Luận văn Pháp luật quản lý về hộ tịch - Từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội

Với tính cách là một hoạt động thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của nhà nước, quản lý hộ tịch có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển xã hội. Nhìn từ khía cạnh khác, mối quan hệ giữa nhà nước và công dân thể hiện qua các quy định pháp luật về đăng ký hộ tịch phản ánh một cách tập trung, sinh động, khách quan các giá trị dân chủ trong một nhà nước “của dân, do dân, vì dân”. Trong xu hướng xây dựng xã hội dân chủ và nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay, người dân có quyền đòi hỏi và nhà nước có trách nhiệm phải tổ chức phục vụ việc đăng ký hộ tịch của người dân một cách thuận tiện, nhanh chóng theo mô hình của một loại dịch vụ công thiết yếu. Nhìn vào thực trạng quản lý hộ tịch ở nước ta và đặt trong sự so sánh với các quốc gia trong khu vực, chúng ta không thể không quan ngại trước không ít những bất cập của thực tiễn, cả về nhận thức và hành động, cả về pháp luật và năng lực quản lý. Từ nhiều năm trước đây thì đến nay ở nước ta, mặc dù hoạt động quản lý hộ tịch đã có quá trình phát triển hơn nửa thế kỷ nhưng việc quản lý “đầy đủ, chính xác, kịp thời” các thông tin hộ tịch vẫn là mục tiêu đầy khó khăn đặt ra đối với các cơ quan quản lý. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng từ khi Chính phủ ban hành Nghị định 83/1998/NĐ-CP, hoạt động quản lý hộ tịch đã có những bước phát triển nhanh chóng và đạt được nhiều thành tựu quan trọng, từng bước đưa lĩnh vực quản lý này đi vào nền nếp, tạo nền tảng cần thiết cho bước phát triển mới. Với nhận thức ngày càng đầy đủ, toàn diện hơn, việc hoàn thiện pháp luật về quản lý hộ tịch ngày càng được quan tâm đúng mức nhằm thiết lập cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các giải pháp cần thiết vào việc đổi mới quản lý hộ tịch. Trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đang giành nhiều tâm sức cho nỗ lực xây dựng một nền hành chính dân chủ, hiệu quả, hiện đại, việc đổi mới87 hoạt động quản lý hộ tịch cần được tiến hành một cách khẩn trương, tích cực. Để đổi mới, nâng cao hiệu quả của lĩnh vực công tác này, việc triển khai và áp dụng đồng bộ các giải pháp về pháp lý, quản lý, cán bộ, công nghệ có ý nghĩa rất quan trọng quyết định tính khả thi và hiệu quả thực tế. Tuy nhiên, từ thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội nói chung và thực trạng quản lý hộ tịch nói riêng, cần xác định và ưu tiên thực hiện việc đổi mới pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực hoạt động và tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ quản lý; đồng thời có lộ trình phù hợp để đổi mới các yếu tố kỹ thuật trong phương thức quản lý, ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng hệ cơ sở dữ liệu thông tin về hộ tịch. Mặt khác, việc thực hiện các giải pháp để đổi mới quản lý hộ tịch cũng cần tính đến các yếu tố đặc thù của khách thể quản lý ở các khu vực địa lý dân cư khác nhau như đô thị, nông thôn; đồng bằng, miền núi, khu vực đồng bào dân tộc thiểu số

pdf96 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 898 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật quản lý về hộ tịch - Từ thực tiễn quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o vệ trƣớc mọi xâm hại. Quản lý xã hội bằng pháp luật là yêu cầu tất yếu khách quan trong điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN ở nƣớc ta hiện nay. Nâng cao dân trí, hiểu biết pháp luật và hành vi xử sự theo pháp luật của các đối tƣợng trong xã hội là yêu cầu quan trọng của Nhà nƣớc. Yêu cầu xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế đòi hỏi việc thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch phải đƣợc tăng cƣờng thƣờng xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn, cần thiết phải đƣợc tiến hành toàn diện đối với mọi đối tƣợng trong xã hội nhằm xây dựng môi trƣờng trong đó mọi ngƣời đều hiểu biết và tôn trọng, thực hiện đúng quy định của pháp luật. Muốn hệ thống pháp luật hoàn thiện và có hiệu lực trên thực tế, tạo lập mối quan hệ hài hoà giữa Nhà nƣớc và công dân, các quyền tự do, dân chủ đƣợc bảo đảm, bộ máy nhà nƣớc đƣợc tổ chức và vận hành một cách có hiệu quả, thì điều kiện tiên quyết là phải có sự hiện diện của pháp luật ở mọi nơi, văn hoá pháp lý của đội ngũ công chức và nhân dân phải cao. Tuy nhiên, đây là một vấn đề hết sức phức tạp, để đáp ứng đƣợc các điều kiện xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam, thì pháp luật về quản lý hộ tịch phải không ngừng đƣợc hoàn thiện, không ngừng đƣợc đổi mới. Với mục tiêu đó, yêu cầu chung đặt ra đối với việc thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trong thời gian tới phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, liên tục và kịp thời, đầy đủ những nội dung pháp luật về quản lý hộ tịch có liên quan; chú trọng xây dựng các quy định pháp luật cụ thể để nâng cao tính hƣớng dẫn thực hiện. Đồng thời, việc thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch phải đáp ứng yêu cầu hội 63 nhập quốc tế, thể hiện sự tôn trọng và quyết tâm thực hiện các cam kết quốc tế Việt Nam đã ký kết khi gia nhập WTO trong việc công khai, minh bạch các chủ trƣơng, chính sách của Nhà nƣớc để các CQHCNN, các tổ chức, cá nhân đều có quyền và đƣợc tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiếp cận thông tin về chính sách, pháp luật. 3.1.2. Thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch phải đề cao quyền con người, quyền, nghĩa vụ cơ bản của công dân Xã hội văn minh ngày càng đề cao con ngƣời - bao gồm cả quyền chính trị, quyền dân sự và quyền xã hội - nhƣ là trung tâm, động lực và mục tiêu của phát triển. Vì vậy, quyền con ngƣời, quyền công dân, là vấn đề quan trọng, là nội dung cơ bản của bất kỳ một bản Hiến pháp nào trên thế giới. Ở nƣớc ta, Hiến pháp 2013 ra đời đã phản ánh đƣợc ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nƣớc và chế độ trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đã thể chế hóa đầy đủ hơn, sâu sắc hơn quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về đề cao chủ quyền nhân dân, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và đảm bảo tất cả quyền lực Nhà nƣớc thuộc về nhân dân. Mặt khác, đề cao nhân tố con ngƣời, coi con ngƣời là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Quyền con ngƣời, quyền công dân là giá trị cốt lõi của nhân loại, phải đƣợc bảo đảm ngày một tốt hơn, đây là tiêu chí cho cuộc chạy đua của tất cả các dân tộc, các chế độ xã hội. Và mục đích tối thƣợng của Hiến pháp là đƣợc sinh ra để đảm bảo quyền con ngƣời, quyền công dân. Hiến định quyền con ngƣời trong Hiến pháp 2013 là sự tiếp nối logic và tạo nền tảng pháp lý cao nhất để bảo đảm quyền con ngƣời đƣợc hiện thực hóa đầy đủ trong thực tiễn nhƣ là nội dung, mục tiêu và động lực mới cho phát triển. Một điểm rất mới trong Hiến pháp 2013 là đã không còn các quy định theo cách thức đƣợc Nhà 64 nƣớc thừa nhận các quyền con ngƣời, mà quyền con ngƣời ở đây đƣợc hƣởng một cách mặc nhiên và Nhà nƣớc phải có trách nhiệm đảm bảo cũng nhƣ phải bảo vệ cho những quyền đó đƣợc thực hiện trên thực tế. Luật Hộ tịch là đạo luật quan trọng liên quan đến việc bảo đảm thực hiện quyền con ngƣời, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có văn bản ở tầm Luật để điều chỉnh riêng về lĩnh vực hộ tịch, sau nhiều năm điều chỉnh bằng các Nghị định của Chính phủ. So với quy định pháp luật hộ tịch hiện hành, Luật hộ tịch có nhiều nội dung mới mang tính đột phá, cải cách mạnh mẽ công tác đăng ký, quản lý hộ tịch nói riêng và quản lý dân cƣ nói chung. có thể coi đây là cuộc “cách mạng” trong công tác đăng ký, quản lý hộ tịch nói riêng và quản lý dân cƣ nói chung, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ công tác này theo hƣớng từng bƣớc chuyên nghiệp, phù hợp với yêu cầu phát triển đất nƣớc trong thời kỳ mới. Pháp luật quản lý về hộ tịch ở nƣớc ta hiện nay đã mở rộng dân chủ và tính công khai trong hoạt động quản lý nhà nƣớc về hộ tịch. Loại bỏ những thủ tục hành chính gây phiền hà cho ngƣời dân, đoạn tuyệt triệt để với những tàn dƣ của căn bệnh quan liêu, cửa quyền trong giải quyết các vấn đề hộ tịch của ngƣời dân; xây dựng các thủ tục hành chính mới theo hƣớng công khai, đơn giản và thuận tiện cho dân.Thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch còn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc ở chỗ, nó tạo cho mọi ngƣời dân những cơ hội ngang nhau trong việc thụ hƣởng tốt nhất dịch vụ đăng ký hộ tịch trong một nền hành chính phục vụ. Pháp luật quản lý về hộ tịch không chỉ thiết lập các nguyên tắc cơ bản của hoạt động quản lý hộ tịch mà còn ấn định những cách thức, thủ tục để các cơ quan hành chính phục vụ quyền đăng ký hộ tịch của ngƣời dân, sẽ là biểu hiện cao độ của việc chăm lo chu đáo đến quyền lợi của ngƣời dân, sẽ loại trừ 65 đƣợc những nhũng nhiễu mang tính ban phát, tiêu cực trong đăng ký hộ tịch hiện nay. 3.1.3. Thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch phải bảo đảm phù hợp với các quy định pháp luật có liên quan Quản lý hộ tịch là chức năng quan trọng của Nhà nƣớc và đƣợc thực hiện bởi nhiều cơ quan khác nhau. Thông qua hoạt động quản lý hộ tịch có thể đánh giá việc thực hiện chức năng xã hội và bản chất dân chủ của nhà nƣớc. Hộ tịch là những sự kiện cơ bản xác định tình trạng nhân thân của một ngƣời từ khi sinh ra đến khi chết. Vì vậy, công tác quản lý về hộ khẩu, hộ tịch có mối quan hệ mật thiết với quản lý nhà nƣớc thuộc các lĩnh vực của các ngành khác nhƣ: quản lý CMND, quản lý DS-KHHGĐ, các văn bằng, chứng chỉ, hồ sơ CBCC và BHXH... Thực hiện tốt công tác đăng ký và quản lý hộ tịch giúp xác định các thông tin về nhân thân của một con ngƣời; đồng thời giúp cho cơ quan chức năng phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý kịp thời những cá nhân cố tình chỉnh sửa các giấy tờ hộ khẩu, hộ tịch để trốn tránh nghĩa vụ hoặc trốn tránh xử lý của pháp luật... Những vấn đề về hộ tịch đƣợc xếp vào các lĩnh vực khác nhau, cái thì thuộc nhóm lĩnh vực về quyền con ngƣời, cái thì thuộc lĩnh vực xã hội, cái thì thuộc lĩnh vực an ninh-quốc phòng. Do cách sắp xếp nhƣ vậy nên Chính phủ cũng phân công các cơ quan khác nhau chủ trì xây dựng dự án: Bộ Tƣ pháp, Bộ Công an, Bộ Y tế, đồng thời UBTVQH cũng phân công các cơ quan chủ trì thẩm tra khác nhau: Ủy ban Pháp luật, Ủy ban Quốc phòng - an ninh, Ủy ban về các vấn đề xã hội. Hiện nay, việc thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch đặt trong mối quan hệ mật thiết với nhiều văn bản pháp luật khác nhau đòi hỏi sự đồng bộ, thống nhất cao. Có thể kể đến đó là: Hiến pháp năm 2013, Luật Quốc tịch, 66 Luật Nuôi con nuôi, Luật hôn nhân và gia đình, Bộ Luật Dân sự, Luật Căn cƣớc công dân,Luật Dân số. 3.2. Giải pháp chung bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch 3.2.1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật phù hợp với Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành Sự ra đời của Luật Hộ tịch 2014 đánh dấu bƣớc phát triển mới trong lịch sử phát triển của pháp luật quản lý về hộ tịch ở nƣớc ta. Đến nay, để pháp luật quản lý về hộ tịch thực sự đi vào thực tiễn cuộc sống thì các cơ quan chức năng cần khẩn trƣơng hoàn thành việc ban hành các văn bản hƣớng dẫn thi hành Luật Hộ tịch. Theo Kế hoạch triển khai thi hành Luật Hộ tịch 2014 đến ngày 1/1/2016 khi Luật Hộ tịch có hiệu lực các Bộ, ngành trình Chính phủ ban hành 3 Nghị định và ban hành theo thẩm quyền 2 Thông tƣ, 1 Thông tƣ liên tịch. Nhƣng cho đến nay chúng ta mới chỉ ban hành đƣợc 1 Nghị định và 1 Thông tƣ, đó là: Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật hộ tịch. Thông tƣ quy định chi tiết một số điều của Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật hộ tịch; ban hành, hƣớng dẫn sử dụng, quản lý Sổ hộ tịch, Giấy khai sinh, Giấy chứng nhận kết hôn, trích lục hộ tịch và các biểu mẫu hộ tịch khác; điều kiện, trình tự đăng ký khai sinh, kết hôn, khai tử lƣu động; ủy quyền thực hiện đăng ký hộ tịch. Chúng ta vẫn còn thiếu Nghị định quy định về thủ tục cấp Số định danh cá nhân cho trẻ em khi đăng ký khai sinh; việc kết nối, cung cấp, trao đổi thông tin giữa Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ. Tại Điều 14 Luật Hộ tịch quy định “Chính phủ quy định việc cấp Số định danh cá nhân cho người được đăng ký khai sinh”. Tại Điều 12 Luật căn cƣớc công dân quy định “Số định danh cá nhân do Bộ Công an thống nhất quản lý trên toàn quốc và cấp cho mỗi công dân Việt Nam”, “Chính phủ quy 67 định cấu trúc số định danh cá nhân; trình tự, thủ tục cấp số định danh cá nhân”. Để bảo đảm thực hiện thống nhất Luật hộ tịch và Luật căn cƣớc công dân trong việc cấp Số định danh cá nhân, Kế hoạch giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với Bộ Tƣ pháp và các Bộ, ngành có liên quan xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định trong đó có nội dung quy định về thủ tục cấp Số định danh cá nhân cho trẻ em khi đăng ký khai sinh; việc kết nối, cung cấp, trao đổi thông tin giữa Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ. Và Nghị định quy định việc quản lý, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử và đăng ký hộ tịch trực tuyến. Để thực hiện Khoản 2 Điều 59 Luật Hộ tịch “Chính phủ quy định sự phối hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ và trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc quản lý, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử”, Kế hoạch giao Bộ Tƣ pháp chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, cơ quan xây dựng trình Chính phủ ban hành Nghị định quy định về việc quản lý, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử; thủ tục đăng ký hộ tịch trực tuyến, cũng nhƣ sự phối hợp giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ và trách nhiệm của Ủy ban nhân dân các cấp trong việc quản lý, sử dụng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử. Bên cạnh đó, để thực hiện Khoản 2 Điều 11 của Luật hộ tịch, Kế hoạch giao Bộ Tài chính ban hành Thông tƣ quy định chi tiết thẩm quyền thu, mức thu, nộp, chế độ quản lý và sử dụng lệ phí hộ tịch; thời gian ban hành trƣớc tháng 10/2015. Để thực hiện Khoản 2 Điều 53 của Luật hộ tịch, Kế hoạch giao Bộ Ngoại giao chủ trì phối hợp với Bộ Tƣ pháp và các Bộ, ngành liên quan xây dựng Thông tƣ liên tịch giữa Bộ Ngoại giao và Bộ Tƣ pháp quy định chi tiết, hƣớng dẫn về thẩm quyền, thủ tục đăng ký hộ tịch của Cơ quan đại diện, cấp bản sao trích lục hộ tịch cho công dân Việt Nam cƣ trú ở nƣớc ngoài; thời gian ban hành trƣớc tháng 10 năm 2015. 68 Tổ chức rà soát các văn bản pháp luật hiện hành liên quan đến Luật Hộ tịch, trên cơ sở đó đề xuất sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới để bảo đảm thi hành hiệu quả Luật Hộ tịch. Về thủ tục đăng ký hộ tịch: Theo quy định tại Luật Hộ tịch năm 2014, thủ tục đăng ký hộ tịch đƣợc đơn giản, tạo nhiều thuận lợi cho ngƣời dân nhƣ: Giảm nhiều giấy tờ không cần thiết, tăng cƣờng xuất trình bản chính giấy tờ, hạn chế tối đa việc sao chụp, đặc biệt quy định chỉ cấp 02 loại bản chính Giấy khai sinh và Giấy chứng nhận kết hôn, còn các sự kiện hộ tịch khác sau khi hoàn tất thủ tục đăng ký, ngƣời yêu cầu đăng ký hộ tịch đƣợc cấp trích lục hộ tịch tƣơng ứng với từng sự kiện hộ tịch đã đăng ký, bản chính trích lục hộ tịch đƣợc chứng thực bản sao. Giảm thời hạn giải quyết đối với hầu hết các việc hộ tịch, những việc hộ tịch đơn giản, Luật quy định đƣợc giải quyết ngay trong ngày, trƣờng hợp nhận hồ sơ sau 15 giờ mà không giải quyết đƣợc ngay thì trả kết quả trong ngày làm việc tiếp theo. Ngƣời dân có thể lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch mà không phụ thuộc vào nơi cƣ trú nhƣ trƣớc đây: Có thể lựa chọn đăng ký hộ tịch tại cơ quan đăng ký hộ tịch nơi thƣờng trú, tạm trú hoặc nơi đang sinh sống, không nhất thiết phải theo thứ tự ƣu tiên nơi đăng ký thƣờng trú. Bên cạnh đó, Luật cũng cho phép đƣợc lựa chọn đăng ký khai sinh tại Ủy ban nhân dân nơi cƣ trú của cha hoặc mẹ thay vì quy định ƣu tiên nơi cƣ trú của mẹ nhƣ trƣớc. Việc nộp hồ sơ đăng ký hộ tịch có thể lựa chọn nộp trực tiếp cho cơ quan đăng ký hộ tịch hoặc gửi qua bƣu chính hoặc qua hệ thống đăng ký trực tuyến. Khi Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ và Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử đƣợc hoàn thành và liên thông với nhau thì việc giải quyết các vấn đề hộ tịch qua hệ thống đăng ký hộ tịch trực tuyến sẽ bảo đảm nhanh chóng, gọn nhẹ và giảm thiểu chi phí, thời gian trong thực hiện thủ tục hành chính về hộ tịch 69 Tuy nhiên, những quy định của Luật Hộ tịch năm 2014 về thủ tục đăng ký hộ tịch cũng sẽ nảy sinh một số vấn đề: Việc quy định đƣợc lựa chọn nơi đăng ký hộ tịch tạo ra áp lực không nhỏ đối với cơ quan hộ tịch ở những địa phƣơng mà có nhiều ngƣời tạm trú, ngƣời đang sinh sống không có hộ khẩu thƣờng trú. Đây là điều mà Ủy ban nhân dân cấp xã nhiều địa phƣơng đang rất lo lắng. Theo đó, không những lƣợng công việc sẽ tăng lên đáng kể, mà độ phức tạp của công việc cũng vì thế mà tăng theo. Những ngƣời không có hộ khẩu thƣờng trú sẽ dễ thƣờng xuyên biến động, gây khó khăn cho công tác quản lý cũng nhƣ thực hiện việc đăng ký hộ tịch. Với tình trạng cán bộ và lƣợng công việc nhƣ hiện nay, thì quy định giảm thời hạn giải quyết đăng ký hộ tịch sẽ khó tránh khỏi việc trễ hẹn, tạo sự bức xúc cho ngƣời dân. Quy định rút ngắn thời hạn là quy định tích cực, mang tính cải cách thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho ngƣời dân, nhƣng cùng với đó thì chúng ta cũng cần phải giải quyết phù hợp về số lƣợng, về khoản bồi dƣỡng cho cán bộ để khuyến khích họ tâm huyết, nhiệt tình giải quyết tốt công việc. Thói quen của ngƣời đi đăng ký khai sinh thƣờng là đồng thời đăng ký hộ khẩu thƣờng trú tại nơi đó, nên khi quy định về việc đƣợc đăng ký khai sinh tại cơ quan đăng ký nơi tạm trú, nơi đang sinh sống thì nhiều khi ngƣời dân chỉ thực hiện đăng ký khai sinh mà quên làm thêm thủ tục về nơi đăng ký hộ khẩu thƣờng trú. Việc quy định yêu cầu ngƣời đi đăng ký hộ tịch ký tên vào Sổ hộ tịch trong trƣờng hợp nộp hồ sơ qua bƣu chính, hệ thống trực tuyến mà không trực tiếp đi đăng ký cũng gây lúng túng cho cơ quan, cán bộ hộ tịch nếu không có hƣớng dẫn cụ thể. 70 Những khó khăn trên đòi hỏi cán bộ hộ tịch phải rất linh hoạt, có trách nhiệm thì mới có thể giải quyết những tốt việc hộ tịch, tạo thuận lợi cho ngƣời dân. 3.2.2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành với nội dung và hình thức phù hợp, nâng cao nhận thức, hiểu biết của nhân dân Công tác đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch không những liên quan đến nhân thân của con ngƣời mà còn liên quan đến chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan Nhà nƣớc, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nƣớc quản lý. Để Luật Hộ tịch và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan sau khi có hiệu lực đƣợc đi vào thực tiễn cuộc sống, cả hệ thống chính trị nói chung và với vai trò là cơ quan Thƣờng trực Hội đồng Phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật của tỉnh; các cơ quan Tƣ pháp từ cấp tỉnh đến cơ sở phải chủ động tham mƣu cho cấp ủy, chính quyền cùng cấp tập trung chỉ đạo kịp thời công tác này trên địa bàn tỉnh, với nhiều hình thức tuyên truyền phong phú, đa dạng, gắn kết với việc tuyên truyền các chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc, các nhiệm vụ kinh tế - xã hội đến nhân dân, góp phần nâng cao nhận thức pháp luật, duy trì trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trƣờng ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội; Phƣơng châm của các cơ quan có thẩm quyền thực hiện công tác quản lý hộ khẩu, hộ tịch của Nhà nƣớc là phải thuận tiện, dễ dàng cho nhân dân, đồng thời phải đảm bảo việc đăng ký đầy đủ, chính xác, kịp thời và đúng quy định của pháp luật. Do đó để làm tốt cộng tác này, các cơ quan có thẩm quyền phải làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về hộ khẩu, hộ tịch cho nhân dân, giúp mọi ngƣời hiểu rõ việc đăng ký hộ khẩu, hộ tịch là chấp hành pháp luật Nhà nƣớc, đồng thời cũng bảo đảm quyền lợi công dân. 71 Các hình thức, biện pháp tuyên truyền đƣợc vận dụng linh hoạt, sáng tạo, chú trọng ứng dụng công nghệ hiện đại, sáng kiến hình thức tuyên truyền mới phù hợp. Tiếp tục sử dụng các hình thức tuyên truyền truyền thống nhƣ tuyên truyền miệng, tuyên truyền thông qua phƣơng tiện thông tin đại chúng, thông qua tài liệu tuyên truyền (Đề cƣơng giới thiệu, phổ biến các văn bản luật, pháp lệnh; Sách hỏi - đáp pháp luật; Tờ rơi, tờ gấp pháp luật; Đặc san tuyên truyền pháp luật; Các loại băng tiếng, băng hình với các nội dung pháp luật đơn giản, ngắn gọn và các cuộc nói chuyện về pháp luật ) và khéo léo kết hợp với các hình thức tuyên truyền khác nhƣ các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, các hình thức thi sân khấu hoá, lồng ghép trong các cuộc giao lƣu văn hoá, văn nghệ, tƣ vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý... Hệ thống đài phát thanh hầu hết các phƣờng đều có chƣơng trình, chuyên mục phát thanh pháp luật. Bên cạnh đó, các hội thi "Hoà giải viên giỏi", "Tuyên truyền viên pháp luật giỏi", "Công chức Tƣ pháp-Hộ tịch giỏi"cũng đã đƣợc nhân rộng trên địa bàn Quận. Quận cần có có tủ sách pháp luật và sự hoạt động có hiệu quả của các câu lạc bộ pháp luật, trợ giúp pháp lý. Với nhiều hình thức tuyên truyền phong phú nhƣ trên, các địa phƣơng có thể áp dụng nhiều hình thức để triển khai, phổ biến Luật Hộ tịch đến tận cơ sở, đáp ứng nhƣ cầu thiết yếu của cuộc sống dân cƣ. Về phƣơng pháp tuyên truyền, ngoài việc đổi mới nội dung tuyên truyền phổ biến quy định pháp luật quy định về quyền lợi của ngƣời dân trong xã hội theo phƣơng châm thiết thực, hƣớng về cơ sở thì cần đổi mới cách thức tuyên truyền tạo ra sự chuyển biến trong nhận thức của ngƣời dân về việc đăng ký hộ khẩu, hộ tịch từ đó sẽ nâng cao ý thức tự giác của ngƣời dân chủ động liên hệ cơ quan có thẩm quyền đăng ký hộ khẩu, hộ tịch. Nếu thực hiện tốt việc này sẽ giảm áp lực cho cán bộ công chức đồng thời nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nƣớc về công tác hộ khẩu, hộ tịch. Đƣa nội dung hộ khẩu, hộ tịch vào 72 chƣơng trình giáo dục phổ thông cấp 2, 3 nhằm giáo dục ý thức của trẻ em, thanh thiếu niên trong chấp hành tốt quy định pháp luật vê hộ khẩu, hộ tịch. Nhận thức đƣợc vị trí và vai trò quan trọng của công tác đăng ký và quản lý hộ khẩu, hộ tịch mà trong thời gian qua từ khi thực hiện các Luật Hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng đã có nhiều chuyển biến tích cực, các sự kiện đăng ký hộ khẩu, hộ tịch của nhân dân cơ bản đƣợc thực hiện kịp thời và đúng quy định của pháp luật; công tác phổ biến giáo dục pháp luật về hộ khẩu, hộ tịch đƣợc chú trọng triển khai đến tận cơ sở. Nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật về hộ khẩu, hộ tịch của nhân dân đƣợc nâng lên; đội ngủ cán bộ làm công tác hộ tịch cơ sở đƣợc quan tâm, củng cố về số lƣợng và kỹ năng thực hiện nghiệp vụ; các loại sổ sách, biễu mẫu hộ tịch đƣợc hỗ trợ và cung cấp kịp thời đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nƣớc. 3.2.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong đăng ký và quản lý hộ tịch Việc ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng phần mềm đăng ký hộ tịch là biện pháp số hóa (điện tử hóa) thông tin hộ tịch của cá nhân, trong đó có thông tin khai sinh - là thông tin hộ tịch gốc. Theo Đề án 896, Luật Hộ tịch, Luật Căn cƣớc công dân, đây là thông tin đầu vào của Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ. Bên cạnh đó, những thông tin hộ tịch khác về kết hôn, ly hôn, thay đổi cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, khai tử... đƣợc cập nhật vào hệ thống dữ liệu, đƣợc coi là thông tin “động”, có giá trị làm cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ luôn sống. Vì vậy, việc xây dựng Cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử toàn quốc-cơ sở trung tâm để kết nối, tiếp nhận, liên thông với toàn bộ cơ sở hộ tịch điện tử từ các địa phƣơng trên cả nƣớc - nhằm lƣu giữ tập trung, kết nối, chia sẻ và cung cấp thông tin cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cƣ, là yêu cầu cốt lõi, là điều kiện không thể thiếu mà bất cứ phần mềm đăng ký hộ tịch nào cũng phải đáp ứng đƣợc. 73 3.2.4. Kiện toàn đội ngũ công chức làm công tác Hộ tịch bảo đảm đủ tiêu chuẩn được quy định trong Luật Hộ tịch Khi triển khai thi hành Luật Hộ tịch năm 2014, công tác cán bộ là vấn đề đặc biệt quan trọng, ở chừng mực nào đó đƣợc coi là vấn đề mấu chốt ảnh hƣởng tới hiệu quả của việc triển khai, thực hiện. Luật Hộ tịch quy định theo hƣớng tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho ngƣời dân nhƣng song song với đó thì nó cũng sẽ tạo ra những áp lực cho các cơ quan, cán bộ thực hiện công tác hộ tịch. Do việc tiếp nhận thêm nhiều việc, cũng nhƣ những quy định về tạo điều kiện cho ngƣời dân đƣợc lựa chọn cơ quan đăng ký hộ tịch, thời hạn giải quyết rút ngắn nên không thể tránh khỏi yêu cầu về tăng cƣờng số lƣợng công chức Tƣ pháp - Hộ tịch. Tuy nhiên, theo điều kiện cần phải tinh giản biên chế nhƣ hiện nay, việc bổ sung thêm biên chế là rất khó khăn. Trong khi công chức Tƣ pháp - Hộ tich ngoài thực hiện công tác tƣ pháp, có khi còn phải kiêm nhiệm thêm nhiều công việc khác nữa. Điều này dễ dẫn đến tình trạng quá tải trong công việc gây ảnh hƣởng đến tiến độ, chất lƣợng của công việc và cũng sẽ cản trở việc học tập, trau dồi nâng cao kiến thức của các cán bộ. Theo thống kê cho thấy cả nƣớc hiện có 3.150 công chức làm công tác Hộ tịch tại Phòng Tƣ pháp của 704 đơn vị cấp huyện trên cả nƣớc (trung bình 4,47 ngƣời/1 Phòng TP). Tuy nhiên, xuất phát từ sự phân bố dân cƣ, nhu cầu công việc và tình hình cụ thể tại mỗi địa phƣơng nên sự phân bổ biên chế tại các Phòng Tƣ. Về chất lƣợng, công chức Tƣ pháp - Hộ tịch cần đƣợc chuẩn hóa theo quy định tại Điều 72 Luật Hộ tịch năm 2014. Theo đó, công chức Tƣ pháp - Hộ tịch cấp xã phải có có trình độ từ trung cấp Luật trở lên và đã đƣợc bồi dƣỡng nghiệp vụ hộ tịch; công chức làm công tác Hộ tịch tại Phòng Tƣ pháp phải có trình độ cử nhân luật trở lên và đã đƣợc bồi dƣỡng nghiệp vụ Hộ tịch. 74 Đối với một số địa phƣơng, đây không phải là vấn đề lo ngại, bởi hầu hết các cán bộ đều đạt đƣợc tiêu chuẩn này hoặc tại địa phƣơng đã có trƣờng trung cấp luật, trƣờng đại học đào tạo ngành luật nên sẽ tạo thuận lợi hơn cho việc đào tạo, bồi dƣỡng. Tuy nhiên, đối với nhiều địa phƣơng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, những nơi trình độ dân trí thấp, kinh tế kém phát triển, những địa phƣơng nhân lực vốn đã, đang bị quá tải trong công việc thì vấn đề bồi dƣỡng để chuẩn hóa đội ngũ cán bộ theo quy định của Luật không phải đơn giản, sẽ khó khăn từ bố trí thời gian, bố trí ngƣời thay thế, kinh phí hiện có 2.455/3.150 công chức làm công tác Hộ tịch cấp huyện có trình độ đại học luật trở lên (chiếm tỷ lệ gần 78%). Nhƣ vậy còn tới 700 ngƣời (tức 22%) trên tổng cán bộ công chức làm công tác Hộ tịch cấp huyện hiện nay chƣa đạt tiêu chuẩn, trình độ (đại học luật) theo quy định của Luật hộ tịch. Bên cạnh đó, những nhiệm vụ mới, với những quy định trình tự, thủ tục thay đổi, với việc ứng dụng công nghệ cũng đòi hỏi trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ. Do đó, cần phải thƣờng xuyên có các lớp bồi dƣỡng, tập huấn chuyên môn, nghiệp vụ để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ này. Cần nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ công chức Tƣ pháp - Hộ tịch bằng việc tiêu chuẩn hoá cán bộ tƣơng xứng với tính chất công việc, chức năng, nhiệm vụ mà họ đảm nhiệm cũng nhƣ yêu cầu, đòi hỏi của xu thế phát triển xã hội. Từ vấn đề bổ sung biên chế, đến bồi dƣỡng nghiệp vụ, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ đều cần phải có sự rà soát kỹ lƣỡng và có kế hoạch thực hiện phù hợp. Để chuẩn hóa đội ngũ công chức Tƣ pháp - Hộ tịch theo quy định của Luật Hộ tịch năm 2014, Bộ Tƣ pháp đã phối hợp với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng rà soát, bồi dƣỡng nghiệp vụ hộ tịch và kiện toàn đội ngũ này. Dự kiến đến năm 2016 sẽ chuẩn hóa đội ngũ công chức Tƣ pháp - Hộ tịch và đến trƣớc ngày 01/01/2020 phải hoàn thành việc đào tạo lại đối với toàn bộ đội ngũ này. Cùng với đó, Bộ Tƣ pháp sẽ chủ trì, phố hợp 75 với Bộ Ngoại giao tổ chức các lớp tập huấn cho viên chức ngoại giao, lãnh sự đƣợc phân công làm công tác Hộ tịch tại các cơ quan đại diện Việt Nam ở nƣớc ngoài. Từ ngày 01/01/2016 (ngày Luật Hộ tịch năm 2014 có hiệu lực thi hành) thì tất cả các địa phƣơng trong cả nƣớc chỉ tuyển dụng mới công chức làm công tác Hộ tịch đáp ứng đủ tiêu chuẩn theo Luật Hộ tịch năm 2014, đây là tinh thần chỉ đạo của Thủ tƣớng Chính phủ tại Quyết định số 59/QĐ-TTg ngày 15/01/2015 ban hành Kế hoạch triển khai thi hành Luật Hộ tịch. Theo đó phải đặt ra yêu cầu trình độ chuyên môn tối thiểu là trung cấp luật. Tuy nhiên việc tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ Tƣ pháp – Hộ tịch cần có sự cân nhắc đúng mức các yếu tố đặc thù trong công tác cán bộ của các vùng, miền, địa phƣơng khác nhau. Theo đó cần có biện pháp quá độ để từng bƣớc hình thành đội ngũ cán bộ công chức Tƣ pháp – Hộ tịch chuyên trách ở những địa bàn khó tạo nguồn cán bộ theo đúng tiêu chuẩn nhƣ khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa. Việc bố trí cán bộ công chức Tƣ pháp – Hộ tịch ở các khu vực này có thể hạ bớt các tiêu chuẩn về trình độ văn hoá và chuyên môn ở mức phù hợp nhƣng phải có kế hoạch đào tạo, bồi dƣỡng để sau một thời gian họ có thể đáp ứng đƣợc yêu cầu chung của ngạch công chức. 3.2.5. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký và quản lý hộ tịch Cải cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của mục tiêu cải cách hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải quyết các công việc hành chính. Loại bỏ những thủ tục rƣờm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân. Vấn đề cải cách thủ tục hành chính lấy ngƣời dân làm trung tâm, hình thành một tƣ duy mới về công tác hộ tịch; đảm bảo quyền lợi chính đáng của ngƣời dân và tháo gỡ những vƣớng mắc mà trƣớc đó chƣa có cơ sở pháp lý để giải quyết. Bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch không chỉ đơn thuần là sự ban hành văn bản pháp luật mà là sự quyết tâm đổi mới 76 thực sự nề nếp quản lý hộ tịch cho phù hợp với khuôn khổ của một xã hội phát triển bằng cách đơn giải hóa quy trình, rút ngắn thời gian giải quyết, giảm bớt chi phí và phiền hà cho công dân. Trong thời gian tới việc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực Hộ tịch cần tập trung vào các biện pháp sau: Một là, tiếp tục thực hiện sự phân cấp quản lý hộ tịch một cách hiệu quả, hợp lý theo chủ trƣơng cải cách bộ máy hành chính nhà nƣớc. Chính phủ nên phân cấp toàn diện vai trò, chức năng thống nhất quản lý hộ tịch cho Bộ Tƣ pháp và xây dựng lộ trình thích hợp đối với việc chuyển giao cho cấp xã toàn bộ các việc đăng ký hộ tịch với sự chuẩn bị đầy đủ các điều kiện cho công tác này tại cơ sở. Hai là, tăng cƣờng tính chủ động và chịu trách nhiệm của cơ quan, ngƣời có thẩm quyền đăng ký hộ tịch, tạo điều kiện để các chủ thể có thể linh hoạt vận dụng giải quyết các trƣờng hợp phát sinh trong thực tiễn quản lý hộ tịch theo nguyên tắc bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tăng cƣờng hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý cấp trên đối với cơ quan cấp dƣới. Ba là, tổng kết việc áp dụng mô hình “một cửa”trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch để xây dựng quy trình chuẩn nhằm nâng cao tính phục vụ cho hoạt động đăng ký hộ tịch với tính chất là loại hình dịch vụ công, bảo đảm ngƣời dân đƣợc thuận tiện, nhanh chóng khi thực hiện quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch của mình. Bốn là, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý hộ tịch và xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin hộ tịch tại mỗi tỉnh, thành phố và trên toàn quốc; từng bƣớc nghiên cứu khả năng tích hợp thông tin về hộ khẩu, chứng minh nhân dân vào hệ thống này. 77 Ứng dụng công nghệ thông tin là giải pháp hỗ trợ rất lớn cho hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về hộ tịch hiện nay, giải phóng thời gian làm việc thủ công cho công chức hộ tịch các cấp để có thời gian quan tâm, nghiên cứu nghiệp vụ hộ tịch, thuận tiện và chính xác trong công tác thống kê, khai thác dữ liệu... Trong xu hƣớng hiện đại hoá nền hành chính nhà nƣớc ngày nay, cần tích cực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin và dữ liệu điện tử về hộ tịch với tính chất là kho dữ liệu chuyên ngành để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc, từng bƣớc tin học hóa các quy trình phục vụ nhân dân đăng ký hộ tịch đƣợc thuận tiện, nhanh chóng, chính xác theo kinh nghiệm của các nƣớc có nền pháp luật phát triển. Có thể nói, gắn với việc thực hiện quyền công dân, giải pháp tăng cƣờng cải cách hành chính kết hợp với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin tiến tới xây dựng cơ sở dữ liệu điện tử về hộ tịch cần đƣợc nghiêm túc thực hiện, đảm bảo tính nhân văn vốn có của công tác này, tăng chỉ số tin cậy và mức độ hài lòng của ngƣời dân; tạo môi trƣờng thân thiện cho công dân khi đến với cơ quan đăng ký hộ tịch không chỉ để đảm bảo các quyền nhân thân của mình mà còn với một thái độ tích cực, giúp Nhà nƣớc quản lý dân cƣ tốt hơn. 3.2.6. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong pháp luật quản lý về hộ tịch Tăng cƣờng sự lãnh đạo của các Cấp ủy, Chính quyền địa phƣơng xác định đƣợc việc đăng ký quản lý hộ tịch là một nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội cần đƣợc quan tâm chu đáo. Thực tiễn hiện nay cho thấy sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chƣa đồng bộ đã dẫn đến tình trạng cùng một tiêu chí, nhƣng mỗi ngành có một số liệu thống kê báo cáo khác nhau, điều này đã gây khó khăn cho Nhà nƣớc trong việc hoạch định chính sách. Cơ chế thông báo 78 những thay đổi liên quan đến hộ tịch của từng cá nhân cũng chƣa đƣợc thực hiện một cách nghiêm túc, nhiều trƣờng hợp không thông báo nên không kịp thời cập nhật những thay đổi về hộ tịch liên quan trong sổ hộ tịch(Ví dụ: do không nhận đƣợc thông báo việc ly hôn để ghi chú vào Sổ đăng ký kết hôn nên mặc dù đã ly hôn vẫn đƣợc cấp bản sao Giấy chứng nhận kết hôn). Vì vậy, tăng cƣờng sự lãnh đạo chỉ đạo của các cấp ủy Đảng và chính quyền địa phƣơng trong việc củng cố, kiện toàn đội ngũ công chức quản lý hộ tịch và trong công tác phối hợp tổ chức quản lý hộ tịch. Đây là tiền đề quan trọng bảo đảm cho việc củng cố, kiện toàn đội ngũ cán bộ công chức Tƣ pháp các cấp và là những biện pháp bảo đảm cho công tác quản lý hộ tịch có hiệu lực, hiệu quả. Cần có phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các cơ quan hữu quan trong việc giải quyết những sai sót trong hồ sơ, giấy tờ cá nhâncông tác phối hợp giữa các ngành nhƣ công an, phòng Giáo dục, phòng Lao đông thƣơng binh và xã hội, Bảo hiểm xã hội trong giải quyết công việc, mọi cơ quan, tổ chức cần xác minh tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân đƣợc điều chỉnh các giấy tờ, hồ sơ cá nhân theo đúng nội dung của giấy khai sinh đảm bảo quy định. 3.2.7. Đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong pháp luật quản lý về hộ tịch Hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm tra đối với công chức trong thực thi công vụ của CQHCNN là một trong những hoạt động quản lý, mang tính quyền lực nhà nƣớc đối với các chủ thể có thẩm quyền. Kết quả hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát đối với đội ngũ công chức nhằm giúp cơ quan quản lý nắm bắt đƣợc công việc của đối tƣợng quản lý, đảm bảo công vụ đƣợc thực hiện theo đúng quy định của pháp luật. Việc phát hiện vi phạm của công chức do nhiều chủ thể thực hiện thông qua hoạt động giám sát, thanh tra công vụ trong nội bộ CQHCNN và hoạt 79 động kiểm sát việc tuân theo pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật theo chức năng. Các cơ quan Tƣ pháp chịu trách nhiệm quản lý, theo dõi tình hình thi hành pháp luật ở các Bộ, ngành và UBND các cấp. Việc kiểm tra, giám sát sự chấp hành pháp luật quản lý về hộ tịch có tác dụng ngăn ngừa, răn đe rất lớn và có hiệu quả. Thông qua hoạt động này giúp cho công chức CQHCNN nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, bồi dƣỡng tình cảm, ý thức về TNPL và khả năng tiến hành các hành vi pháp lý đúng đắn, chính xác. Có thể nói, thái độ chấp hành hay không chấp hành pháp luật hoặc mức độ chính xác trong áp dụng pháp luật của công chức CQHCNN phụ thuộc rất lớn vào kết quả của sự kiểm tra, giám sát sự chấp hành pháp luật. Mặt khác, cũng thấy rằng công chức CQHCNN thi hành, chấp hành pháp luật một cách tự giác, nghiêm chỉnh một khi họ có thái độ đúng đắn đối với pháp luật. Hoạt động giám sát cần đi vào thực chất trên cơ sở các chƣơng trình cụ thể hàng quý, hàng tháng với nội dung rõ ràng, tránh sự dàn trải không hiệu quả. Nội dung giám sát cần tập trung vào các vấn đề nổi cộm hiện nay nhƣ tình trạng tham nhũng, tiêu cực... Khi giám sát cần chú ý tới các cách thức mở rộng quyền trực tiếp giám sát của Nhân dân đối với CQHCNN, thƣờng xuyên lắng nghe ý kiến đóng góp của họ để thực thi công vụ đạt chất lƣợng, hiệu quả. Đối với công tác thanh tra, cần thực hiện các nội dung thanh tra chuyên đề về quản lý hộ tịch. Chủ động tiến hành hình thức thanh tra trực tiếp thay cho hình thức tự kiểm tra, báo cáo của CQHCNN về tình hình thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch. Hoạt động này cần đƣợc tiến hành thƣờng xuyên, liên tục theo các cách thức định kỳ hoặc đột xuất. Cùng với hoạt động giám sát, thanh tra, cần phải tăng cƣờng công tác xử lý vi phạm trong quá trình thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trong các CQHCNN. Bảo đảm mọi hành vi trái pháp luật đều bị xử lý bất kể ngƣời vi phạm có vị trí xã hội, nghề nghiệp, thành phần xuất thân nào. Đặc biệt, những 80 hành vi trái pháp luật do công chức CQHCNN gây ra cần phải xử lý kịp thời, nghiêm minh, không thiên vị. Tùy thuộc vào tính chất, mức độ của hành vi trái pháp luật, ngƣời vi phạm có thể bị xử lý kỷ luật, xử lý hành chính, bồi hoàn một phần thiệt hại vật chất, thậm chí phải truy cứu trách nhiệm hình sự. 3.3. Giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội Luật Hộ tịch năm 2014 quy định phân cấp mạnh cho chính quyền địa phƣơng. Theo đó, Ủy ban nhân dân cấp huyện giải quyết toàn bộ các việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài; thay đổi, cải chính hộ tịch cho ngƣời từ đủ 14 tuổi trở lên cƣ trú trong nƣớc, xác định lại dân tộc, trừ việc đăng ký khai sinh cho trẻ em sinh ra tại Việt Nam có cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam thƣờng trú tại khu vực biên giới còn ngƣời kia là công dân của nƣớc láng giềng thƣờng trú tại khu vực biên giới với Việt Nam; kết hôn, nhận cha, mẹ, con của công dân Việt Nam thƣờng trú ở khu vực biên giới với công dân của nƣớc láng giềng thƣờng trú ở khu vực biên giới với Việt Nam, khai tử cho ngƣời nƣớc ngoài cƣ trú ổn định lâu dài tại khu vực biên giới của Việt Nam. Ủy ban nhân dân cấp xã đăng ký các việc hộ tịch còn lại. Việc phân cấp thẩm quyền cho chính quyền địa phƣơng, ngoài việc giúp ngƣời dân tiết kiệm thời gian và thuận lợi trong thực hiện thủ tục, thì cũng sẽ tạo cho chính quyền địa phƣơng chủ động hơn, phát huy tối đa năng lực, trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng, tránh chồng chéo thẩm quyền, giúp chính quyền gần dân hơn, nắm chắc một cách toàn diện công tác Hộ tịch tại địa phƣơng bảo đảm tăng cƣờng vai trò quản lý nhà nƣớc của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tiến tới mục tiêu lâu dài là phân cấp triệt để thẩm quyền đăng ký hộ tịch cho chính quyền cơ sở khi điều kiện cho phép. Quy định này nhằm phát huy tối đa năng lực, trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng; bảo đảm tăng cƣờng vai trò quản lý nhà nƣớc của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, tiến tới 81 mục tiêu lâu dài là phân cấp triệt để thẩm quyền đăng ký hộ tịch cho chính quyền cơ sở khi điều kiện cho phép.Tuy nhiên, đây vừa là cơ hội nhƣng cũng là thách thức đối với cơ quan đăng ký hộ tịch cấp huyện. Từ thực tiễn thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch trên địa bàn quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội trong thời gian tới để hoạt động quản lý nhà nƣớc về hộ tịch phát huy hiệu lực, hiệu quả cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp bảo đảm cho pháp luật quản lý về hộ tịch đƣợc hiện thực hóa, phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi của công tác quản lý hộ tịch tại địa phƣơng. Thứ nhất, cần tổ chức tập huấn thật chu đáo, đầy đủ về công tác hộ tịch cho các đối tƣợng mà trƣớc hết là công chức Tƣ pháp. Điều đó không chỉ giúp làm tốt công tác quản lý hộ tịch, mà còn giúp làm tốt công tác đối ngoại của Nhà nƣớc. Do vậy, cần tổ chức nghiên cứu, biên soạn tài liệu và tổ chức tập huấn triển khai thực hiện pháp luật quản lý về hộ tịch với nhiều cấp độ khác nhau. Nội dung trọng tâm của tập huấn là quán triệt đầy đủ nội dung các quy định của pháp luật về hộ tịch và các pháp luật liên quan; quy trình thực hiện các thủ tục; cơ chế phối hợp, trách nhiệm, nghĩa vụ của các cơ quan trong phối hợp giải quyết đăng ký hộ tịch liên quan đến yếu tố nƣớc ngoài. Kết quả tập huấn phải bảo đảm tạo chuyển biến sâu sắc nhận thức từ trong cấp ủy, lãnh đạo chính quyền đến cán bộ, chuyên viên làm công tác hộ tịch, để chuyển thành hành động cụ thể, thiết thực, hiệu quả. Thứ hai, quan tâm đến công tác bố trí cán bộ có đủ năng lực, quan tâm đến công tác đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao năng lực cán bộ làm công tác hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài; bố trí điều kiện làm việc, trang thiết bị cần thiết để thực hiện công tác này có hiệu quả; đồng thời có cơ chế, chính sách đặc thù giúp cho việc triển khai thực hiện công tác hộ tịch liên quan đến yếu tố nƣớc ngoài ngang tầm với yêu cầu đối ngoại của đất nƣớc trong tình hình hiện nay. 82 Điều kiện và năng lực của ngành Tƣ pháp quận Hai Bà Trƣng tuy đã đƣợc quan tâm đầu tƣ cả về số lƣợng lẫn chất lƣợng. Song, xét về tổng thể, năng lực của Tƣ pháp quận chỉ đủ bảo đảm tốt cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ nhƣ hiện tại. Việc tăng thêm yếu tố nƣớc ngoài vào công vụ đòi hỏi phải có sự chuyển đổi về chất từ chuyên môn nghiệp vụ đến khả năng ngôn ngữ, giao tiếp; sự am hiểu không chỉ Luật Hộ tịch mà còn các Luật khác liên quan nhƣ Hộ tịch, Công chứng, Dân sự, Lao động... và không chỉ dành cho cán bộ chuyên trách làm công tác đăng ký Hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài mà cả cho cán bộ, chuyên viên khác trong hỗ trợ, phối hợp giải quyết. Quận Hai Bà Trƣng cần đào tạo, bồi dƣỡng, tập huấn nghiệp vụ hộ tịch, kiện toàn và bố trí ngƣời làm công tác hộ tịch để trƣớc ngày 31/12/2019, bảo đảm 100% công chức làm công tác Hộ tịch đáp ứng tiêu chuẩn theo quy định của Luật Hộ tịch. Thứ ba, thực hiện nghiêm túc cải cách các thủ tục hành chính trong việc thực hiện đăng ký hộ tịch. Cải cách thủ tục hành chính là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của mục tiêu cải cách hành chính của các nƣớc nói chung, đặc biệt ở nƣớc ta cải cách thủ tục hành chính đƣợc Đảng và Nhà nƣớc ta hết sức coi trọng.Cải cách thủ tục hành chính nhằm bảo đảm tính pháp lý, hiệu quả, minh bạch và công bằng trong khi giải quyết các công việc hành chính. Loại bỏ những thủ tục rƣờm rà, chồng chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn cho dân.Trong những năm gần đây việc cải cách hành chính trong lĩnh vực đăng ký và quản lý hộ tịch rất đƣợc quan tâm và đã tạo đƣợc nhiều chuyển biến quan trọng, đặc biệt là về thủ tục đăng ký hộ tịch. Tiếp tục phát huy các thành tựu đó, việc cải cách hành chính trong lĩnh vực hộ tịch trong thời gian tới cần tập trung vào các nội dung sau: Tiếp tục thực hiện việc cải cách thủ tục đăng ký hộ tịch theo hƣớng đơn giản hoá giấy tờ, rút ngắn quy trình giải quyết đối với cả việc đăng ký hộ tịch 83 trong nƣớc và đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài. Đồng thời tăng cƣờng tính chủ động, sáng tạo của cơ quan đăng ký hộ tịch và ngƣời có thẩm quyền đăng ký hộ tịch. Nâng cao tính phục vụ của hoạt động đăng ký hộ tịch với tính chất là một loại hình dịch vụ công, bảo đảm ngƣời dân đƣợc phục vụ thuận tiện, nhanh chóng khi họ thực hiện quyền và nghĩa vụ đăng ký hộ tịch của mình. Tích cực xây dựng chính quyền điện tử.Nhận thức rõ chính phủ điện tử là xu thế tất yếu của quá trình phát triển nên quận Hai Bà Trƣng đặc biệt quan tâm đổi mới công nghệ, nâng cao hoạt động của cơ quan nhà nƣớc nhằm phục vụ các tổ chức, ngƣời dân hiệu quả hơn. Xác định cơ quan điện tử làm nền tảng cho việc xây dựng chính quyền điện tử, thực hiện chiến lƣợc CCHC giai đoạn 2016-2020 bảo đảm theo định hƣớng, quận xây dựng Đề án ứng dụng công nghệ thông tin giai đoạn 2016-2020. Thứ tư, quan tâm đầu tƣ về các điều kiện bổ trợ, phối hợp. Chúng ta biết rằng, để giải quyết việc đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài, cơ quan tƣ pháp cấp tỉnh đƣợc hỗ trợ đồng bộ từ các cơ quan chức năng liên quan (công an, ngoại vụ, công chứng, dịch thuật, sứ quán...) và đồng bộ với hệ thống các cơ quan giải quyết việc có liên quan đến nƣớc ngoài. Nay, chỉ có công tác đăng ký hộ tịch có yếu tố nƣớc ngoài chuyển giao xuống quận, vậy đƣơng nhiên là sự đồng bộ trong hỗ trợ giải quyết ở cấp quận là không tƣơng thích với các ngành liên quan cấp trên và với ngay cả các ngành ngang cấp trong Quận. Đây là thách thức rất đáng kể vì nó là thách thức thuộc về cơ chế, thể chế. Bên cạnh đó, yếu tố nƣớc ngoài cũng đòi hỏi phải có thêm điều kiện vật chất, địa điểm làm việc, trang thiết bị phù hợp trong khi đó điều kiện của cấp Quận còn rất hạn chế, ngay cả đối với ngƣời dân trong nƣớc vẫn còn có điểm chƣa bảo đảm, tƣơng xứng. 84 Giao thẩm quyền đăng ký Hộ tịch về cho Quận và Phƣờng là sự liên thông gắn kết trong quy trình thủ tục hành chính. Quận không còn là cấp trung gian (theo Nghị định 158/2005/NĐ-CP) mà là cấp giải quyết trực tiếp, tạo nhiều thuận lợi gần dân. Thành phố lúc này là cần nghiên cứu đề ra chủ trƣơng, giải pháp tăng cƣờng công tác quản lý, thanh tra theo dõi việc thi hành pháp luật của cấp dƣới, nhƣ vậy là phù hợp với quy định của pháp luật hiện hành. Thứ năm, cần có sự đồng bộ chặt chẽ trong quá trình chuyển giao, tiếp nhận giữa cấp thành phố và quận. Hiện nay, thực sự chƣa rõ nội dung của sự chuyển giao thẩm quyền là gồm những vấn đề gì. Tuy nhiên, ƣu tiên hàng đầu là phải chuyển giao đồng bộ, đặc biệt là số liệu thống kê, tài liệu lƣu trữ trực tiếp liên quan đến việc thực hiện thẩm quyền tiếp theo của cấp quận. Bên cạnh đó, việc chuyển giao quy trình, kinh nghiệm thực hiện công tác cũng rất quan trọng. Tiểu kết Chƣơng 3 Với mục tiêu xây dựng thành công nhà nƣớc pháp quyền XHCN Việt Nam đòi hỏi pháp luật nói chung, pháp luật quản lý về hộ tịch nói riêng phải đƣợc thực hiện nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Trong bối cảnh hiện nay việc xác định quan điểm và những giải pháp cụ thể nhằm hiện thực hóa các quy định pháp luật về quản lý hộ tịch nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải đƣợc đặt trên nền tảng hệ thống quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về tƣ duy đổi mới và phát triển trong giai đoạn hiện nay. Để pháp luật quản lý về hộ tịch đƣợc thực hiện có hiệu lực, hiệu quả cần phải tiến hành đồng bộ các giải pháp chung nhƣ: Rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các văn bản pháp luật phù hợp với Luật Hộ tịch và các văn bản hƣớng dẫn thi hành; tổ chức tuyên truyền, phổ biến, quán triệt Luật hộ tịch và các văn bản hƣớng dẫn thi hành với nội dung và hình thức phù hợp, 85 nâng cao nhận thức, hiểu biết của nhân dân;đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong việc thực hiện pháp luật quản về hộ tịchvà các giải pháp đặc thù áp dụng riêng cho Quận Hai Bà Trƣng, thành phố Hà Nội. 86 KẾT LUẬN Với tính cách là một hoạt động thể hiện sâu sắc chức năng xã hội của nhà nƣớc, quản lý hộ tịch có vị trí, vai trò vô cùng quan trọng trong tiến trình phát triển xã hội. Nhìn từ khía cạnh khác, mối quan hệ giữa nhà nƣớc và công dân thể hiện qua các quy định pháp luật về đăng ký hộ tịch phản ánh một cách tập trung, sinh động, khách quan các giá trị dân chủ trong một nhà nƣớc “của dân, do dân, vì dân”. Trong xu hƣớng xây dựng xã hội dân chủ và nhà nƣớc pháp quyền ở nƣớc ta hiện nay, ngƣời dân có quyền đòi hỏi và nhà nƣớc có trách nhiệm phải tổ chức phục vụ việc đăng ký hộ tịch của ngƣời dân một cách thuận tiện, nhanh chóng theo mô hình của một loại dịch vụ công thiết yếu. Nhìn vào thực trạng quản lý hộ tịch ở nƣớc ta và đặt trong sự so sánh với các quốc gia trong khu vực, chúng ta không thể không quan ngại trƣớc không ít những bất cập của thực tiễn, cả về nhận thức và hành động, cả về pháp luật và năng lực quản lý. Từ nhiều năm trƣớc đây thì đến nay ở nƣớc ta, mặc dù hoạt động quản lý hộ tịch đã có quá trình phát triển hơn nửa thế kỷ nhƣng việc quản lý “đầy đủ, chính xác, kịp thời” các thông tin hộ tịch vẫn là mục tiêu đầy khó khăn đặt ra đối với các cơ quan quản lý. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng từ khi Chính phủ ban hành Nghị định 83/1998/NĐ-CP, hoạt động quản lý hộ tịch đã có những bƣớc phát triển nhanh chóng và đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng, từng bƣớc đƣa lĩnh vực quản lý này đi vào nền nếp, tạo nền tảng cần thiết cho bƣớc phát triển mới. Với nhận thức ngày càng đầy đủ, toàn diện hơn, việc hoàn thiện pháp luật về quản lý hộ tịch ngày càng đƣợc quan tâm đúng mức nhằm thiết lập cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các giải pháp cần thiết vào việc đổi mới quản lý hộ tịch. Trong bối cảnh Đảng và Nhà nƣớc đang giành nhiều tâm sức cho nỗ lực xây dựng một nền hành chính dân chủ, hiệu quả, hiện đại, việc đổi mới 87 hoạt động quản lý hộ tịch cần đƣợc tiến hành một cách khẩn trƣơng, tích cực. Để đổi mới, nâng cao hiệu quả của lĩnh vực công tác này, việc triển khai và áp dụng đồng bộ các giải pháp về pháp lý, quản lý, cán bộ, công nghệ có ý nghĩa rất quan trọng quyết định tính khả thi và hiệu quả thực tế. Tuy nhiên, từ thực tiễn phát triển kinh tế, xã hội nói chung và thực trạng quản lý hộ tịch nói riêng, cần xác định và ƣu tiên thực hiện việc đổi mới pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực hoạt động và tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ quản lý; đồng thời có lộ trình phù hợp để đổi mới các yếu tố kỹ thuật trong phƣơng thức quản lý, ứng dụng công nghệ thông tin để xây dựng hệ cơ sở dữ liệu thông tin về hộ tịch. Mặt khác, việc thực hiện các giải pháp để đổi mới quản lý hộ tịch cũng cần tính đến các yếu tố đặc thù của khách thể quản lý ở các khu vực địa lý dân cƣ khác nhau nhƣ đô thị, nông thôn; đồng bằng, miền núi, khu vực đồng bào dân tộc thiểu số 88 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đào Duy Anh (1992), Giản yếu Hán - Việt từ điển, quyển thƣợng, Nxb, Khoa học xã hội. 2. Bộ Tƣ pháp (2006) “Hƣớng dẫn nghiệp vụ Đăng ký và quản lý hộ tịch”, NXB Tƣ pháp, Hà Nội; 3. Bộ Tƣ pháp (2007), “Nghiệp vụ đăng ký hộ tịch”, NXB Tƣ pháp, Hà Nội; 4. Bộ Tƣ pháp (2010) “Tài liệu Hƣớng dẫn nghiệp vụ Tƣ pháp xã, phƣờng, thị trấn”, NXB Tƣ pháp; 5. Bộ Tƣ pháp (2007), Số chuyên đề về “Công chứng, hộ tịch và quốc tịch”, phần 2 hộ tịch và quốc tịch, Hà Nội. 6. Bộ Tƣ pháp (2015), Thông tƣ số 15/2015/TT-BTP ngày 16/11/2015 Quy định chi tiết một số điều của Luật Hộ tịch và nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch. 7. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 8. Phạm Trọng Cƣờng (2006),Kỳ vọng về một nề nếp mới trong công tác hộ tịch,Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 6. 9. Phạm Trọng Cƣờng (2007), Từ quản lý đinh đến quản lý hộ tịch, NXB Tƣ pháp, Hà Nội. 10. Nguyễn Quốc Cƣờng, Lƣơng Thị Lanh, Trần Thị Thu Hằng (2006), Hƣớng dẫn về đăng ký và quản lý hộ tịch, Bộ Tƣ pháp, Hà Nội. 11. Chính phủ (2015), Nghị định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015 Quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch. 12. Đàm Thị Kim Hạnh (2008), Tƣ pháp Hà Nội không vì khó khăn mà từ chối đăng ký khai sinh, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, tháng 3 năm 2008; 89 13. Trần Thị Lệ Hoa (2013), Thực trạng đội ngũ công chức Tƣ pháp- Hộ tịch và yêu cầu chuẩn hóa, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số chuyên đề pháp luật hộ tịch năm 2013. 14. Học viện Hành chính Quốc gia (2008), Giáo trình “Quản lý Hành chính-Tƣ pháp”, NXBKhoa học vàKỹ thuật. 15. Học viện Hành chính Quốc gia (2007), Giáo trình “Lý luận chung về Nhà nƣớc và Pháp luật”, NXB Khoa học và Kỹ thuật. 16. Trần Duy Rô Nin (2008), Hộ tịch và pháp luật về hộ tịch, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp luật số 5/2008 17. Vũ Đình Tuấn Phƣơng (2005), Cơ quan nhà nƣớc cần tôn trọng quyền yêu cầu cấp phiếu lý lịch tƣ pháp của công dân, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 6. 18. Trần Văn Quảng, (2006), Nâng cao năng lực đội ngũ công chức Tƣ pháp – Hộ tịch trong giai đoạn hiện nay, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số tháng 9. 19. Quốc hội (1945), Hiến pháp, Hà nội 20. Quốc hội (1959), Hiến pháp, Hà Nội 21. Quốc hội (1980), Hiến pháp, Hà Nội. 22. Quốc hội (1992), Hiến pháp (đã sửa đổi, bổ sung), Hà Nội 23. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà nội 24. Quốc hội (2014), Luật Hộ tịch, Hà nội 25. Ủy ban nhân dân quận Hai Bà Trƣng (2013), Kết quả đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn huyện. 26. Ủy ban nhân dân quận Hai Bà Trƣng (2014), Kết quả đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn huyện. 27. Ủy ban nhân dân quận Hai Bà Trƣng (2015), Kết quả đăng ký khai sinh, khai tử, kết hôn tại Ủy ban nhân dân cấp xã trên địa bàn huyện.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_phap_luat_quan_ly_ve_ho_tich_tu_thuc_tien_quan_hai.pdf
Luận văn liên quan