Xúc tiến ngân hàng điện tử là xu thế chung của thế giới trên con đường phát triển nền
kinh tế tri thức và hướng đến xã hội thông tin. Chấp nhận ngân hàng điện tử là một sự tự
nguyện có tính cam kết, dựa trên sự hiểu biết với một quyết tâm cao để hội nhập và phát triển
với thế giới và khu vực trước bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại đang diễn ra cực
kỳ sôi động.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc hội nhập mang theo cả
thời cơ và thách thức, nhưng thách thức lớn nhất sẽ là không tham gia gì cả. Ngân hàng điện
tử thực chất là những hoạt động kinh tế mới, vô cùng năng động, sử dụng những công cụ hiện
đại nhất để thu thập, xử lý và chuyển tải những khối lượng lớn thông tin khổng lồ để đưa ra
các quyết định nhanh chóng và chính xác. Nếu không tham gia các hoạt động này nguy cơ tụt
hậu và lệ thuộc vào nước ngoài sẽ tăng lên.
39 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2366 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp chiến lược cho sự phát triển của E-Banking tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 15
Bước 2: Thiết lập cấu hình di động để sử dụng dịch vụ WAP:
Khách hàng tiến hành cấu hình di động để sử dụng dịch vụ WAP. Chú ý
là chỉ dùng được với các máy di động có hỗ trợ WAP.
Settings name: do người dùng thiết lập.
Homepage: trang chủ wap của ngân hàng.
Connection Type: Continuous
Session mode: Temporary
Connection security: On
Data bearer: GSM data
IP address: automatic
Authentication type: Secure
User name: do nhà cung cấp dịch vụ di động cấp.
Password: do nhà cung cấp dịch vụ di động cấp.
Bước 3: Kết nối vào mạng
Khách hàng sử dụng di động đã được cấu hình truy cập vào trang chủ
wap của ngân hàng.
Sử dụng tên tài khoản được cung cấp để đăng nhập vào hệ thống.
Bước 4: Thực hiện giao dịch
Khách hàng sử dụng các tiện ích được ngân hàng cung cấp trên trang chủ
wap của ngân hàng để tiến hành các giao dịch, truy vấn tài khoản.
4. Phone banking
Phone banking là dịch vụ ngân hàng thông qua mạng điện thoại nhằm cung cấp cho
khách hàng khả năng sử dụng các tiện ích của ngân hàng mà không cần đến tận nơi giao dịch,
có thể thực hiện giao dịch mọi lúc mọi nơi, 24/24h. Hệ thống phone banking là một tổng đài
điện tử có khác năng trả lời tự động, hướng dẫn tự động giúp khách hàng thực hiện các giao
dịch một cách dễ dàng.
Quy trình cung cấp dịch vụ:
Bước 1: Đăng ký sử dụng dịch vụ:
Khách hàng đăng ký sử dụng dịch vụ tại các trạm giao dịch của các ngân
hàng hoặc gửi bản đăng ký thông qua email.
Ngân hàng cung cấp cho khách hàng mã số truy cập và mật khẩu.
Bước 2: Kết nối vào hệ thống:
Khách hàng gọi điện đến tổng đài điện tử của dịch vụ.
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 16
Sử dụng mã số truy cập được cung cấp để đăng nhập vào hệ thống và
nghe hướng dẫn.
Bước 3: Thực hiện giao dịch:
Khách hàng sử dụng các phím bấm của bàn phím điện thoại để lựa chọn
các kênh giao dịch được cung cấp theo hướng dẫn của tổng đài điện tử.
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 17
Chương 2 : Thực trạng quy trình cung cấp dịch vụ e-
banking tại ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu – ACB.
I. Quá trình hình thành và phát triển của ACB
1. Giới thiệu chung
1.1. Lịch sử hình thành
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu là một trong những ngân hàng được thành lập
sớm ở nước ta. Ngân hàng ACB được thành lập theo giấy phép số 0032/NH- GP do ngân
hàng nhà nước ( NHNN) cấp.
Ngày 24-04-1993: Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB) được thành lập
Ngày 04-06-1993: ACB chính thức đi vào hoạt động kinh doanh.
1.2. Sản phẩm dịch vụ chính
Huy động vốn ngắn trung và dài hạn ( nhận tiền gửi của khách hàng) bằng đồng Việt
Nam, ngoại tệ và vàng theo các hình thức gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, chứng chỉ
tiền gửi.
Sử dụng vốn: tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư, nhận vốn từ các tổ chức tín dụng trong và
ngoài nước, bằng đồng Việt Nam, ngoại tệ và vàng
Cho vay ngắn trung và dài hạn, chiết khấu thương phiếu, công trái và giấy tờ có giá
Đầu tư vào chứng khoán và các tổ chức kinh tế, làm dịch vụ thanh toán giữa khách
hàng, lưu kí, tư vấn tài chính doanh nghiệp và bảo lãnh phát hành.
Kinh doanh ngoại tệ, vàng bạc
Cung cấp các dịch vụ về đầu tư, quản lý nợ và khai thác tài sản, cho thuê tài chính và
các dịch vụ ngân hàng khác.
1.3. Sơ đồ tổ chức
a. Sơ đồ tổ chức của ngân hàng ACB gồm :
Bảy khối : Khách hàng cá nhân, Khách hàng doanh nghiệp, Ngân quỹ, Phát triển kinh
doanh, Giám sát điều hành, Quản trị nguồn lực, Công nghệ thông tin;
Bốn ban: Kiểm tra– Kiếm soát nội bộ, Chiến lược, Đảm bảo chất lượng, Chính sách và
Quản lý tín dụng.
Hai phòng : Quan hệ Quốc tế, Thẩm định tài sản (trực thuộc Tổng giám đốc).
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 18
Đại hội đồng
cổ đông
Hội đồng
quản trị
Ban tổng
GĐ
Các hội đồng
Ban chiến lược
Bam chính sách và quản lí
tín dụng
Ban đảm bảo chất lượng
Phòng đầu tư
Ban kiểm soát
Phòng kế toán
Văn phòng HĐQT Ban kiểm toán nội bộ
Phòng quản lí rủi ro
Phòng quan hệ đối ngoại
Khối KH cá
nhân Khối KH DN
Khối Ngân
quỹ
Khối PT KD Khối vận
hành
Khối QL tri
thức TT CNTT
Các p.bán
hàng
Các p.hỗ trợ
Các p,nvụ
Các p.sản
phẩm
Các p.bán
hàng
Các p.hỗ trợ
P.KD ngoại
hối
Các p,nvụ
P.KD vàng
P.hỗ trợ và
pt chi nhánh
Các p.sản
phẩm
P.KD vốn
P.Marketing
P.pháp chế
và tuân thủ
P.nv giao
dịch
P.QL quỹ
P.thẩm định
TS
P.hỗ trợ tín
dụng
P.tổng hợp
P.nc TT
P.điều hành
NS
P. hành
chính và xd
cơ bản
P.phát trển
NNL
P.phân tích
nv
TT đào tạo
Bộ phận hành
chính
P. quản trị cơ
sở dữ liệu
P. vận hành
hệ thống
CNTT
Các sở giao dịch và p.giao dịch
Nhận xét : nhìn chung, sơ đồ tổ chức của ACB khá rõ ràng cụ thể. ACB đã phân chia các
phòng ban một cách cụ thể chi tiết để dễ dàng phân công công việc và trách nhiệm. Đồng
thời các phòng ban cũng có mỗi liên hệ ràng buộc với nhau khi cần thiết để có thể phối
hợp thực hiện công việc. ví dụ khối khách hàng cá nhân và khối khách hàng doanh nghiệp
cũng có mỗi liên hệ mật thiết với khối vận hành …
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 19
b. Công ty trực thuộc
Công ty Chứng khoán ACB (ACBS).
Công ty Quản lý và khai thác tài sản Ngân hàng Á Châu (ACBA).
c. Công ty cho
Công ty Cổ phần Dịch vụ Bảo vệ Ngân hàng Á Châu (ACBD).
Công ty Cổ phần Địa ốc ACB (ACBR).
d. Công ty liên doanh
Công ty Cổ phần Sài Gòn Kim hoàn ACB- SJC (góp vốn thành lập với SJC).
1.4. Nhân lực
Tính đến ngày 31/12/2007 tổng số nhân viên nghiệp vụ của Ngân hàng Á Châu là 4.600
người. Trong đó:
Bảng 2 : ( nguồn báo cáo thường niên 2007-ACB)
Theo cấp
quản lí
Theo trình độ nhân
viên
Cán bộ quản lí 571
Nhân viên 4029
Sau đại học 82
Đại học 3929
Cao đẳng và trung cấp 431
Phổ thông 158
Tổng cộng 4600 4600
Cán bộ có trình độ đại học và trên đại học chiếm 93%, thường xuyên được đào tạo
chuyên môn nghiệp vụ tại trung tâm đào tạo riêng của ACB. Hai năm 1998-1999, ACB được
Công ty Tài chính Quốc tế (IFC) tài trợ một chương trình hỗ trợ kỹ thuật chuyên về đào tạo
nghiệp vụ cho nhân viên, do Ngân hàng Far East Bank and Trust Company (FEBTC) của Phi-
lip-pin thực hiện. Trong năm 2002 và 2003, các cấp điều hành đã tham gia các khoá học về
quản trị ngân hàng của Trung tâm Đào tạo Ngân hàng (Bank Training Center). Mức lương
bình quân của nhân viên cũng tăng dần theo các năm.
Bảng 3: Mức lương của nhân viên ACB
( nguồn báo cáo thường niên 2007-ACB)
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 20
Năm 2005 4.628.000 đồng/tháng
Năm 2006 5.763.862 đồng/tháng
Năm 2007 8.456.000 đồng/tháng
Bên cạnh đó, ACB còn rất chú trọng đến công tác đào tạo và phát triển nhân viên. Chính sách
đào tạo của ACB có mục tiêu xây dựng và phát triển đội ngũ nhân viên thành thạo về nghề
nghiệp, chuẩn mực trong đạo đức kinh doanh, chuyên nghiệp trong phong cách làm việc và
nhiệt tình phục vụ khách hàng. Không những thế, ACB còn có chế độ khen thưởng, chế độ
bảo hiểm và phụ cấp xã hội, phúc lợi phù hợp thỏa đáng có tác động tích cực đến hiệu quả
làm việc của nhân viên.
2. Nhận xét chung về ngân hàng ACB
Được thành lập từ khá sớm, ACB là một trong những ngân hàng có tình hình hoạt động
tốt ở nước ta. Trong 15 năm hoạt động, ACB luôn giữ vững sự tăng trưởng mạnh mẽ và ổn
định. ACB hiện nay đang nắm giữ gần 8% thị phần huy động tiết kiệm của cả nước, trên 57%
thị phần chủ thẻ tín dụng quốc tế, trên 55% thị phần chuyển tiền nhanh Western Union. Tổng
tài sản của ACB chiếm 4,46%, vốn huy động chiếm 5,8% dư nợ chiếm 3%, vốn điều lệ
chiếm 2,7%, lợi nhuận chiếm 7,7% của toàn ngành ngân hàng. Các chỉ số này đều tăng so với
các năm trước đó. Điều này được thể hiện rõ qua các chỉ số tài chính dưới bảng đây:
Bảng 4 : ( nguồn báo cáo thường niên năm 2007 – ngân hàng TMCP Á Châu)
TỔNG TÀI SẢN hợp nhất (tỷ đồng)
15.420
24.273
44.650
85.392
0
10.000
20.000
30.000
40.000
50.000
60.000
70.000
80.000
90.000
2004 2005 2006 2007
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 21
Tổng tài sản hợp nhất của ACB tăng gần gấp đôi năm trước. Năm 2007 là năm có tốc độ
tăng trưởng tổng tài sản cao nhất trong 7 năm gần đây và là một trong 3 năm có tốc độ tăng
cao nhất từ năm 1994 đến nay.
Bảng 5 : ( nguồn báo cáo thường niên năm 2007 – ngân hàng TMCP Á Châu)
DƯ NỢ CHO VAY hợp nhất (tỷ đồng)
6.760
9.563
17.365
31.974
0
5.000
10.000
15.000
20.000
25.000
30.000
35.000
2004 2005 2006 2007
Dư nợ cho vay tăng gần 84% so với năm 2006. Cũng như tổng tài sản, năm 2007 là năm
có tốc độ tăng trưởng dư nợ cho vay cao nhất kể từ năm 1996 đến nay. Tuy nhiên tốc độ tăng
trưởng dư nợ cho vay vẫn thấp hơn tốc độ tăng trưởng tổng tài sản, chỉ chiếm 37,44% tổng tài
sản cuối năm 2007.
Bảng 6: ( nguồn báo cáo thường niên năm 2007 – ngân hàng TMCP Á Châu)
VỐN HUY ĐỘNG hợp nhất (tỷ đồng)
14.354
22.341
39.736
74.943
0
10.000
20.000
30.000
40.000
50.000
60.000
70.000
80.000
2004 2005 2006 2007
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 22
Vốn huy động hợp nhất của năm 2007 là 74.943 tỷ đồng tăng 88,6%. Cao nhất trong 4
năm trở lại đây.
Bảng 7: ( nguồn báo cáo thường niên năm 2007 – ngân hàng TMCP Á Châu)
LỢI NHUẬN TRƯỚC THUẾ hợp nhất (tỷ đồng)
282 392
687
2.127
0
500
1.000
1.500
2.000
2.500
2004 2005 2006 2007
Lợi nhuận trước thuế năm 2007 của tập đoàn ACB đạt 2,127 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần so
với năm 2006, đạt mức tăng trưởng lợi nhuận cao nhất trong 12 năm qua.
Thành công lớn trong năm 2007 khẳng định vị thế của ACB là ngân hàng có tổng tài
sản và lợi nhuận cao nhất trong hệ thống các ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam,
rút ngắn một cách đáng kể khoảng cách về tổng tài sản giữa ACB và các ngân hàng thương
mại nhà nước.
Hơn nữa, ACB cũng là ngân hàng luôn đi đầu trong việc hiện đại hóa công nghệ ngân
hàng, tiếp cận nghiệp vụ ngân hàng hiện đại để nâng cao khả năng cạnh tranh cũng như chất
lượng phụ vụ điển hình như dịch vụ e banking, các loại thẻ tiết kiệm. Đặc biệt, năm 2003
ACB đã xây dựng hệ thống quản lí chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và được công
nhận đạt tiêu chuẩn trong các lĩnh vực huy động vốn, cho vay ngân hàng ngắn hạn, trung, dài
hạn, thanh toán quốc tế và cung ứng nguồn lực tài hội sở.
Trong năm 2007 vừa qua, mặc dù nền kinh tế thế giới có nhiều biến động lớn, môi
trường kinh doanh năm 2007 nhất là trong lĩnh vực ngân hàng có những yếu tố không thuận
lợi. Nhập siêu quá lớn công thêm với lạm phát tăng cao nhất trong 12 năm trở lại đây. Thêm
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 23
vào đó, ngân hàng nhà nước cũng ra những quyết định ảnh hưởng không nhỏ đến kinh doanh
ngân hàng như tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc lên gấp đôi trong quý 2, khống chế dư nợ cho vay
kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, nhờ có định hướng phát triển đúng,
kịp thời tận dụng cơ hội và với sự nỗ lực rất cao của hội đồng quản trị, ban điều hành và toàn
thể nhân viên, ACB đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch kinh doanh năm 2007. Thành công này
không chỉ mang lại cho ACB thế và lực mới, nhất là về tài chính, công nghệ ngân hàng và
nguồn nhân lực chất lượng mà quan trọng hơn là để lại những bài học quý báu về quản trị
ngân hàng, giúp ACB tiến nhanh hơn trong những năm tiếp theo. Để tiếp tục thành công,
ACB phải xác định cho được chiến lược phát triển đúng đắn, ít nhất là trong trung hạn.
Trải qua 15 năm hoạt động, ACB đã đạt được rất nhiều thành tích cụ thể là :Ngân hàng
tốt nhất Việt Nam 2006; Ngân hàng bán lẻ xuất sắc nhất Việt Nam 2006; Thương hiệu nổi
tiếng tại Việt Nam 2006; Sản phẩm dịch vụ xuất sắc lĩnh vực tài chính ngân hàng 2006; Ngân
hàng tốt nhất Việt Nam 2005; Huân chương Lao động hạng 3 do Chủ Tịch Nước CHXHCN
Việt Nam trao tặng; Bằng khen do Chủ Tịch Ủy Ban Nhân Dân TP.HCM trao tặng và gần đây
nhất ACB đã đạt vị trí số 1 trong top 10 ngân hàng thương mại được hài lòng nhất do người
tiêu dùng bình chọn thông qua khảo sát của báo SGTT.
II. Thực trạng quy trình cung cấp dịch vụ e-banking tại ACB
1. Quy trình cung cấp dịch vụ e banking tại ACB.
1.1. Internet banking
Quy trình cung cấp dịch vụ internet banking tại ACB được thực hiện như sau:
Bước 1: Tiếp cận dịch vụ
Nhân viên ngân hàng giới thiệu dịch vụ đến khách hàng hoặc khách hàng
tự tiếp cận dịch vụ thông qua các kênh thông tin khác.
Khách hàng đăng ký tài khoản sử dụng dịch vụ internet banking bằng cách
gửi bản đăng ký đến ngân hàng bằng nhiều hình thức: Nộp bản đăng ký
trực tiếp tại các điểm giao dịch của ngân hàng, thông qua email, fax.
Ngân hàng cung cấp cho khách hàng tên truy cập và mật khẩu ban đầu.
Bước 2: khách hàng mở tài khoản tại ACB được cung cấp mã số truy nhập và mật
khẩu (mật khẩu có thể thay đổi sau khi khách hàng đăng nhập vào hệ thống dịch vụ).
Bước 3: Khách hàng sử dụng máy tính có kết nối Internet để truy cập vào trang web
www.acb.com.vn
Khách hàng dùng mã số truy nhập để đăng nhập vào hệ thống.
Bước 4: Khách hàng thực hiện các yêu cầu truy xuất thông tin.
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 24
Quy trình cung cấp dịch vụ Internet banking của ACB không khác nhiều so với quy
trình cung cấp dịch vụ tại các ngân hàng khác trên thế giới. Tuy nhiên do vấn đề về bảo mật
mà ACB không cung cấp các giao dịch quan trọng như chuyển tiền, thanh toán, …
1.2. Home banking
Quy trình cung cấp dịch vụ home banking tại ACB
Bước 1: tiếp cận dịch vụ Home banking.
Bước 2: Khách hàng đăng ký sử dụng dịch vụ home banking với ACB bằng cách ký
hợp đồng sử dụng tại các phòng giao dịch của ACB.
Bước 3: đăng ký chữ ký điện tử
Khách hàng đăng ký chữ kí điện tử tại VASC. ACB sẽ có nhân viên hỗ trợ kỹ thuật
giúp đỡ khách hàng đăng ký chữ kí điện tử nếu khách hàng có yêu cầu.
Khách hàng khai bao chữ kí điện tử đã có với ACB.
Bước 4: Khách hàng truy cập vào trang web https://homebanking.acb.com.vn. Để
truy cập được vào trang web khách hàng phải thiết lập kết nối mạng riêng ảo (VPN)
đến hệ thống của ngân hàng. ACB có nhân viên hỗ trợ kỹ thuật để giúp đỡ khách
hàng thực hiện quá trình kết nối đến hệ thống.
Khách hàng đăng nhập vào hệ thống bằng tên truy nhập và mật khẩu được cung cấp.
Bước 5: Khách hàng tiến hành soạn các lệnh giao dịch theo mẫu của ACB.
Nếu đối tượng khách hàng là cá nhân thì lệnh giao dịch được tiến hành
sau khi khách hàng sử dụng chữ ký điện tử ký xác nhận.
Nếu khách hàng là doanh nghiệp, ACB cung cấp việc xác nhận giao dịch
qua 1 hoặc 2 bước tùy vào quy mô của doanh nghiệp. Lệnh giao dịch sẽ
có tác dụng sau khi người có thẩm quyền “ký” xác nhận.
Trong quá trình này, ACB đã linh hoạt khi cung cấp cho các khách hàng các quy trình
xác thực thích hợp. Bên cạnh đó ACB đã sử dụng kết nối VPN cho truy cập home banking.
Việc này đã tăng tính bảo mật của hệ thống cũng như cho khách hàng của ACB.
1.3. Phone banking
Quy trình cung cấp phone banking của ACB cũng giống như quy trình cung cấp phone
banking tại các ngân hàng trên thế giới. Tuy nhiên thông qua phone banking, khách hàng
không thể tiến hành các giao dịch mà chỉ có thể thực hiện các truy vấn thông tin tài khoản.
1.4. Mobile banking
Dịch vụ mobile banking tại ACB hoạt động khá tốt. Quy trình cung cấp dịch vụ hoàn
toàn giống như quy trình được nêu ở phần trên.
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 25
2. Thực trạng
Ở các nước tư bản phát triển, các điều kiện về vốn, cơ sở hạ tầng rất phát triển, các nước
này xây dựng cho mình hệ thống ngân hàng hùng hậu, kinh nghiệm lâu đời, tiềm năng vốn
lớn, cơ sở hạ tầng phát triển, hệ thống pháp luật cũng đã hoàn chỉnh là môi trường thuận lợi
và ổn định cho dịch vụ ngân hàng điện tử hoạt động và phát triển.
Ở Việt Nam, nền kinh tế nói chung còn phát triển chưa cao, chưa ổn định. Hệ thống
pháp luật, chính sách còn thiếu đồng bộ, còn nhiều điều bất hợp lý cần sửa đổi, bổ sung.
Trong hoàn cảnh này, Ngân hàng TMCP Á Châu cần phải cố gắng và nỗ lực rất nhiều để
vươn lên, phát triển thành ngân hàng hàng đầu trong nước và trong khu vực.
Bắt đầu đưa e banking hoạt động từ năm 2000, lượng khách hàng sử dụng e-banking lúc
đầu không nhiều, do thời gian đó việc sử dụng các phương tiện điện tử trong hoạt động ngân
hàng vẫn còn là mới mẻ. Nhưng chỉ với việc áp dụng dịch vụ này trong hoạt động ngân hàng
đã cho thấy tầm nhìn chiến lược của ACB và chứng tỏ một sự năng động, thích ứng cao với
thời cuộc của một ngân hàng TMCP ở Việt nam. Việc triển khai dịch vụ e-banking của ngân
hàng Á Châu được thông qua hàng loạt các sản phẩm, dịch vụ mới như internet banking,
home banking, mobile banking và phone banking mang lại sự thoải mái và tiện ích cho khách
hàng.
Hiện nay số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ internet banking ngày càng tăng. Nếu
như trong năm 2004 số lượng khách hàng doanh nghiệp mới chỉ 600, số lượng khách hàng cá
nhân là 1200 thì đến năm 2007 lượng khách hàng đã là 1545với khách hàng doanh nghiệp và
2310 với khách hàng cá nhân , trong đó gần 10.000 tài khoản đã tham gia dịchvụ internet
banking
Bảng 8 : thực trạng cung cấp dịch vụ internet banking trong 2 năm 2004 và 2007
( nguồn: báo cáo kết quả về dịch vụ e banking tại ACB 2007)
Năm 2004 2007
Cá nhân 1200 2310
Doanh nghiệp 600 1545
Số lượng khách hàng sử dụng dịch vụ homebanking hiện nay chưa nhiều năm 2004 có
350 doanh nghiệp tham gia giao dịch qua Homebanking, trong đó 150 doanh nghiệp là khách
hàng thường xuyên. Doanh số giao dịch hàng tuần qua Homebanking khoảng từ năm đến sáu
tỉ đồng. đến năm 2007 số lượng khách hàng đã tăng lên 680 khách hàng, doanh số giao dịch
hàng tuần qua home banking là 15tỷ đồng
Bảng 9 : thực trạng cung cấp dịch vụ home banking trong 2 năm 2004 và 2007
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 26
( nguồn: báo cáo kết quả về dịch vụ e banking tại ACB 2007)
Năm 2004 2007
Khách hàng 350 680
Doanh số giao dịch( tỷ đồng) 6 15
Khách hàng của dịch vụ phone banking và mobile banking phần lớn cá nhân.
Để áp dụng được e banking một cách tốt nhất, ACB đã thực hiện liên kết với nhiều ngân
hàng và tổ chức khác như Vietcombank, Vietinbank, Techcombank và hầu hết các ngân hàng
khác, ACB cũng liên kết với các hãng bảo hiểm như AIA, Fudential… cũng như nhiều tổ
chức tài chính trong nước khác.
Trong tình hình công nghệ của các ngân hàng thương mại Việt Nam phát triển chưa
đồng đều, thì những bước tiến của ngân hàng Á Châu trong việc triển khai từng bước dịch vụ
ngân hàng điện tử quả là đáng khích lệ. Điều này là động lực giúp cho ngân hàng Á Châu tự
tin hơn trong thời gian tới, càng đổi mới hơn nữa và càng gặt hái được nhiều thanh công hơn
nữa.
Sau 6 năm cung cấp dịch vụ e banking ta có thể thấy, ACB đã đạt được nhưng kết quả
như sau
Số lượng các doanh nghiệp đang sử dụng dịch vụ internet banking tăng nhanh, trong
đó 1545 doanh nghiệp sử dụng internet banking, 680 khách hàng sử dụng
homebanking như Công ty Medicare, Công ty M&P quốc tế, Công ty cổ Phần Việt
Kim, Công ty T.A.S, Công Ty Mạc Tích… mặc dù con số này còn khá nhỏ so với
tổng số khách hàng của ACB là hơn 10.000 doanh nghiệp và 200.000 cá nhân song
đây cũng có thể được đánh giá là thành công.
Mỗi ngày có hơn nghìn lượt khách hàng truy cập xem số dư tài khoản và chi tiết
giao dịch.
Tính đến thời điểm này, ACB chưa để xảy ra sai sót gì trong khâu cung cấp dịch vụ
e banking, chưa có kiện tụng gì. Chỉ những khách hàng mới, chưa sử dụng thì mới
lo lắng đến vấn đề bảo mật của e banking còn tất cả những khách hàng đang sử dụng
thì ACB chưa nhận được phản ánh nào.
Nếu trước đây khách hàng đến với ACB vì các dịch vụ NH, tài chính sau đó mới sử
dụng e-banking thì hiện nay đã có những khách hàng đến với ACB vì homebanking,
sau đó mới sử dụng các dịch vụ khác.
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 27
3. Điểm mạnh
Sau 6 năm đưa dịch vụ e- banking vào hoạt động, nhìn chung quy trình cung cấp dịch
vụ e banking tại ACB có những điểm nổi bật sau đây:
3.1. Công nghệ
Hiện nay không chỉ có ACB mà rất nhiều ngân hàng đã áp dụng thương mại điện tử
vào dịch vụ của mình, nhưng vấn đề đặt ra là phải lựa chọn loại công nghệ để có thể phục vụ
khách hàng tốt nhất. ACB đã nghiên cứu rất kỹ các quy trình cung cấp dịch vụ e banking cũng
như khả năng và môi trường làm việc của mình để chọn ra một quy trình phù hợp. Chính điều
này là yếu tố quyết định dẫn đến sự thành công của ACB. ACB đang sử dụng một công nghệ
để đảm bảo an toàn bảo mật cho các giao dịch điện tử này là chữ ký điện tử. Chữ ký điện tử
do Nhà cung cấp chứng thực số (Certification authorities - CA) là Công ty VASC cung cấp.
Công nghệ chữ kí điện tử mà VASC cung cấp dựa trên thuật toán mã hóa khóa công khai
RSA. Hiện tại thuật toán mã hóa này có tính an toàn cao, chưa có thuật toán nào để phá vỡ
tính bảo mật của thuật toán RSA. Ngay cả việc sử dụng các siêu máy tính thì thời gian để phá
mã lên đến hàng chục năm, đây là khoảng thời gian không thể chấp nhận được đối với việc
phá mã. Nhà cung cấp CA sẽ có trách nhiệm đảm bảo ba vấn đề cơ bản: Chứng thực nguyên
gốc dữ liệu, chống xem trộm, và toàn vẹn dữ liệu.
Thế mạnh của ACB là ứng dụng các giải pháp đã được tiêu chuẩn hóa và hợp lệ. Vì vậy,
thời gian triển khai dịch vụ cho các khách hàng nhanh chóng, khách hàng có trình độ IT trung
bình cũng có thể cài đặt chương trình. Hiện nay ACB có dịch vụ chăm sóc khách hàng khá
tốt, chẳng hạn giúp khách hàng soạn thảo lệnh offline tiết kiệm chi phí đường truyền và giảm
thời gian thực hiện.
3.2. Nhân lực:
Tổng số nhân viên của ACB là 4600 trong đó cán bộ có trình độ đại học và trên đại học
chiếm 93%, thường xuyên được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ tại trung tâm đào tạo riêng
của ACB.Đây chính là một lợi thế của ACB trong quá trình cung cấp dịch vụ e banking. Với
đội ngũ nhân viên có trình độ cũng như luôn được đào tạo nên việc ứng dụng và sử dụng các
công cụ của e banking trở nên dễ dàng hơn. Thêm vào đó, ACB luôn quan tâm nâng cao
phong cách phục vụ của nhân viên giao dịch với khách hàng. Với đội ngũ nhân viên niềm nở,
nhiệt tình ACB dễ dàng thu hút khách hàng đến với các dịch vụ của mình, điển hình là số
lượng khách hàng tham gia vào e banking ngày càng tăng. ACB là ngân hàng đứng số một
trong top 10 ngân hàng được yêu thích nhất năm 2007, do người tiêu dùng bình chọn.
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 28
3.3. Chi phí lắp đặt
Để thu hút khách hàng tham gia vào dịch vụ ngân hàng điện tử, ACB miễn phí cho
khách hàng chữ ký điện tử và phần mềm ký tên do Công ty Phần mềm và Truyền thông
VASC cung cấp. VASC là nhà cung cấp chính thức CA (certificate authority) tại Việt Nam
đồng thời miễn phí chi phí lắp đặt đăng ký dịch vụ e banking.
4. Một số tồn tại
Trong thời gian qua, ngân hàng ACB đã có những bước triển khai tích cực dịch vụ ngân
hàng điện và cũng đã thu được những thành tích đáng kể. Khách hàng ngày càng có lòng tin
vào một phương thức kinh doanh mới và đã sẵn sàng tham gia vào hệ thống một các tích cực.
Điều này sẽ giúp cho Ngân hàng Á Châu sẽ từng bước hội nhập được với ngân hàng thế giới
về mọi mặt. Tuy nhiên, việc triển khai loại hình dịch vụ mới này cũng còn tồn tại nhiều hạn
chế mà ACB cần phải xem xét kĩ lưỡng để có những giải pháp kịp thời hoàn thiện hệ thống
làm cho hiệu quả kinh doanh đạt kết quả cao hơn.Thực trạng của quy trình cung cấp dịch vu
e-banking tập trung vào các vấn đề sau:
Marketing dịch vụ.
Vấn đề công nghệ.
Nhân lực.
Vấn đề cung cấp dịch vụ
4.1. Marketing dịch vụ
Khi tung ra bất cứ một loại sản phẩm nào, thì marketing là một vấn đề rất quan trọng.
Nhờ có marketing mà khách hàng mới biết đến sản phẩm và dịch vụ của mình. Đối với dịch
vụ e-banking, ACB đã thực hiện các dịch vụ quảng cáo và marketing đa dạng như quảng cáo
trên truyền hình, quảng cáo trên internet, trên các trang báo điện tử được nhiều người đọc hay
trên các trang báo bình thường, phát tờ rơi. Tại các chi nhánh, ACB cũng phát động chiến
dịch quảng cáo rầm rộ ví dụ băng rôn biển quảng cáo, các hình thức khuyến mãi. . Không ít
người biết đến e-banking qua sự khuyến khích sử dụng của bạn bè và các thành viên trong gia
đình.
Theo điều tra gần đây của ACB, lượng khách hàng đến với e- banking thông qua quảng
cáo trên internet chiếm 39%, thông qua truyền hình chiếm 17% thông qua người thân chiếm
10%, thông qua báo chí và tờ rơi chiếm 34%.
Tuy nhiên đó chỉ là thời gian ban đầu còn hiện nay khâu quảng cáo và marketing cho
sản phẩm này của ACB dường như bị quên lãng. Các quảng cáo về dịch vụ homebanking hay
internet banking chỉ còn thấy khi truy cập vào mục e banking trong trang web của ACB, hay
đến các chi nhánh sẽ nhận được những tờ quảng cáo.
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 29
Thêm vào đó, thị trường cho dịch vụ e banking lại tập trung chủ yếu ở phía Nam và bỏ
quên thị trường phía Bắc đầy tiềm năng. Khách hàng sử dụng home banking của ACB chủ
yếu là các doanh nghiệp ở phía nam ví dụ như Công ty Medicare, Công ty M&P quốc tế,
Công ty cổ Phần Việt Kim, Công ty T.A.S … còn phía bắc chỉ một vài doanh nghiệp mới bắt
đầu sử dụng còn cá nhân thì hầu như rất ít. Ta có thể thấy một dịch vụ đem lại nhiều lợi ích
như vậy mà lại không được ưa chuộng sử dụng nguyên nhân là do người dùng còn e ngại về
tính an toàn bảo mật. Nguyên nhân sâu xa chính là do khâu marketing quảng cáo cho sản
phẩm này của ACB còn chưa thực hiện tốt.
4.2. Vấn đề công nghệ
Công nghệ đóng vai trò quan trọng trong quá trình triển khai dịch vụ e-banking. Việc
lựa chọn sử dụng và đầu tư công nghệ phù hợp đem lại cho các ngân hàng nhiều lợi ích và
tránh lãng phí. Tuy nhiên thực trạng ứng dụng công nghệ trong ở ACB còn nhiều bất cập.
a. Không đồng bộ giữa các ngân hàng
Việc áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào từng ngân hàng là khác nhau, các
ngân hàng sử dụng các hệ thống cung cấp dịch vụ ngân hàng điện tử khác nhau. Do đó xảy ra
hiện tượng thiếu đồng bộ giữa các ngân hàng, điều này gây ra khó khăn trong việc thực hiện
các giao dịch liên ngân hàng. Hiện nay các ngân hàng đã kết hợp với nhau để khắc phục vấn
đề này tuy nhiên vẫn chưa triệt để , vẫn còn nhiều vấn đề cần phải khắc phục trong việc thanh
toán trực tuyến liên ngân hàng.
b. Đường truyền dữ liệu
Nền tảng của dịch vụ ngân hàng điện tử là đường truyền Internet, khách hàng cần phải
kết nối Internet để có thể sử dụng. Tuy nhiên đường truyền Internet không phải lúc nào cũng
hoạt động tốt. Khi truy cập để sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử thông qua mạng Internet,
người sử dụng nhiều khi gặp phải các vấn đề về kết nối. Khách hàng có thể không truy cập
được vào trang chủ của ngân hàng hoặc phải chờ rất lâu. Cụ thể là đôi khi khách hàng không
truy cập vào được trang web https://homebanking.acb.com.vn để sử dụng dịch vụ home
banking. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới việc cung cấp dịch vụ vì nhiều khách hàng không
truy cập được vào trang web mà bỏ qua không sử dụng dịch vụ có nhiều lợi ích. Ngoài ra việc
này còn gây ra sự khó chịu, không hài lòng về dịch vụ đối với những khách hàng đang sử
dụng dịch vụ, có thể dẫn đến việc đóng tài khoản.
c. Mobile banking
Thị trường di động hiện nay đang rất sôi nổi, trước đây vài năm, điện thoại di động còn
là một vật dụng khá xa lạ và xa xỉ đối với người dân. Vài năm trở lại đây di động đã trở lên
phổ biến. Với đặc điểm là nền dân số trẻ, số người sử dụng di động ở Việt Nam đã tăng vọt.
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 30
Đây là một thị trường đầy tiềm năng cho dịch vụ mobile banking. Tại ACB dịch vụ mobile
banking đã được đưa vào sử dụng tuy nhiên chưa được phát triển mạnh, số lượng khách hàng
sử dụng dịch vụ này còn hạn chế và đa phần là các cá nhân. ACB mới chỉ áp dụng dịch vụ
SMS banking chứ chưa triển khai được dịch vụ mobile banking thông qua WAP. Hiện nay
trên thế giới WAP là loại hình hiện đại và được sử dụng nhiều hơn so với SMS banking.
4.3. Nhân lực
Vấn đề về con người luôn là một bài toán khó đặt ra đối với mọi lĩnh vực của Việt Nam,
đặc biệt là con người trong lĩnh vực công nghệ thông tin.Để triển khai thành công dịch vụ
ngân hàng điện tử, các ngân hàng cần phải có nguồn nhân lực chất lượng cao có thể đáp ứng
được yêu cầu của công việc. Hiện nay tại các ngân hàng của Việt Nam cũng như tại ACB,
nguồn nhân lực chất lượng cao đang rất thiếu. Hiện nay ở ACB số lượng nhân viên như sau:
tổng số nhân viên là 4600 trong khi số lượng nhân viên làm trong lĩnh vực ngân hàng điện tử
là 50 (Trong đó 11 người có trình độ trên đại học và 39 người có trình độ đại học). Đội ngũ
nhân lực này không phải là quá ít nhưng còn tồn tại một số nhược điểm sau:
Nguồn nhân lực có chuyên môn về nghiệp vụ ngân hàng thì thiếu khả năng về công
nghệ thông tin và truyền thông. Đội ngũ này đa phần là các cử nhân kinh tế và ngân
hàng, không được đào tạo nhiều về công nghệ thông tin. Khi tham gia vào lĩnh vực
ngân hàng điện tử họ chỉ có thể đáp ứng chuyên môn về ngân hàng.
Nguồn nhân lực có chuyên môn về công nghệ thì lại thiếu kĩ năng về nghiệp vụ
ngân hàng. Đây chủ yếu là đội ngũ nhân lực công nghệ thông tin từ các trường ĐH
Bách khoa, ĐH Công nghệ. Họ được đào tạo về công nghệ nhưng lại không được
đào tạo về nghiệp vụ ngân hàng. Khi tham gia vào lĩnh vực e-banking, họ không
nắm bắt được các quy trình nghiệp vụ, cần được đào tạo về chuyên môn ngân hàng.
4.4. Khả năng liên kết
Theo nguyên tắc, e banking có thể giúp khách hàng thanh toán các hóa đơn cước phí
điện, nước, điện thoại, internet,... thông qua ngân hàng nhanh chóng, tiện lợi. Tuy nhiên đó
chỉ là mặt lí thuyết. Trên thực tế, với cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin của ACB như hiện
nay thì khả năng liên kết giữa các tổ chức và các đơn vị trên để thực hiện thanh toán cho
khách hàng vẫn là một thách thức lớn.
4.5. Nâng cao chất lượng dịch vụ
Thêm vào đó,chất lượng dịch vụ của e banking còn chưa thoả mãn khách hàng ở những
cấp độ cao hơn như việc gửi tiền mặt vào tài khoản, việc đăng ký sử dụng dịch vụ… còn phải
tới trực tiếp giao dịch tại chi nhánh ngân hàng, hoặc các dịch vụ ngân hàng điện tử chất lượng
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 31
cao hơn còn chưa được phát triển như dịch vụ quản lý quỹ đầu tư, dịch vụ địa ốc, cho thuê tài
chính…
5. Cơ hội
Trong thời gian qua, ACB đang dần dần khắc phục những khó khăn, tồn tại để việc phát
triển e-banking ngày càng có thuận lợi. Có thể thấy trong tương lai, dịch vụ sẽ có một môi
trường tương đối thuận lợi để phát huy các tiện ích của mình.
Trước tiên, chúng ta thấy rõ, hiện nay, công nghệ thông tin đang được phát triển và
ứng dụng rộng rãi ở Việt Nam. Đây thực sự là một cơ hội tốt cho việc phát triển
dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam nói chung và ACB nói riêng bởi vì sự ra đời
và phát triển của e-banking gắn liền với những ứng dụng công nghệ thông tin trong
ngành ngân hàng. Theo thống kê gần đây số lượng người sử dụng Internet tại Việt
Nam đã tăng lên 22 triệu người, chiếm 26% tổng dân số. Đây chính là điều rất thuận
lợi cho ACB trong việc triển khai dịch vụ e banking.
Thứ hai, khi mức sống của người dân ngày càng nâng cao kéo theo việc sử dụng các
ứng dụng của công nghệ thông tin không còn quá lạ lẫm. Số lượng người sử dụng
internet cũng như điện thoại di động tăng vọt. Đây là thị trường tiềm năng cho ACB
trong việc cung cấp dịch vụ mobile banking và phone banking.
Thứ ba, đến nay hành lang pháp lý để thực hiện các giao dịch điện tử ngày càng rõ
ràng và đầy đủ, luật giao dịch điện tử đã được ban hành là động lực lớn thúc đẩy
ACB mạnh dạn đầu tư công nghệ để đảm bảo theo quy định của pháp luật, cơ quan
chủ quản và áp dụng các kỹ thuật theo thông lệ của NH trên thế giới. sự phát triển
giao dịch điện tử không chỉ trong ngành ngân hàng.
Thứ tư, Việt Nam có môi trường kinh tế- xã hội ổn định, tốc độ tăng trưởng ở mức
tương đối cao so với trong khu vực và trên thế giới, đời sống nhân dân đang từng
bước được cải thiện rõ rệt. Môi trường xã hội và chính trị của Việt Nam rất ổn định,
tạo điều kiện cho mọi ngành kinh tế của đất nước phát triển mạnh mẽ. Trong thời
gian qua, Việt Nam luôn được thế giới đánh giá là quốc gia có môi trường ổn định
nhất và là điểm đầu tư an toàn nhất trong khu vực cũng như trên thế giới. Đây thực
sự là môi trường thuận lợi để kích thích sự phát triển của e banking.
Qua những phân tích trên đây, có thể nhận thấy, trong tương lai dịch vụ ngân hàng điện
tử có một môi trường tương đối thuận lợi để phát triển và mở rộng trong toàn bộ hệ thống các
ngân hàng thương mại Việt Nam. Các ngân hàng cần phải nắm bắt được những thuận lợi này,
phát huy hết những ưu điểm của mình để ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của
ngân hàng mà cụ thể là phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử một cách có hiệu quả nhất.
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 32
6. Thách thức
Bên cạnh những thuận lợi, trong thời gian tới Ngân hàng ACB cũng gặp phải hàng loạt
những thách thức, những đòi hỏi cần phải được đáp ứng trong quá trình triển khai dịch vụ
ngân hàng điện tử.
Thứ nhất đó là vấn đề cạnh tranh : phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử là xu hướng
tất yếu của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát
triển. Chính vì vậy, việc triển khai loại hình dịch vụ này ở các ngân hàng thương
mại ở Việt Nam đã diễn ra phổ biến hơn. Hiện nay rất nhiều ngân hàng đã đầu tư
vốn và công nghệ để có thể đưa ra một dịch vụ e banking của mình nhằm tăng sức
cạnh tranh so với các ngân hàng khác như Vietcombank, Techcombank, Vietinbank,
BIDV, ngân hàng Đông Á … Đặc biệt là có sự góp mặt của các ngân hàng 100%
vốn nước ngoài như HSBC, Citibank, ANZ. Do đó giao dịch điện tử chắc chắn sẽ
được đầu tư mạnh hơn trong thời gian tới. Để đứng vững và phát triển được, ACB
phải đuổi kịp công nghệ để đem lại sự phục vụ tốt nhất cho khách hàng. Tuy nhiên,
vấn đề này gắn liền với yêu cầu về vốn, hạ tầng cơ sở công nghệ; hạ tầng về tiền tệ;
hạ tầng cơ sở nhân lực; bảo mật, an toàn; bảo vệ sở hữu trí tuệ; bảo vệ người tiêu
dùng; môi trường kinh tế pháp lý… Đây chính là thách thức lớn nhất trong lĩnh vực
e banking đối với ACB.
Thứ hai chính là vấn đề về công nghệ: Khả năng sử dụng công nghệ thông tin của
nhiều chủ doanh nghiệp yếu kém kiến họ không mặn mà với loại hình dịch vụ ngân
hàng điện tử. Khái niệm “chứng thực số” và “chữ ký số” còn tương đối mới đối với
người sử dụng tại Việt Nam. Để hiểu được vai trò của nó trong giao dịch điện tử,
người dùng đòi hỏi phải có một kiến thức nhất định về công nghệ thông tin (mã hóa
bất đối xứng, public key, private key…). Vì vậy một phần khách hàng vẫn chưa
hưởng ứng dịch vụ này vì “không tin” vào chứng thực số và chữ ký số. Hơn nữa, bộ
phận thực hiện giao dịch với ngân hàng tại các doanh nghiệp là bộ phận kế toán mà
cách thức sử dụng chữ ký "tươi" đã ăn sâu và khó có thể thay đổi quan điểm. Vấn
đề đặt ra ở đây là làm thế nào để có thể thay đổi được những quan điểm đã ăn sau,
lấy được lòng tin từ khách hàng và thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ. Tuy nhiên
công việc này không hề đơn giản và đỏi hỏi mất rất nhiều thời gian.
Thứ ba đó là vấn đề nguồn nhân lực phục vụ cho dịch vụ này bao gồm: trình độ
hiểu biết của cán bộ ngân hàng về những ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt
động của ngân hàng, số lượng và chất lượng của các chuyên gia công nghệ thông
tin. Đối với cán bộ ngân hàng, những hiểu biết của họ về dịch vụ ngân hàng điện tử
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 33
còn hạn chế, kiến thức về các phương tiện điện tử nói chung và internet nói riêng
nhiều khi chưa được phổ cập nên gây nhiều khó khăn trong quá trình triển khai loại
hình dịch vụ này. Còn đối với các chuyên gia về công nghệ thông tin, chúng ta
không những còn thiếu về số lượng mà cả năng lực chuyên môn cũng là bài toán
khó cần giải quyết.
Thứ tư là vấn đề liên kết : Để thực hiện các giao dịch thanh toán tiền điện thoại, tiền
taxi, tiền điện, nước, mua xăng dầu bằng thẻ,... đòi hỏi ACB phải “hợp tác” chặt chẽ
hơn với các nhà cung cấp dịch vụ. Trong điều kiện cơ sở hạ tầng của nước ta còn
phát triển chưa cao, đặc biệt là ở những đơn vị cung cấp điện, nước… thì cơ sở hạ
tầng về công nghệ lại càng yếu kém. Để liên kết và thực hiện các giao dịch thanh
toán một cách trôi chảy đòi hỏi ACB cũng như các đối tác trên phải cố gắng và nỗ
lực nhiều.
Thứ năm, quản trị và phòng ngừa rủi ro cũng là một vấn đề đặt ra trong hoạt động
của ngân hàng điện tử. Gắn liền với quá trình phát triển các hoạt động của ngân
hàng điện tử là quá trình đổi mới phương pháp quản lý, quản trị ngân hàng, hệ
thống bộ máy tổ chức và cơ cấu hoạt động, hệ thống quản trị rủi ro, kiểm soát và
các biện pháp phòng ngừa
Qua việc phân tích những cơ hội và thách thức đối với dịch vụ ngân hàng điện tử của
ACB trong tương lai, ta thấy rằng, ACB sẽ phải đương đầu với nhiều thách thức, khó khăn
khi triển khai loại hình dịch vụ này, đồng thời cũng có nhiều điều kiện thuận lợi tạo điều kiện
cho dịch vụ e banking phát triển. Vì vậy, ACB phải biết khắc phục những khó khăn, thách
thức, tận dụng các điều kiện thuận lợi, phát huy những thế mạnh của ngân hàng mình, chỉ có
vậy, các ngân hàng mới thành công trong quá trình phát triển dịch vụ e-banking,
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 34
Chương 3 : Nguyên nhân và giải pháp
I. Nguyên nhân
Để có thể đưa ra các giải pháp nhằm khắc phục những điểm yếu trong việc cung cấp
dịch vụ e banking của ngân hàng ACB, tôi xin đi vào phân tích những nguyên nhân dẫn đến
những tồn tại này :
1. Vấn đề về marketing.
Trong thời gian qua, hoạt động marketing cho dịch vụ e banking của ACB chưa thực sự
được chú trọng đúng mức. nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này là vì:
Trước hết, ACB chưa thực sự quan tâm đúng mức đến tác hoạt động marketing cho dịch
vụ e- banking mà mới chỉ chú trọng vào lúc ban đầu. ACB cũng chưa có công tác đào tạo đội
ngũ cán bộ nghiệp vụ chuyên sâu về Marketing cũng như chưa áp dụng được những phương
pháp marketing khoa học như nghiên cứu thị trường cụ thể và áp dụng phương pháp
marketing mix. Chính điều này đã làm cho nội dung Marketing của một số Chi nhánh ACB
nghèo nàn, kém tính hấp dẫn, không có tính chuyên nghiệp, chưa thực sự mang tính hiện đại
và hội nhập
Thêm vào đó, chi phí cho hoạt động marketing chuyên nghiệp là không hề nhỏ. Chi phí
của các NHTM cho hoạt động Marketing phải nằm trong giới hạn chi phí tiếp thị do Bộ Tài
chính quy định. Thực tế tỷ lệ này là quá thấp so với thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, chi phí
đầu tư cho hoạt động marketing của ACB vẫn chưa thực sự đầy đủ.
Một thực trạng tồn tại đó là sự chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động Marketing giữa
Hội sở chính với các chi nhánh của ACB với nhau. Nguyên nhân là do ACB chưa có một
chiến lược marketing rõ ràng cụ thể. Sự chồng chéo này đôi khi không những làm giảm đáng
kể hiệu quả của các hoạt động Marketing ngân hàng mà còn có sự phản tác dụng không mong
muốn.
2. Vấn đề về nhân lực
Mặc dù, hiểu được tầm quan trọng của vấn đề đào tạo nguồn nhân lực và cũng đã có
những chính sách trong việc đào nâng cao trình độ nhân viên. Tuy nhiên, do ở việt nam
nghiệp vụ này vẫn còn khá mới đồng thờingân hàng Á Châu vẫn chưa chú trọng đến khâu
đào nâng cao khả năng về công nghệ cho nhưng nhân viên ngân hàng nhằm nâng cao chất
lượng của dịch vụ e banking nên mới xảy ra thực trạng nhân viên nhân hàng thì khá khó khăn
trong việc xử lí những vấn đề về công nghệ.
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 35
3. Vấn đề về đăng nhập vào hệ thống.
Nguyên nhân khiến cho việc truy cập vào trang web của ngân hàng gặp trục trặc đó là
sự quá tải của hệ thống trong giờ cao điểm. Trong giờ cao điểm, số lượng người sử dụng dịch
vụ tăng vọt, có thời điểm lên đến 6000 giao dịch cùng lúc. Với số lượng giao dịch lớn như thế
này thì việc hệ thống bị quá tải là không thể tránh khỏi. Mặc dù theo lý thuyết thì hệ thống
của ACB có thể chịu được 10.000 giao dịch cùng một lúc. Tuy nhiên khả năng phục vụ một
số lượng lớn giao dịch cùng một lúc trên thực tế của hệ thống không thể đạt được 100% như
trên lý thuyết.
4. Mobile banking
Trong một vài năm trở lại đây công nghệ di động tại Việt Nam phát triển rầm rộ, cùng
với đó là sự tăng nhanh về số lượng người sử dụng di động: tăng 200% so với năm 2007. Đây
là một thị trường rộng lớn cho dịch vụ mobile banking phát triển. Tuy nhiên tại ACB dịch vụ
này chưa thực sự phát triển như mong đợi. Nguyên nhân là do ACB mới chỉ đưa vào dịch vụ
SMS banking mà chưa có dịch vụ mobile banking thông qua WAP. Dịch vụ mobile banking
thông qua WAP là dịch vụ rất tiện lợi cho khách hàng.
Bên cạnh đó nền công nghệ di động của Việt Nam mới phát triển, còn nhiều hạn chế,
đây là một trở ngại lớn cho việc phát triển dịch vụ mobile banking của ACB. Trong khi thế
giới đã áp dụng công nghệ 3G với đường truyền lên đến 2Mb/s thì tại Việt Nam, đường
truyền dữ liệu trên mạng di động vẫn là GPRS với tốc độ là 80kb/s. Với tốc độ truyền dứ liệu
như vậy thì thật khó để sử dụng di động cho việc giao dịch điện tử.
5. Vấn đề liên kết
Nếu như việc liên kết giữa ACB và các ngân hàng khác không quá khó khăn và đem lại
nhiều lợi ích thì việc liên kết giữa ACB với các đơn vị khác như các đơn vị cung cấp điện,
nước, điện thoại … để phát huy được hiệu quả của dịch vụ e banking mà cụ thể là home
banking thì lại gặp nhiều khó khăn. Nguyên nhân là do cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của
các đơn vị đó còn rất thấp. thêm vào đó, tâm lí sử dụng công nghệ thông tin trong làm việc
chưa phổ biến với một số lượng lớn những người trong ngành điện nước.
6. Cung cấp dịch vụ cao
Việc chưa thoả mãn khách hàng ở những cấp độ cao hơn như việc gửi tiền mặt vào tài
khoản, việc đăng ký sử dụng dịch vụ… là do ACB chưa đầu tư được những công nghệ hiện
đại như trên thế giới. nguyên nhân sâu xa là do lượng vốn của ngân hàng việt nam mà cụ thể
là ACB so với thế giới còn quá ít. vì vậy, đầu tư vào công nghệ cao vẫn là một thách thức lớn
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 36
II. Giải pháp
Ngân hàng điện tử là một bước phát triển không mới nhưng tất yếu cho tất cả các ngân
hàng thương mại trong xu thế hội nhập toàn cầu. Do vậy, để đi tắt, đón đầu và ứng dụng hiệu
quả dịch vụ ngân hàng điện tử, ACB nên thựchiện đồng bộ các giải pháp sau:
1. Marketing
Trên cơ sở học hỏi những kinh nghiệm từ các ngân hàng hiện đại trên thế giới, ACB nên
tiến hành hoàn thiện, điều chỉnh phù hợp với hoạt động Marketing của ngân hàng mình, với
tình hình thực tế của nền kinh tế đất nước.
ACB cần mở rộng và nâng cao công tác đào tạo chuyên viên về Marketing ngân hàng.
Bằng cách ACB có thể tổ chức các buổi hội thảo, trao đổi kinh nghiệm trong nội bộ ngân
hàng, mời các chuyên gia Marketing giỏi về giảng dạy, cử các bộ có kinh nghiệm về
Marketing theo học những khóa đào tạo chuyên ngành Marketing ngân hàng ở nước ngoài.
Ngoài ra từ việc xác định rõ vai trò của hoạt động Marketing đối với hiệu quả hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, ACB cần chủ động trong việc chi cho hoạt động Marketing, tránh
tình trạng trùng lắp hay chồng chéo giữa các chi nhánh của mình.
2. Vấn đề nhân lực
Để đội ngũ nhân lực đặc biệt là các nhân viên ngân hàng tăng khả năng trong giao dịch
điện tử, ACB cần có chính sách đào tạo nâng cao trình độ của nhân viên một cách cụ thể.
Thêm vào đó, ACB cũng cần có chính sách đãi ngộ những nhân viên giỏi có năng lực một
cách thỏa đáng tránh để có thể giữ họ làm việc với với mình.
3. Vấn đề về đăng nhập vào hệ thống
Vấn đề đăng nhập vào hệ thống đôi khi gây ra trở ngại cho khách hàng khi sử dụng dịch
vụ ngân hàng điện tử. Để tăng cường khả năng phục vụ, ACB cần phải khắc phục triệt để vấn
đề này. Nguyên nhân của vấn đề này là do hệ thống làm việc quá tải, để khắc phục vấn đề
này, ACB cần tiến hành nâng cấp hệ thống hợp lý. ACB có thể đưa thêm server vào hoạt động
để có thể thực hiện một số lượng lớn các giao dịch trong cùng một thời điểm. Bên cạnh đó
ACB cần nghiên cứu, nâng cấp phần mềm hệ thống để có thể nâng cao khả năng phục vụ
nhiều hơn. Đây là các giải pháp về công nghệ, ngoài ra các nhân viên phụ trách kĩ thuật cần
phải tăng cường giám sát hệ thống, đảm bảo hệ thống luôn được hoạt động tốt.
4. Mobile banking
Để thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ mobile banking, ACB nên có các hình thức
marketing về dịch vụ, giới thiệu tính năng, lợi ích đến cho khách hàng, thu hút khách hàng sử
dụng dịch vụ và có sự hướng dẫn cụ thể cho loại hình dịch vụ này.
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 37
Bên cạnh đó, tại Việt Nam hiện nay, bộ bưu chính viễn thông đang tiến hành chuẩn bị
triển khai thí điểm dịch vụ 3G, tiến tới đưa dịch vụ di động 3G vào hoạt động. Do đó ACB
nên nắm bắt thị trường sớm. Đây là thị trường đầy tiềm năng cho loại hình dịch vụ mobile
banking. Để phát triển dịch vụ này, ACB cần nghiên cứu và tìm hiểu các hệ thống của các
ngân hàng trên thế giới đang áp dụng, lựa chọn ra được một hệ thống thích hợp với cơ sở hạ
tầng sẵn có. Ngoài ra cần phải đầu tư vào nâng cấp công nghệ, đưa các công nghệ mới vào sử
dụng nhằm tăng tính bảo mật, chất lượng dịch vụ.
5. Khả năng liên kết
Để khắc phục những khó khăn trong việc liên kết với các đơn vị khác trong việc cung
cấp các dịch vụ thanh toán hóa đơn thông qua dịch vụ ngân hàng điện tử, ACB không thể thực
hiện ngay trong một thời gian ngắn. Việc này còn phụ thuộc nhiều vào cơ sở hạ tầng của các
đối tác. Do đó ACB cần lựa chọn các đối tác có cơ sở hạ tầng về công nghệ thông tin tương
đối tốt, có thể đáp ứng được yêu cầu của công việc như là các đơn vị cung cấp dịch vụ điện
thoại: viettel, vinaphone, mobifone, … Việc liên kết này sẽ tạo điều kiện thúc đẩy sự phát
triển của cả 2 phía
6. Khả năng cung cấp dịch vụ cao hơn
Để có thể cung cấp được nhưng dịch vụ cao hơn, đáp ứng nhu cầu đa dạng và khắt khe
của khách hàng, ACB không còn cách nào khác đó là phải đầu tư hơn nữa vào công nghệ. Chỉ
bằng cách này, ACB mới cung cấp cho khách hàng của mình những dịch vụ chất lượng cao,
tăng sức cạnh tranh và thu hút hơn nữa khách hàng vào dịch vụ e banking.
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 38
Kết luận
Xúc tiến ngân hàng điện tử là xu thế chung của thế giới trên con đường phát triển nền
kinh tế tri thức và hướng đến xã hội thông tin. Chấp nhận ngân hàng điện tử là một sự tự
nguyện có tính cam kết, dựa trên sự hiểu biết với một quyết tâm cao để hội nhập và phát triển
với thế giới và khu vực trước bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại đang diễn ra cực
kỳ sôi động.
Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thì việc hội nhập mang theo cả
thời cơ và thách thức, nhưng thách thức lớn nhất sẽ là không tham gia gì cả. Ngân hàng điện
tử thực chất là những hoạt động kinh tế mới, vô cùng năng động, sử dụng những công cụ hiện
đại nhất để thu thập, xử lý và chuyển tải những khối lượng lớn thông tin khổng lồ để đưa ra
các quyết định nhanh chóng và chính xác. Nếu không tham gia các hoạt động này nguy cơ tụt
hậu và lệ thuộc vào nước ngoài sẽ tăng lên.
Ở Ngân hàng Á Châu, ngân hàng điện tử mới đang trong giai đoạn đầu của sự phát
triển. Trước mắt còn rất nhiều khó khăn, thách thức cần phải vượt qua, song việc phát triển
loại hình dịch vụ mới mẻ này là hướng đi đúng đắn, là một xu thế tất yếu đối với các ngân
hàng thương mại Việt Nam nói chung và ACB nói riêng. Không những nó góp phần đẩy
mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành ngân hàng Việt Nam mà còn giúp Việt
Nam hội nhập vững chắc vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Chính vì vậy, ngay từ bây giờ,
Ngân hàng Á Châu phải xem xét đề ra chiến lược và lộ trình thích hợp để triển khai thành
công dịch vụ e-banking ở Việt Nam. Có như vậy, ACB mới tăng được sức cạnh tranh với các
ngân hàng nước ngoài trong điều kiện Việt Nam hội nhập quốc tế và khu vực.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do đề tài còn khá mới và khó nên chắc chắn không thể
tránh được những thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy cô giáo và bạn
đọc để em có thể hoàn thiện đề tài này hơn. Em xin chân thành cảm ơn.
Tiểu luận kiến tập Đoàn Thị Thu Hương – A2QTKD – K44
Trường ĐH Ngoại Thương Trang 39
.Tài liệu tham khảo
1. Một số tài liệu nội bộ:
Lịch sử ngân hàng cổ phần thương mại Á Châu.
Báo cáo thường niên của ngân hàng ACB năm 2007
Hướng dẫn quy trình nghiệp vụ của dịch vụ e banking : internet banking,
home banking, mobile banking, phone banking
Báo cáo kết quả dịch vụ e banking tại ACB năm 2007.
2. Báo và tạp chí
Vài nét về sự phát triển ngân hàng điện tử trên thế giới, Tạp chí Ngân hàng,
5.2004
Tạp chí Tin học ngân hàng – Ngày 24/06/2005
3. Các trang web
www.techcombank.com.vn
www.vietcombank.com.vn
www.bidv.com.vn
www.dongabank.com.vn
https://vasc-ca.vasc.com.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- e_banking_6444.pdf