Trong hệ thống các quyền con người, quyền công dân ở nước ta thì
quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân tồn tại với tư cách là "quyền bảo
vệ quyền". Thông qua việc sử dụng quyền khiếu nại, quyền tố cáo, công dân
bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, xã hội, của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Đồng thời việc thực hiện quyền khiếu nại,
quyền tố cáo thể hiện tính dân chủ của xã hội, tích cực chính trị của công dân
trong mối quan hệ với Nhà nước, với xã hội.
Khiếu nại về đất đai là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội,
đặc biệt khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước thực
hiện cơ chế quản lý mới bằng việc trả lại đất đai những giá trị vốn có thì khiếu
nại về đất đai phát sinh có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng cũng như
tính chất phức tạp về mặt nội dung.
Để công dân thực hiện đầy đủ quyền khiếu nại, quyền tố cáo, cũng
như để việc GQKN có hiệu lực, hiệu quả thì điều kiện quan trọng hàng đầu là
phải có một hệ thống cơ sở pháp lý phù hợp với thực tiễn, đầy đủ, đồng bộ.
Nhà nước ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc xây dựng một hệ thống cơ sở
pháp lý cho quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân cũng như quan tâm
tới việc GQKN của công dân.
Pháp luật GQKN về đất đai là một bộ phận quan trọng của pháp luật
về khiếu nại, pháp luật về đất đai nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam
nói chung. Hệ thống pháp luật GQKN về đất đai quy định trình tự, thủ tục,
thẩm quyền GQKN về đất đai, các nguyên tắc và căn cứ GQKN về đất đai.
Hệ thống pháp luật này được xây dựng và phát triển dựa trên nền tảng là cơ
sở kinh tế của xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế
vận động và phát triển không ngừng đòi hỏi pháp luật GQKN về đất đai cũng
phải thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, nhằm đáp ứng được các yêu cầu
của quản lý và SDĐ.86
Trước sự phức tạp của các khiếu nại hiện nay, pháp luật về khiếu nại
có nhiều điểm tỏ ra còn bất cập chưa tương xứng với vai trò của mình đã làm
hạn chế không nhỏ tới việc công dân thực hiền quyền khiếu nại của mình.
Xuất phát từ những những yêu cầu và đòi hỏi của tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN và từ nhược điểm của pháp luật về khiếu nại cho thấy việc tiếp tục
hoàn thiện pháp luật về khiếu nại là vấn đề có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và
thực tiễn trong giai đoạn hiện nay và cả thời gian dài về sau.
Do vậy, việc nghiên cứu nhằm chỉ ra những mặt tồn tại, hạn chế, bất
cập của pháp luật GQKN về đất đai, để trên cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm
không ngừng hoàn thiện chế định này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Việc "nhận dạng" bản chất của khiếu nại về đất đai có ý nghĩa quan
trọng, song điều quan trọng hơn là phải xác lập được một cơ chế GQKN về
đất đai thích hợp, nhằm xử lý dứt điểm, nhanh chóng các khiếu nại về đất đai
góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và duy trì sự ổn định xã hội
96 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 766 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai - Từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thông báo kết quả
tiếp công dân để giao nhiệm vụ cho các cấp, các ngành giải quyết.
Hàng tháng, UBND tỉnh chỉ đạo Văn phòng UBND tỉnh phối hợp với
Thanh tra tỉnh có văn bản đôn đốc UBND các huyện, thành, thị và các Sở
64
ngành tiến hành thẩm tra, xác minh các vụ việc được giao. Đối với vụ việc
đông người phức tạp mới phát sinh, UBND tỉnh đã chỉ đạo các Sở ngành phối
hợp với UBND các huyện, thành, thị tổ chức nắm tình hình, gặp gỡ công dân,
từ đó có biện pháp chỉ đạo giải quyết tiếp theo.
2.2.3.4. Công tác giải quyết khiếu nại về đất đai
Công tác GQKN nói chung, khiếu nại về đất đai nói riêng trên địa bàn
tỉnh được các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền quan tâm thực
hiện và có những chuyển biến tích cực. Hầu hết các vụ việc khiếu nại của
công dân đều được giải quyết kịp thời, chất lượng GQKN được nâng lên so
với giai đoạn trước.
Toàn tỉnh đã xem xét có quyết định, kết luận và văn bản giải quyết
2.136/2.560 vụ việc, đạt tỷ lệ 83,4%, trong đó: Khiếu nại 256/288 vụ việc, tỷ
lệ 88,9%; tố cáo 120/152 vụ việc, tỷ lệ 78,9%; kiến nghị, phản ánh
1.760/2.120 vụ việc, tỷ lệ 83%.
0
500
1000
1500
2000
2500
Khiếu nại Tố cáo Kiến nghị,
phản ánh
Vụ việc đã giải quyết
Vụ việc đã nhận
Biểu đồ 2.2: Tình hình tiếp nhận đơn, giải quyết khiếu nại ở tỉnh Vĩnh Phúc
Trong 6 tháng đầu năm 2016 toàn tỉnh đã xem xét có quyết định, kết
luận và văn bản giải quyết 579/635 vụ việc, đạt tỷ lệ 91,2%, trong đó: Khiếu
nại 56/62 vụ việc, tỷ lệ 90,3%; tố cáo 121/133 vụ việc, tỷ lệ 91%; kiến nghị,
phản ánh 402/440 vụ việc, tỷ lệ 91,4%.
65
- Trong tổng số 56 vụ việc khiếu nại đã giải quyết: Có 09 vụ khiếu nại
đúng (tỷ lệ 16,1%); có đúng, có sai: 14 (tỷ lệ 25%); sai: 33 (tỷ lệ 58,9%).
- Trong tổng số 121 vụ việc tố cáo đã giải quyết: Có 17 vụ tố cáo đúng
(tỷ lệ 14,1%); có đúng, có sai: 35 (tỷ lệ 28,9%); sai: 69 (tỷ lệ 57%).
Trong số đơn khiếu nại, vụ việc thuộc thẩm quyền được UBND tỉnh
giao xác minh giải quyết là 208 đơn với 160 vụ việc (02 vụ việc chuyển từ
năm 2011 sang); số vụ việc đã có báo cáo kiểm tra, xác minh, đề xuất là
128/160 vụ (đạt 80%)
Trong số 128 vụ đã có kết quả giải quyết:
+ Khiếu nại đúng: 08 vụ (chiếm 6,25%)
+ Khiếu nại sai: 88 vụ (chiếm 68,75%)
+ Khiếu nại có đúng một phần: 32 vụ (chiếm 25%)
Trong số 32 vụ việc thuộc thẩm quyền còn tồn lại, có 18 vụ đã hoàn
thiện dự thảo báo cáo và 16 vụ việc đang kiểm tra, xác minh theo quy định.
Thực hiện Kế hoạch số 319/KH-TTCP ngày 20-02-2009 của Thanh
tra Chính phủ, Thông báo số 321/TB-VPCP ngày 21-11-2008 của Văn phòng
Chính phủ về kết luận của Phó Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo giải quyết những
vụ việc khiếu nại tồn đọng, bức xúc, kéo dài. Qua rà soát, toàn tỉnh có 56 vụ
việc, trong đó: số vụ việc khiếu nại tồn đọng có văn bản chỉ đạo của Thanh tra
Chính phủ 2 vụ việc; số vụ việc khiếu nại tồn đọng thuộc thẩm quyền giải
quyết của Chủ tịch UBND tỉnh 54 vụ việc. Ngay sau khi rà soát, UBND tỉnh
đã chỉ đạo Thanh tra tỉnh và các cơ quan chuyên môn xác minh, tham mưu
UBND tỉnh giải quyết xong vụ việc, đạt trên 70%.
Thực hiện Chỉ thị 14/CT-TTg ngày 18-5-2012 của Thủ tướng Chính
phủ về chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả công tác tiếp công dân, GQKN và Kế
hoạch số 1130/KH-TTCP ngày 10-5-2012 của Thanh tra Chính phủ, UBND
tỉnh đã giao Thanh tra tỉnh chủ trì, phối hợp với các sở, ngành và UBND các
huyện, thành phố, thị xã tập trung rà soát các vụ việc khiếu nại đông người,
66
phức tạp, tồn đọng, kéo dài. Kết quả rà soát trên địa bàn toàn tỉnh không có vụ
việc nào tồn đọng, phức tạp, kéo dài theo yêu cầu của Thanh tra Chính phủ.
2.2.4. Đánh giá kết quả thực hiện pháp luật giải quyết khiếu nại về
đất đai ở tỉnh Vĩnh Phúc
2.2.4.1. Ưu điểm
Công tác tiếp công dân, xử lý đơn thư và GQKN nói chung, GQKN
trong lĩnh vực đất đai nói riêng đã có những chuyển biến tích cực; đặc biệt là
sự quan tâm chỉ đạo tích cực của cấp ủy các cấp, sự tham gia tích cực của các
tổ chức đoàn thể, các cơ quan thông tin đại chúng, tạo được sự thống nhất của
cả hệ thống chính trị trong công tác tiếp công dân và GQKN; nhận thức và
trách nhiệm của nhiều cấp ủy, chính quyền địa phương đối với công tác này
được nâng lên rõ rệt. Lãnh đạo các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết kịp
thời đối với các vụ việc khiếu nại phức tạp, đông người; thực hiện tổ chức
tiếp công dân theo đúng quy định, kịp thời giải quyết các vụ việc khiếu nại
mới phát sinh, tập trung giải quyết dứt điểm từ cơ sở. Trong quá trình GQKN
đã chú trọng công tác đối thoại với người khiếu nại, đã kết hợp giữa vận
động, thuyết phục với phân tích thấu tình, đạt lý để công dân hiểu và tự giác
chấp hành. Đối với những vụ việc phức tạp, những vụ việc đã có quyết định
giải quyết lần hai nhưng công dân vẫn còn tiếp khiếu, lãnh đạo các cấp, các
ngành đã tập trung chỉ đạo rà soát, tiến hành đối thoại công khai, dân chủ, từ
đó đã có những biện pháp chỉ đạo giải quyết dứt điểm.
Xác định được mục đích và ý nghĩa của công tác tiếp công dân là cầu
nối giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước. Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự
chỉ đạo sát sao của UBND tỉnh, Thủ trưởng các cấp, các ngành trong tỉnh đã
chú trọng quan tâm tổ chức thực hiện tốt công tác tiếp công dân theo đúng
quy định. Hầu hết các đơn vị hành chính trên địa bàn tỉnh đã bố trí nơi tiếp
công dân tại địa điểm thuận lợi, niêm yết công khai lịch, nội quy tiếp công
dân, kiện toàn bộ máy giúp việc và bố trí cán bộ có phẩm chất đạo đức, có
67
năng lực công tác, am hiểu chính sách pháp luật làm công tác tiếp công dân.
Thực hiện chế độ tiếp công dân thường xuyên và định kỳ theo đúng quy định.
Tại Phòng Tiếp công dân tỉnh thường trực tiếp công dân thường xuyên, tham
mưu cho lãnh đạo UBND tỉnh, Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức tiếp công dân
theo định kỳ ngày 15 hàng tháng, Phòng Tiếp công dân tỉnh được đảm bảo
các điều kiện vật chất và các phương tiện cần thiết khác theo qui định, sau
mỗi kỳ tiếp công dân của lãnh đạo tỉnh, Văn phòng UBND tỉnh kịp thời ban
hành thông báo kết luận của lãnh đạo tỉnh với các nội dung đã tiếp công dân;
có kế hoạch theo dõi, đôn đốc các ngành, địa phương thực hiện nghiêm túc
những nội dung đã kết luận để thông tin cho công dân biết. UBND tỉnh đã chỉ
đạo Chủ tịch UBND các địa phương và Thủ trưởng các ngành bố trí tiếp công
dân trong tháng theo quy định. Công dân đến Trụ sở tiếp công dân đều được
đón tiếp chu đáo, được trình bày tâm tư nguyện vọng và thực hiện quyền
khiếu nại của mình. Do đó, công tác tiếp công dân trên địa bàn tỉnh đã ổn
định, nền nếp, chất lượng công tác tiếp dân đã được nâng cao.
Thủ trưởng các cấp, các ngành Tài nguyên - Môi trường, Thanh tra
tỉnh đã có nhiều biện pháp chỉ đạo tích cực trong việc giải quyết đơn thư
khiếu nại về đất đai. Hầu hết các đơn thư khiếu nại về đất đai mới phát sinh
đều được giải quyết kịp thời, đúng pháp luật. Việc giải quyết về cơ bản đã
đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật về khiếu nại, pháp luật về đất
đai. Đặc biệt, đã chủ động rà soát các vụ việc khiếu nại về đất đai kéo dài, phức
tạp, tổ chức đối thoại trực tiếp với những người khiếu nại và có biện pháp chỉ
đạo giải quyết dứt điểm, hạn chế đơn thư khiếu nại vượt cấp, không để đơn
thư tồn đọng, góp phần giữ vững ổn định an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh.
2.2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Về hạn chế
Thứ nhất, công tác GQKN trong lĩnh vực đất đai cơ bản được thực hiện
đúng trình tự, thủ tục và thời gian theo quy định của pháp luật, tuy nhiên, một
68
số vụ còn kéo dài, cá biệt có vụ vượt thời gian từ 1-2 tháng theo quy định của
pháp luật khiếu nại, nguyên nhân chủ yếu là do biên chế cán bộ, công chức còn
ít, trong khi khối lượng công việc nhiều, địa bàn đi lại khó khăn, việc xác minh
đối với các đối tượng có liên quan thường bị động, phải đi lại nhiều lần; đương
sự không hợp tác; có vụ việc phức tạp nhưng quan điểm xử lý giữa các cấp,
các ngành chưa có sự thống nhất cao trong việc thực thi, thi hành công việc.
Thứ hai, một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác GQKN trong
lĩnh vực đất đai tinh thần trách nhiệm đối với công việc chưa cao, năng lực
còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, ảnh hưởng đến chất lượng
GQKN, gây bức xúc cho công dân.
Thứ ba, một số quyết định GQKN đã có hiệu lực pháp luật chưa được
tổ chức thực hiện triệt để. Một số vụ việc mặc dù quyết định GQKN đã có
hiệu lực pháp luật, nhưng khi người dân tiếp tục khiếu nại vẫn được cơ quan
có thẩm quyền giao cho cơ quan chuyên môn xem xét, giải quyết lại.
Thứ tư, việc GQKN, giải quyết tranh chấp về đất đai có nơi làm chưa
triệt để, còn có biểu hiện ngại khó, ngại va chạm, không tổ chức đối thoại với
người khiếu nại. Nhiều vụ việc đã thanh tra, kiểm tra, có kết luận nhưng chậm
ban hành quyết định giải quyết.
Thứ năm, một số công dân do không hiểu biết, hoặc cố tình hiểu sai
chính sách, pháp luật về đất đai dẫn đến khiếu nại không có căn cứ, không
đúng sự thật, chạy theo lợi ích kinh tế, đeo bám dai dẳng, thái độ gay gắt, quá
khích. Nhiều vụ công dân biết quyết định của cơ quan nhà nước đúng nhưng
vẫn cố tình không chấp hành, sao chụp đơn gửi nhiều nơi, nhiều cấp, nhiều
ngành để gây áp lực đối với cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Một số công
dân lợi dụng quyền khiếu nại để kích động, gây rối làm mất an ninh trật tự và
làm cho tình hình phức tạp thêm.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế nêu trên:
Một là, chính sách, pháp luật về đất đai luôn thay đổi, còn chồng chéo,
bất cập. Công tác quản lý đất đai qua nhiều thời kỳ có cơ chế quản lý khác
69
nhau, bị buông lỏng trong thời gian dài. Việc lưu trữ hồ sơ phục vụ công tác
quản lý đất đai qua các thời kỳ còn nhiều thiếu sót. Do đó khi cần các tài liệu
có tính chất phản ánh nguồn gốc đất lúc ban đầu không đáp ứng được do vậy
cũng tạo không ít khó khăn cho công tác GQKN, tranh chấp đất đai, bồi
thường đất đai.
Hệ thống pháp luật hiện hành của nước ta chưa hoàn chỉnh, thiếu đồng
bộ, việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành chậm, có nội dung thiếu tính
khả thi, hoặc có sự chồng chéo, mâu thuẫn như quy định về quản lý SDĐ,
thực hiện chính sách xã hội gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật.
Hai là, cấp ủy, chính quyền một số địa phương, đơn vị chưa quan tâm
đúng mức đến công tác tiếp công dân, chưa phối hợp chặt chẽ giữa việc tiếp
công dân và GQKN nói chung, khiếu nại về đất đai nói riêng. Một số vụ việc
chưa được giải quyết kịp thời, nghiêm minh, gây bức xúc trong nhân dân. Bên
cạnh đó, sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các đoàn thể có nơi, có lúc
chưa chặt chẽ, thường xuyên, do đó các khiếu nại, tranh chấp đất đai chưa
được giải quyết dứt điểm ngay từ cơ sở, còn để xảy ra khiếu nại vượt cấp, kéo
dài về thời gian và phức tạp về tính chất vụ việc.
Ba là, biên chế cán bộ làm công tác GQKN về đất đai còn thiếu, chưa
tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ. Một số cán bộ trong khi thi hành công vụ
về quản lý đất đai chưa thực hiện đúng chính sách, pháp luật, sách nhiễu, tiêu
cực, gây bức xúc cho người dân trong quá trình đòi quyền lợi.
Chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác tiếp công dân, tham mưu giải
quyết, áp dụng pháp luật ở một số vụ việc khiếu nại, kiến nghị, phản ánh còn
hạn chế; tình trạng ỷ lại vào cấp trên trong GQKN chưa thật sự được khắc phục.
Bốn là, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật về đất đai, GQKN về đất
đai chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao, kiến thức, ý thức tôn trọng và
chấp hành pháp luật về đất đai, GQKN trong lĩnh vực đất đai của các tầng lớp
nhân dân còn hạn chế.
70
Chương 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI VỀ ĐẤT ĐAI
3.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
VỀ ĐẤT ĐAI
Những quan điểm, tư tưởng và các giá trị phổ biến của Nhà nước pháp
quyền đóng vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển của từng quốc gia,
dân tộc. Một trong những nội dung cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền là xác lập một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, tạo ra khuôn khổ pháp lý
để Nhà nước quản lý xã hội, đảm bảo sự phát triển tự do, toàn diện của con
người. Pháp luật khiếu nại là một bộ phận quan trọng của hệ thống pháp luật,
góp phần hiện thực hóa việc sử dụng pháp luật để bảo vệ các giá trị mà Nhà
nước pháp quyền đưa lại cho xã hội, cho con người. Khi quyền khiếu nại của
công dân được bảo đảm, thì Nhà nước và xã hội sẽ có phương thức đơn giản,
dễ thực hiện trong phòng ngừa đấu tranh với các hành vi vi phạm pháp luật và
kiểm soát hoạt động của bộ máy nhà nước.
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại trên nền tảng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
Nhân dân thực hiện quyền lực bằng việc bầu ra bộ máy và tham gia
vào quá trình kiểm soát hoạt động của bộ máy. khiếu nại như một phương
thức tự vệ dự phòng, kiểm soát xã hội, kiểm soát hoạt động của cơ quan nhà
nước qua việc phản kháng với những hành vi vi phạm pháp luật. Bằng việc
này, Nhà nước đã tạo lập công cụ pháp lý để công dân có thể tự bảo vệ mình,
đấu tranh các hành vi vi phạm pháp luật mà trước hết hướng vào sự vi phạm
từ phía cơ quan nhà nước và những người thi hành công vụ.
Việc sử dụng quyền khiếu nại là thước đo thái độ, niềm tin của công
dân đối với sự công bằng mà pháp luật có thể đem lại cho họ trong việc xem
71
xét, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Bởi thế, pháp luật khiếu nại cần phải
được xây dựng, hoàn thiện sao cho công dân có thể sử dụng quyền khiếu nại
tố cáo của mình thuận lợi nhất, hiệu quả nhất, đơn giản nhất. Việc đơn giản
hóa các quy trình thủ tục khi thực hiện quyền khiếu nại tố cáo sẽ tạo điều kiện
để người dân có thể tiếp cận và cung cấp thông tin cho các cơ quan nhà nước.
3.1.2. Hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại trên cơ sở tôn trọng
và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, thực hiện công bằng xã hội
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội.
"Quyền con người gắn bó chặt chẽ với tư tưởng Nhà nước pháp quyền, là yếu
tố được xã hội hóa bằng con đường Nhà nước ghi nhận". Do đó, các quy định
của pháp luật khiếu nại tố cáo phải hướng vào việc bảo vệ và tôn trọng các
quyền cơ bản của con người. Điều đó phải được thể hiện trong các quy định
về tiếp nhận và phản hồi thông tin trong GQKN tố cáo; về bảo đảm tính công
khai, đối thoại trong suốt quá trình xem xét giải quyết vụ việc
3.1.3. Hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại trên cơ sở đảm
bảo tính hệ thống, đồng bộ
Trong đó xác định vai trò chủ đạo của Luật về khiếu nại và GQKN.
Các luật này quy định, điều chỉnh những vấn đề có tính nguyên tắc về quyền
và nghĩa vụ trong khiếu nại tố cáo; thẩm quyền, trách nhiệm GQKN tố cáo;
trình tự thủ tục GQKN tố cáo; cơ chế kiểm tra, giám sát và bảo đảm thi hành
pháp luật khiếu nại Do vậy, những quy định của luật vừa phải mang tính khái
quát, đóng vai trò luật khung điều chỉnh hoạt động khiếu nại tố cáo và GQKN
tố cáo vừa phải có sự đồng bộ, thống nhất với các văn bản pháp luật khác.
3.1.4. Hoàn thiện pháp luật giải quyết khiếu nại về đất đai theo
hướng mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ là thuộc tính cơ bản của pháp luật XHCN bởi nó là phương
tiện tổ chức của một nhà nước dân chủ, một xã hội dân chủ, bảo đảm trên
thực tế quyền lực nhà nước là thống nhất và thuộc về nhân dân.
72
Nói cách khác, pháp luật dân chủ phải là pháp luật vì con người. Đó
là định hướng xuyên suốt quá trình phát triển của pháp luật, là tư tưởng chỉ
đạo công tác khiếu nại, tố cáo pháp luật mà sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh
từng khẳng định là phải làm sao cho pháp luật dân chủ ngày càng nhiều hơn,
tốt hơn.
Về nhận thức, cần khẳng định, mặc dù quyền ban hành pháp luật
thuộc về cơ quan nhà nước có thẩm quyền, song chủ thể sáng tạo pháp luật
chân chính phải là nhân dân. Từ nhận thức này đặt ra hai vấn đề: Một là, nhân
dân phải có năng lực làm chủ, tức phải có hiểu biết sâu về sắc pháp luật, có ý
thức dân chủ và là chủ, thể hiện năng lực và tinh thần làm chủ; hai là, nhân
dân phải có điều kiện được làm chủ, làm chủ không chỉ qua các cơ quan, tổ
chức đại diện mà còn trực tiếp tham gia đóng góp kiến vào các dự án pháp
luật về khiếu nại, tố cáo cả của trung ương và địa phương.
Để tạo điều kiện cho nhân dân làm chủ trực tiếp phải quán triệt tinh
thần và nội dung cụ thể của nguyên tắc dân chủ trong từng mắt khâu của quy
trình xây dựng pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Điều có ý nghĩa quan trọng là
phải bảo đảm dân chủ thực sự trong việc tổ chức lấy ý kiến nhân dân thực
hiện cải tiến việc lấy ý kiến về các văn bản pháp luật theo hướng thiết thực,
trách hình thức lãng phí, và phải có quy chế giao trách nhiệm nghiên cứu, tập
hợp và trả lời thư của nhân dân góp ý về công việc chung của đất nước.
Mặt khác, bên cạnh việc tạo điều kiện cho nhân dân trực tiếp tham gia
pháp luật, cần tập trung nâng cao năng lực lập pháp của Quốc hội, tiếp tục dân
chủ hóa sinh hoạt của Quốc hội, nhất là trong các kỳ họp quốc hội thảo luận
thông qua các dự án luật, nâng cao năng lực của Hội đồng dân tộc, các ủy ban
của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và đại biểu, tăng cường đại biểu
chuyên trách; chú trọng tham khảo ý kiến của các tổ chức chính trị xã hội,
đoàn thể quần chúng có liên quan đến nội dung các dự án pháp luật về khiếu
nại, tố cáo. Có quy chế phối hợp chặt chẽ giữa Quốc hội với Mặt trận Tổ quốc
73
và các đoàn thể quần chúng để tập hợp trí tuệ của nhân dân tham gia vào các
dự án luật và những vấn đề quan trọng của đất nước nói chung và các dự án
luận về khiếu nại, tố cáo nói riêng.
Xây dựng chính sách đất đai và tổ chức quản lý đất đai trong môi
trường của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là rất mới mẻ đối với
nước ta. Hệ thống pháp luật về đất đai hiện nay còn thiên về xử lý các mối
quan hệ ban đầu có tính chất hành chính, chưa tiếp cận kịp thời những biến
động có tính chất thị trường và kinh tế - xã hội của đất nước chuyển động theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa dẫn đến những biến động về quan hệ đất
đai về cơ cấu SDĐ và cơ chế quản lý đất đai, xuất hiện nhiều vấn đề mới, Nhà
nước phải đối mặt trước nhiều vấn đề bất cập trong quản lý. Vì vậy, vấn đề
phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật đất đai để tạo hành lang
pháp lý là rất cần thiết và cấp bách.
Việc hoàn thiện pháp luật đất đai cần quán triệt chủ trương, đường lối,
chính sách đất đai của Đảng trong thời kỳ đổi mới, đáp ứng yêu cầu quản lý
và SDĐ theo thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN: quán triệt nguyên
tắc đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu, Nhà
nước thống nhất quản lý đất đai theo quy hoạch và pháp luật; từng bước hoàn
thiện các quy định về người SDĐ, QSDĐ và nội dung quản lý nhà nước về
đất đai.
Nguyên tắc căn bản là tăng cường củng cố chế độ sở hữu toàn dân về
đất đai và Nhà nước thống nhất quản lý; đồng thời ngày càng hoàn thiện cơ
chế chính sách gắn trách nhiệm và quyền lợi hợp pháp của người SDĐ thông
qua các lợi ích kinh tế. Hai mặt này cần phải gắn bó quan hệ với nhau trong
một thể thống nhất. Sở hữu toàn dân, nhà nước thống nhất quản lý về đất đai
càng được tăng cường có hiệu lực thì càng làm cho người SDĐ có hiệu quả
hơn. Người SDĐ càng có hiệu quả làm cho chế độ sở hữu toàn dân ngày càng
được tăng cường có hiệu lực, hiệu quả hơn.
74
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
VỀ ĐẤT ĐAI
3.2.1. Rà soát, hệ thống hóa thường xuyên và sửa đổi, bổ sung các
văn bản quy phạm pháp luật giải quyết khiếu nại đất đai
Công tác rà soát và hệ thống hóa văn bản quy phạm pháp luật GQKN
xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn quản lý nhà nước về khiếu nại, từ thực trạng
ban hành và thực hiện pháp luật GQKN. Để thực hiện công tác quản lý nhà
nước về khiếu nại, tố cáo các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ban hành
với một số lượng lớn các văn bản quy phạm pháp luật. Các văn bản này được
ban hành vào những thời điểm khác nhau, trong những điều kiện và hoàn cảnh
khác nhau do vậy không thể tránh khỏi tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, lạc
hậu so với tình hình phái triển của đất nước, tạo nên sự thiếu đồng bộ, thống
nhất giữa các văn bản trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật GQKN.
Khắc phục tình trạng nêu trên cần phải tiến hành thường xuyên rà soát
và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật GQKN. Như vậy, đây là công việc
hết sức quan trọng nhưng thực tế chưa được tiến hành thường xuyên và có hệ
thống. Song thực tế cho thấy kết quả của công tác này trong thời gian qua
bước đầu mới chỉ dừng lại ở việc tập hợp và phân loại văn bản, còn khâu chủ
yếu là rà soát đánh giá để trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ
sung nhằm đồng bộ hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật GQKN thì còn
nhiều hạn chế.
Pháp luật giải quyết khiếu nại của công dân hiện nay vẫn còn một số
bất cập như:
- Chủ thể của quyền khiếu nại còn chưa thống nhất trong Luật khiếu
nại năm 2011. Theo khoản 1, 2 Điều 2 của Luật khiếu nại năm 2011 thì người
nước ngoài và người không quốc tịch sống trên lãnh thổ Việt Nam không được
có quyền khiếu nại. Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 1 Điều 3 của Luật
Khiếu nại năm 2011: "Khiếu nại của cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài tại
75
Việt Nam và việc giải quyết khiếu nại được áp dụng theo quy định của Luật
này, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên có quy định khác" thì cá nhân nước ngoài vẫn có quyền khiếu
nại và vẫn thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật khiếu nại năm 2011. Tuy
nhiên, với quy định của khoản 1, 2 của Điều 2 Luật Khiếu nại 2011 sẽ gây
nhiều khó khăn cho việc thực hiện quyền hiến định này của người nước ngoài.
- Về quy định người giải quyết khiếu nại cũng còn bất cập. Khoản 6,
Điều 2 của Luật Khiếu nại năm 2011 quy định: "Người giải quyết khiếu nại là
cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết khiếu nại". Bên cạnh đó,
Khoản 1 Điều 7 của Luật Khiếu nại năm 2011 cũng quy định:
Khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành
chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp
pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã
ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành
chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của
Luật tố tụng hành chính [37].
Những quy định này không phù hợp và có sự mâu thuẫn với thẩm
quyền giải quyết khiếu nại được quy định từ Điều 17 đến Điều 26 Luật Khiếu
nại 2011 bởi thẩm quyền giải quyết bao giờ cũng thuộc về cá nhân chứ không
thuộc về cơ quan, tổ chức. Bên cạnh đó, theo quy định của Luật khiếu nại thì
người đứng đầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình và của cán bộ, công chức
do mình quản lý trực tiếp. Do đó, nếu như phát hiện quyết định hành chính,
hành vi hành chính trái pháp luật thì người khiếu nại phải khiếu nại đến người
đứng đầu cơ quan, tổ chức chứ không khiếu nại đến người đã ra quyết định
hành chính, càng không phải là cơ quan có người có hành vi hành chính trái
pháp luật. Tuy nhiên, với quy định không rõ ràng như khoản 1 Điều 7 Luật
khiếu nại 2011 thì trong nhiều trường hợp người khiếu nại có thể gửi đơn
76
khiếu nại lòng vòng, không đúng người có thẩm quyền giải quyết và mất
quyền khiếu nại khi thời hiệu khiếu nại đã hết.
- Cơ chế GQKN chưa đảm bảo đầy đủ tính khách quan, công khai, dân
chủ trong quá trình giải quyết; việc khởi kiện của người dân tại Tòa án còn bị
hạn chế; trình tự, thủ tục GQKN chưa cụ thể, rõ ràng, nhất là GQKN lần đầu
còn quá phức tạp, thời hạn giải quyết dài, chưa tạo thuận lợi cho công dân; chưa
đề cao vai trò của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội và của luật
sư trong quá trình GQKN; thiếu chế tài cụ thể trong việc xử lý trách nhiệm
thực hiện công tác GQKN; hiệu lực thi hành các quyết định GQKN chưa cao;
chưa gắn trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan nhà nước trong việc tổ chức
tiếp công dân. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật hiện hành có quy định
về khiếu nại và GQKN, nhất là trong lĩnh vực đất đai còn có sự mâu thuẫn,
chồng chéo, chưa tạo được thống nhất trong các quy định về khiếu nại, GQKN.
Pháp luật GQKN đất đai cần được hoàn thiện các nội dung sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện pháp luật về đất đai: Luật Đất đai năm 2013
mới vừa có hiệu lực thi hành, do đó, cần hướng dẫn thực hiện một cách cụ
thể, tránh áp dụng tùy tiện vấn đề thu hồi đất theo hướng khẳng định rõ và rất
hạn chế các trường hợp được coi là "thật sự cần thiết" mới được thu hồi, theo
đúng tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, cần làm rõ hơn vai trò
của HĐND như là tiếng nói của cử tri trong việc kiểm soát những quyết định
thu hồi đất của UBND cùng cấp. Về xác định giá đất, cần quy định thành
phần bắt buộc trong hội đồng thẩm định giá đất, không chỉ có UBND, đại
diện ban, ngành liên quan, tổ chức cung cấp dịch vụ định giá đất độc lập, mà
còn cần tới nhiều thành viên là các chuyên gia cao cấp về định giá đất như các
chuyên gia định giá từ các cơ sở đào tạo, viện nghiên cứu, khu vực doanh
nghiệp định giá, hiệp hội định giá. Với thành phần như vậy mới đảm bảo việc
định giá đất có cơ sở khách quan. Về lâu dài, cũng cần tính đến việc sửa đổi,
bổ sung Luật Đất đai để luật hóa nội dung nói trên cho thực sự phù hợp với
những yêu cầu chung và với tình hình thực tế.
77
Hai là, đổi mới về mô hình tổ chức bộ máy giải quyết tranh chấp hành
chính trong lĩnh vực đất đai: Cần tăng cường trách nhiệm GQKN của cơ quan
hành chính nhà nước bằng các biện pháp: Xác định rõ chế độ trách nhiệm của
thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước là người có thẩm quyền GQKN; tăng
cường thanh tra, kiểm tra, giám sát trách nhiệm của người có thẩm quyền
GQKN; chấn chỉnh những tồn tại, yếu kém, xử lý nghiêm những người vi
phạm, thiếu trách nhiệm trong công tác GQKN. Đồng thời, bảo đảm, tăng
cường tính độc lập, khách quan của Tòa án trong việc xét xử các vụ án hành
chính, các cấp Tòa án cần được bố trí theo khu vực, vùng, không theo cấp
hành chính lãnh thổ nhằm bảo đảm tính độc lập khi xét xử các vụ án hành
chính của Tòa án.
Ba là, hoàn thiện về trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp hành chính
trong lĩnh vực đất đai: Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các quy định
về tổ chức đối thoại; luật sư tham gia quá trình GQKN; công khai, minh bạch
các tài liệu, chứng cứ của các bên; tăng cường việc "tranh tụng" để phá vỡ
tính "khép kín" trong quá trình GQKN. Đồng thời, quy định thẩm quyền, căn
cứ, thủ tục xem xét lại khiếu nại trong một số trường hợp cụ thể khi phát hiện
việc GQKN có vi phạm pháp luật; các vụ việc khiếu nại phức tạp, kéo dài...
Song song với giải pháp đối với trình tự, thủ tục bằng con đường hành chính,
cũng cần phải đơn giản, rút gọn một số thủ tục tố tụng trong quá trình giải
quyết vụ án hành chính trong trường hợp vụ việc đơn giản, rõ ràng, có căn cứ
để phán quyết và bảo đảm, tăng cường hiệu lực xử vụ án hành chính của Tòa
án, thông qua việc nghiên cứu có cơ chế hữu hiệu thi hành bản án hành chính.
3.2.2. Đổi mới quy trình xây dựng ban hành văn bản quy phạm
pháp luật giải quyết khiếu nại
Chất lượng của văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khách quan và chủ quan khác nhau, trong đó quy trình
soạn thảo, thẩm định và trình ban hành có một vai trò rất quan trọng cho nên
78
cần tập trung làm tốt các khâu soạn thảo và thẩm định dự thảo văn bản. Đại
hội XI của Đảng đã chỉ rõ cần phải đổi mới và hoàn thiện quy trình xây dựng
luật, ban hành và thực thi pháp luật. Yêu cầu đặt ra là phải đổi mới phương
thức và quy trình xây dựng thể chế, cải tiến sự phối hợp giữa các ngành, các
cấp có liên quan, coi trọng sử dụng các chuyên gia liên ngành và dành vai trò
rất quan trọng cho tiếng nói của nhân dân, của doanh nghiệp. Đối với hoạt
động soạn thảo cần chú ý những vấn đề sau:
- Trên cơ sở văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến chức năng,
nhiệm vụ của đơn vị nào thì giao cho đơn vị đó chủ trì việc soạn thảo. Đơn vị
chủ trì việc soạn thảo có trách nhiệm lập chương trình, kế hoạch soạn thảo,
phối hợp chặt chẽ với các đơn vị có liên quan để thực hiện đúng tiến độ và có
chất lượng.
Đơn vị được giao chủ trì soạn thảo cần khảo sát, nghiên cứu thực tiễn
về nội dung vấn đề đang soạn thảo; thu thập, nghiên cứu các thông tin, tư liệu
có liên quan, tiến hành hệ thống hóa, tổng kết, đánh giá những văn bản hiện
hành về lĩnh vực, nội dung đang soạn thảo; xây dựng đề cương, xác định nội
dung, chương mục, tên gọi, bố cục dự thảo văn bản; trên cơ sở đó tiến hành
dự thảo nội dung văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
- Một trong những vấn đề có ý nghĩa quan trọng, ảnh hưởng không
nhỏ tới chất lượng văn bản là cần đẩy mạnh quá trình dân chủ hóa hoạt động
xây dựng văn bản quy phạm pháp luật bằng việc mở rộng phạm vi và đa dạng
hóa các hình thức tổ chức lấy ý kiến tham gia đóng góp của cá nhân và các
đơn vị có liên quan.
Công tác thẩm định dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại,
tố cáo cần tập trung chủ yếu vào những nội dung sau: sự cần thiết phải ban
hành văn bản; sự phù hợp của hình thức văn bản đối với vấn đề cần được giải
quyết; đối tượng và phạm vi điều chỉnh của văn bản; bố cục của văn bản; tính
hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản trong toàn hệ thống; tính khả
thi của văn bản; kỹ thuật soạn thảo văn bản.
79
Sau khi thẩm định, đơn vị chủ trì soạn thảo trình hồ sơ đã được thẩm
định lên cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ký ban hành văn bản.
3.2.3. Nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học pháp lý
và công tác bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức liên quan đến
hoạt động xây dựng pháp luật giải quyết khiếu nại
Hoạt động nghiên cứu khoa học và thông tin khoa học pháp lý là công
tác mang tính bổ trợ cho hoạt động xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
nói chung cũng như hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo
nói riêng, nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng góp phần vào việc giải quyết
những vấn đề mà thực tiễn pháp lý đặt ra. Qua việc nâng cao chất lượng của
công tác nghiên cứu khoa học pháp lý sẽ đưa ra nhiều đóng góp đáng kể đối
với công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về khiếu nại, tố cáo với mục
tiêu chung là: Khắc phục sự chậm trễ của khoa học xã hội... phát triển nhanh
các ngành kinh tế học, xã hội học, luật học, khoa học chính trị và khoa học
quản lý, đặc biệt là khoa học quản lý kinh tế và quản lý nhà nước.
Trong những năm gần đây hoạt động nghiên cứu khoa học và thông
tin khoa học pháp lý đã có những chuyển biến tích cực và có sự quan tâm của
các cấp có thẩm quyền. Tuy nhiên, nghiên cứu khoa học và thông tin khoa
học pháp lý còn là một hoạt động mới mẻ, nên nhiều phạm trù, khái niệm
khoa học pháp lý chưa được xây dựng và xác định thống nhất, nên chưa tạo
cơ sở pháp lý vững chắc cho quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn
bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo. Từ thực tế này mà nhiều khi các
dự thảo văn bản quy phạm pháp luật bị mất rất nhiều thời gian vào việc tranh
luận các khái niệm, các phạm trù.
Do đó, cần thấy rằng đây là một hoạt động quan trọng nhằm góp phần
hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo, cần
được tiến hành thường xuyên và phải có sự đầu tư thỏa đáng về vấn đề con
người, kinh phí, tổ chức. Trước mắt tập trung đầu tư để triển khai những đề
tài khoa học có liên quan trực tiếp việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
80
pháp luật về khiếu nại, tố cáo, nhằm xác định những cơ sở pháp lý và khoa
học, xác định những phương hướng và giải pháp khả thi cho việc hoàn thiện
hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo.
Phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học pháp lý trong xây dựng pháp
luật về khiếu nại, tố cáo cần đi đôi với việc mở rộng các hình thức thông tin
chuyên đề trên cơ sở sử dụng kịp thời những bài viết, những kết quả nghiên cứu
đã được công bố trong và ngoài nước có liên quan đến hệ thống pháp luật nói
chung và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói riêng.
Liên quan trực tiếp tới việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật về khiếu nại, tố cáo là yếu tố con người. Muốn xây dựng và ban
hành văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng tốt cần có những con người
có năng lực, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ pháp lý cao. Vì vậy, phải đẩy
mạnh công tác bồi dưỡng và đào tạo kiến thức trước hết cho đội ngũ cán bộ,
công chức có liên quan trực tiếp tới công tác xây dựng pháp luật về khiếu nại,
tố cáo kiến thức chuyên môn về xây dựng pháp luật, về khiếu nại, tố cáo,
nâng cao trình độ và kinh nghiệm quản lý nhà nước về khiếu nại, tố cáo. Để
thực hiện tốt nhiệm vụ này cần tiến hành xây dựng kế hoạch đào tạo và bồi
dưỡng kiến thức pháp lý cho những đối tượng nhất định; ưu tiên cho những
đối tượng làm công tác pháp chế và những người có liên quan đến hoạt động
xây dựng pháp luật về khiếu nại, tố cáo nói riêng và xây dựng pháp luật nói
chung; đầu tư và khuyến khích đào tạo và sử dụng cán bộ về pháp lý có trình
độ trên đại học, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin để học tập và khai
thác kiến thức từ tài liệu và chuyên gia nước ngoài.
3.2.4. Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của quyền khiếu nại
của công dân, của công tác giải quyết khiếu nại, huy động sức mạnh đồng
bộ của các cơ quan, tổ chức trong việc giải quyết khiếu nại
Khiếu nại, tố cáo của công dân là vấn đề có tính chính trị - pháp lý -
xã hội. Do đó, việc GQKN, tố cáo của nhân dân vừa là bức xúc vừa là lâu dài,
81
là vấn đề nhạy cảm, việc xử lý không chỉ thuần túy về quyền lợi về kinh tế,
mà nó gắn chặt với công tác chính trị tư tưởng, tổ chức, liên quan đến an ninh
và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, cần nhận thức rằng đảm bảo hiệu lực, hiệu
quả công tác GQKN, tố cáo không chỉ là công việc của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền mà cần phải có sự lãnh đạo chặt chẽ của cấp ủy đảng,
sự phối hợp đồng bộ của các tổ chức chính trị - xã hội: Mặt trận Tổ quốc,
Công đoàn, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên
và các đoàn thể khác. Thực tiễn cho thấy, ở đâu cấp ủy đảng và chính quyền
các cấp quan tâm, tập trung chỉ đạo giải quyết tốt khiếu nại của công dân, giữ
vững ổn định tình hình xã hội thì địa phương đó mới thực hiện được các mục
tiêu phát triển kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội. Cấp ủy, chính quyền các
ngành, địa phương phải khẳng định đây là nhiệm vụ chính trị - pháp lý quan
trọng của ngành, địa phương.
Chính quyền các cấp dưới sự chỉ đạo của cấp ủy Đảng, phối hợp chặt
chẽ với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể: Công đoàn, Hội Nông dân, Hội cựu
chiến binh, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên... để giáo dục, vận động, thuyết
phục công chân, thành viên, hội viên của mình chấp hành đúng chính sách,
pháp luật; đảm bảo đúng quyền, nghĩa vụ của mình khi khiếu nại, tố cáo để
khiếu nại, tố cáo của công chân và GQKN, tố cáo của các cơ quan nhà nước
đi vào nề nếp, kỷ cương, chú trọng tổ chức tốt việc hòa giải ở cơ sở để giải
quyết kịp thời nhanh chóng các tranh chấp, mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân
ngay tại cơ sở, ngay từ khi mới phát sinh.
Bản chất của GQKN là việc giải quyết các vi phạm pháp luật. Các cơ
quan nhà nước cần thấy mục tiêu cuối cùng là xử lý nghiêm minh các vi phạm
pháp luật, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan tổ chức
chứ không phải là giải quyết cho xong thẩm quyền của mình để trốn tránh
trách nhiệm. Vì vậy, bên cạnh việc GQKN, tố cáo, các cơ quan nhà nước cần
hướng lẫn giải thích cho công dân hiểu những khiếu nại, tố cáo không có căn
cứ để tránh tình trạng hiểu sai về cách làm việc của các cơ quan nhà nước
82
công nên dân vẫn thấy quyền lợi bị thiệt thòi, các yêu cầu đòi hỏi của mình
không được giải quyết tiếp tục khiếu nại, tố cáo kéo dài, không chấm dứt,
ngày càng phức tạp hơn.
Tiếp tục quán triệt tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật sâu
rộng trong cán bộ, nhân dân, để mọi người nắm vững và thực hiện nghiêm
chỉnh nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nhất là trong lĩnh vực
trọng tâm thường phát sinh nhiều khiếu nại như đất đai, nhà cửa, chính sách
xã hội, các lĩnh vực tư pháp, để cơ quan nhà nước, công dân nắm vững và
thực hiện; giám sát cán bộ, công chức thực hiện đúng pháp luật. Tuyên truyền
pháp luật về khiếu nại mà tập trung trước hết là Luật khiếu nại.
3.2.5. Tập trung giải quyết dứt điểm các khiếu nại kéo dài, phức
tạp, kiên quyết xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật giải
quyết khiếu nại
Tập trung chỉ đạo giải quyết dứt điểm các vụ khiếu nại đông người,
phức tạp và vụ việc khiếu tố gay gắt, dai dẳng, kéo dài, chấn chỉnh các mặt
quản lý nhằm hạn chế các vi phạm pháp luật; giải quyết về cơ bản tình trạng
khiếu nại đông người không đúng chỗ. Đối với những vụ việc khiếu nại đông
người, phức tạp, kéo dài phải có những chủ trương, biện pháp hiệu quả nhằm
giải quyết dứt điểm, không để tình hình phức tạp thêm, từng bước hạn chế và
đi đến chấm dứt tình trạng khiếu nại này. Việc xem xét, giải quyết các vụ việc
phải dứt điểm từ địa phương, cơ sở nơi phát sinh khiếu nại, đảm bảo lợi ích
chính đáng của nhân dân và lợi ích của Nhà nước. Quá trình xem xét, giải
quyết phải dân chủ, công khai, công bằng, kết hợp chặt chẽ giáo dục, thuyết
phục và tôn trọng pháp luật; kết hợp các biện pháp hòa giải, kinh tế, hành
chính, hình sự để việc giải quyết có hiệu quả và hiệu lực. Tăng cường trực
tiếp đối thoại giữa cán bộ chủ chốt của địa phương với những người khiếu
nại. Thông qua việc đối thoại, cấp có thẩm quyền nắm được chính xác tâm tư,
nguyện vọng và những yêu cầu chính đáng của công dân để chỉ đạo, điều
hành các cơ quan hữu quan xem xét, giải quyết một cách thống nhất, đồng bộ,
83
triệt để các vấn đề dân khiếu khiếu nại. Đối thoại trực tiếp là thể hiện làm tốt
công tác dân vận, để người dân hiểu và thực hiện chính sách, pháp luật của
Nhà nước, chủ trương quy định của địa phương hiệu quả. Đối thoại với công
dân trong việc GQKN, tố cáo còn là biện pháp thực hiện dân chủ, công khai,
cởi mở chủ trương, biện pháp của địa phương với nhân dân để nhân dân cùng
biết, cùng thực hiện, đây chính là biện pháp tốt để tháo gỡ những bức xúc,
những bất bình của công dân trong khi khiếu nại tập thể, đông người, tạo
niềm tin của quần chúng nhân dân đối với chính quyền và lãnh đạo ngành, địa
phương. Quá trình GQKN phải chặt chẽ, linh hoạt, vừa phải bảo đảm dân chủ,
quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, lợi ích Nhà nước, nhưng phải đúng
pháp luật, giữ nghiêm kỷ cương phép nước; không để kẻ xấu lợi dụng thành
vấn đề chính trị phức tạp.
Xử lý nghiêm minh đối với những cán bộ, công chức thiếu tinh thần
trách nhiệm trong việc GQKN, có hành vi tiêu cực, vi phạm quyền dân chủ
của nhân dân, lợi dụng quyền dân chủ làm trái pháp luật. Đối với người khiếu
nại đã được nhiều cấp, ngành giải quyết có lý, có tình, đúng chính sách pháp
luật, nhưng cố ý không chấp hành, lợi dụng khiếu nại để đeo bám, gây mất
trật tự xã hội, vu cáo và những kẻ kích động, cầm đầu, đứng ra tổ chức khiếu
nại trái pháp luật, thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm phải xử lý theo quy
định của pháp luật.
Trong trường hợp có sai lầm, thiếu sót từ phía chính quyền mà gây
thiệt hại đến các lợi ích hợp pháp của công dân thì chính quyền phải công
khai xin lỗi dân và kiên quyết sửa chữa, bồi thường thỏa đáng cho dân và xử
lý công khai, nghiêm minh đối với cán bộ, công chức có sai phạm.
3.2.6. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công tác chỉ
đạo, điều hành việc giải quyết khiếu nại, nâng cao trách nhiệm của các cơ
quan nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại
Thực tiễn cho thấy ở những nơi phát huy dân chủ, những việc liên
quan đến lợi ích chính đáng của người dân được công khai bàn bạc để nhân
84
dân biết và cùng thực hiện thì số lượng khiếu nại giảm phần lớn, không có
phát sinh khiếu nại, tố cáo phức tạp, đông người. Vì vậy, thực hiện đầy đủ
quy chế dân chủ ở cơ sở để mọi việc đều làm theo pháp luật có sự giám sát,
kiểm tra của quần chúng là vấn đề rất quan trọng để hạn chế với mức tối đa
việc vi phạm pháp luật, vi phạm quyền dân chủ là nguyên nhân dẫn đến khiếu
nại. Đây chính là biện pháp đi trước để GQKN phát sinh phức tạp.
Thủ trưởng các cơ quan nhà nước các ngành, các cấp phải đề cao trách
nhiệm, quan tâm chỉ đạo các ngành, các cấp, các đơn vị thuộc quyền xem xét
giải quyết kịp thời các vụ khiếu nại thuộc thẩm quyền theo đúng qui định của
Luật khiếu nại, đặc biệt là các khiếu nại phức tạp, đông người và phải chịu
trách nhiệm đối với việc GQKN, thi hành các quyết định GQKN đã có hiệu
lực pháp luật. Chính phủ cũng đã đặt ra yêu cầu đặt ra là: các cấp, các cơ quan
hành chính nhà nước phải thực hiện đầy đủ trách nhiệm và quyền hạn của
mình trong việc giải quyết khiếu kiện của dân, tích cực xử lý những vụ việc
tồn động từ trước và không để kéo dài những vụ việc mới.
Đồng thời các cơ quan, tổ chức phải thực hiện tốt Nghị quyết Trung
ương XI về xây dựng và chỉnh đốn Đảng; tiếp tục củng cố và xây dựng chính
quyền trong sạch, vững mạnh là vấn đề có ý nghĩa quyết định cho cơ quan
nhà nước có thẩm quyền kết luận và xử lý khiếu nại có lý có tình và chấm dứt
khiếu nại, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức.
85
KẾT LUẬN
Trong hệ thống các quyền con người, quyền công dân ở nước ta thì
quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân tồn tại với tư cách là "quyền bảo
vệ quyền". Thông qua việc sử dụng quyền khiếu nại, quyền tố cáo, công dân
bảo vệ được các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, xã hội, của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác. Đồng thời việc thực hiện quyền khiếu nại,
quyền tố cáo thể hiện tính dân chủ của xã hội, tích cực chính trị của công dân
trong mối quan hệ với Nhà nước, với xã hội.
Khiếu nại về đất đai là một hiện tượng xảy ra phổ biến trong xã hội,
đặc biệt khi nước ta chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước thực
hiện cơ chế quản lý mới bằng việc trả lại đất đai những giá trị vốn có thì khiếu
nại về đất đai phát sinh có xu hướng ngày càng tăng cả về số lượng cũng như
tính chất phức tạp về mặt nội dung.
Để công dân thực hiện đầy đủ quyền khiếu nại, quyền tố cáo, cũng
như để việc GQKN có hiệu lực, hiệu quả thì điều kiện quan trọng hàng đầu là
phải có một hệ thống cơ sở pháp lý phù hợp với thực tiễn, đầy đủ, đồng bộ.
Nhà nước ta đã có rất nhiều cố gắng trong việc xây dựng một hệ thống cơ sở
pháp lý cho quyền khiếu nại, quyền tố cáo của công dân cũng như quan tâm
tới việc GQKN của công dân.
Pháp luật GQKN về đất đai là một bộ phận quan trọng của pháp luật
về khiếu nại, pháp luật về đất đai nói riêng và hệ thống pháp luật Việt Nam
nói chung. Hệ thống pháp luật GQKN về đất đai quy định trình tự, thủ tục,
thẩm quyền GQKN về đất đai, các nguyên tắc và căn cứ GQKN về đất đai...
Hệ thống pháp luật này được xây dựng và phát triển dựa trên nền tảng là cơ
sở kinh tế của xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các quan hệ kinh tế
vận động và phát triển không ngừng đòi hỏi pháp luật GQKN về đất đai cũng
phải thường xuyên được sửa đổi, bổ sung, nhằm đáp ứng được các yêu cầu
của quản lý và SDĐ.
86
Trước sự phức tạp của các khiếu nại hiện nay, pháp luật về khiếu nại
có nhiều điểm tỏ ra còn bất cập chưa tương xứng với vai trò của mình đã làm
hạn chế không nhỏ tới việc công dân thực hiền quyền khiếu nại của mình.
Xuất phát từ những những yêu cầu và đòi hỏi của tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam
XHCN và từ nhược điểm của pháp luật về khiếu nại cho thấy việc tiếp tục
hoàn thiện pháp luật về khiếu nại là vấn đề có ý nghĩa rất lớn cả về lý luận và
thực tiễn trong giai đoạn hiện nay và cả thời gian dài về sau.
Do vậy, việc nghiên cứu nhằm chỉ ra những mặt tồn tại, hạn chế, bất
cập của pháp luật GQKN về đất đai, để trên cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm
không ngừng hoàn thiện chế định này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Việc "nhận dạng" bản chất của khiếu nại về đất đai có ý nghĩa quan
trọng, song điều quan trọng hơn là phải xác lập được một cơ chế GQKN về
đất đai thích hợp, nhằm xử lý dứt điểm, nhanh chóng các khiếu nại về đất đai
góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và duy trì sự ổn định xã hội.
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2014), Báo cáo số 47/BC-BTNMT ngày
17/7/2014 về thống kê diện tích đất năm 2013, Hà Nội.
2. Chính phủ (2012), Chỉ thị số 14/CT-TTg ngày 18/5/2012 của Thủ tướng
Chính phủ về việc chấn chỉnh và nâng cao hiệu quả tiếp công dân,
giải quyết khiếu nại, Hà Nội.
3. Chính phủ (2012), Nghị định số 75/2012/NĐ-CP ngày 03/10/2012 quy
định chi tiết một số điều của Luật Khiếu nại, Hà Nội.
4. Chính phủ (2014), Nghị định số 43/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013, Hà Nội.
5. Chính phủ (2014), Nghị định số 44/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 quy định
về giá đất, Hà Nội.
6. Chỉnh phủ (2014), Nghị định số 45/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2013 quy định
về thu tiền sử dụng đất, Hà Nội.
7. Chính phủ (2014), Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2013 quy định
về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước, Hà Nội.
8. Chính phủ (2014), Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2013 quy định
về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày
24/5/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định hướng năm 2020,
Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Thông báo Kết luận số 130-TB/TW ngày
10/01/2008 của Bộ Chính trị về tình hình, kết quả giải quyết khiếu
nại từ năm 2006 đến nay và giải pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
88
12. Trần Ngân Hà (2013), Pháp luật về giải quyết khiếu nại tố cáo ở Việt
Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
13. Nguyễn Thị Lệ Hằng (2010), Giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực quản lý đất
đai của Ủy ban nhân dân cấp huyện thuộc tỉnh Khánh Hòa, Luận văn
thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
14. Học viện Hành chính (2009), Giáo trình Luật đất đai và quản lý nhà nước
về đất đai, Hà Nội.
15. Học viện Hành chính quốc gia (1997), Giáo trình lịch sử Nhà nước và
pháp luật Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Học viện Hành chính Quốc gia (2002), Thuật ngữ hành chính, Hà Nội.
17. Học viện Hành chính Quốc gia (2005), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Học viện Hành chính Quốc gia (2005), Giáo trình Lý luận Nhà nước và
pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Hội đồng Bộ trưởng (1982), Nghị định số 58/HĐBT ngày 29/3/1982 về
việc thi hành Pháp lệnh Pháp lệnh qui định việc xét, giải quyết khiếu
nại của công dân, Hà Nội.
20. Hội đồng Nhà nước (1981), Pháp lệnh qui định việc xét, giải quyết khiếu
nại của công dân, Hà Nội.
21. Hội đồng Nhà nước (1991), Pháp lệnh khiếu nại của công dân, Hà Nội.
22. Trần Huy Hoàng (2012), Quản lý nhà nước đối với đất đai ở Hà Nội hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính
Quốc gia, Hà Nội.
23. Nguyễn Tuấn Khanh (2008), "Việc áp dụng pháp luật để giải quyết khiếu
nại về đất đai", Tạp chí Thanh tra, (5).
24. Phạm Văn Long (2005), Việc thực hiện thẩm quyền giải quyết của thủ
trưởng cơ quan nhà nước và trách nhiệm của các cơ quan thanh tra
nhà nước trong giải quyết khiếu nại hành chính, Đề tài khoa học cấp Bộ.
89
25. C. Mác - Ph. Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
26. Doãn Hồng Nhung (2014), Kỹ năng áp dụng pháp luật trong giải quyết
tranh chấp đất đai ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
27. Nguyễn Ngọc Phi (2015), Giải quyết khiếu nại về đất đai trên địa bàn
huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành
chính công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Thị Phượng (2007), "Những bất cập trong quản lý nhà nước về
đất đai hiện nay", Quản lý nhà nước, (134).
29. Quốc hội (1945), Hiến pháp, Hà Nội.
30. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội.
31. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội.
32. Quốc hội (1987), Luật Đất đai, Hà Nội.
33. Quốc hội (1992), Hiến pháp, Hà Nội.
34. Quốc hội (1993), Luật Đất đai, Hà Nội.
35. Quốc hội (1998), Luật khiếu nại, Hà Nội.
36. Quốc hội (2003), Luật Đất đai, Hà Nội.
37. Quốc hội (2011), Luật Khiếu nại, Hà Nội.
38. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
39. Quốc hội (2013), Luật Đất đai, Hà Nội.
40. Nguyễn Thị Phương Thủy (2012), Nâng cao hiệu quả quản lý đất đai theo
yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ
thực tiễn của thủ đô Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính
công, Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
41. Ngô Mạnh Toan (2005), Xây dựng quy trình giải quyết khiếu nại hành
chính, Đề tài khoa học cấp cơ sở.
42. Phạm Anh Tuấn (2011), Cơ chế giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt
Nam hiện nay và vấn đề hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
90
43. Đỗ Văn Tuấn (2013), Thẩm quyền giải quyết khiếu nại đất đai của cơ
quan hành chính nhà nước, thực tiễn tại tỉnh Hưng Yên, Luận văn
thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính, Hà Nội.
44. Viện Khoa học thanh tra, Thanh tra Chính phủ ((2012), Khiếu nại hành
chính và giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam hiện nay, Hà Nội.
45. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (1998), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 3,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
46. Nguyễn Cửu Việt (2000), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Đại
học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_phap_luat_giai_quyet_khieu_nai_ve_dat_dai_tu_thuc_t.pdf