Nhìn chung , thị trường xe máy của Việt Nam trong thời gian gần đây có nhiều chuyển biến sâu sắc. Như chúng ta điều biết, một doanh nghiệp không tồn tại biệt lập mà thường xuyên tác động qua lại với môi trường. Những sự thay đổi từ các yếu tố môi trường marketing vĩ mô có thể tạo ra những cơ hội , hoặc là nguy cơ đe dọa sự tồn tại và phát triển cho thị trường xe máy Việt Nam.Trong thời đại ngày nay ảnh hưởng của các yếu tố môi trường marketing vĩ mô đến hoạt động sản xuất xe máy của các doanh nghiệp diễn ra ngày càng mạnh mẽ và phức tạp cả về qui mô, tốc độ, cả về bề rộng và chiều sâu. Chính vì vậy, đứng trên lập trường đã không ngừng tìm kiếm những giải pháp để đối phó sự biến đổi của môi trường cũng như xây dựng những chiến lược marketing phù hợp với tình hình là những việc làm hết sức cần thiết nhưng cũng gặp không ít khó khăn đòi hỏi các nhà nghiên cứu marketing cần thận trong hơn để đưa ra những chiến lược phù hợp. Do đó các nhà nghiên cứu marketing cần dành nhiều thời gian để khảo sát và dự đoán những yếu tố biến đổi của môi trường và coi đó như là một công việc đầu tiên trong công tác của mình. Kết quả việc xây dựng chiến lược kinh doanh kết hợp với nghiên cứu môi trường sẽ cung cấp cho các nhà doanh nghiệp những dữ liệu và kiến thức quan trọng, làm cơ sở cho việc ra quyết định và thực hiện các quyết định.
33 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4809 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phân tích những yếu tồ của môi trường marketing vĩ mô tác động đến thị trường xe máy Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ampháttriểnvà đạtđượcnhữngthànhtựuđáng kể.Tốc độtăng trưởngtổngsản phẩm trongnước (GDP) bình quân đạt trên 7%/năm trong nhiều năm,đặcbiệtlàgiaiđoạn1991-1995(đạttrên8,2%/năm).GDPbìnhquânđầu ngườigiaiđoạn1996-2000là462USD,ướcthựchiệngiaiđoạn2001-2005là600 USD.Nguồn vốn đầu tưtrựctiếpnướcngòai(FDI)giaiđoạn2001-2005cảcấpmới và bổ sungđạt 15-16 tỷ USD, tăng gấp 1,5 lần so với giaiđoạn1996-2000.
Bêncạnhnhữngthànhtựuvềkinhtế,sau20nămtiếnhànhđổimới,ViệtNamđã đạtđượcmộtsốthànhtựuvềxãhội,cótácđộngthúcđẩynềnkinhtếpháttriển. ViệtNamđãhoànthànhxuấtsắcmụctiêugiảmmộtnửasốngườinghèovàmột nửasốngườidânbị đóitheochuẩnquốctếsovới những năm đầuthậpniên90chỉ trong khoảng 10 năm. Cụthể: trong giai doạn 2002-2004, mức sống - thể hiện qua chi tiêu của hộgia đình, đã đượccải thiện rõ rệt. Tính chung cả nước, chi tiêu hộgia đình theo giá so sánh thời kì 2003-2004 đạt 328000 đồng, tăng bình quân 12,1%/năm.Nhưvậysựpháttriểncủanềnkinhtếđãcóảnhhưởngtrựctiếptích cực đếnđời sốngcủangườidân.Đời sốngcủangườidântừngbước đựơc cảithiện và nâng cao rõ rệt. Cũngnhư nhữngnhucầutựnhiênnhưăn,mặc,ởthìmộtnhucầukháccũng không thểthiếuđượcđối vớiconngườitrongcuộc sốnghiệnnay đólàphươngtiệnđilại haycòngọilàphương tiệngiaothông.Và để đápứng đựơcnhucầuđócủangười dânthìhàngloạtcácphương tiệngiaothông đã đựơcnghiêncứu, sản xuấtvà đưa sử dụng ô tô, xe máy...
Nếu như ở Việt Nam khoảng một hai thập niên trước đây, xe máy mang tính thiểu số, được vị nể với tư cách là một sản phẩm tân kỳ, một tài sản lớn hơn là một phương tiện giao thông thì trong những năm gần đây, chiếc xe máy đã trở nên phổ biến hơn va 2 hấu như đã trở thành phương tiện giao thông chính của đại đa số người Hiện nay, có những hộ gia đình có 1, 2 thậm chí có đến 3, 4 chiếc xe máy trong nhà.
Trong cơ cấu tham gia giao thông đô thị ở Việt Nam, các số liệu cho biết: xe máy chiếm vị trí đầu bảng với tỉ lệ khoảng 61% tổng các phương tiện giao thông. Chỉ riêng thành phố Hồ Chí Minh đã có hơn 2 triệu xe máy, ở Hà Nội thì con số này
khoảng hơn 1 triệu xe, còn không kể đến một số lượng xe không nhỏ ở các vùng khác. Ngoài ra, đối với thu nhập bình quân của người Việt Nam hiện nay, xe máy là sự lựa chọn phù hợp nhất – nó có giá cả tương đối phù hợp (nhiều xe máy của Trung Quốc còn có giá rẻ). Nhận biết được nhu cầu khổng lồ về xe máy như vậy nên trong thời gian qua đã có nhiều nhà cung cấp trên thị trường xe máy Việt Nam. Các hãng xe máy nổi tiếng trên thế giới như: Honda, SYM, Suzuki, Yamaha… đã tiến hành liên doanh với Việt Nam để sản xuất và cung cấp cho người tiêu dùng Việt Nam. Thêm vào đó, trong 5 năm trở lại đây, thị trường xe máy đã đa dạng nay còn đa dạng hơn bởi những chiếc xe máy Trung Quốc được nhập khẩu cũng như được sản xuất ồ ạt tại Việt Nam. Sản phẩm xe máy Trung Quốc với ưu thế là giá rẻ, chủng loại phong phú đã thực sự phù hợp với người tiêu dùng Việt Nam có nhu cầu sử dụng xe máy song thu nhập thấp hoặc những người dân có nhu cầu đổi mới kiểu dáng xe nhưng không có đủ tiền…
Qua phân tích trên ta thấy nhu cầu sử dụng xe máy trên thị trường Việt Nam là rất lớn. Trước thực trạng đó, có rất nhiều cơ hội cũng như thách thức để có thể tiếp tục tạo dựng và duy trì lòng tin của người tiêu dùng Việt Nam đối với các hãng sản xuất xe máy về những sản phẩm mà công ty đã và đang tiến hành sản xuất - lắp ráp.
Các nhà cung cấp xe máy ở Việt Nam
Trong nềnkinhtếthịtrường,cạnhtranhlàmộtvấn đềkhôngthểtránhkhỏi đốivới bấtkỳmộtdoanhnghiệpnào.Chodùdoanhnghiệpđóđangtiếnhànhkinhdoanh ở bấtkỳmộtlĩnh vựcnàothìvấnđềcạnhtranhluônsonghànhvới sựtồntạivàphát triểncủadoanhnghiệpđó.Đối vớithịtrườngxemáyViệt Nam cũng vậy.Trong những năm gần đây,trênthịtrườngxemáyViệtNamcórấtnhiều nhàcungcấp.Họ có những điểm mạnh của riêng mình và đang từng bướckhắc họa, khẳng định uy tín của mình trên thị trường xe máy Việt Nam. Tiêu biểuđó là sự ra đời của các công ty liêndoanhxemáy.Sản phẩmcủa cáccôngtyliêndoanhnàyrất đa dạngvàphong phú như:
Honda Việt Nam:
CôngtyHondaViệtNamlàliêndoanhgiữacôngtyHondaMotorNhậtBản,công tyAsianHondaMotorTháiLanvàTổngcôngtymáyđộnglựcvàmáynông nghiệpViệtNam,đượcthànhlậptheogiấyphépđầutưsố1521/GPcấpngày22 tháng 3 năm 1996. Từ đó đến nay Honda Việt Nam luôn được người tiêu dùng Việt Nam biết đến với uy tín và chất lượng của một tập đoàn sản xuất xe máy lớn nhất trên thế giới…Sản phẩm ban đầu là những chiếc xe Honda Cub 50, Cub 70, Super Cub,…đã thực sự chinh phục được lòng tin của người tiêu dùng Việt Nam bằng chính chất lượng và sự tiện dụng của những sản phẩm đó. Xe máy của tập đoànHonda luôn mang đến cho người tiêu dùng Việt Nam cảm giác an toàn, sự tin tưởng vào chất lượng và độ bền củaxe.Sự lớnmạnhvà uy tín của hãng xe này đã đang chiếm lĩnh thị trường Việt Nam trong nhiều năm qua.
Số liệu trên dựa trên báo cáo năm 2012 của Honda
Honda Việt Nam cung cấp cho thị trường các sản phẩm chính sau:
- Nhãn hiệu xe Super Dream.
- Nhãn hiệu xe Future gồm: Future NEO và Future II
- Nhãn hiệu xe Wave gồm: Wave α, Wave ZX, Wave RS
- Nhãn hiệu xe tay ga Spacy, @, SH, Dylan…
Với một đội ngũ công nhân lao động có tay nghề, đội ngũ kỹ sư của Honda Việt Nam được đào tạo tại nước ngoài (tại Honda Thái Lan, Honda Nhật Bản) thật sự là cơ sở để Honda Việt Nam bảo đảm chất lượng của từng sản phẩm sản xuất ra. Sau 10 năm hoạt động, Honda Việt Nam đã đầu tư gần 194 triệu USD cho sản xuất kinh doanh với các sản phẩm được người sử dụng tin dùng như Super Dream, Future, Wave α, Future II và Wave ZX, Wave RS. Cho đến nay, Honda Việt Nam đã có hơn 2,5 triệu sản phẩm được khách hàng trong nước sử dụng. Bên cạnh đó,Honda Việt Nam còn xuất khẩu hơn 163.000 xe máy cùng với động cơ và phụ tùng xe máy, đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 96 triệu USD, trở thành doanh nghiệp đầu tiên trong nước xuất khẩu xe máy, phụ tùng.
Yamaha Motor Việt Nam
Công ty Yamaha Motor Việt Nam là doanh nghiệp liên doanh giữa công ty YamahaMotor Nhật Bản, Tổng công ty lâm nghiệp Việt Nam và công ty công nghiệp Hong Leong Industries Berhad Malaysia, trong đó vồn pháp định là 24.20.0000 USD. Công ty đượcthành lập ngày 01 tháng 4 năm 1999, giấy phép đầu tư số 2029/GP. Tuy là kẻ đến sau nhưng Yamaha đã chiếm được vị trí tương đối vững chắc trong thị
trường xe máy Việt Nam. Sản phẩm của hãng được nhiều người ưa thích đặc biệtthích - đặc biệt là giới trẻ. Yamaha tung ra thị trường với nhiều loại xe từ xe số, xe phanh đĩa, xe ga với kiểu dáng màu sắc rất trẻ trung và đa dạng. Các kiểu xe ga của Yamaha như Mio Amore, Mio Maximo, Mio Classical đều có thiết kể nhỏ gọn, sang trọng, giá cả vừa phải, dao động từ 16 – 18 triệu đồng, nó rất phù hợp với phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là đối với các bạn nữ. Với những chiếc xe ga này các bạn gái vừa có thể thể hiện cá tính, sự năng động của mình nhưng lại vừa mang đến nét dịu dàng, nhẹ nhàng, quyến rũ vốn có của nữ giới. Vì thế ngay từ khi ra đời nó đã được sự ủng hộ đông đảo của khá nhiều nữ giới. Bên cạnh xe ga dành cho nữ giới, Yamaha cũng khá thành công cho việc thiết kế xe ga dành cho nam giới – đó chính là Nouvo. Xe được thiết kế với phần đầu và thân xe thể hiện sự mạnh mẽ của nam giới, nhẹ nhàng lướt ga nhưng vẫn thể hiện sự dũng mãnh của mình. Ngoài ra thì Yamaha cũng cung cấp trên thị trường các xe thuộc dòng xe số như Jupiter V, Jupiter MX, Sirius V,…. Các loại xe này hiện đang rất được ưa chuộng trên thị trường - đặc biệt là giới trẻ.
Chủng loại của các hãng này rất phong phú và đa dạng, rất hợp thời trang.Yamaha Motor Việt Nam còn có chiến lược quảng cáo, tiếp thị rộng rãi, có hình thức “mua trả góp” vớilãi suất hợp lý nhằm thu hút khách hàng. Những sản phẩm của các hãng này thường được giới trẻ ưa chuộng bởi sự thời trang về màu sắc cũng như kiểu dáng của nó. Tập đoànYamaha Nhật Bản đã thành lập một trung tâm tạiBăng Cốc (Thái Lan) với chức năngnghiên cứu phát triển các loại xe máy để bán trên thị trường Châu Á và Việt Nam.
Như vậy, sau một thời gian hoạt động Yamaha Motor Việt Nam đã tìm thấy thế mạnh của mình và đang từng bước khẳng định sức mạnh đó trên thị trường xe máy Việt Nam.
SYM
Công ty công nghiệp San Yang thuộc tập đoàn Chinfon được thành lập năm 1954 tại Đài Loan, khởi đầu bằng việc sản xuất đinamô cho xe đạp. Năm 1962, San Yang bắt đầu sản xuất xe máy. Trong 50 năm qua, San Yang đã sản xuất và tiêu thụ hơn 6.000.000 xe máy, luôn là doanh nghiệp hàng đầu về sản xuất và tiêu thụ xe máy ở Đài Loan.
Từ năm 1996, công ty San Yang Motor Taiwan thuộc Tập đoàn Chinfon đã quyết định đột phá bằng chiến dịch toàn cầu với thương hiệu SYM. Hiện nay sản phẩm
của SYM đã có mặt tại rất nhiều nước trên thế giới.
Sản phẩm mang thương hiệu SYM có hai dòng chính: xe Cub (xe số bình thường) và xe Scooter (xe tay ga)
Dòng xe Cub có các nhãn hiệu xe sau:
- Nhãn hiệu xe Angel
- Nhãn hiệu xe Magic
- Nhãn hiệu xe Star
- Nhãn hiệu xe Amigo
- Nhãn hiệu xe Bonus
- Nhãn hiệu xe Husky
Dòng xe Scooter bao gồm:
- Nhãn hiệu xe Attila
- Nhãn hiệu xe Excel
- Nhãn hiệu xe HD
- Nhãn hiệu xe GTS
Doanh số bán của SYM miền Bắc trong một vài năm gần đây:
- Năm 2000 bán được 46.866 xe
- Năm 2002 bán được 75.871 xe
- Năm 2002 bán được 142.849 xe
- Năm 2003 bán được 150.523 xe
- Năm 2004 bán được 139.134 xe
- Năm 2005 bán được 52.433 xe
Với chất lượng và uy tín cũng như sự tìm tòi, cải tiến không ngừng với những sản phẩm mẫu mã đẹp, chất lượng cao, SYM ở Việt Nam đã và đang trở thành một trong những nhãn hiệu được người tiêu dùng Việt Nam ưa chuộng và tin tưởng.
Việt Nam Suzuki
Suzuki là một hãng xe lớn của Nhật Bản. Công ty Việt Nam Suzuki thành lập vào ngày 21 tháng 4 năm 1995 với lượng vốn pháp định là 11.700.000 USD, tổng số vốn đầutư là 34.200.000 USD. Năm 1996 công ty Việt Nam Suzuki đi vào hoạt động. Tháng 9/1996: Việt Nam Suzuki đã sản xuất xe GN125, loại xe Suzuki đầu tiên tại Việt Nam.Tháng 10/1996: công ty đã cho ra đời Viva CD, mẫu xe Viva đầu tiên ra mắt tại Việt Nam, xây dựng nên một hình ảnh thời trang cho xe máy.
Ngoài việc cải tiến những sản phẩm hiện có, Việt Nam Suzuki còn đưa ra thị trường các kiểu xe mới như Shogun R125 (giá 23,5 VND/xe), Viva 110 thường và phanh đĩa, Smash 110 (giá:15,7 VND/xe)… Ngoài ra hãng còn sản xuất một số loại xe
khác, tuy nhiên các loại xe này không được ưa chuộng lắm trên thị trường ASEAN , bao gồm:
- Xe thể thao(Super Sport): nổi bật với kiểu xe GSX hay Hayabusa đều hỗ trợ tối đa khả năng tăng tốc, ngoặt góc hoặc phanh - thắng trong một kiểu dáng oai vệthể hiện phong cách mạnh mẽ của người lái.
- Xe chạy đường trường (Street): đáng chú ý có kiểu xe V-Strom thể hiện sự tự
do thật sự và một tinh thần can đảm khi vượt những con đường dài hay ngoằn nghèo nhưng với một cảm giác thoải mái và phấn khích.
- Xe tay ga (Scooter): nổi trội trong dòng xe này có kiểu xe Burgman. Đây là
sự kết hợp tuyệt vời trong thiết kế giữa ý tưởng về xe tay ga và xe máy kích thước lớn nhằm gia tăng tính thực tiễn đồng thời tạo được sự thoải mái tối đa cho người sử dụng. Đến nay, Burgman được xem như một chuNn mực trong dòng xe tay ga.
- Xe Off-road: trong dòng xe này Suzuki có DR-Z. Kiểu xe này được trang bị
động cơ mạnh mẽ và bền bỉ, thích hợp hoạt động trên nhiều loại địa hình. Xe DR-Z
được thiết kế thích hợp cho cả người lớn lẫn thanh niên.
- Xe vượt chướng ngại vật (Motocross): RM, loại xe đua được thiết kế giúp
giữ thăng bằng tốt khi vượt chướng ngại vật. RM đã lập nên chiến thắng cùng với các tay đua vô địch trên các đương đua trên khắp thế giới.
- Xevượt mọi địa hình (ATVs): một số kiểu xe do suzuki sản xuấtbao gồm
Vinson, Ozark, Eiger, QuadSport. Tất cả được thiết kế với những tính năng nổi trội nhằn mang lại sự thoải mái thực sự, cho phép người sử dụng đi đến bất cứ nơi đâu trong mọi điều kiện.
Sản lượng mỗi năm của Việt Nam Suzuki là 4.000 chiếc ô tô, 60.000 chiếc xe máy. Sản lượng xe máy của Việt Nam Suzuki từ năm 1996 đến năm 2002 như sau:
- Năm 1996: 2.040 chiếc
- Năm 1997: 12.253 chiếc
- Năm 1998: 25.015 chiếc
- Năm 1999: 21.775 chiếc
- Năm 2000: 23.964 chiếc
- Năm 2001: 28.241 chiếc
- Năm 2002: 42.797 chiếc
Với thương hiệu xe máy Suzuki “Ride the winds of change”, Suzuki chấp nhận thách thức trong việc cải tiến công nghệ nhằm đem lại những sản phẩm xe máy tinh tế đem lại cảm xúc hoàn toàn mới cho người sử dụng, họ đã “thổi luồng gió mới cho
cuộc sống” và đã được người tiêu dùng Việt Nam chấp nhận. Suzuki với hệ thống đại lý có mặt rộng khắp cả nướcnhằm phục vụ khách hàng một cách chu đáo và thuận tiện. Hệ thốngnày là sự kết hợp hiệu quả của các cửa hàng Suzuki 3S đảm nhiệm tất cả các dịch vụ liên quan, đó là bán hàng (sales), dịch vụ hậu mãi (after sales services) vàcung cấp phụ tùng Suzuki chính hiệu (Spare parts). Tất cả, từ cấu trúc tổng thể cho đến từng chi tiết, vật dụng nhỏ, kết hợp tạo nên một hình ảnh nhất quán, hài hoà, đầy sáng tạo cho tất cả các cửa hàng Suzuki trên toàn quốc. Các chiến dịch hậu mãi với tên gọi “Suzuki chăm sóc khách hàng” được tổ chức hàng năm hỗ trợ những dịch vụ hậu mãi cộng thêm thể hiện sự quan tâm khách hàng ngay cả sau khi đã bán. Dịch vụ cũng như các điều lệ bảo hành của Suzuki được hướng dẫn cho khách hàng ngay sau khi bán.
Chính nhờ sự nỗ lực không ngừng nên thị trường tiêu thụ của Việt Nam Suzuki ngày càg được mở rộng trên thị trường xe máy Việt Nam.
Ngoàinhững hãng xe nổi tiếng như trêncòncócác hãngcung cấp xemáy khác. Theo đánh giá của các chuyên gia, hiện nay giá bán xe máy của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngòai vẫn cao hơn rất nhiều so với giá của các loại xe được sản xuất tại các nước ASEAN, Đài Loan… Đặc biệt trong điều kiện mức thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp thì giá bán xe máy hiện nay của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được các chuyên gia đánh giá là: “Cao bất hợp lý”. Theo số liệu báo Đầu tư, cơ quan của Bộ kế hoạch và đầu tư ra ngày 13/02/2001 tathấy: đầu tháng 2/2001, tập đoàn công nghiệp Lifan (Trung Quốc) đã chính thức đưa vào thị trường Việt Nam những loại xe máy mới: xe LF 110 – 9Avới động cơ110cc BestStyle - LF 1p53FMH (982), hệ thống đánh lửa DL – CDI(khởiđộngđiệntử mộtchiều), đánh lửa nhanh, ổn định, dễ khởi động, bánh cam biến tốc lắp thêm vòng bi, chuyển đổi nhẹ, linh hoạt,… đã cho thấy những ông chủ các tập đoàn sản xuất xe máy Trung Quốcđã khai thác triệt để thị trường Việt Nam.
Nắm bắt được nhu cầu về xe máy tại Việt Nam là rất cao, trong những năm gần đây, những ông chủ tập đoàn sản xuất xe máy lớn tại Trung Quốc như: tập đoàn Lifan, Zongshen, Hongda, Fushi,… bằng “chiến thuật” theo mẫu của các động cơ có sẵn trên thị trường đã sản xuất hàng loạt sản phNm xe máy với giá bán thấp kỷ lục để xuất sang thị trường Đông Nam Á, Châu Phi... trong đó có Việt Nam. Ý đồ này đã thực sự rất thành công trên thị trường Việt Nam vì một phần lớn người dân lao động Việt Nam có nhu cầu mua xe máy song lại có thu nhập thấp, hoặc những người có nhu cầu đổi xe máy mới song lại không có đủ tiền,…
Với sự xuất hiện của các sản phẩm xe máy Trung Quốc, thị trường xe máy Việt Nam đã thực sự sôi động lên rất nhiều. Những sản phẩm xe máyTrung Quốc được nhập khẩu vào Việt Nam hàng loạt với giá bán rất thấp, tuỳ thuộc vào từng chủng loại, động cơ mà giá bán chỉ dao động từ 7-10 triệu đồng. Người Việt Nam đã có thể thoả mãn nhu cầu của mình với những sản phẩm đa dạng, phong phú mà giá bán chỉ bằng 1/3 đến 1/2 giá bán của một số hãng sản xuất nổi tiếng như: Honda, Suzuki, Yamaha…
Gián tiếp đưa sản phẩm xe máy Trung Quốc vào thị trường Việt Nam đó là những doanh nghiệp lắp ráp dây chuyền dạng IKD. Doanh nghiệp lắp ráp trên thị trường Việt Nam tồn tại lên tới hàng trăm doanh nghiệp lớn, nhỏ của Việt Nam cũng có mà liên doanh với nước ngoài cũng có. Qua đó, ta thấy sản lượng xe máy Trung Quốc đưa vào thị trường Việt Nam cũng ngày càng tăng lên. Hoạt động của các doanh nghiệp này chủ yếu là nhập linh kiện, chi tiêt, phụ tùng của các hãng sản xuất tạiTrung Quốc rồi đem về lắp ráp, hoàn thiện để tung ra thị trường. Giá đầu vào của một bộ linh kiện dao động từ 300-350 USD/bộ linh kiện, trong đó giá bán dao động khoảng từ 8-10 triệu đồng đã thu hút rất nhiều các doanh nghiệp lắp ráp này đi vào hoạt động. Tình hình cạnh tranh trên thị trường xe máy Việt Nam diễn ra khá gay gắt và quyết liệt. Các hãng xe nổi tiếng phải cạnh tranh với nhau và cạnh tranh với xe máy Trung Quốc. Không những “nhái lại” kiểu dáng mà những người sản xuất xe máy Trung Quốc còn nhái lại “nhãn hiệu” hoặc nếu có khác thì chỉ khác ở một số bộ phận, chi tiết mà rất khó có thể nhận ra. Những người không sành về xe máy sẽ rất khó phân biệt đâu là xe chính hãng, đâu là xe Trung Quốc. Cuộc cạnh tranh cũng diễn ra gay gắt đối với các doanh nghiệp lắp ráp - sản xuất xe máy có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
CHƯƠNG II: CÁC YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG MARKETING VĨ MÔ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THỊ TRƯỜNG XE MÁY VIỆT NAM
Môi trường kinh tế Việt Nam ảnh hưởng đến thị trường xe máy
Tổng thu nhập bình quân đầu người (GDP):
Với tốc độ tăng GDP bình quân đầu người tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái bình quân đạt 14%/năm, quy mô GDP bình quân đầu người của Việt Nam từ năm 2008 đã vượt qua mốc 1.000 USD.
GDP bình quân đầu người tăng lên, nên tổng quy mô GDP của cả nước tính bằng USD theo tỷ giá hối đoái bình quân cũng đã đạt quy mô khá và tăng liên tục qua các năm (năm 2005 đạt 54,7 tỷ USD, năm 2006 đạt 66,3 tỷ USD, năm 2007 đạt 77,4 tỷ USD, năm 2008 đạt 97,5 tỷ USD, năm 2009 đạt 99,8 tỷ USD, năm 2010 đạt 110,7 tỷ USD, năm 2011 đạt 133,1 tỷ USD, năm 2012 ước đạt 155,3 tỷ USD).
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Năm 2013, GDP tính theo giá so sánh ước tăng 5,4%, với chỉ số giảm phát GDP ước khoảng trên 7%, tính ra GDP tính theo giá thực tế tăng khoảng 12,8 tương đương khoảng 3.661 nghìn tỷ đồng. Dân số trung bình năm 2012 đạt 88,773 triệu người; dự đoán tốc độ tăng dân số khoảng 1,05%, thì dân số năm 2013 đạt khoảng 89,705 triệu người. Như vậy, GDP giá thực tế bình quân đầu người năm 2013 đạt khoảng 40,8 triệu đồng (năm 2012 đạt 36,6 triệu đồng).
Với tình hình tăng trưởng GDP những năm gần đây đã có những ảnh hưởng tích cực đến thị trường xe máy Việt Nam,vì thu nhập người dân tăng thì nhu cầu sử dụng xe máy có thể sẽ tăng lên,thị hiếu của người tiêu dùng ngày một gia tăng thì sự đòi hỏi về chất lượng sẽ cao hơn, kiểu dáng, mẫu mã đa dạng hơn. Vì thế mà đòi hỏi các nhà cung cấp xe máy gia tăng số lượng xe máy cũng như cải tiến chất lượng và tung ra thị trường nhiều mẫu mã mới, sản lượng và doanh số xe máy cũng tăng lên.
Chỉ số CPIvà tốc độ tăng trưởng kinh tế: chỉ số lạm phát của năm 2012 đã được kiềm chế ở mức 6,81%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu phấn đấu kiềm chế ở mức 8% cho cả năm và trong những năm trước.
Với tình trạng chỉ số lạm phát nước ta được kiềm chế một cách rõ rệt thì sẽ ảnh hưởng tốt cho các nhà sản xuất, các nhà sản xuất sẽ thúc đẩy sản lượng xe máy, góp phần gia tăng doanh số. Thống kê cho thấy, tính riêng số lượng xe máy được nhập khẩu chính thức từ 5 nhà sản xuất có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, trong năm 2012 đã có hơn 3 triệu xe máy được giao đến tay khách hàng, có thể nói doanh số của xe máy tăng rõ rệt so với những năm trước. Tuy nhiên, tốc độ tăng kinh tế còn chậm kéo theo vấn đề việc làm cũng như khả năng tài chính của người dân gặp khó khăn theo, chính vì thế, thay vì “mạnh tay” như trước đây thì họ sẽ tính toán đến việc thắt chặt chi tiêu tài chính, điều này dẫn đến sức mua đối với một số mặt hàng trên thị trường bị giảm xuống. Ngoài một số mặt hàng thiết yếu đối với đời sống sinh hoạt, những mặt hàng khác đều chịu sự tác động từ động thái thắt chặt chi tiêu này. Khi kinh tế giảm sút, niềm tin vào thị trường của người dân rõ ràng sẽ bị giảm sút. Họ sẽ hạn chế việc mua sắm mà tìm cách bảo toàn nguồn tài chính của mình để chờ cơ hội. Vì vậy, sức mua của người tiêu dùng về xe máy giảm. Sản lượng xe máy sẽ tồn kho, doanh thu giảm.
CƠ SỞ HẠ TẦNG:
Cơ sở hạ tầng của nước ta chưa kịp phát triển kịp cùng với sự phát triển của nền kinh tế. Điển hình như 2 thành phố lớn của Việt Nam là Hà Nội và TP.HCM việc xây dựng cơ sở hạ tầng đáp ứng cho nhu cầu lưu thông của các phương tiện giao thông còn nhiều bất cập, tắc trách và thiếu hiểu biết dẫn đến hàng loạt công trình chồng chéo, hư hỏng và quy hoạch xây dựng xong lại phá do không hợp lý.Cơ sở hạ tầng có một tầm quan trọng lớn.Nước ta đã trải qua 20 năm đổi mới, nhưng mới có mấy chục km đườngcao tốc, hệ thống đường sắt lạc hậu, vận tải biển kém phát triển, tình trạng tắc nghẽn giao thông đô thị khá trầm trọng, v.v… là những cảnh báo rõ ràng nhất.
Trong tình trạng kẹt xe ở các đô thị của nước ta như hiện nay do cơ sở hạ tầng yếu kém, các công trình đường xá, cầu cống bị ứ động, gây kẹt xe, ô nhiễm môi trường do khói bụi...thì di chuyển bằng xe gắn máy thật bất tiện. Do đó người dân có xu hướng chuyển sang những phương tiện khác như xe ô tô, xe buýt và tắt xi... Điều này cũng sẽ gây khó khăn không lớn cho các nhà sản xuất xe máy, thị trường xe máy sẽ giảm sút, khó phát triển.
2.2 Môi trường chính trị- pháp luật ảnh hưởng đến thị trường xe máy
Chính sách thuế:
Nhà nước ta đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất xe máy phát triển như: giảm 50% thuế VAT đối với xe máy,xe môtô 2 bánh và 3 bánh có dung tích xi lanh trên 125theo chương trình kích thích cầu tiêu dùng của chính phủ, nâng cao năng lực các Trung tâm nghiên cứu và phát triển để tự thiết kế được các loại xe thông dụng và một số loại xe cao cấp. Theo báo cáo do Uỷ viên đoàn thư ký kỳ họp Quốc hội Dương Thu Hương có 342/396 đại biểu Quốc hội yêu cầu không đánh thuế tiêu thụ đặc biệt với xe gắn máy. Vì vậy, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế Tiêu thụ đặc biệt đã loại bỏ mặt hàng này.
Tạo điều kiện thuận lợi cho các hãng sản xuất xe máy tăng sản lượng xe máy ra thị trường, bên cạnh đócũng gây khó khăn cho thị trường xe máy: Những nhân tố như thuế nhập khẩu, gia tăng tỷ giá, tăng lệ phí trước bạ, phí cấp biển số mới và lãi suất ngân hàng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường xe máy. Việc bãi bỏ ưu đãi thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hóa đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xe máy, làm giảm doanh số xe máy.
Các Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp:
Được Quốc hội thông qua vào tháng 11năm 2005 và đã có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2006. Một số mục tiêu quan trọngnhất của hai đạo luật kinh doanh này là mở rộng quyền tự do kinh doanh, thu hút đầu tư tư nhân, tăng cường cơ chế hậu kiểm và tạo một sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế. Hội nhập sâu vào WTO 2007:
Cải cách mạnh mẽ chính sách thuế: Có tới 812 dòng thuế được cắt giảm từ ngày11/1/2007, với mức cắt giảm bình quân 44%, so với trước về phí, lệ phí hải quan đãđược Bộ Tài chính sửa đổi căn bản (bãi bỏ nhiều loại phí; tính lại mức phí phù hợpvới quy định của của WTO), giảm bớt nhiều thủ tục, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp,giảm chi phí...
Thuế nội địa - Tiệm cận các chuẩn mực công bằng, bình đẳng, minh bạch Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành Nghị định số 24/2007/NĐ - CP, ngày14/2/2007 (thay thế Nghị định 164/2003 và 152/2004), hướng dẫn thi hành chi tiếtLuật thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN), áp dụng cho năm tính thuế 2007 trở đi.
Những thay đổi này nhằm tạo thuận lợi tối đa cho doanh nghiệp sản xuất xe máy,khuyến khích đầu tư, đẩy mạnh sản xuất xe máy, gia tăng sản lượng và doanh số bán hàng, đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, hấpdẫn, tương thích và đồng bộ với những cam kết gia nhập WTO:
Theo cam kết gia nhập WTO, từ ngày 31/5/2007 Việt Nam phải dỡ bỏ quy định phân biệt đối xử cho nhập khẩu, phân phối và sử dụng đối với xe máy có dung tíchđộng cơ 175cm3 trở lên; thuế nhập khẩu xe máy sẽ phải cắt giảm từ 100% vào thờiđiểm gia nhập xuống còn 70% vào năm 2012, phụ tùng các loại từ mức 50% hiện nayxuống còn 35-45% vào năm 2010.
Đồng thời, từ ngày 01/01/2009 Việt Nam sẽ phảimở cửa cho các doanh nghiệp nước ngoài được trực tiếp nhập khẩu và phân phối xemáy nhập khẩu tại thị trường trong nước.
Thuế nhập khẩu giảm sẽ giảm tỷ lệ bảo hộ hữu hiệu đối với ngành công nghiệp sảnxuất xe máy trong nước và có thể là cú sốc đối với nhiều doanh nghiệp trong nước =>Vìvậy, các doanh nghiệp trong nước cần chủ động liên kết với nhau để tăng năng lựccạnh tranh và có thể liên kết hoặc có thể trở thành nhà sản xuất linh kiện cho cácdoanh nghiệp FDI. Doanh nghiệp nào đã tổ chức được hệ thống phân phối bán lẻ xemáy có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn xe máy lớn trên thế giới.Trên thực tế, thuế nhập khẩu xe máy và linh kiện lắp ráp đã giảm nhiều nhưng giá bán xe máy của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn không giảm.
Với tình hình chính trị như vậy thị trường xe máy Việt Nam phải đối mặt với rất nhiều mối đe dọa : tình hình cạnh tranh của những nhà sản xuất xe máy trong nước, cạnh tranh với những xe được nhập khẩu từ nước ngoài. Vì thế, thị trường xe máy Việt Nam như vậy đòi hỏi các nhà sản xuất xe máy phải ngày một nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến về kiểu dáng sản phẩm .Đồng thời , giá phải phù hợp với nhu cầu với người dân Việt Nam.
Môi trường văn hóa – xã hội ảnh hưởng đến thị trường xe máy
Thói quen, nếp sống văn hóa:
Người dân Việt Nam có thói quen tham gia giao thông bằng xe máy hầu hết tất cả các hộ gia đình đều có xe máy.
Xét ở phương diện nông thôn: Với điều kiện sống, thu nhập thấp do làm nông nghiệp nên người dân nông thôn luôn mong muốn có một phương tiện đi lại để thay cho chiếc xe đạp cà tàng cũng là một điều lớn rồi.
Với khoảng 70% dân số ở nông thôn thì dĩ nhiên xe máy là ưu tiên số một cho thị trường này. Nó cũng là lựa chọn tối ưu của người dân. Bởi lẽ không mua xe máy thì còn mua được gì hơn?
Từ đó cho ta thấy mặc dù số lượng xe máy của chúng ta đã nhiều song về cầu của nó còn rất lớn vì thế việc khai thác tốt nhu cầu này của người dân sẽ đem lại hiệu quả cao cho các doanh nghiệp kinh doanh xe máy, nó là điều kiện thuận lợi để cho các nhà sản xuất xe máy gia tăng sản lượng và đem lại doanh số sản phẩm cao hơn.
Giá cả ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu, đến sự lựa chọn hàng hóa và dịch vụ, giá định hướng nhu cầu người tiêu dùng. Xu hường người tiêu dùng là tiết kiệm, lựa chọn hang giá thấp không chỉ là lựa chọn của người tiêu dùng Việt Nam kể cả người tiêu dùng nhiều nước trên thế giới trong bối cảnh kinh tế suy thoái hiện nay.
Ở cùng sản phẩm có cùng chức năng và công dụng, mức chất lượng gần như nhau với mỗi mức giá khác nhau của từng doanh nghiệp sẽ có được sự ưa thích của khách hàng là khác nhau tùy thuộc vào khả năng tiếp thị và chiêu khách của công ty kinh doanh.
Có rất nhiều công ty xe máy xuất hiện ở nước ta từ rất lâu. Do nước ta là một nước đang phát triển nên xe máy là phương tiện đi lại chủ yếu và còn là phương tiện kiếm sống của người dân. Số lượng người sử dụng xe máy vô cùng lớn và mục đích sử dụng vô cùng phong phú.
Nắm bắt được điều này nhiều công ty xe máy đã đưa ra rất nhiều kiểu dáng, mẫu mã cho khách hàng lựa chọn, tương ứng với những mức giá khác nhau, phù hợp với mọi tầng lớp nhân dân. Các mẫu mã, kiểu dáng mà các công ty đưa ra từ những sản phẩm bình dân đáp ứng nhu cầu đi lại thiết yếu đến những sản phẩm cao cấp có giá trị rất cao nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng, thể hiện đẳng cấp của người sử dụng.
Văn hóa là một yếu tố không kém phần quan trọng, có tác động rất lớn tới họat động sản xuất kinh doanh của thị trường xe máy Việt Nam. Những mẫu xe hơi, xe máy phân khối lớn rất ít được lưu hành trên thị trường nước ta.
Nắm bắt được điều đó, các nhà sản xuất cũng hạn chế sản xuất những mẫu xe như vậy ở Việt Nam để đảm bảo doanh thu và thị phần của mình, mà chú trọng hơn vào những mẫu xe trang nhã, nhỏ gọn, tiết kiệm xăng (hệ thống phun xăng FI), độ bền cao cũng như có chi phí phù hợp với thu nhập, với đặc điểm về thể chất và thị hiếu của người Việt.
Ngoài ra các doanh nghiệp cũng tiến hành phân đoạn thị trường rất kỹ lưỡng để đưa ra những sản phẩm phù hợp cho từng đối tượng khách hàng có sở thích, thị hiếu, văn hóa khác nhau. Chẳng hạn như có những mẫu xe giá cả phải chăng phù hợp với thu nhập trung bình của người tiêu dùng như Wave, Dream, Sirius. Với những người có thu nhập cao hơn một chút thì có thể lựa chọn những mẫu xe như:Air Blade, Lead, Elizabeth, Exiciter..…, và cả những mẫu xe dành cho những người có thu nhập cao đến rất cao như SH, Dylan …Đó là chưa kể đến trào lưu mua xe theo phong trào của 1 đại bộ phận như hiện nay, những người có thu nhập cao cũng chưa hẳn đã lực chọn và mua xe máy theo sở thích của mình mà còn theo trào lưu, tác động của xã hội.
Ngoài ra tín ngưỡng tôn giáo trong văn hóa cũng ảnh hưởng không kém, nhiều người vẫn cho rằng tháng 7 âm lịch mà dân gian hay gọi là tháng “cô hồn” thì không nên mua xe vì sẽ không được may mắn.
Với kiểu dáng đa dạng, màu sắc phong phú, từ những chiếc xe nhỏ gọn trang nhã như click, scr, hoặc những mẫu thể thao khỏe khoắn như air blade, repsol, Honda đáp ứng được phần lớn thị hiếu, sở thích của từng người.
2.4Môi trường công nghệ - tự nhiên ảnh hưởng đến thị trường xe máy
Khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển nhanh chóng. Việc phát minh ra các thiết bị,máy móc hiện đại để đáp ứng nhu cầu của con người ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Việc nhận biết, áp dụng các thành tựu đó vào sản xuất, quản lí bán hàng giúp các doanh nghiệp tạo lợi thế riêng cho mình.Việc nghiên cứu thay đổi công nghệ sản xuất để có những chiếc xe gắn máy tiết kiệm nhiên liệu, thân thiện với môi trường Môi trường tự nhiên
Ngày nay môi trường tự nhiên đang là yếu tố quan tâm hàng đầu của các quốc gia nhầm bảo vệ và giữ gìn môi trường, tránh tình trạng ô nhiễm gây tổn hại đến sức khỏe con người vì vậy các công ty đã đưa ra cam kết bảo vệ môi trường cũng như cam kết về lượng khí thải cho phép ra môi trường.
Để khắc phục các vấn đề khan hiếm của nguyên vật liệu, sự gia tăng chi phí năng lượng, sự gia tăng mức ô nhiễm môi trường và một số vấn đề nảy sinh khác thì việc thay đổi công nghệ sản xuất và cải tiến kĩ thuật là rất quan trọng. Không chỉ đơn thuần là việc sản xuất ra chiếc xe máy cho chi phí thấp có thể tiết kiệm nguyên vật liệu và năng lượng mà đó chính là những cải tiến công nghệ giúp tiết kiệm chi phí năng lượng lúc vận hành, giảm thiểu khí thải : công nghệ phun xăng điện tử, công nghệ 3 van tiêu hao ít nhiên liệu, PGM-FI là công nghệ vốn được sử dụng cho các loại ôtô với khả năng giảm lượng tiêu hao nhiên liệu, an toàn với người điều khiển, thân thiện với môi trường… nên khi được sử dụng cho xe máy, PGM-FI đã nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ thị trường,kết hợp giữa công nghệ lập trình phun xăng 2 cấp PGM_DSFI,Honda Fuell Cell Scooter (xe ga sử dụng pin nhiên liệu Hydro),tại cuộc triển lãm của Honda đã trưng bày sản phẩm Honda Hybrid Scooter (xe ga sử dụng điện và xăng) với những tính năng vượt trội. Đặc biệt, khí thải của dòng xe Fuell Cell là hơi nước, có thể uống được và sẽ biểu diễn "uống thử" tại triển lãm.
Các nhà sản xuất không ngừng đổi mới và cải tiến công nghệ, khoảng cách giữa những lần cải tiến công nghệ ngày càng được rút ngắn. Nếu như trước đây, phải vài năm mới có một mẫu xe mới ra đời thì hiện nay, phiên bản của một mẫu xe, thậm chí có khi chỉ tồn tại vài tháng, hoặc là được thay thế bởi mẫu mới tốt hơn, hoặc là vẫn mẫu đó nhưng được cải tiến, cả về hình thức lẫn máy móc bên trong, để tiến tới mục tiêu là làm hài lòng khách hàng, chiếm được thị phần lớn trên thương trường khốc liệt.
2.5Môi trường địa lí ảnh hưởng đến thị trường xe máy
Là yếu tố rất được các nhà maketing quan tâm bởi vì thị trường là do con người hợp lại mà thành. Vì vậy các công ty xe máy đã dựa trên các đặc điểm phân bố dân cư và thu nhập để phân phối sản phẩm của mình cho phù hợp.
Sự phân bố dân cư: dân số Việt Nam đông nhưng phân bố không đồng đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như: Hà Nội , Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh, Biên Hòa,...v.v
Cho nên các hãng sản xuất xe máy tập trung phân phối sản phẩm của mình chủ yếu tại đây.
Đối với các sản phẩm xe máy bình dân công ty thường phân phối tại các khu vực nông thôn, miền núi vì ở đó người dân có nhu cầu cao về dòng sản phẩm này, nó phù hợp với túi tiền của họ.
Ở khu vực thành thị công ty thường phân phối các sản phẩm xe tay ga vì người dân ở khu vực thành thị có thu nhập cao cho nên họ có nhu cầu cao về các sản phẩm này.
Những thuận lợi- thách thức của thị trường xe máy và xu hướng phát triển trong thời gian tới
Từnhững yếu tố của môi trường marketing vĩ mô nêu trên,nó vừa là điều kiện thuận lợi, vừa là những khó khăn thách thức cản trở sự phát triển của thị trường xe máy Việt Nam như sau:
Thuận lợi:
Dân số Việt Nam đạt gần 90 triệu người và tỉ lệ trẻ là rất lớn, với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm khoảng 7,2%, đối với người Việt thì xe máy vẫn là phương tiện giao thông chủ yếu nó không những là phương tiện mà đôi khi nó còn là vật trang trí nên trong khoảng 30 năm tới nó vẫn là thị trường vô cùng thuận lợi cho các hãng sản xuất xe gắn máy.
Theo nghiên cứu thị trường xe máy cho biết Nhật và Trung Quốc đang đẩy mạnh đầu tư phát triển hệ thống nhà cung cấp linh kiện, tạo đà cho xu hướng xuất khẩu. Lợi thế lớn nhất của Việt Nam so với các nước trong khu vực nằm ở thị hiếu của người tiêu dùng, ưa chuộng những dòng xe máy đa dạng nhiều mẫu mã.
Ở xe máy công nghệ không cao như ôtô, nhưng đó là tiền đề. Thái Lan, Indonesia cũng đi lên từ xe máy. Ngoài ra, các hãng sản xuất xe máy sẽ giúp giải quyết lượng việc làm lớn, giảm tỷ lệ thất nghiệp, xuất khẩu mang về ngoại tệ cho đất nước, đóng góp vào GDP. Chính vì vậy, Bộ Công thương cũng như Chính phủ sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp theo hướng đi này
Một số chính sách ưu đãi thuế của nhà nước cũng góp phần giúp cho các nhà sản xuất xe gắn máy xuất khẩu và tung ra thị trường nhiều loại xe phù hợp với nhu cấu của người tiêu dùng.
Khó khăn:
Nạn ô nhiễm môi trường bởi khí thải xăng từ xe máy đang trở thành vấn đề nghiêm trọng. Nhiều người sử dụng xe máy và xe 3 bánh dùng khẩu trang che mặt khi đi đường. Hằng năm, tại quốc gia Việt Nam , có 16,000.người chết vì ô nhiễm môi trường.Sự tăng giá xăng gần đây không chỉ làm cuộc sống của mọi người thêm khó khăn mà còn làm chính phủ phải quan tâm về vấn đề an ninh quốc gia.
Hiện thị trường xe máy trong nước vẫn đang và sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức. Những nhân tố như thuế nhập khẩu, gia tăng tỷ giá, tăng lệ phí trước bạ, phí cấp biển số mới và lãi suất ngân hàng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến thị trường xe máy.
Việt Nam sẽ phải đối mặt với vấn đề khó là làm sao để sự phát triển thị trường xe máy không gắn liền với tắc nghẽn giao thông, ô nhiễm môi trường; đồng thời, làm sao chớp thời cơ để phát triển công nghiệp ô tô-xe máy Việt Nam, không để Việt Nam biến thành thị trường nhập khẩu ô tô-xe máy từ các nước khác. Vấn đề này càng bức xúc hơn khi thời hạn thực hiện AFTA, WTO đang đến gần. Theo đó, Việt Nam phải mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế kể từ ngày gia nhập và các loại rào cản thương mại được loại bỏ dần, đây sẽ là một thách thức không nhỏ đối với ngành công nghiệp ô tô - xe máy Việt Nam.
Trong tình trạng kẹt xe ở các đô thị của nước ta như hiện nay nên xe buýt là một lựa chọn tối ưu của người tiêu dùng. Ngoài ra, với xu hường phát triển của đất nước, di chuyển bằng xemáy bất tiện với khói, bụi…Do vậy, thật là tiện lợi khi đi taxi, xe buýt. Điều này cũng sẽ gây khó khăn không lớn cho các nhà sản xuất xe máy.
Việc bãi bỏ ưu đãi thuế nhập khẩu theo tỷ lệ nội địa hóa đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh xe máy nhưng đây là yêu cầu khách quan của hội nhập và phát triển thị trường.
Nhiều người có nhu cầu mua xe máy hoặc những người đang đi xe cũ nhưng lại muốn đổi sang xe mới thì lại không có đủ tiền. Trong khi đó thị trường xe máy Trung Quốc lại ồ ạt có mặt ở thị trường Việt Nam với giá bán rẻ kỷ lục đã đáp ứng được một lượng lớn nhu cầu của những người dân lao động và giới bình dân. Mặc dù biết là chất lượng xe máy Trung Quốc là không đảm bảo nhưng họ vẫn mua bởi nó phù hợp với túi tiền của họ.Điều này làm trở ngại trong việc phát triển đẩy mạnh cho thị trường xe máy Việt Nam.
Xu hướng phát triển của thị trường xe máy Việt Nam
Theo Bản Quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường bộ Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 vừa được điều chỉnh, sẽ sử dụng các biện pháp hành chính, kinh tế, kỹ thuật để khống chế số lượng xe máy trên cả nước... dự kiến đến năm 2020 có khoảng 36 triệu xe máy.
Trong khi đó, theo số liệu của Bộ Giao thông vận tải, tính đến hết tháng 7/2012, số xe máy đăng ký lưu hành là 35.240.162 chiếc. Như vậy, có thể nói từ 2013-2020 xe máy sẽ bị hạn chế mạnh.
Trước khi có quyết định hạn chế xe máy, các doanh nghiệp vẫn dự báo tiêu thụ xe máy Việt Nam có thể đạt mức 4,5 triệu xe vào thời điểm 2018 và một số doanh nghiệp đã đẩy mạnh đầu tư, nâng tổng công suất sản xuất lắp ráp xe máy cả nước lên 5 triệu xe/năm. Theo các doanh nghiệp chỉ cần hạn chế xe máy ở mức 3 triệu xe/năm tương đương với số xe tiêu thụ trong năm 2012 thì chắc chắn sản xuất sẽ gặp khó khăn bởi công suất dư thừa quá lớn. Do những điều luật của chính phủ mà mức độ nội địa hóa trong xe gắn máy ngày càng cao. Mặc dù chính phủ đã và đang đầu tư vào đường xá và các phương tiện công cộng thay thế cho xe gắn máy như xe buýt, taxi, nhưng trong tương lai gần thị trường vẫn tiếp tục tăng trưởng do tăng dân số và mức thu nhập của người dân ngày càng cao.
Thị trường xe máy tay ga ngày càng phát triển mạnh do sự dịch chuyển thị hiếu của người tiêu dùng. Người tiêu dùng Việt Nam giờ đây có thể tự do lựa chọn những sản phẩm xe máy mà mình yêu thích. Các dòng xe tay ga được ra mắt trong thị trường vời những kiểu dáng đa dạng phù hợp theo từng phân khúc thị trường.
Việc nghiên cứu thay đổi công nghệ sản xuất để có những chiếc xe gắn máy tiết kiệm nhiên liệu, thân thiện với môi trường.
Trong thời gian sắp tới nhà nước sẽ không khuyến khích thành lập doanh nghiệp mới sản xuất xe máy mà khuyến khích các doanh nghiệp liên doanh, liên kết hình thành những tập đoàn sản xuất xe máy, phụ tùng có quy mô công nghiệp theo hướng chuyên môn hóa cao và hợp tác hóa cao, đầu tư công nghệ chế tạo động cơ trình độ cao, tư vấn thiết kế và chuyển giao công nghệ. Như vậy, các nhà sản xuất sẽ có nhiều cơ hội duy trì và phát triển sản xuất.
Phong cách và những mong đợi của người tiêu dùng đã hình thành lên xu hướng xe máy hiện nay.Thị trường xe máy 6 tháng đầu năm 2013 chứng kiến cuộc chạy đua công nghệ của các hãng xe với một loạt xe may được tung ra thị trường. Giới thiệu mẫu xe mới trong giai đoạn nửa đầu năm 2013 mà các hãng xe lựa chọn đó là nâng cấp phiên bản hiện hành, ra mắt sản phẩm mới tinh và hồi sinh các huyền thoại quá khứ. Đây là cách làm mới an toàn nhất để không mất quá nhiều chi phí marketing nhãn hiệu, đồng thời mang tới hình ảnh công nghệ tiên tiến mà người tiêu dùng luôn chờ đợi ở những nhà sản xuất xe máy.
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP - CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XE MÁY VÀ NHỮNG ĐỀ XUẤT Ý KIẾN ĐỂ KHẮC PHỤC- PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG XE MÁY Ở VIỆT NAM
Để hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước phát triển và cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong ngành xe máy, nhà nước ta đã sử dụng các chính sách và giải pháp đối với ngành công nghiệp trọng điểm và ngành công nghệ cao, công nghệ thân thiện với môi trường để hỗ trợ cho doanh nghiệp, cụ thể là:
- Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, có dự án đáp ứng đầy đủ các quy định của Quyết định số 24/2002/QĐ-BCN ngày 07 tháng 6 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp về tiêu chuẩn của doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe máy được phép đầu tư dự án sản xuất, lắp ráp xe máy trên nguyên tắc tự chịu trách nhiệm về hiệu quả đầu tư;
- Xe máy sản xuất, lắp ráp trong nước phải được đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và đăng kiểm chất lượng theo quy định của pháp luật.Các sản phẩm xe máy sản xuất tại Việt Nam không có đăng ký bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và đăng kiểm chất lượng theo quy định của pháp luật thì không được phép đăng ký lưu hành.
- Các loại phụ tùng để lắp ráp xe máy bao gồm phụ tùng nhập khẩu và sản xuất trong nước phải có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng, hợp pháp và đăng ký chất lượng sản phẩm theo quy định của pháp luật.
- Các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe máy và động cơ xe máy phải có chứng chỉ hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001 (phiên bản 2000) cho hệ thống sản xuất, lắp ráp xe máy và động cơ xe máy.
Về tổ chức sản xuất:
- Đẩy mạnh phối hợp liên kết sản xuất giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế có năng lực về tài chính và công nghệ tham gia sản xuất linh kiện, phụ tùng xe máy nhằm xây dựng được hệ thống các nhà cung cấp linh kiện, phụ tùng, từng bước kết hợp sản xuất linh kiện, phụ tùng ôtô.
- Khuyến khích liên doanh, liên kết hình thành tập đoàn sản xuất xe máy lớn có khả năng cạnh tranh cao.
- Tham gia hệ thống sản xuất, phân phối sản phẩm trong khu vực.
Về thị trường
- Xây dựng các thể chế ngăn chặn có hiệu quả hàng nhập lậu và gian lận thương mại và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp trong ngành công nghiệp xe máy.
- Đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp nâng cao thị phần trong nước, thâm nhập thị trường thế giới.
- Thúc đẩy phát triển dịch vụ bán hàng và sau bán hàng.
- Có chính sách kích cầu đối với thị trường khu vực nông thôn, miền núi như: cải tạo, nâng cấp hệ thống đường xá; tuyên truyền giáo dục luật lệ giao thông, phát triển mạng lưới đào tạo, sát hạch và cấp bằng lái xe.
- Hỗ trợ quảng bá linh kiện, phụ tùng và xe máy Việt Nam như: tổ chức hội chợ thương mại, triển lãm giới thiệu sản phẩm.
Về khoa học công nghệ
- Tập trung đầu tư công nghệ nghiên cứu thiết kế sản phẩm mới từ nguồn vốn khoa học công nghệ đối với hoạt động nghiên cứu và phát triển.
- Đầu tư công nghệ kiểm tra hiện đại, đảm bảo năng lực đánh giá chất lượng sản phẩm nhanh, chính xác và toàn diện.
- Chú trọng đầu tư hiện đại hóa công nghệ sản xuất hiện có, ứng dụng nhanh công nghệ mới cho phát triển ngành.
- Hoàn thiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn xe máy, linh kiện, phụ tùng xe máy; quy định đăng kiểm xe máy phù hợp với thực tế Việt Nam và thông lệ quốc tế.
- Tăng cường công tác quản lý sở hữu công nghiệp và đăng kiểm chất lượng sản phẩm xe máy.
- Xây dựng cơ chế khuyến khích đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ, phát triển các doanh nghiệp vệ tinh.
- Sử dụng nhiều chính sách ưu đãi thuế cho các ngành công nghiệp ưu tiên như cơ khí, điện,điện tử để hỗ trợ cho phát triển các ngành công nghiệp phù trợ, từ đó sẽ gián tiếp hỗtrợ được các doanh nghiệp kinh doanh xe máy do họ mua được các linh kiện giá thấp.
- Hoàn thuế thu nhập doanh nghiệp nếu lợi nhuận được để lại đầu tư cho phát triển công nghệ và đầu tư phát triển kinh doanh xe máy.
- Cho phép các dự án phát triển sản xuất và xuất khẩu xe máy, sản xuất các linh kiện thuộc ngành công nghiệp phù trợ được vay vốn tín dụng ưu đãi của ngân hàng phát triển Việt Nam.
- Hỗ trợ các doanh nghiệp vay vốn trên thị trường chứng khoán như giảm bớt các điều kiện bắt buộc phải thực hiện để phát hành cổ phiếu ra công chúng và hỗ trợ các doanh nghiệp đăng ký niêm yết cổ phiếu.
-Hoàn thiện chính sách ưu đãi thuế đối với đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng hoàn thiện quy định về tiêu chuẩn công nghệ hiện đại cần ưu tiên phát triển, ưu đãi thuế thu nhập cho doanh nghiệp áp dụng công nghệ cao và công nghệ thân thiện với môi trường.
Qua tìm hiểu về thị trường xe máy và các yếu tố marketing vĩ mô ảnh hưởng đến thị trường xe máy, nhóm chúng em cũng có một số đề xuất về việc khắc phục những thiếu sót và góp phần phát triển thị trường xe máy Việt Nam như sau:
Về phía nhà nước:
Cần tăng cường tài trợ cho các hoạt động khoa học công nghệ để nghiên cứu phát triển công nghệ sản xuất xe máy, nhất là các loại xe máy sử dụng nhiên liệu sinh học thông qua quỹ phát triển khoa học và từ ngân sách của Nhà nước.
Cần hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất xe máy trong công tác nghiên cứu thiết kế kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu sản phẩm theo Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ của doanh nghiệp, hỗ trợ xúc tiến thương mại và phát triển thị trường xuất khẩu. Đây là các biện pháp hỗ trợ phù hợp với các nguyên tắc hỗ trợ của WTO, nhưng phải đảm bảo các hỗ trợ này là hỗ trợ chung và có thời hạn.
Bên cạnh việc bắt buộc doanh nghiệp phải thực hiện tốt hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO-9000/2001 cần sớm nghiên cứu ban hành các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật cho tất cả những phụ tùng và linh kiện quan trọng của xe máy. Chỉ cho phép những loại phụ tùng và linh kiện đáp ứng được các yêu cầu quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật mới được phép nhập khẩu và lưu thông trên thị trường.
Cần tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát thị trường, chống buôn lậu và gian lận thương mại trên thị trường ngành hàng xe máy.Tổ chức lại hệ thống quản lý thị trường theo hướng thống nhất chức năng thanh tra sở hữu công nghiệp, kiểm tra chất lượng hàng hóa với lực lượng quản lý thị trường của Bộ Công thương. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra và kiểm soát quá trình định giá và giá bán lẻ mặt hàng xe máy ở các doanh nghiệp và hệ thống cửa hàng kinh doanh xe máy.
Nhà nước cần khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu, thiết kế sản phẩm mới và hoạt động nghiên cứu và phát triển phù hợp với cam kết của Việt Nam với các tổ chức quốc tế.
Có chính sách khuyến khích các ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển, như: hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực, cung cấp thông tin công nghệ, tổ chức hội chợ thương mại và triển lãm sản phẩm.
Có chính sách khuyến khích các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài để sản xuất xe máy và linh kiện phụ tùng xe máy.
Đẩy mạnh phát triển cơ sở hạ tầng.
Về phía các doanh nghiệp sản xuất xe máy:
Tăng cường quản trị chiến lược marketing trong kinh doanh:Các nhà doanh nghiệp cần nắm bắt nhạy bén kịp thời về tình hình thay đổi của thị trường xe máy Việt Nam để có thể đưa ra những chiến lược về việc sản xuất và tung ra mắt thị trường các dòng xe máy phù hợp với dòng xu hướng hiện nay trên thị trường, được người tiêu dùng ưa chuộng. Chiến lược quảng cáo, tiếp thị rộng rãi: để các dòng xe máy Việt Nam được ngượi tiêu dùng biết đến công ty này nên có chiến lược marketing rộng rãi.
Tăng cường mở rộng quan hệ cầu nối giữa doanh nghiệp: Các doanh nghiệp xe máy Việt Nam cần mở nhiều cuộc triển lãm các dòng xe máy Việt Nam với doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, nhằm gắn kết giữa các doanh nghiệp sản xuất của Việt Nam và nước ngoài, là nơi giao dịch quan trọng giữa các nhà đầu tư với các công ty, góp phần giúp các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường cũng như các khách hàng mục tiêu. Đây sẽ là địa chỉ cung cấp những thông tin tham khảo hữu hiệu trước khi quyết định đường hướng và chính sách phát triển cho mỗi doanh nghiệp; sẽ mở ra cho doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam cơ hội giao lưu, trao đổi những sản phẩm công nghệ mới nhất, tiếp cận cơ hội bán và mua hàng.Cần lựa chọn quyết định sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Chiến lược gía cả: trước sự cạnh tranh quyết liệt như vậy, các hãng xe máy nên đưa ra chiến lược giảm giá. Việc giảm giá như vậy sẽ có tác dụng thu hút thêm nhiều khách hàng, đảm bảo cho họ có đủ khả năng mua được những sản phẩm.
Chiến lược quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, mở mạng lưới bán hàng với các đại lý lớn, có dịch vụ sửa chữa và bảo dưỡng xe ở khắp mọi nơi trên toàn quốc nhằm thu hút nhiều khách hàng đến với sản phẩm của mình.
Chiến lược sản phẩm: Sản phẩm của xe máy Việt Nam trên thị trường vẫn chưa đa dạng, nên nghiên cứu chế tạo sản phẩm xe máy sao cho phù hợp với thu nhập của người dân lao động và giới bình dân.
Phải có chiến lược sản phẩm xương sống mũi nhọn: Chiến lược dị biệt hóa sản phẩm: hiện nay sản phẩm xe máy có mặt trên thị trường Việt Nam rất đa dạng và phong phú về màu sắc cũng như kiểu dáng. Một khi đời sống người dân ở mức cao hơn thì nhu cầu của họ không phải đơn giản là phương tiện đẻ đi mà còn là đi phương tiện gì?Chính vì vậy thị trường xe máy Việt Nam không nên chỉ dừng lại ở việc sản xuất loại xe máy có giá bán phù hợp với người dân lao động mà công ty nên có một chiến lược dị biệt hóa sản phẩm, sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao, kiểu cách, tính năng mới lạ, hấp dẫn, phù hợp với nhu cầu của những tầng lớp có thu nhập cao. Có như vậy sản phẩm xe máy mới thực sự chiếm lĩnh được thị trường Việt Nam, đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, khẳng định vị trí số một của sản phẩm của xe máy trong suy nghĩ của người Việt Nam.
KẾT LUẬN
Nhìn chung , thị trường xe máy của Việt Nam trong thời gian gần đây có nhiều chuyển biến sâu sắc. Như chúng ta điều biết, một doanh nghiệp không tồn tại biệt lập mà thường xuyên tác động qua lại với môi trường. Những sự thay đổi từ các yếu tố môi trường marketing vĩ mô có thể tạo ra những cơ hội , hoặc là nguy cơ đe dọa sự tồn tại và phát triển cho thị trường xe máy Việt Nam.Trong thời đại ngày nay ảnh hưởng của các yếu tố môi trường marketing vĩ mô đến hoạt động sản xuất xe máy của các doanh nghiệp diễn ra ngày càng mạnh mẽ và phức tạp cả về qui mô, tốc độ, cả về bề rộng và chiều sâu. Chính vì vậy, đứng trên lập trường đã không ngừng tìm kiếm những giải pháp để đối phó sự biến đổi của môi trường cũng như xây dựng những chiến lược marketing phù hợp với tình hình là những việc làm hết sức cần thiết nhưng cũng gặp không ít khó khăn đòi hỏi các nhà nghiên cứu marketing cần thận trong hơn để đưa ra những chiến lược phù hợp. Do đó các nhà nghiên cứu marketing cần dành nhiều thời gian để khảo sát và dự đoán những yếu tố biến đổi của môi trường và coi đó như là một công việc đầu tiên trong công tác của mình. Kết quả việc xây dựng chiến lược kinh doanh kết hợp với nghiên cứu môi trường sẽ cung cấp cho các nhà doanh nghiệp những dữ liệu và kiến thức quan trọng, làm cơ sở cho việc ra quyết định và thực hiện các quyết định.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giao trình Marketing căn bản-ĐH Công Nghiệp Thành Phố Hồ Chí Minh
Tailieutonghop.com
www.baomoi.com/Tag/thị-trường-xe-máy.
www.tinmoi.vn/tag/thị-trường-xe-máy
vnexpress.net/...xe-may/cuoc-chien-khong-khoan-nhuong-tren-thi-truon..
Dân trí.com
doc.edu.vn/.../tieu-luan-nhan-dinh-ve-chinh-sach-gia-cua-xe-may
tailieu.vn/../
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieu_luan_marketing_can_ban_hoan_chinh_4475.docx