sức lao động cũng giảm đi tương đối so với giá trị thặng dư. 4. Sự thay đổi cùng lúc của ngày lao động, sức sản xuất và cường độ của lao động Có hai trường hợp quan trọng sau cần phải nghiên cứu: (a) Sức sản xuất của lao động giảm xuống, đồng thời ngày lao động bị kéo dài. Chúng ta nói đến sức sản xuất của lao động giảm xuống là nói đến những ngành lao động mà sản phẩm quyết định giá trị của sức lao động, như ngành nông nghiệp, sức sản xuất của lao động đã giảm xuống do độ màu mỡ của đất kém đi, và giá cả sản phẩm đó đắt lên một cách tương ứng. Khi sức sản xuất của lao động giảm đi, thì như phân tích ở trên, giá trị của sức lao động sẽ tăng lên, thời gian lao động cần thiết tăng lên, làm thời gian lao động thặng dư giảm đi, giá trị thặng dư cũng vì thế mà giảm xuống. Nếu như ngày lao động được kéo dài để giá trị thặng dư được sinh ra khi đó đúng bằng lượng giá trị thặng dư trước đó, thì đại lượng của nó vẫn giảm xuống tương đối so với giá trị sức lao động. Và nếu tiếp tục kéo dài thời gian lao động thì có thể cả hai đại lượng tuyệt đối và tương đối của giá trị thặng dư có thể tăng lên. (b) Cường độ và năng suất lao động tăng lên cùng với việc rút ngắn ngày lao động Khi cường độ và sức sản xuất của lao động tăng lên có nghĩa là thời gian lao động cần thiết được rút ngắn lại, đồng thời, thời gian lao động thặng dư được kéo dài ra, giá trị thặng dư được sinh ra tăng lên. Và do đó, có thể rút ngắn ngày lao động đến khi thời gian lao động thặng dư không còn nữa, nhưng cả khi sức sản xuất và cường độ của lao động có tăng đi nữa, giới hạn thời gian lao động cần thiết vẫn sẽ được nới rộng, bởi vì, càng ngày con người càng có nhu cầu sinh sống, hoạt động phong phú hơn, đồng thời một phần lao động thặng dư ngày nay sẽ được tính vào lao động cần thiết, cụ thể là phần lao động cần thiết cho việc thành lập quỹ dự trữ và quỹ tích luỹ xã hội. Năng suất lao động càng phát triển, thì lại càng có thể rút ngắn ngày lao động, và ngày lao động càng rút ngắn lại thì cường độ lao động càng có thể tăng lên. IV. Các hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư Từ quá trình nghiên cứu trên, ta có thể khẳng định, giá trị thặng dư là một bộ phận của giá trị mới do sức lao động tạo ra, dư ra ngoài giá trị sức lao động, là lao động không được trả công, nhưng trên bề mặt xã hội nó lại được biểu hiện ra là một khoản dôi ra ngoài toàn bộ tư bản ứng trước, gọi là lợi nhuận. Nhưng do phân công lao động, tư bản cũng được chia thành tư bản công nghiệp, tư bản thương nghiệp, tư bản cho vay… nên lợi nhuận cũng được chia thành những hình thái cụ thể như: lợi nhuận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô… 1. Lợi nhuận Vì chi phí TBCN nhỏ hơn giá trị xã hội của hàng hoá cho nên nhà tư bản đem hàng hoá của mình ra thị trường bán chỉ cần cao hơn chi phí sản xuất TBCN là họ đã thu được 1 khoản tiền lời. Họ gọi nó là lợi nhuận (p) Theo Cac-Mac 1 khi mà giá trị thặng dư được đem so sánh với toàn bộ tư bản ứng trước và được quan niệm như là con đẻ của tư bản ứng trước thì mang hình tháI biến tướng là lợi nhuận So sánh lợi nhuận (p) và giá trị thặng dư (m) ta thấy : + Về mặt lượng p >= , < m. ĐIều này còn tuỳ thuộc vào giá bán hàng hoá của nhà tư bản trên thị trường. Nhưng trong toàn bộ nền kinh tế tư bản thì tổng p = tổng m Về mặt chất : xuất hiện phạm trù lợi nhuật lại che dấu 1 bước quan hệ bóc lột TBCN. 2. Lợi nhuận thương nghiệp Bản chất của lợi nhuận thương nghiệp là: 1 phần của giá trị thặng dư mà nhà tư bản công nhiệp đã bóc lột của công nhân làm thuê trong quá trình sản xuất và nhường lại cho nhà tư bản thương nghiệp. Vì nhà tư bản thương nghiệp đã đứng ra đảm nhiệm khâu bán hàng cho nhà tư bản công nghiệp. Vậy, vì sao mà nhà tư bản công nghiệp lại nhường một phần giá trị thặng dư của mình cho nhà tư bản thương nghiệp? Lý do là: nhà tư bản thương nghiệp đã đứng ra đảm nhiệm khâu bán hàng, để nhà tư bản công nghiệp rảnh tay tập trung vào sản xuất. Nhờ đó mà nhà tư bản công nghiệp rút ngắn được vòng tuần hoàn vốn (tư bản), từ đó thu được nhiều lợi nhuận hơn. Hơn nữa, khi tham gia vào quá trình đó, nhà tư bản thương nghiệp cũng phải ứng vốn ra để kinh doanh, do họ cũng muốn có lợi nhuận. Nhường bằng cách nào? Nhà tư bản công nghiệp nhường bằng cách bán hàng hoá cho nhà tư bản thương nghiệp với giá bán buôn hay giá trị công nghiệp, giá bán này nhỏ hơn giá trị hàng hoá, bằng chi phí sản xuất cộng lợi nhuận công nghiệp. Rồi nhà tư bản thương nghiệp đem hàng hoá bán cho người tiêu dùng theo giá bán lẻ bằng giá trị hàng hoá hay bằng chi phí sản xuất cộng lợi nhuận công nghiệp và lợi nhuận thương nghiệp. 3. Lợi tức Bản chất của lợi tức là 1 phần của giá trị thặng dư được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà các nhà tư bản hoạt động trả cho nhà tư bản cho vay về món tiền mà nhà tư bản cho vay đã bỏ ra cho nhà tư bản hoạt động sử dụng. Lợi tức là 1 tỷ lệ phần trăm rất nhỏ so với tổng giá trị của tư bản cho vay. Và nó được coi là giá cả của tư bản cho vay, do nhà tư bản hoạt động trả cho nhà tư bản cho vay để được sử dụng tư bản cho vay. 4. Địa tô tư bản chủ nghĩa Dưới chủ nghĩa tư bản có hình thức sở hữu độc quyền về đất đai, nó cho phép địa chủ có quyền chiếm hữu một phần giá trị thặng dư do những hoạt động diễn ra trên mảnh đất ấy sinh ra, không kể đất đai đó được dùng trong nông nghiệp, cho xây dựng, cho đường sắt hay cho bất kỳ một mục đích sản xuất nào khác. Địa tô chỉ là một phần của giá trị thặng dư sau khi đã trừ đi phần lợi nhuận của tư bản kinh doanh nông nghiệp. Như thế, có thể nói lợi nhận công nghiệp, lợi nhuận thương nghiệp, lợi tức, địa tô chỉ là các phần khác nhau của giá trị thặng dư - được sinh ra từ lao động của người công nhân làm thuê - phân giải thành. C. ý nghĩa thực tiễn rút ra được khi nghiên cứu về giá trị thặng dư đối với nước ta khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN 1. Nghiên cứu để có nhận thức đúng về giá trị thặng dư là nhằm tránh những nghi ngờ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà nước ta đang thực hiện Sau khi mô hình CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, các học giả tư sản đã thừa cơ đẩy mạnh công kích, phủ nhận chủ nghĩa Mác- Lênin; nhiều nhà khoa học ở các nước XHCN cũng hoài nghi, thậm chí phê phán, đòi xét lại các nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, trong đó có học thuyết giá trị thặng dư. Họ làm như vậy là bởi vì họ không hiểu được cốt lõi lý luận của Mác, nhất là không nắm được phương pháp duy vật biện chứng của Mác trong nghiên cứu và trình bày học thuyết giá trị thặng dư. Do đó, việc nghiên cứu về giá trị thặng dư sẽ giúp tránh được những sai lầm như thế. Hơn nữa, như Ph. Ăng-ghen đã nói: “Nhờ hai phát hiện ấy (chủ nghĩa duy vật lịch sử và lý luận giá trị thặng dư), chủ nghĩa xã hội đã trở thành một khoa học, và giờ đây vấn đề trước hết là phải tiếp tục nghiên cứu nó trong mọi chi tiết và mọi mối quan hệ tương hỗ của nó”, điều đó có nghĩa là việc nghiên cứu về giá trị thặng dư không bao giờ là thừa. Đặc biệt, hiện nay, chủ nghĩa tư bản đã và đang có sự thay đổi, có sự điều chỉnh để bảo vệ cho chính mình, mà những chính sách điểu chỉnhh ấy đã làm cho sự bóc lột trở nên ngày càng tinh vi hơn, bản chất bóc lột được che giấu. Nếu như không nghiên cứu về lý luận giá trị thặng dư này và đặt nó trong tình hình mới, nhằm bổ sung, hoàn chỉnh lý luận giá trị thặng dư, cho phù hợp với tình hình mới, thì chúng ta rất dễ có những nghi ngờ. 2. Việc nghiên cứu về mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư giúp chúng ta thấy được thực chất của giá trị thặng dư, từ đó không đồng nhất giá trị thặng dư với sự bóc lột, tránh có những nhận thức sai lầm về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đang được áp dụng ở nước ta hiện nay Hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, với mục đích phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phục vụ và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo từng bước xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là sử dụng các hình thức và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nhưng là để đi lên chủ nghĩa xã hội. Với mục đích đó thì vấn đề đặt ra là các hoạt động kinh tế phải có lợi nhuận cao, mà lợi nhuận là hình thức biểu hiện của giá trị thặng dư, để có lợi nhuận cao thì phải sản xuất ra một lượng giá trị thặng dư cao tương ứng. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư sẽ cho ta những giải pháp để tăng khối lượng giá trị thặng dư của nền kinh tế. Nghiên cứu về giá trị thặng dư sẽ góp phần thay đổi nhận thức sai lầm trước đây về giá trị thặng dư, coi nó là phạm trù riêng của CNTB, đồng nhất nó với sự bóc lột cần phải xoá bỏ. Việc nghiên cứu sẽ cho nhận thức đúng rằng: “giá trị thặng dư là phạm trù chung của bất kì chế độ xã hội nào có thời gian lao động lớn hơn thời gian lao động xã hội cần thiết”. Và cái quyết định sự bóc lột không phải là lượng giá trị thặng dư được sinh ra là nhiều hay ít, mà là việc phân phối giá trị thặng dư đã được tạo ra đó như thế nào. Từ đó, những định kiến về kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân sẽ được cải thiện, những người làm kinh tế tư nhân sẽ không còn phải e dè, mà tự do phát huy năng lực của mình góp phần vào việc phát triển kinh tế. 3. Nghiên cứu giá trị thặng dư có ý nghĩa trong việc đề ra các chính sách kinh tế phù hợp Nghiên cứu về quá trình sản xuất giá trị thặng dư tương đối trong đó có việc áp dụng kỹ thuật trong sản xuất, sẽ giúp xây dựng, hoàn chỉnh các chính sách, chiến lược phát triển khoa học – công nghệ, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khi nghiên cứu về giá trị thặng dư, ta thấy sự tác động của quy luật giá trị thặng dư sẽ làm cạnh tranh càng trở nên gay gắt, dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo. Vì vậy, phải có những chính sách (như xoá đói giảm nghèo, điều tiết thu nhập dân cư) để hạn chế đặc điểm này. Chương 2: Thực trạng việc nghiên cứu và vận dụng phạm trù giá trị thặng dư ở nước ta hiện nay A. Quan điểm của Đảng về việc nghiên cứu và vận dụng học thuyết giá trị thặng dư trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN hiện nay Đường lối đổi mới kinh tế của Đảng được đề ra tại Đại hội VI và được các Đại hội sau hoàn chỉnh đã xác định nhiệm vụ: “phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý cuả Nhà nước ở nước ta.” Đồng thời trong văn kiện Đại hội Đảng VIII, Đảng ta đã xác định: “sản xuất hàng hoá không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là những thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng”. Đó là Đảng ta thừa nhận sự tồn tại của các phạm trù và các quy luật kinh tế hoạt động trong nền kinh tế thị trường, trong đó có phạm trù giá trị thặng dư. Mà trong cương lĩnh thông qua tại Đại hội VII, Đảng ta đã khẳng định: “Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng”. Thế có nghĩa là việc vận dụng lý luận về giá trị thặng dư của Mác vào sự hoạt động của nền kinh tế nước ta đã được khẳng định. Trong các yêu cầu để vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã khẳng định: khi vận dụng một quan điểm tư tưởng nào đó của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải nắm chắc bối cảnh ra đời, phạm vi nhiệm vụ mà tư tưởng, nguyên lý đó phải giải quyết. Không thể chỉ dựa vào một tư tưởng, luận điểm nào đó mà không rõ bối cảnh ra đời của nó như thế nào đã bê nguyên xi, vận dụng vào tình hình thực tiễn. Từ đó cho thấy yêu cầu khi vận dụng lý luận giá trị thặng dư của Mác vào hoạt động của nền kinh tế nước ta, là phải nghiên cứu để nắm vững lý luận này, như Đảng đã khẳng định. Đại hội Đảng IX khẳng định: “phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Quan điểm đó chính là sự vận dụng những tư tưởng của Mác về các giai đoạn phát triển kỹ thuật trong sản xuất giá trị thặng dư tương đối. Để hạn chế bớt mặt tiêu cực của sự hoạt động của quy luật giá trị thặng dư, đó là sự phân hoá giàu nghèo, tình trạng cạnh tranh găt gắt, Đại hội IX cũng nhấn mạnh: “Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.” B. Thực trạng nghiên cứu và vận dụng lý luận giá trị thặng dư ở nước ta hiện nay I. Tình hình nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư hiện nay ở nước ta Trong hơn 15 năm năm đổi mới qua, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và nhà nước và góp phần vào việc xây dựng, hoàn chỉnh các chính sách phát triển kinh tế, nhiều cuộc hội thảo, cũng như nhiều công trình nghiên cứu (vận dụng)về học thuyết kinh tế của Mác, và cụ thể là về học thuyết giá trị thặng dư đã được thực hiện. Trong đó, các nhà khoa học đã làm rõ thêm những quan điểm, những nguyên tắc và nội dung vận dụng các học thuyết kinh tế của Mác (trong đó có lý luận giá trị thặng dư) vào điều kiện nước ta hiện nay, nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu dân, giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong điều kiện, hoàn cảnh mới, các nghiên cứu đã chứng minh những luận điểm đúng đắn của Mác: “ chỉ có lao động mới tạo ra giá trị và giá trị thặng dư; máy móc tuy có vai trò không thể thiếu trong quá trình sản xuất, là điều kiện để sản xuất ra giá trị thặng dư, nhưng nó không làm tăng giá trị mà chỉ chuyển dần giá trị của bản thân nó vào trong sản phẩm mới; phân tích làm rõ đặc điểm vai trò của lao động trí tuệ, lao động quản lý trong quá trình lao động và quá trình tạo ra giá trị thặng dư; khẳng định sản xuất tạo ra giá trị thặng dư hay lợi nhuận vẫn là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất TBCN, CNTB ngày nay vẫn là chế độ xã hội dựa trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê…”. Qua những lý luận đó, các nhà khoa học đã khẳng định sự đúng đắn của lý luận giá trị thặng dư của Mác trong điều kiện mới của thời đại. II. Thực trạng sản xuất giá trị thặng dư ở nước ta Vận dụng lý luận giá trị thặng dư trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, là việc phát triển nguồn nhân lực; khuyến khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế; áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, nâng cao năng suất lao động; và việc phân phối giá trị thặng dư. 1. Phát triển và sử dụng nguồn nhân lực ở nước ta Nước ta có nguồn lao động dồi dào, số người trong độ tuổi lao động có khoảng 47 triệu người, và mỗi năm (1999 – 2009) số người này lại được bổ sung thêm khoảng 1,8 triệu người nữa, ngoài ra còn phải kể đến hàng triệu người giá vẫn còn khả năng lao động và mong muốn được lao động. Hơn nữa người lao động Việt Nam vốn có truyền thống cần cù, năng động, có khả năng thích ứng mau lẹ với những biến động trên thị trường, nhanh chóng nắm bắt kỹ thuật mới ứng dụng vào sản xuất kinh doanh. Đây là 1 thuận lợi của nước ta trong quá trình phát triển kinh tế. Song , chất lượng lao động, trình độ kỹ thuật và tay nghề của lao động Việt Nam còn thấp, cơ cấu lao động giữa các ngành không hợp lý, lao động có hàm lượng chất xám cao thiếu trầm trọng, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động không có việc làm cao. Khắc phục hạn chế này, Đảng đã có nhiều chính sách trong công tác giáo dục và đào tạo để tăng chất lượng của nguồn lao động, như: thực hiện phổ cập tiểu học, tiến tới phổ cập THCS; mở thêm nhiều trường dạy nghề, và mở rộng hiềnh thức dậy nghề, chủ trương phân luồng học sinh cuối cấp, phê phán tư tưởng chuộng bằng cấp. Nhằm nâng cao tay nghề cho công nhân, tiến hành phân bố lại hợp lý cơ cấu lao động giữa các ngành. Hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp được sắp xếp lại, thay đổi cách giảng dạy, gắn việc học với thực hành. Hiện nay, nước ta vẫn còn nhiều khó khăn, mức đầu tư cho giáo dục so với các nước trong khu vực là khá khiêm tốn, năm 2000 mức đầu tư cho giáo dục chiếm 15% tổng chi phí ngân sách nhà nước. Trước tình hình đó, Đảng đã chủ trương: “xã hội hoá giáo dục nhằm đa dạng hoá các loại hình giáo dục, đào tạo với phương châm, Nhà nước và Nhân dân cùng làm”, chủ trương này đã phần nào khắc phục được những khó khăn về chi phí. Với những chủ trương đó, chất lượng nguồn lao động đã có những sự biến đổi so với trước đây. 2. Khuyến khích đầu tư và sử dụng vốn có hiệu quả Trong sự nghiệp CNH, HĐH, nguồn vốn đầu tư luôn được quan tâm hàng đầu. Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chủ trương nhằm khuyến khích và thu hút nguốn vốn đầu tư từ cả trong nước và nước ngoài. Về khuyến khích đầu tư trong nước, việc công nhận và phân định rõ 6 thành phần kinh tế, cũng như ban hành luật doanh nghiệp nhằm thu hút vốn trong các thành phần kinh tế, đồng thời với chủ trương tự do trong kinh doanh, cơ cấu vốn đầu tư theo ngành cũng có sự chuyển dịch. Từ năm 1991, nguồn vốn đầu tư trong nước (vốn quốc doanh và vốn ngoài quốc doanh) liên tục tăng, tổng vốn đầu tư trong nước năm 1991 mới là 11545 tỷ đồng, đến năm 1996 là 54912 tỷ đồng, tăng gần 5 lần. Đến năm 1998, con số này là 72084 tỷ đồng, tăng gần 7 lần so với năm 1991 và tăng 31% so với năm 1996. Trong đó, vốn đầu tư khu vực quốc doanh thường cao hơn khu vực ngoài quốc doanh, những năm đầu thực hiện đổi mới, vốn đầu tư ngoài quốc doanh có sự tăng lên nhanh chóng. Trong giai đoạn 1999 – 2001, tổng vốn đầu tư vẫn tiếp tục tăng, riêng năm 2001, tăng lên hơn 10000 tỷ đồng so với năm 2000. Đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chúng ta cũng có nhiều thành tựu. Ta đã tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn, từ năm 1993, chúng ta đã bình thường hoá quan hệ với các định chế tài chính, và nhờ đó, nguồn ODA của IMF, WB, ADB, nhật bản… được khai thác và không ngừng tăng. Cho đến nay, tổng mức cam kết tài trợ là13,04 tỷ USD, trong đó vốn đã được ký là gần 10 tỷ USD và số vốn đã giải ngân tới cuối 1999 là gần 6 tỷ USD. Riêng tại hội nghị nhóm tư vấn lần thứ 7 tại Hà Nội tháng 12 năm 1999, các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết dành cho Việt Nam 2,15 tỷ USD cùng với 700 triệu USD để giúp Việt Nam đẩy mạnh quá trình đổi mới kinh tế. Nhà nước đã ban hành “luật đầu tư nước ngoài”, có nhiều điều kiện ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài, và bằng nhiều nỗ lực to lớn đã thu hút được một nguồn lớn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI). Cho đến hết 2000, đã có 66 nước và vùng lãnh thổ với nhiều công ty, tập đoàn lớn đã đầu tư trực tiếp vào Việt Nam. Với 3265 dự án được cấp giấy phép, vốn đăng ký trên 38,6 tỷ USD và vốn thực hiện trên 15 tỷ USD, nguồn đầu tư trực tiếp của nước ngoài chiếm gần 30% vốn đầu tư xã hội, đóng góp khoảng trên 13,3 GDP. 7% thu ngân sách, gần 35% giá trị sản lượng công nghiệp, trên 23% kinh ngạch xuất khẩu và thu hút gần 30 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp khác. Trong cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành ta thấy, vốn đầu tư thuộc kinh tế nhà nước phần lớn dành cho ngành dịch vụ từ 51,02% năm 1999 lên 51,45% năm 2001, vốn đầu tư cho công nghiệp giảm từ 36,13% năm 1999 xuống 35,81% năm 2001. Còn cơ cấu vốn đầu tư phân theo ngành của kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã có những chuyển biến tích cực, tỷ trọng vốn đầu tư dành cho công nghiệp và nông nghiệp không ngừng tăng lên, vốn đầu tư dành cho ngành dịch vụ giảm từ 45,83% năm 1999 xuống 44,04% năm 2001. Hiện nay, Chính phủ đã quan tâm đầu tư cho hệ thống thông tin liên lạc theo trình độ tiên tiến của thế giới, đây là một chủ trương đúng đắn của Chính phủ, sự phát triển của ngành tông tin liên lạc sẽ là một trong những tiền đề để phát triển kinh tế xã hội. Tuy đã có những tiến bộ nhất định nhưng hoạt động đầu tư vẫn còn nhiều hạn chế: Cơ cấu vốn đầu tư cho ngành dịch vụ vẫn quá cao, trong khi công nghiệp và nông nghiệp chưa được đầu tư một cách thoả đáng. Bởi phát triển dịch vụ sẽ không tạo ra được thế mạnh căn bản cho chúng ta trên thị trường quốc tế. Muốn tạo được chỗ đứng cho mình trên thị trường quốc tế, thì chúng ta phải có những sản phẩm hàng hoá mang thương hiệu Việt Nam, vì thế phải phát triển công nghiệp, thu hút vốn đầu tư nhằm nâng cao sức mạnh cho công nghiệp; Hiệu quả của vốn đầu tư còn thấp và không ổn định. 3. áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất Theo lý luận giá trị thặng dư của Mác, máy móc không tạo ra giá trị thặng dư, nhưng nó tạo điều kiện để tăng sức sản xuất của lao động, hạ giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị của thị trường, nhờ đó mà giá trị thặng dư tăng lên. Vì thế, vấn đề áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất là sự vận dụng lý luận giá trị thặng dư. Ngày nay, việc ứng dụng khoa học – kỹ thuật đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu đối với nông nghiệp, nông thôn, nhiều giống cây trồng, vật nuôi mới có giá trị kinh tế cao đã được sử dụng, nhiều công nghệ mới đã được đưa vào sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản. Hàng năm, khoa học công nghệ đã góp phần tạo ra trên 30% giá trị tổng sản lượng lương thực cả nước. Đối với công nghiệp, nhất là trong ngành công nghệ thông tin, điện tử, viễn thông đã ứng dụng nhiều thành tựu khoa học, kỹ thuật của thế giới và đã thực hiện được đúng theo chủ trương “đi trước đón đầu” của Đảng ta. Với các lĩnh vực khác trong ngành công nghiệp, việc sử dụng các máy móc hiện đại vào sản xuất cũng được đẩy mạnh, góp phần tăng giá trị sản xuất công nghiệp lên 12,9% (năm 2000). 4. Vấn đề bóc lột trong sản xuất và phân phối giá trị thặng dư ở nước ta Ngày nay, với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự xã hội hoá sản xuất, sự cấu thành các nguồn sức lao động của quá trình sản xuất và sản xuất ra giá trị thặng dư đã có sự thay đổi. Sức cạnh tranh trên thị trường ngày càng lớn, để thành công trong công việc kinh doanh, phải cần đến sự nỗ lực kinh doanh, sự quản lý sản xuất tốt, và thế một người chủ kinh doanh ngày nay không chỉ có đóng góp tài sản, tiền vốn mà còn đóng góp sức lao động của mình vào quá trình sản xuất. Sức lao động đó trực tiếp góp phần tạo ra giá trị thặng dư. Do đó, phần thu nhập từ phân phối giá trị thặng dư do công sức đó là chính đáng. Tài sản và tiền vốn có nguồn gốc từ lao động – là sản phẩm của lao động – lao động vật hoá, hàm chứa chất mới của khoa học kỹ thuật và công nghệ (là yếu tố của lực lượng sản xuất trực tiếp) đóng vai trò hết sức quan trọng của quá trình sản xuất. Tài sản và vốn là yếu tố thu hút sức lao động, nếu không có tài sản và vốn nhà xưởng, máy móc, thiết bị, không có việc làm với năng suất lao động cao, và theo đó cũng không có việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Vậy phần thu nhập của người chủ sở hữu vốn, theo vốn là chính đáng, không liên quan đến bóc lột. Và hiện nay, ở nước ta cũng đang thực hiện cách phân phối này, phân phối theo lao động và phân phối theo vốn, tài sản và những đóng góp khác. Phân phối theo lao động là lấy lao động làm thước đo, làm căn cứ để phân phối vật phẩm tiêu dùng cho người lao động dựa trên nguyên tắc lao động ngang nhau thì hưởng ngang nhau, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Với xu thế cổ phần hoá trong sự hình thành và phát triển hệ thống doanh nghiệp, theo đó có phần góp vốn của người lao động và người lao động cũng được phân phối một phần lợi nhuận cho vốn – theo vốn của họ. ở trên là các hình thức phân phối giá trị thặng dư chính ở nước ta, đó là lần phân phối thứ nhất, nhưng để đạt được sự công bằng hơn trong xã hội (vì do còn nhiều yếu tố xã hội khác làm cho một số người thiệt thòi không thể tham gia lao động hay góp vốn vào sản vào sản xuất…) cần phải có hình thức phân phối lại qua các quỹ phúc lợi công cộng của xã hội và của tập thể. Nội dung của hình thức phân phối này được biểu hiện ở việc: mọi công dân đều phải có nghĩa vụ đóng thuế cho Nhà nước - Nhà nước là đại diện cho lợi ích của toàn dân, toàn xã hội - Nhà nước trích một phần ở trong ngân sách thu từ thuế lập quỹ phúc lợi xã hội, mọi công dân và những người thuộc diện chính sách xã hội được nhận phân phối từ quỹ phúc lợi xã hội này; đối với các doanh nghiệp phải trích một phần lợi nhuận của mình lập quỹ phúc lợi tập thể của doanh nghiệp, mọi thanh viên trong doanh nghiệp đó được hưởng từ quỹ phúc lợi tập thể này; nguồn phân phối từ quỹ phúc lợi xã hội và tập thể đối với những người được hưởng có những khoản không phải trả bằng tiền nhưng cũng có những khoản phải trả bằng tiền. Và như thế, hiện nay, chúng ta có 3 hình thức phân phối chính là: Phân phối theo lao động; phân phối theo vốn tài sản và những đóng góp khác; phân phối thông qua quỹ phúc lợi công cộng của xã hội và tập thể. Như vậy, đối với người lao động, họ sẽ không trực tiếp được hưởng ngay một lúc toàn bộ giá trị mà họ đã sáng tạo ra, mà họ sẽ được hưởng gián tiếp từ từ thông qua các quỹ phúc lợi hay các hàng hoá công cộng. Chương 3: Một số giải pháp để vận dụng lý luận giá trị thặng dư nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay. I. Các giải pháp về vấn đề vốn đầu tư 1. Chuyển dịch cơ cấu đầu tư, tập trung đầu tư cho công nghiệp - Cần phải chuyển dịch nhanh chóng cơ cấu vốn đầu tư theo ngành theo hướng tăng đầu tư cho ngành sản xuất vật chất và giảm đầu tư đối với ngành dịch vụ. Vì chỉ có phát triển công nghiệp, chúng ta mới thực sự phát huy được năng lực nội sinh. Tập trung đầu tư cho công nghiệp, với mục tiêu lấy đó làm đà để phát triển các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, trong đó đặc biệt phải đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến, cần phải chú ý đầu tư cho ngành công nghiệp chế biến nông – lâm sản, vì đây là chìa khoá, nhằm nâng cao giá trị, khả năng cạnh tranh của hàng hoá nông lâm sản trên thị trường thế giới. - Việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư này cần được coi là nhiệm vụ của tất cả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chứ không phải chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước hay một vài doanh nghiệp nhà nước. - Cần gắn việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của nền kinh tế quốc dân. - Thực hiện tự do di chuyển vốn giữa các ngành kinh tế, nhưng đồng thời Nhà nước phải đóng vai điều tiết đầu tư bằng những chính sách kinh tế vĩ mô (như thuế, và những ưu đãi, khuyến khích đối với những ngành cần đầu tư) nhằm đảm bảo việc chuyển dịch cơ cấu vốn đầu tư cũng như cơ cấu kinh tế theo định hướng phát triển kinh tế - xã hội. 2. Khuyến khích và thu hút đầu tư - Cải thiện môi trường kinh doanh trong nước. Thực hiện sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế tư nhân, đặc biệt là trong lĩnh vực vay vốn ở các ngân hàng. - Tiếp tục tiến hành cải cách thủ tục hành chính, giảm thiểu các thủ tục cho các doanh nghiệp, vì trong kinh doanh cơ hội tốt chỉ xuất hiện trong thời gian ngắn. - Tăng cường khả năng đầu tư của các doanh nghiệp trong nước. Băng cách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận với các kỹ thuật sản xuất tiên tiến, hiện đại thông qua các buổi thuyết trình, giới thiệu sản phẩm của các công ty nước ngoài. Xây dựng một hệ thống thông tin về tình hình khoa học kỹ thuật của thế giới cho các doanh nghiệp. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp trong nước. - Về thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cần thông qua các hoạt động ngoại giao, thuyết phục các nước công nhận rằng hiện nay Việt Nam đang thực hiện kinh tế thị trường, thông qua các buổi thuyết trình hay triển lãm tại nước ngoài để giới thiệu về môi trường đầu tư tại Việt Nam, các chính sách ưu đãi đầu tư đối với đầu tư nước ngoài cho các doanh nhiệp, doanh nhân nước ngoài, cũng như với kiều bào Việt Nam ở nước ngoài. 3. Không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. - Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá hoạt động đầu tư. Khi nói đến hiệu quả đầu tư là không chỉ nói đến hiệu quả kinh tế mà còn phải nói đến hiệu quả xã hội (tức là việc đầu tư đó, có thể thu hút được bao nhiêu lao động; ảnh hưởng đến môi trường ở mức độ nào…). Việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phụ thuộc vào mục đích của hoạt động đầu tư là hiệu quả kinh tế hay hiệu quả xã hội. Vì vậy, khi đầu tư phải xác định rõ mục đích đầu tư và không được thay đổi mục đích đó trong quá trình tiến hành hoạt động đầu tư. - Thực hiện quyền tự chủ trong kinh doanh của các thành phần kinh tế, tận dụng tính năng động của các thành phần kinh tế tư nhân, phát triển sản xuất. Chủ đầu tư phải được độc lập trong việc lựa chọn lĩnh vực đầu tư và phương án đầu tư, tránh tình trạng đầu tư theo phong trào. - Đối với các doanh nghiệp, sử dụng vốn có hiệu quả kinh tế là chú ý đến việc thực hiện giá trị thặng dư, theo lý luận giá trị thặng dư của Mác, giá trị được sinh ra trong lĩnh vực sản xuất, chứ không phải trong lưu thông, nhưng quá trình lưu thông lại là quá trình thực hiện giá trị, mà nếu giá trị không được thực hiện thì cũng không có giá trị thặng dư. Vì vậy, trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải chú ý đến giá trị sử dụng của hàng hoá đáp ứng nhu cầu thị trường, đồng thời phải sử dụng các phương thức có hiệu quả để bán hàng, nhằm thực hiện giá trị thặng dư. - Khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, nhằm nâng cao năng suất lao động, thu giá trị thặng dư siêu ngạch. - Đối với các địa phương khi tiến hành đầu tư cần phát huy lợi thế so sánh của mình, nhằm tận dụng tối đa những thế mạnh của địa phương mình. II. Nâng cao chất lượng nguồn lao động, phát triển thị trường lao động trong nước, có sự kiểm tra, giám sát của Nhà nước. Phát triển thị trường lao động với tư cách là một yếu tố đầu vào quan trọng của quá trình sản xuất, theo đó cung về lao động phải đáp ứng cầu về lao động cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Cần phải chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động, phù hợp với mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Tăng cả về số lượng và chất lượng của lao động trong ngành công nghiệp, giảm về số lượng lao động trong ngành nông nghiệp. - Nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp. Cải cách phương pháp đào tạo, gắn việc dạy lý thuyết với thực hành, khuyến khích sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học. Nhằm tăng lao động lành nghề, lao động có tri thức để tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ mới. Tăng nhanh tỷ lệ lao động chất xám, lao động có kỹ thuật. - Thường xuyên đào tạo mới và đào tạo lại lao động, để đáp ứng nhu cầu trên thị trường sức lao động, đồng thời phải đảm bảo cơ hội bình đẳng về việc làm cho người lao động. Khuyến khích các doanh nghiệp phối hợp với nhà trường trong việc đào tạo. - Đối với các doanh nghiệp cần phải thực hiện nghiêm túc việc tổ chức khám chữa bệnh định kỳ cho công nhân, đặc biệt là với những ngành nghề lao động trong môi trường độc hại. - Để phát triển thị trường sức lao động ở nước ta còn cần phải nhanh chóng cải cách chế độ tiền lương, chế độ tiền lương mới cần phải có sự phân biệt đáng kể về thu nhập trên cơ sở lấy hiệu quả lao động làm chính, phân biệt giữa người làm ít với người làm nhiều, giữa lao động phức tạp với lao động giản đơn. Sự phân biệt này góp phần thúc đẩy quá trình tự nâng cao chất lượng lao động đối với mỗi người lao động, khuyến khích người lao động bán sức lao động của họ ở những nơi có mức tiền lương cao. Mặt khác vẫn phải duy trì những ưu đãi xã hội và thực hiện tốt vấn đề bảo hiểm xã hội… III. Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế và giữ vững định hướng XHCN - Cần tiến hành phân cấp quản lý nhà nước, đặc biệt là việc phân cấp quản lý nhà nước về kinh tế. Nhằm nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế của Nhà nước, tránh sự quản lý chồng chéo, gây ra sự phiền hà đối với việc kinh doanh của các doanh nghiệp. Nhất là, trong việc quản lý đăng ký kinh doanh của các doanh nghiệp, hiện nay còn có nhiều cơ quan thuộc các cấp khác nhau quản lý việc đăng ký kinh doanh, gây tình trạng lộn xộn, khiến việc nắm về số lượng, việc kiểm tra giám sát việc kinh doanh của các doanh nghiệp khó khăn. Cần phải quy định riêng một cơ quan làm công việc này. - Hiện nay, trong lĩnh vực quản lý nguồn vốn đầu tư còn nhiều bất cập như: không theo kịp đòi hỏi của thực tiễn đặt ra, lỏng lẻo trong khâu kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguồn vốn đầu tư, gây những hiện tượng lãng phí, tham nhũng… Vì vậy, phải chú trọng nâng cao năng lực quản lý vốn đầu tư bằng cách: nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ về quản lý hoạt động đầu tư cho các cán bộ chuyên trách. Thường xuyên kiểm tra trình độ của các cán bộ này. Khi giải quyết bất kỳ một vấn đề gì của hoạt động đầu tư, một mặt phải dựa trên ý kiến, nguyện vọng, lực lượng, tinh thần chủ động, sáng tạo của các đối tượng bị quản lý , mặt khác phải có một trung tâm quản lý tập trung và thống nhất với mức độ phù hợp, không quan liêu, có sự phân cấp trog việc quản lý hoạt động vốn đầu tư. - Kiện toàn hệ thống pháp luật và các chính sách kinh tế vĩ mô để nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước. Hệ thống pháp luật phải thông thoáng, thống nhất, một mặt phải bảo đảm việc trả lương tương xứng cho người lao động (và việc mua bảo hiểm xã hội cho người lao động) của các doanh nghiệp, mặt khác phải định hướng dư luận, bảo vệ những người có thu nhập cao chính đáng. Các chính sách kinh tế vĩ mô, phát huy đúng tác dụng điều tiết nền kinh tế, tránh những tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường, khuyến khích sản xuất phát triển… - Hiện nay, chúng ta đang phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân, nghĩa là nền kinh tế ở nước ta vẫn còn bóc lột ở mức độ nào đó. Để giảm sự tiêu cực đó, nhà nước cần thực hiện chế độ phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế (hay phân phối theo mức độ đóng góp); phải thực hiện tốt các chính sách xã hội như phúc lợi xã hội, các ưu đãi xã hội, bảo hiểm xã hội… - Bên cạnh những ưu đãi đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nhân nước ngoài hiện nay ở nước ta, cũng cần phải xây dựng hoàn chỉnh và thực hiện nghiêm túc hơn luật kinh doanh đối với những doanh nhân này, tránh tình trạng coi thường pháp luật Việt Nam của những người này. - Trong các doanh nghiệp tư nhân cần phải tăng cường sự hoạt động của các tổ chức, đoàn thể Đảng, Công doàn, đoàn thanh niên… để bảo vệ quyền lợi chính đáng của công nhân.Đặc biệt là đối với các doanh nghiệp liên doanh, hay các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, cần nâng cao năng lực hoạt động cũng như tư cách đạo đức của những người làm công tác công đoàn. Phần kết luận Kinh tế thị trường luôn gắn liền với các phạm trù, các quy luật kinh tế của nó, trong đó có phạm trù “giá trị thặng dư”, vì vậy, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay thì sự tồn tại của phạm trù “giá trị thặng dư” là một tất yếu khách quan. Do đó, việc nghiên cứu về “giá trị thặng dư” là một điều cần thiết. Qua sự trình bày, phân tích mặt chất và mặt lượng của giá trị thặng dư như trên, có thể đi đến kết luận: “giá trị thặng dư là cái chung cho những xã hội có thời gian lao động vượt khỏi thời gian lao động tất yếu”, nó không phải là phạm trù riêng của CNTB, sự tồn tại của “giá trị thặng dư” là một tất yếu khách quan trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Phạm trù “giá trị thặng dư” có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kinh tế, phát triển cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, cũng như việc cải thiện đời sống của nhân dân. Việc nghiên cứu lý luận giá trị thặng dư có ý nghĩa quan trọng, giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn, phân biệt giữa giá trị thặng dư và vấn đề bóc lột, để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội cần phát triển kinh tế, nền sản xuất xã hội phải sản xuất ra giá trị thặng dư đồng thời phải phân phối lượng giá trị thặng dư ấy một cách công bằng loại bỏ sự bóc lột trong xã hội; áp dụng quá trình sản xuất giá trị thặng dư: kết hợp sức lao động và tư liệu sản xuất tạo ra giá trị thặng dư vào nền sản xuất xã hội ở nước ta trong giai đoạn này, khẳng định việc phát triển chất lượng nguồn lao động, phát triển thị trường lao động, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư là quá trình đúng đắn để phát triển đất nước; từ việc nghiên cứu này còn giúp Đảng và Nhà nước xây dựng những chủ trương phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo công bằng xã hội. Tài liệu tham khảo: 1. Bộ “Tư bản” quyển I tập 2 2. Nghị quyết Đại hội Đảng VII, VIII, IX 3. Giáo trình kinh tế chính trị học Mác – Lênin 4. Tạp chí kinh tế và phát triển 5. Tạp chí cộng sản 6. Tạp chí phát triển kinh tế 7. Tạp chí nghiên cứu phát triển 8. Tạp chí lý luận chính trị 9. Thời báo kinh tế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf60632_4668.pdf
Luận văn liên quan