Có thể khẳng định rằng pháp luật về BTXH là vấn đề hữu ích và quan trọng
của nhân loại, không chỉ ở những nước nghèo, kém phát triển mà cả ở những
quốc gia phát triển, có nền công nghiệp tiên tiến và cuộc sống hiện đại. Thực
chất đây là một cuộc chiến chống các rủi ro trên bình diện toàn cầu. Pháp luật
về BTXH là một phần của an sinh xã hội thể hiện trình độ phát triển bền vững
của quốc gia thông qua việc phát triển kinh tế lẫn chăm lo, bảo đảm an toàn
cho các thành viên trong xã hội khi họ gặp rủi ro và trở nên yếu thế, khi đó họ
rất cần có sự trợ giúp từ nhà nước cũng như của cộng đồng, xã hội.
Đối với Việt Nam, vấn đề pháp luật về BTXH luôn được Đảng và Nhà
nước quan tâm không chỉ khi kinh tế bắt đầu phát triển mà ngay khi đất nước
đang trên đường đấu tranh giành độc lập. Đó là một trong những vấn đề cơ
bản của chính sách xã hội hướng vào phát triển con người nói chung và đối
tượng BTXH nói riêng, tạo cơ hội cho họ có điều kiện bình đẳng hoà nhập
vào cộng đồng, vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Đắk Lắk là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, trong những năm qua việc
thực hiện pháp luật về BTXH đã đạt được những thành tựu nhất định trong
hoạt động cũng như quản lý đối với hoạt động BTXH, đã phần nào chăm lo
được các đối tượng yếu thế đủ điều kiện hưởng BTXH về tài chính, giáo dục,
đào tạo, khám chữa bệnh, dạy nghề, ưu đãi lãi suất tạo điều kiện cho đối
tượng yếu thế trên địa bàn đảm bảo được mức sống tối thiểu. Tuy nhiên, tốc
độ phát triển kinh tế của tỉnh chưa cao, lại chịu tác động của quá trình chuyển
đổi kinh tế ở cấp vĩ mô và vi mô nên các đối tượng yếu thế ngày một đông
hơn. Nhu cầu trợ giúp của các nhóm đối tượng này cũng lớn lên và rất khác
nhau do đặc điểm riêng của vị thế quá trình thực hiện cũng như quản lý hoạt
động BTXH rất khó khăn và không tránh khỏi những tồn tại, hạn chế về tổ
chức bộ máy, nguồn lực thực hiện hoạt động, công tác quản lý đối119
tượng Qua những phân tích đánh giá về thực trạng thực hiện pháp luật về
BTXH của tỉnh cũng đã chỉ ra những bất cập trong các văn bản pháp qui,
những qui định chính sách BTXH. Từ đó đặt ra yêu cầu cần bổ sung một
khung pháp lý và hệ thống pháp luật thật chặt chẽ hơn để hoàn thiện hệ thống
pháp luật về BTXH cũng như việc quản lý hoạt động này từ trung ương
xuống địa phương.
Luận văn “Pháp luật về bảo trợ xã hội - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” đã phân
tích và đánh giá những mặt được và hạn chế trong quá trình thực hiện pháp
luật về BTXH trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian qua. Qua đó tác giả
cũng trình bày một số phương hướng, giải pháp nhằm góp phần thực hiện tốt
hơn các hoạt động chăm lo các đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh. Với những
tiềm năng sẵn có của mình, Đắk Lắk nhất định sẽ vượt qua khó khăn, thách
thức ở phía trước, thực hiện thắng lợi mục tiêu tăng trưởng kinh tế phải gắn
liền đảm bảo an sinh xã hội, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân
dân nói chung và cho các đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh nói riêng.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS. TS. Huỳnh Văn Thới
và các thầy, cô giáo đã giúp đỡ nhiệt tình để tôi có thể hoàn thành luận văn
này. Tuy nhiên, do kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học còn hạn
chế nên khó tránh khỏi nhiều thiết sót. Vì vậy tôi kính mong nhận được sự bổ
sung, góp ý của các thầy, cô giáo để tôi có thể bổ sung kiến thức cho bản
thân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao tại cơ quan đang công tác.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 130 trang
130 trang | 
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 914 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật về bảo trợ xã hội - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 chuẩn nghèo, 
cận nghèo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ làm cơ sở 
xác định các đối tượng và mức chuẩn của các chính sách an sinh xã hội; Mức 
trợ cấp xã hội chuẩn trong giai đoạn 2014-2020 sẽ tương đương với 40% mức 
sống tối thiểu, các đối tượng được hưởng BTXH. 
Thứ hai, đẩy mạnh công tác trợ giúp người khuyết tật trong chăm sóc sức 
khỏe, giáo dục, dạy nghề, việc làm, văn hóa, thể thao, giải trí, tiếp cận công 
trình công cộng và công nghệ thông tin; Lồng ghép chính sách về người 
khuyết tật trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội; Tạo điều kiện để người 
khuyết tật được chỉnh hình, phục hồi chức năng; khắc phục khó khăn, sống 
độc lập và hòa nhập cộng đồng. 
Thứ ba, nghiên cứu xây dựng và nâng cấp phòng BTXH thành Chi cục 
BTXH để thống nhất trong việc chỉ đạo, phối hợp thực hiện công tác, hiện 
nay Đắk Lắk các lĩnh vực về BTXH, bảo vệ chăm sóc trẻ em, Quỹ bảo trợ trẻ 
em đang hoạt động độc lập nên rất khó khăn trong việc cập nhật số liệu liên 
quan đến BTXH. 
Thứ tư, đẩy mạnh công tác xã hội hóa đối với hoạt động BTXH và cải cách 
hành chính, đơn giản hóa cải cách hành chính và thực hiện linh hoạt, hiện nay 
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hoạt động BTXH mặc dù đã có sự quan tâm của xã 
hội song vẫn còn hạn chế. 
Thứ năm, tăng cường công tác phối hợp liên ngành trong việc thực hiện các 
chính sách BTXH, nhất là trong công tác dạy nghề, tạo việc làm, chăm sóc 
sức khỏe, cũng như trong việc cấp phép, đưa đối tượng vào các cơ sở BTXH. 
97 
Chương 3 
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ 
BẢO TRỢ XÃ HỘI 
3.1. Phương hướng pháp luật về bảo trợ xã hội 
Trong giai đoạn đổi mới, pháp luật về BTXH đã được đánh giá là quan trọng 
như phát triển kinh tế, nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần VI, VII, VIII, IX 
đều thể hiện chủ trương gắn liền chính sách BTXH với chính sách đổi mới kinh 
tế, đảm bảo phân phối công bằng trong toàn bộ nền kinh tế. Cụ thể Nghị quyết 
Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đã nêu “từng bước xây dựng chính sách BTXH 
đối với toàn dân, theo phương châm Nhà nước và Nhân dân cùng làm, mở rộng 
và phát triển các công trình sự nghiệp BTXH cho những người có công với cách 
mạng và những người gặp khó khăn. Nghiên cứu bổ sung chính sách, chế độ 
BTXH phù hợp với quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, quản lý xã hội”[1]; 
Đồng thời, đến Đại hội VIII cũng nhấn mạnh “tăng trưởng kinh tế phải gắn liền 
với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong quá trình phát 
triển. Công bằng xã hội thể hiện ở khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn 
khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội 
phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình”[2]. Quan điểm này mở ra điểm 
sáng cho đối tượng có hoàn cảnh khó khăn, yếu thế. Pháp luật về BTXH được 
xây dựng trên cơ sở quan điểm phù hợp với điều kiện và quá trình phát triển kinh 
tế, với mục tiêu giải quyết vấn đề bình đẳng trong phân phối sản phẩm quốc dân, 
theo định hướng mọi đối tượng xã hội đều được hưởng lợi từ tăng trưởng và phát 
triển kinh tế. Trong bối cảnh hệ thống chính sách còn thiếu, cần có lộ trình, bước 
đi phù hợp, nghị quyết đại hội đã định hướng “Đẩy mạnh các hoạt động từ thiện; 
Thực hiện các chính sách bảo trợ TEMC, lang thang cơ nhỡ, người già neo đơn, 
nạn nhân chiến tranh, NTT; xây dựng quỹ tình thương trích từ ngân sách một 
phần và động viên toàn xã hội tham gia đóng góp; tiến tới xây dựng luật về NTT 
98 
và TEMC”[2] . Chủ trương này cũng được quán triệt sâu sắc và từng bước đã 
hình thành hệ thống luật pháp đối với NTT, trẻ em, NCT, đặc biệt là các qui định 
về các chế độ trợ cấp và trợ giúp các nhóm đối tượng xã hội yếu thế. 
Đại hội XI đã mở ra một trang hoàn toàn mới trong việc khẳng định an sinh xã 
hội trong đó có BTXH là một hệ thống chính sách xã hội trọng yếu, là nội dung 
chủ yếu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Một xã hội có được 
xem là phát triển bền vững hay không ngoài yếu tố ổn định về kinh tế, chính trị, an 
sinh xã hội cũng được xem là nhân tố cốt yếu vì nó liên quan trực tiếp đến quyền 
lợi của chính người dân trong xã hội. Sự tăng trưởng về kinh tế cho phép có thêm 
nguồn lực để chăm lo phát triển xã hội mà tập trung vào hệ thống BTXH, “phải 
coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và 
công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần 
của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt 
là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển 
văn hoá, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt 
hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[3]. Ngược lại, vấn đề xã 
hội được giải quyết tốt, một khi BTXH nói riêng và an sinh xã hội nói chung được 
quan tâm sẽ tạo điều kiện cho kinh tế tăng trưởng và phát triển bền vững. 
Pháp luật về BTXH cần quán triệt và thể chế hoá các chủ trương, chính 
sách của Đảng, Hiến pháp, pháp luật của nhà nước về BTXH, đồng thời trên 
cơ sở nội dung của hệ thống luật pháp của nước ta về lĩnh vực BTXH cần phù 
hợp với Công ước quốc tế. 
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đối tượng BTXH 
luôn được Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm, chăm sóc và giúp đỡ. Việc 
thực hiện pháp luật về BTXH nhằm cụ thể hoá cương lĩnh của Đảng, Hiến 
pháp của Nhà nước, từng bước đưa luật pháp điều chỉnh các quan hệ chính trị, 
kinh tế, văn hoá - xã hội và các chính sách liên quan đến đối tượng BTXH, 
99 
tạo môi trường pháp lý, điều kiện và cơ hội bình đẳng, không rào cản đối với 
người yếu thế trong thực tiễn cuộc sống. 
Pháp luật về BTXH có mục tiêu quan trọng nhất là cải thiện chất lượng 
cuộc sống của đối tượng BTXH, từng bước tạo điều kiện cho đối tượng yếu 
thế tham gia bình đẳng vào các hoạt động xã hội, xây dựng môi trường xã hội 
ngày càng chăm lo tốt hơn quyền lợi của đối tượng BTXH. 
Pháp luật về BTXH phù hợp với trình độ phát triển kinh tế - xã hội, với 
nhận thức chung của cả cộng đồng, khả năng tài chính cũng như các điều kiện 
về kinh tế, văn hoá xã hội của nhà nước ta. 
Thực hiện quan điểm này đòi hỏi các cơ quan trong bộ máy nhà nước khi 
xây dựng và thiết lập các chính sách cần căn cứ vào điều kiện kinh tế, văn 
hoá, xã hội của đất nước. Thực tế cho thấy những đòi hỏi từ phía đối tượng 
BTXH trong việc bảo đảm quyền tiếp cận là chính đáng, tuy nhiên do điều 
kiện đất nước còn khó khăn do đó đáp ứng tất cả nguyện vọng thì khả năng 
ngân sách cũng như các hỗ trợ khác là khó bảo đảm. 
Pháp luật về BTXH chính là đưa những căn cứ pháp lý cơ bản về quyền, 
nghĩa vụ của đối tượng BTXH và quy định chi tiết về các chế độ chính sách, 
điều kiện đảm bảo đặc biệt là xác định trách nhiệm của Nhà nước, gia đình và 
xã hội để đối tượng BTXH thực hiện các quyền cơ bản trong tiếp cận xã hội. 
Trên cơ sở các nguyên tắc và chính sách pháp luật về BTXH trong mọi 
hoạt động kinh tế - xã hội, từ những vấn đề về lý luận và thực tiễn về BTXH, 
pháp luật về BTXH tỉnh Đắk Lắk cần quán triệt và thực hiện có phương 
hướng rõ nét trong định hướng phát triển kinh tế xã hội như sau: 
Thứ nhất, cần nghiên cứu mở rộng đối tượng hưởng trợ cấp BTXH phù hợp 
với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội từng thời kỳ. Chẳng hạn, trong đối 
tượng hưởng trợ cấp BTXH thường xuyên có thể áp dụng cho cả hộ gia đình 
có thu nhập dưới mức chuẩn nghèo do Chính phủ công bố từng thời kỳ hay 
100 
những hộ gia đình, cá nhân nhận nuôi dưỡng NCT cô đơn không nơi nương 
tựa....; trong đối tượng hưởng trợ cấp BTXH đột xuất mà không phải do 
nguyên nhân khách quan, như nạn nhân của bạo lực gia đình, nạn nhân của 
buôn bán phụ nữ, trẻ em...; cần bảo đảm công bằng hơn trong điều kiện hưởng 
trợ cấp BTXH giữa các nhóm đối tượng BTXH thường xuyên và giữa đối 
tượng BTXH thường xuyên với đối tượng BTXH đột xuất. 
Thứ hai, cần có sự thống nhất trong việc quy định chế độ áp dụng cho các 
nhóm đối tượng trong trợ cấp BTXH thường xuyên; cần nghiên cứu nâng 
mức trợ cấp BTXH thường xuyên để các đối tượng hưởng có thể tiếp cận 
được mức sống tối thiểu một cách chắc chắn, thay vì phải thụ động trông chờ 
vào sự giúp đỡ hảo tâm của cộng đồng xã hội như hiện nay. 
Thứ ba, vẫn tiếp tục duy trì kinh phí thực hiện trợ cấp BTXH từ hai nguồn 
như hiện nay: ngân sách nhà nước và sự đóng góp từ thiện của cộng đồng xã 
hội; cần điều tiết kinh phí từ ngân sách nhà nước cho việc thực hiện pháp luật 
về BTXH một cách hợp lý hơn để tháo gỡ khó khăn cho từng địa phương 
nguồn thu ít và các địa phương thường xảy ra thiên tai, dịch bệnh, đồng thời 
đảm bảo công bằng trong việc tiếp cận chính sách xã hội của người dân trong 
tất cả các địa phương; cần thành lập quỹ BTXH thống nhất để có thể tập 
trung, khuyến khích các nguồn đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân 
có điều kiện để có thể tổ chức thực hiện thống nhất, bảo đảm cho quỹ này 
được chi đúng mục đích, đạt hiệu quả cao nhất. 
Thứ tư, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động toàn dân tham gia 
thực hiện pháp luật về BTXH, trong đó nghiên cứu và đưa vào áp dụng rộng 
rãi hơn mô hình “chăm sóc thay thế” (các cá nhân, hộ gia đình có điều kiện tự 
nguyện nhận chăm sóc các đối tượng BTXH. Việc mở rộng mô hình này một 
mặt thể hiện được truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam, “lá lành đùm 
lá rách”, mặt khác giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước; cần nhân rộng 
101 
mô hình “nhà xã hội” và khuyến khích phát triển các cơ sở BTXH của tư nhân 
để khắc phục hiện tượng quá tải của các cơ sở BTXH của tỉnh Đắk Lắk nói 
riêng và cả nước nói chung. Trong đó cần tranh thủ sự tham gia trực tiếp hoặc 
cộng tác của các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân và khi cần 
thiết nên có sự hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước; cần phát triển mạng 
lưới nhân viên xã hội nhằm tham vấn giúp các đối tượng tiếp cận với chính 
sách BTXH. 
Thứ năm, cần pháp điển hóa pháp luật về BTXH bằng việc ban hành Luật 
Bảo trợ Xã hội. 
Pháp luật về BTXH là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, thể 
hiện tính nhân văn sâu sắc, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, “lá lành 
đùm lá rách” vốn là truyền thống đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Thời gian qua, 
chính sách pháp luật BTXH đã và đang phát huy tác dụng là tấm lưới an toàn 
cho các đối tượng BTXH, góp phần thực hiện mục tiêu mà nghị quyết đã đặt 
ra tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với thúc đẩy tiến bộ xã hội và công bằng ở 
mỗi giai đoạn và trong suốt quá trình phát triển; Tuy nhiên trong quá trình 
thực hiện không tránh khỏi tồn tại hạn chế cần có những giải pháp thiết thực 
để hoàn thiện công tác thực hiện pháp luật về BTXH nhằm đạt được mục tiêu 
mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. 
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo trợ xã hội tỉnh Đắk Lắk 
3.2.1. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền và giáo dục nâng cao nhận thức xã hội 
về bảo trợ xã hội, phổ biến pháp luật về bảo trợ xã hội 
Cần chủ động trong công tác triển khai thực hiện, ban hành hướng dẫn hay 
đưa ra kế hoạch triển khai, tuyên truyền, tập huấn cơ sở, trong khi hiện nay có 
nhiều văn bản mới liên quan đến BTXH như Nghị định 13/2010/NĐ-CP của 
Chính phủ ngày 27/2/2010 về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 
67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp các đối tượng BTXH, 
102 
Nghị định 136/2013/NĐ-CP, Luật NCT, Luật NTTnhưng hiện nay nhiều 
huyện chưa quan tâm tập huấn cho cấp xã, trong khi cấp xã rất quan trọng 
trong việc thực hiện chính sách, vì đây là cánh cửa để chính sách đến được 
với người dân. Cần chú trọng rà soát các đối tượng, khảo sát tâm tư nguyện 
vọng của đối tượng để có hướng đề xuất phù hợp cho công tác. 
Bên cạnh đó, chú ý nâng cao hiệu quả công cụ giáo dục, tuyên truyền nhằm 
nâng cao nhận thức và thúc đẩy việc thực hiện pháp luật về BTXH có hiệu 
quả; đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong khâu tổ chức 
thực hiện chính sách. Việc tuyên truyền phải sâu, rộng, bao gồm cả nhận thức 
của chính quyền lẫn của người dân và của cả chính bản thân người hưởng lợi. 
Điều này đòi hỏi song song với hoàn thiện chính sách cần tăng cường tuyên 
truyền, đối tượng tuyên truyền bao gồm cả cơ quan quản lý nhà nước, người 
dân, xã hội và chính bản thân các đối tượng BTXH. Nhà nước cần bố trí kinh 
phí để thực hiện truyền thông của các cơ quan chức năng với những giải pháp 
cụ thể: 
- Qui định rõ về trách nhiệm các cơ quan, tổ chức phải thực hiện công tác 
giáo dục, truyền thông về BTXH, gồm: Tất cả các cơ quan, tổ chức, đơn vị 
trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình đều phải có trách nhiệm giáo 
dục, truyền thông về BTXH như cơ sở y tế, trung tâm dạy nghề, các trường 
học; UBND cấp huyện, xã có trách nhiệm tổ chức thực hiện công tác giáo 
dục, truyền thông về BTXH cho cấp xã, cán bộ, Trưởng ban nhân dân, Tổ 
tưởng tổ dân phố và nhân dân trên địa bàn địa phương; Các cơ quan thông tin 
đại chúng có trách nhiệm ưu tiên về thời điểm, thời lượng phát sóng thông tin, 
giáo dục, truyền thông về BTXH trên đài phát thanh, chú ý dung lượng và vị trí 
đăng trên báo in, báo hình. Đồng thời có thể in hình ảnh phong phú, dán trên 
các bản tin cấp xã để mọi người dân đến liên hệ thấy sẽ truyền miệng nhau. 
103 
- Biên soạn lại nội dung, nên chọn lọc và biên soạn lại nội dung tuyên 
truyền để người dân dễ hiểu đảm bảo đủ các nội dung quyền và nghĩa vụ, 
trách nhiệm của đối tượng BTXH, trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và xã 
hội trong việc bảo vệ chăm sóc và giúp đỡ các đối tượng BTXH, các quan 
điểm chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với 
BTXH và kèm theo nêu gương những người tiên tiến điển hình vượt khó và 
những người có thành tích trong công tác BTXH, cùng các nội dung khác. 
- Đổi mới phương thức tuyên truyền giáo dục: Hình thành các chuyên mục 
trên báo, bản tin hoặc giải đáp thắc mắc người dân, giải quyết tình huống đối 
với BTXH, thông tin các mô hình hoạt động có hiệu quả và pháp luật đến 
đông đảo người dân; Tăng cường hướng dẫn triển khai thực hiện các chính 
sách hiện có và nhất là chính sách mới ban hành. Xây dựng các tài liệu gọn 
nhẹ, có thể bỏ túi như sổ tay; Thiết lập các thông tin đa chiều để tiếp nhận và 
phản hồi ý kiến của người dân về các vấn đề có liên quan đến pháp luật và tổ 
chức thực hiện BTXH; Khen thưởng các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành 
tích xuất sắc trong bảo vệ và chăm sóc đối tượng BTXH; Mạnh tay xử lý kỷ 
luật, xử phạt vi phạm hành chính, bồi thường và nếu gây thiệt hại nghiêm 
trọng thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi xâm phạm 
quyền, lợi ích hợp pháp của đối tượng BTXH. 
Để thực hiện được các giải pháp trên thì Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ 
thêm kinh phí cho các tổ chức, cơ quan thông tin đại chúng trong công tác 
tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho cộng đồng, đối tượng BTXH 
về chính sách, luật pháp liên quan tới quyền, nghĩa vụ của người hưởng lợi. 
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về bảo trợ xã hội 
Có thể nói, hệ thống văn bản pháp lý có vai trò rất quan trọng trong việc 
thực hiện các chính sách đối với đối tượng BTXH, các văn bản phải rõ ràng, 
cụ thể, không chồng chéo thì việc thực hiện các chính sách mới đạt hiệu quả, 
104 
do đó đòi hỏi hệ thống văn bản phải đáp ứng được yêu cầu về số lượng và 
chất lượng để nâng cao mức độ bao phủ về thực hiện chế độ cho người dân. 
Hiện nay, các chính sách hỗ trợ đối tượng BTXH đã được chú trọng hơn. 
Tuy nhiên do cuộc sống ngày một khó khăn, nguồn ngân sách có hạn chỉ hỗ 
trợ khó khăn một phần, còn lại phải nhờ vào cộng đồng, xã hội, gia đình và 
chính bản thân người thụ hưởng đòi hỏi mỗi người phải thật sự cố gắng, đồng 
thời các đối tượng chưa sử dụng tối đa dịch vụ của chính sách. Vì thế, những 
chính sách giúp đỡ đối tượng yếu thế tuy có nhiều nhưng chưa thể làm họ đáp 
ứng được cuộc sống tối thiểu, một số cũng rất khó khăn nhưng chưa hưởng 
được chính sách, do đó cần phải tiếp tục hoàn thiện hơn các chính sách này. 
Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước các qui định 
pháp luật về BTXH bước đầu đã tạo được hành lang pháp lý rõ ràng cho các 
quan hệ xã hội về BTXH, hoạt động từ thiện, nâng cao đời sống vật chất và 
tinh thần của các đối tượng yếu thế. Tuy nhiên, một thực tế là lĩnh vực 
BTXH có quá nhiều văn bản qui định, nhiều loại cùng nội dung, trong quá 
trình thực hiện đã bộc lộ nhiều hạn chế. Để bảo đảm quá trình phát triển xã 
hội cũng như hội nhập kinh tế, cần hệ thống và rà soát lại các văn bản về hoạt 
động BTXH và có thể nâng lên thành Luật Bảo trợ Xã hội vì: 
Thứ nhất, hiện nay nước ta chưa có một văn bản Luật riêng để điều chỉnh 
các quan hệ xã hội về từ thiện cũng như hoạt động BTXH. Vấn đề BTXH 
được quy định trong nhiều văn bản luật khác nhau như: Luật NCT; Luật NTT; 
Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em....Đồng thời có nhiều qui định 
chính sách BTXH như về chính sách trợ giúp y tế, giáo dục.gây khó khăn 
cho công tác tập hợp, hệ thống hoá văn bản pháp luật cũng như khi cần áp 
dụng luật phải tìm và vận dụng ở nhiều văn bản khác nhau. 
Thứ hai, hầu hết các quy định pháp luật cụ thể về BTXH được thể hiện 
trong các Nghị định, Quyết định, Thông tư hướng dẫn thi hành...nên tính pháp 
105 
lý chưa cao, gây nhiều khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai và lơ 
là của những người thực hiện. 
Thứ ba, sự phát triển của các cơ sở BTXH tư nhân, các hoạt động từ thiện 
ngày càng phức tạp và đa dạng, đòi hỏi hệ thống văn bản pháp luật cần phải 
sâu sát và chi tiết. 
Thứ tư, trên thực tế nên hiểu pháp luật về BTXH là “dịch vụ” chăm lo các 
đối tượng yếu thế, không nên xem hoạt động trợ giúp là sự ban phát mà đó là 
nghĩa vụ của các cơ quan phải làm, và đó cũng là quyền mà họ được hưởng. 
Do đó, cần có sự thay đổi khi xây dựng lại để có cái nhìn đúng đắn hơn và từ 
đó sẽ có cách quản lý hiệu quả hơn. 
Việc xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật về BTXH là hết sức cần 
thiết, phù hợp với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, khắc 
phục được các hạn chế của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành 
về BTXH. Để các đối tượng BTXH thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ 
của mình thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về BTXH nói chung và thể 
chế chính sách nói riêng cần đảm bảo các quan điểm, định hướng sau: 
+ Thể chế hóa các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước đối với 
BTXH, xác định các chính sách bộ phận, đối tượng hưởng lợi, vai trò chức năng 
của nhà nước, xã hội, gia đình trong việc chăm sóc, giúp đỡ đối tượng BTXH. 
+ Việc hệ thống các văn bản phải dựa trên cơ sở kế thừa, chọn lọc những 
văn bản hiện nay còn phù hợp trong các văn bản pháp luật có liên quan, bảo 
đảm tính ổn định những văn bản còn phù hợp đồng thời điều chỉnh và hoàn 
thiện các văn bản không còn phù hơp, bổ sung những chính sách mới để giải 
quyết những vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn. 
+ Bảo đảm tính khả thi, công bằng, minh bạch và phù hợp với trình độ phát 
triển kinh tế - xã hội, khả năng tài chính của nhà nước. 
106 
+ Bảo đảm sự thống nhất chung trong hệ thống văn bản Luật của Việt Nam 
và các văn bản quốc tế mà Việt Nam tham gia. 
- Về đối tượng hưởng lợi: gồm các đối tượng xã hội hiện hành và các đối 
tượng mới bổ sung. 
- Nội dung điều chỉnh của Luật, qui định những nguyên tắc thực hiện pháp 
luật về BTXH, đối tượng thụ hưởng chính sách, nội dung các chính sách bộ 
phận, công cụ thực hiện chính sách và các kỹ năng nghiệp vụ, điều kiện bảo 
đảm thực thi chính sách 
Như vậy, Luật sẽ điều chỉnh NCT, NKT, trẻ em đặc biệt khó khăn và các 
đối tượng xã hội cần bảo trợ. Các chính sách được qui định cụ thể trong Luật 
này là nhằm bảo vệ, chăm sóc, hỗ trợ các đối tượng BTXH phát triển toàn 
diện cả về tinh thần, thể chất và năng lực. Đồng thời, giúp các đối tượng có đủ 
các điều kiện tham gia một cách bình đẳng các hoạt động xã hội như những 
người bình thường khác. Tuy nhiên, đây là vấn đề thời gian, vừa qua, Chính 
phủ đã có Nghị định số 144/2013/NĐ-CP về xử phạt hành chính về Bảo trợ, 
cứu trợ xã hội và bảo vệ chăm sóc trẻ em; hy vọng tương lai không xa sẽ có 
một Luật BTXH một cách hoàn chỉnh. 
Bên cạnh hình thành Luật thì việc hoàn thiện kế hoạch BTXH cũng rất cần 
thiết. Năm 2015 là năm kết thúc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội 
giai đoạn năm 2011-2015, trong đó có các chương trình, dự án, đề án về 
BTXH như: chương trình hành động quốc gia về NCT, đề án trợ giúp NTT, 
đề án chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn dựa vào cộng đồng, 
chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèoĐể tránh tình trạng phân tán, 
gây lãng phí nguồn lực và khó khăn trong tổ chức thực thi các chính sách, cần 
lắm việc nghiên cứu xây dựng chương trình quốc gia về BTXH. Khung kế 
hoạch này dựa trên cơ sở luật pháp về BTXH, chương trình chiến lược phát 
triển kinh tế - xã hội để hình thành các mục tiêu, nội dung, giải pháp thực 
107 
hiện. Đồng thời kế hoạch xuất phát theo yêu cầu cân đối nguồn lực, đảm bảo 
huy động được nhiều nguồn lực hơn từ cộng đồng dành cho đối tượng yếu 
thế. Cũng như các chương trình khác, kế hoạch BTXH thường có thời gian 
dài, chia ra từng giai đoạn mục tiêu nhỏ, cần đảm bảo rõ mục tiêu, chỉ tiêu, 
nội dung BTXH, nguồn lực và các giải pháp tổ chức thực hiện, giám sát đánh 
giá trong thời hạn (1-3 năm), trung hạn (5 năm) và dài hạn (10 năm). Về 
phạm vi chương trình gồm các hợp phần liên quan đến các nhóm đối tượng cụ 
thể và các giải pháp chính sách đối với khu vực, vùng miền, đặc thù dân tộc 
Việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về BTXH cần chú ý các nội 
dung: về mức độ bao phủ của chính sách đảm bảo đầy đủ, không bỏ sót đối 
tượng; mức trợ cấp cho đối tượng BTXH phải đảm bảo về cơ bản cho cuộc 
sống của họ; đa dạng hóa các hình thức chi trả, trợ cấp cho đối tượng BTXH... 
3.2.3. Tổ chức triển khai pháp luật về bảo trợ xã hội 
3.2.3.1. Công tác tập huấn nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ công 
chức là giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động áp dụng pháp luật 
Bộ máy và nhân lực quản lý nhà nước về BTXH có vai trò rất quan trọng, 
nó chính là khâu thiết yếu để các chính sách nói chung và chính sách bảo trợ 
xã hội nói riêng, nếu có chính sách tốt mà đội ngũ cán bộ không đủ hoặc 
không đáp ứng được nhu cầu thì hiệu quả sẽ không cao, chính vì thế hoàn 
thiện bộ máy và nhân lực thực hiện pháp luật về BTXH là rất cần thiết song 
phải đảm bảo tính tinh gọn và hiệu quả. 
 - Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước đối với việc thực hiện pháp luật về 
BTXH hiện nay, tuy đã được tăng cường và hoạt động khá hiệu quả nhưng 
vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém. Do đó, cần kiện toàn tổ chức bộ máy và cơ 
chế quản lý đối với BTXH cho tương xứng với quy mô và tốc độ chuyển biến 
của hoạt động BTXH. Bộ máy quản lý cần được hoàn thiện theo hướng: 
108 
- Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan liên quan, qui định cụ thể mối 
quan hệ, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan này. Trong đó quan trọng nhất là 
tăng cường sự phối hợp giữa Sở LĐTBXH và Sở Tài chính, Ban đại diện hội 
NCT tỉnh, hội bảo trợ NKT và TEMC tỉnh và Đài Phát thanh - Truyền hình 
tỉnh, Sở Giáo dục và Đào tạocác tổ chức xã hội khác thực hiện công tác 
quản lý chặt chẽ hơn. 
- Thành lập hội Bảo trợ NKT và TEMC cấp huyện, hội NCT cấp xã để hỗ 
trợ việc thực hiện pháp luật về BTXH ở địa phương được hoàn thiện, công tác 
phối hợp chặt chẽ. 
 - Nâng cao đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện pháp luật về BTXH đáp 
ứng quá trình phát triển. 
+ Trên cơ sở nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn theo luật định và căn cứ vào 
thực tế quá trình thực hiện pháp luật về BTXH trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk cần 
từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ, kết hợp ưu tiên sử dụng cán bộ có kiến thức 
về công tác xã hội, trình độ và kinh nghiệm cao; đồng thời cần chú trọng thực 
hiện kiện toàn tổ chức và nhân sự phụ trách thống kê, trợ cấp hàng tháng đối 
tượng BTXH ở cơ quan quản lý nhà nước cấp xã. 
+ Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện pháp luật về BTXH đáp 
ứng yêu cầu cả về số lượng, chất lượng và có cơ cấu hợp lý là điều kiện quan 
trọng nhất, điều kiện kiên quyết thúc đẩy chính sách BTXH hiệu quả. Công 
tác xây dựng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện pháp 
luật về BTXH trong những năm tiếp theo phải đối mặt với những thách thức 
rất lớn trước tình trạng đối tượng ngày càng tăng, các cơ sở hoạt động từ thiện 
ngày càng phức tạp, các rủi ro như biến đổi khí hậu, thiên tai, hỏa hoạn từ mặt 
trái của sự phát triển kinh tế có xu hướng tăng. Nếu không nâng cao chất 
lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực thực hiện pháp luật về 
BTXH thì việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của 
109 
Nhà nước sẽ không ứng phó được trong tình hình mới. Trong xu thế hội nhập 
và phát triển kinh tế, tư hữu hóa ngày càng cao cần thiết phải có một đội ngũ 
cán bộ, công chức chất lượng cao, có cái tâm để tăng cường hiệu quả và nâng 
cao chất lượng hoạt động BTXH. 
Trong thời gian tới, công tác nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức 
về BTXH cần chú trọng những nội dung cơ bản sau: 
Một là, tiếp tục hoàn chỉnh công tác quy hoạch cán bộ, việc bổ nhiệm, đề 
bạt và đào tạo cán bộ làm về BTXH phải dựa trên năng lực, tâm huyết với 
nghề, lòng nhân đạo với xã hội. Với tình hình hoạt động BTXH như hiện nay 
thì số lượng đội ngũ về BTXH như hiện nay là khá mỏng. Cán bộ giữ vai trò 
đặc biệt quan trọng, là điều kiện cần và đủ để thực hiện hiệu quả chính sách 
BTXH. Việc tăng cường cán bộ cần nâng cao trình độ chuyên môn và số 
lượng cán bộ, nhất là ở cơ sở. Trong những năm vừa qua, nhà nước đã có chủ 
trương tăng về số lượng, nhưng chưa phát huy vai trò của cán bộ. Nguyên 
nhân một phần là do công tác cán bộ chưa quan tâm những người làm việc đối 
với lĩnh vực này nói riêng và nói chung cho cả hệ thống. Hiện nay, Chính phủ 
đã có văn bản quy định về mã nghề cho những người làm công tác công tác 
xã hội vào cuối năm 2010, nhưng chưa có qui định danh mục nghề công tác 
xã hội, có mã nghề đào tạo, có vị trí làm việc và có tiêu chuẩn nghiệp vụ. Mặt 
khác công tác này chưa thu hút được nhiều giới trẻ theo học do còn khá mới 
mẻ và chưa được triển khai sâu rộng nên việc bố trí cán bộ có chuyên môn 
cũng khó khăn cho các cấp. Nếu không có điều kiện thì nên ưu tiên cán bộ tổ 
chức thực hiện ở huyện chỉ thực hiện quản lý hoạt động BTXH, không kiêm 
nhiệm công tác khác và cán bộ cơ sở cũng dành một người thực hiện chuyên 
lĩnh vực UBND không kiêm nhiệm. Hệ thống này nếu phối kết hợp tốt với 
các hội, đoàn thể khác thì hoạt động BTXH Đắk Lắk rất hiệu quả. 
110 
Hai là, cần tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nguồn nhân lực 
về BTXH, các khóa đào tạo ngắn hạn thông qua việc tổ chức tập huấn theo 
chuyên đề, tập huấn thực hiện triển khai thực hiện chính sách, tham quan mô 
hình. Đồng thời chú trọng trang bị đầy đủ kiến thức, kỹ năng, phẩm chất 
nghề nghiệp, có sức khỏe thể lực, trí lực; Công tác này cần được nâng cao từ 
giai đoạn hiện nay nhằm hoàn thiện đội ngũ quản lý có năng lực chuyên môn 
sâu, có tư cách đạo đức, yêu nghề, hiểu biết điều kiện thực tế của các đối 
tượng BTXH của địa phương và những tác động bên ngoài với môi trường tự 
nhiên và xã hội để có khả năng trợ giúp kịp thời. Đội ngũ này cần cập nhật 
các kiến thức liên quan đến hoạt động BTXH, đến quá trình chuyển biến các 
đối tượng, cơ sở BTXH trá hình; cần có những kinh nghiệm thực tế về BTXH 
trên địa bàn. 
Ba là, cần phải có chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân về BTXH 
thông qua các chương trình đào tạo mới và đào tạo lại cho nguồn nhân lực 
hiện có, từng bước xây dựng đội ngũ các nhà quản lý sáng tạo, đủ năng lực 
điều hành các hoạt động BTXH; Công tác bàn giao, hướng dẫn chặt chẽ để 
người mới cũng như người cũ nắm được lĩnh vực mình phụ trách, công tác 
quy hoạch chuẩn bị cán bộ kế thừa là một giải pháp cho công tác cán bộ. 
Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực về BTXH tỉnh Đắk 
Lắk có vị trí đặc biệt quan trọng, có vai trò thúc đẩy, tạo bước chuyển mạnh 
mẽ, về năng lực, trình độ công tác. Trong thời gian tới, chính quyền các cấp 
cần quan tâm công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực mang 
tính chiến lược, ổn định, lâu dài, bền vững và phát triển, đặc biệt, cần tăng 
nguồn vốn đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực về BTXH. 
3.2.3.2. Đẩy mạnh thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội đảm bảo chất 
lượng 
111 
Hiện nay chất lượng thực hiện pháp luật về BTXH ở nước ta nói chung 
và tỉnh Đắk Lắk nói riêng đang tồn tại nhiều vấn đề bất cập, nhiều chính sách 
chưa thực sự đến với người dân nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc thực 
thi chính sách. Để đẩy mạnh thực hiện pháp luật về BTXH đảm bảo chất 
lượng cần tập trung thực hiện một số vấn đề sau: 
Một là, từng bước mở rộng đối tượng BTXH nhằm bao phủ ngày càng 
rộng diện dân cư khó khăn. 
Cần rà soát lại tiêu chí xác định đối tượng theo hướng linh hoạt, bỏ một 
số điều kiện cứng (đủ), quan tâm điều kiện thực tế (cần) để thực sự bao phủ 
hết số đối tượng khó khăn. Các điều kiện cần bao gồm hoàn cảnh khó khăn, 
sức khỏe, độ tuổi, thu nhập, mức độ ảnh hưởng của thiên tai, hỏa hoạn, ảnh 
hưởng của điều kiện môi trường, hộ gia đình diện nghèo có thể thay thế bằng 
hộ có thu nhập thấp. 
Hai là, nâng cao mức chuẩn và hệ số trợ cấp xã hội phù hợp. 
Hiện nay, chúng ta đang thực hiện mức trợ cấp xã hội là 180.000 
đồng/tháng nói chung cả nước, điều này là không đủ trang trải cuộc sống cơ 
bản của một người bình thường chứ chưa nói đến NCT, người bệnh tâm thần, 
tàn tật hay trẻ em nhỏ cần nhiều khoản phải chi phí hơn; Vì thế việc nghiên 
cứu xây dựng mức trợ cấp phù hợp là hết sức cần thiết. 
Qua tìm hiểu và nghiên cứu, ta có thể nâng mức chuẩn bằng các phương 
án sau: 
- Phương án 1 là điều chỉnh theo tỉ số tăng giá tiêu dùng và tốc độ phát 
triển kinh tế. Với tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng như hiện nay thì việc 
điều chỉnh mức trợ cấp của Nhà nước từ năm 2010 đến nay bằng Nghị định 
13/2010/NĐ-CP là lạc hậu, không còn phù hợp với thực tiễn, mặc dù hiện nay 
đã được thay thế bằng Nghị định 136/2013/NĐ-CP, tuy nhiên không phải tất 
cả các đối tượng mà chỉ có một số nhóm đối tượng BTXH, mức chuẩn hiện 
112 
nay lại quá thấp (270.000đồng/người/tháng) còn lại vẫn áp dụng mức trợ cấp 
như cũ, thêm vào theo tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiện nay liệu mức trợ 
cấp đó có đáp ứng được đời sống của đối tượng yếu thế [25]. 
- Phương án 2 là xây dựng mức chuẩn trợ cấp bằng 70% mức sống tối 
thiểu của dân cư. Phương án này dựa trên quan điểm quyền con người, mọi 
người đều được bảo đảm mức sống ngang bằng với mức sống tối thiểu của 
dân cư. Đối với đối tượng BTXH không có thu nhập thì việc trợ cấp là nguồn 
chính kết hợp với sự hỗ trợ của gia đình, xã hội mới bảo đảm mức sống. Thực 
tế thì các đối tượng BTXH đều sống trong hộ gia đình nghèo nên khả năng 
cung cấp cho đối tượng là hết sức khó khăn; Tuy nhiên nếu so với tình hình 
hiện nay, cùng với nguồn ngân sách có hạn thì phương án này là khả thi và 
hợp lý [26]. 
Ngoài ra, đối với hệ số cho các đối tượng nên phân biệt với các đối tượng 
có sự chăm sóc như trẻ em dưới 18 tháng tuổi, trẻ em khuyết tật, TEMC, 
người tâm thầnkhông thể có mức chung vì mức độ chăm sóc khác nhau, chi 
phí khác nhau. Thêm vào đó, thực chất trẻ em dưới 18 tháng tuổi và trẻ em từ 
18 tháng đến 3 tuổi chế độ chăm sóc tương tự nhau nên mở rộng đối tượng 
này đến dưới 3 tuổi 
Ba là, đa dạng hóa các hình thức chăm sóc, trong đó ưu tiên trợ giúp tại 
cộng đồng, xã hội, phần lớn các đối tượng BTXH là người có hoàn cảnh khó 
khăn và hạn chế về sức khỏe, khả năng vận động và trí tuệnên việc chăm 
sóc tại nhà là cần thiết và được khuyến khích. Song Nhà nước cần hỗ trợ thêm 
đối với hộ gia đình về kinh tế, hỗ trợ y tế, hướng dẫn cách làm ăn, tập huấn 
phương pháp, kỹ năng chăm sócĐồng thời khuyến khích biện pháp chăm 
sóc thay thế đối với những trường hợp không có gia đình chăm sóc, nên 
khuyến khích cả đối với trường hợp NCT cô đơn, NTTđược nhận nuôi 
dưỡng chứ không chỉ đối với đối tượng trẻ em. 
113 
Bốn là, bổ sung hình thức cung cấp dịch vụ bằng cách cung cấp tiền để 
đối tượng lựa chọn dịch vụ: tình trạng vừa thừa vừa thiếu của chính sách thể 
hiện trong việc các đối tượng không sử dụng dịch vụ hỗ trợ của Nhà nước như 
NTT đến trường, trẻ em khi không còn đi học có thể đi học nghềDo đó, nếu 
đã dùng nhiều biện pháp khuyến khích để các đối tượng sử dụng tối đa dịch 
vụ mà vẫn không được thì có thể chuyển hình thức cung cấp dịch vụ sang 
hình thức cung cấp tiền dịch vụ đó để đối tượng có thể tụ do sử dụng mà 
không có suy nghĩ bị phân biệt đối xử; Mặc khác đối với những đối tượng là 
NTT cần những cơ sở y tế có đầy đủ thiết bị để chăm sóc, với hình thức này 
các đối tượng có thể chọn cho mình hình thức phù hợp và hiệu quả hơn. 
Năm là, định kỳ 2 - 3 năm thực hiện tổng điều tra đối tượng BTXH để có 
cái nhìn chính xác đối với đối tượng, từ đó có cơ sở đề xuất đến cơ quan cấp 
trên có những chính sách hiệu quả, khả thi; Lồng ghép việc thực hiện pháp 
luật về BTXH với các chương trình phát triển kinh tế xã hội, các chương trình 
mục tiêu quốc gia để nâng cao hiệu quả thực hiện các chính sách BTXH. 
Sáu là, tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế gồm các tổ chức đa 
phương, song phương, phi chính phủ để học hỏi kinh nghiệm, kỹ thuật và 
tăng thêm nguồn lực tài chính cho việc hoàn thiện hệ thống chính sách, cơ chế 
trợ cấp BTXH. Thời buổi hội nhập, công tác BTXH nói riêng và an sinh xã 
hội nói chung cần đáp ứng 2 yêu cầu là từng bước hội nhập với thế giới và 
cũng phải phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội đất nước trong từng giai đoạn 
cụ thể. 
Bảy là, tăng cường công tác bồi dưỡng và các hoạt động ảnh hưởng tích 
cực đối với các đối tượng nhận trợ cấp BTXH, thực hiện phối kết hợp giữa 
đối tượng và cơ quan quản lý nhằm đạt kết quả cao, nâng chất trong công tác 
BTXH, thể hiện sự ưu việt của chế độ. 
114 
3.2.3.3. Thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm hoạt động thực hiện pháp luật 
về bảo trợ xã hội 
Trong bất cứ hoạt động nào cũng cần phải thanh tra, kiểm tra và xử lý vi 
phạm trong quá trình thực hiện, mục đích của việc này không chỉ đơn thuần 
xem các hoạt động đó đã đúng chưa mà còn để điều chỉnh, bổ sung và đổi 
mới cách thức thực hiện sao cho hiệu quả. Trong giai đoạn tới cần nghiên cứu 
hoàn thiện trên các phương diện sau: 
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra định kỳ đối với hoạt động BTXH 
tại xã, thị trấn, các cơ sở hoạt động dưới danh nghĩa là từ thiện không có giấy 
phép thành lập các cơ sở BTXH. Hiện nay công tác thanh tra, kiểm tra hoạt 
động BTXH, các cơ sở nuôi dưỡng đối tượng xã hội trên địa bàn chỉ được tiến 
hành khi có sự phản ánh của các cá nhân, tổ chức xã hội thì khi đó cơ quan 
quản lý mà cụ thể là ngành LĐTBXH mới tiến hành mở các đợt kiểm tra hàng 
loạt. Việc tiến hành thanh tra, kiểm tra định kỳ giúp cho hoạt động quản lý 
được sát sao hơn, nhanh chóng phát hiện ra các sai phạm để kịp thời xử lý 
đồng thời cũng giúp cho cơ quan quản lý chủ động trong công việc. 
- Cần liên hệ chặt chẽ, phối hợp thông tin giữa các cơ quan tổ chức như 
UBND các xã, phường, thị trấn, các Hội đoàn thể tại địa phương trong hoạt 
động thanh tra, kiểm tra vì các tổ chức này tiếp cận trực tiếp với đối tượng, với 
các cơ sở từ thiện. Đồng thời, tăng cường sự tham gia của người dân vào quá 
trình xây dựng hệ thống pháp lý và tổ chức thực hiện, nhất là việc xác định đối 
tượng hưởng trợ cấp, trợ giúp, bảo đảm tính công khai, minh bạch trong quá 
trình tổ chức thực hiện, tạo được sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân và góp 
phần phát hiện những tiêu cực trong quá trình thực hiện pháp luật về BTXH. 
- Để thực hiện tốt công tác thanh tra, kiểm tra cần có nhân sự chuyên phụ 
trách hoạt động này; Cán bộ chuyên trách việc thanh tra, kiểm tra cần có bản 
115 
lĩnh, năng lực, cần xông xáo và phải có tinh thần kiên định, kinh nghiệm thực 
tế về từ thiện. 
- Xử phạt nghiêm khắc đối với trường hợp vi phạm chính sách pháp luật về 
BTXH theo Nghị định số 144/2013/NĐ-CP ngày 29/10/2013 của Chính phủ về 
quy định xử phạt vi phạm hành chính về bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ chăm 
sóc trẻ em. Đây là hoạt động mang tính chất nhân đạo, cứu người lúc khó khăn, 
nên việc xử lý cần nghiêm khắc, phạt nặng đến mức truy cứu trách nhiệm hình 
sự để mang tính răn đe hiệu quả các hành vi lợi dụng hoạt động nhân đạo, cứu 
trợ để vi phạm pháp luật. 
- Thiết lập hệ thống chỉ số, phần mềm quản lý đối tượng BTXH, thông tin 
báo cáo hợp lý và có phương pháp khoa học để có thể bảo đảm thu thập thông 
tin đầy đủ, báo cáo một cách trung thực nhất. Trong đó, hình thành các hệ 
thồng chỉ tiêu để trên cơ sở đó có thể kiểm tra, giám sát và theo dõi đối tượng 
một cách hiệu quả. 
- Đổi mới về thủ tục thực hiện, theo dõi, giám sát đối tượng. Thống nhất 
quy trình xác định đối tượng thụ hưởng từ cấp xã theo quy trình nhất định. Xã 
là đơn vị hành chính xác định đối tượng thụ hưởng, cấp huyện kiểm tra, giám 
sát hoạt động và huy động nguồn lực thực hiện. 
 3.2.4. Phối hợp các ngành trong việc đảm bảo thực hiện pháp luật về bảo trợ 
xã hội 
Thực hiện pháp luật về BTXH không chỉ là nhiệm vụ của ngành Lao động - 
Thương binh và Xã hội mà là nhiệm vụ chung của cả hệ thống chính trị, chính 
vì thế cần phải đẩy mạnh, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cấp, các 
ngành trong cả quá trình nghiên cứu, ban hành chính sách, tổ chức thực hiện 
và đánh giá chính sách. Quan hệ phối hợp có vai trò rất quan trọng nó chính là 
cầu nối giữa các cơ quan, đoàn thể trong việc thực hiện nhiệm vụ thực hiện 
pháp luật về BTXH, thông qua đó thể hiện rõ nhiệm vụ cụ thể của từng 
116 
ngành, đồng thời thông qua kế hoạch liên ngành sẽ xác định được giải pháp, 
nguồn lực cụ thể cho thực hiện, thông qua đó sẽ biết được và đánh giá đúng 
thực chất khả năng thực hiện nhiệm vụ của từng ngành. 
Tuy nhiên trong quá trình xây dựng các chương trình phối hợp cần phải 
đảm bảo tính phân công nhiệm vụ rõ ràng, tránh chồng chéo, đảm bảo tính 
khả thi; đồng thời phải thường xuyên tổ chức đánh giá tình hình triển khai và 
rút ra bài học kinh nghiệm trong quá trình phối hợp thực hiện để có hướng 
khắc phục cho hiệu quả hơn. 
3.2.5. Xác định vai trò, trách nhiệm của chính quyền địa phương, của các 
tổ chức bảo trợ xã hội và đẩy mạnh xã hội hóa chăm sóc đối tượng bảo trợ 
xã hội để thực hiện pháp luật về bảo trợ xã hội 
Không thể phủ nhận vai trò của chính quyền địa phương trong thời gian 
vừa qua, nếu địa phương nào quan tâm tới đối tượng BTXH thì ở nơi đó 
BTXH có điều kiện hơn trong việc hoà nhập đời sống cộng đồng xã hội. 
Chính quyền cấp xã có vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện các 
chính sách liên quan đến BTXH. Khi tổng kết việc thực hiện Nghị định 
13/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/2/2010 về sửa đổi bổ sung một số 
điều của Nghị định 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính sách trợ giúp 
các đối tượng BTXH, Nghị định 136/2013/NĐ-CP, Luật NCT, Luật NTT... 
cho thấy việc rà soát, điều tra các đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội ở các 
địa phương có nơi còn bỏ sót hoặc thiếu chính xác. Nguyên nhân có từ phía 
đội ngũ cán bộ công chức, các nguồn lực để thực hiện và có nguyên nhân từ 
sự thiếu chỉ đạo của lãnh đạo chính quyền cấp cơ sở. Để làm tốt pháp luật về 
BTXH cần thiết đẩy mạnh việc phân cấp cho chính quyền cấp cơ sở. Thực 
hiện hoạt động này vừa xác định vai trò, vị trí vừa xác định trách nhiệm của 
chính quyền các cấp trong việc thực hiện pháp luật về BTXH. 
Đối với công tác thực hiện pháp luật về BTXH cần đẩy mạnh hoạt động xã 
117 
hội hoá công tác chăm sóc đối tượng BTXH. Có nhiều nguyên nhân tuy nhiên 
những nguyên nhân căn bản đó là tạo môi trường mở rộng không chỉ có trách 
nhiệm từ phía nhà nước và gia đình. Nguồn lực của đất nước hiện nay có hạn 
trong khi nhu cầu chăm sóc đối tượng BTXH đa dạng liên quan tới việc chăm 
sóc phục hồi chức năng, học nghề , dạy nghề và bảo đảm quyền tiếp cận trong 
giao thông, tiếp cận công nghệ thông tin và các dịch vụ xã hội khác nhau. 
Muốn thực hiện hoạt động này cần đẩy mạnh hoạt động các tổ chức của 
BTXH. Hoạt động thực hiện pháp luật về BTXH là hoạt động liên quan tới 
trách nhiệm của nhiều chủ thể khác nhau, chỉ khi nào các tổ chức của BTXH 
và vì BTXH hoạt động mạnh mẽ và thống nhất mới tạo dựng nguồn lực cần 
thiết trong việc bảo vệ và bảo đảm quyền tiếp cận của đối tượng BTXH. Phát 
triển các tổ chức của BTXH liên quan tới trách nhiệm từ phía các cơ quan 
trong bộ máy nhà nước, trong việc tạo dựng hành lang pháp lý cho các tổ 
chức của BTXH hoạt động. 
Xã hội hoá là chủ trương chung của Đảng và Nhà nước ta không chỉ trong 
công tác chăm sóc đối tượng BTXH. Là bộ phận dân cư yếu thế trong xã hội 
cần thiết huy động nguồn lực của các tổ chức trong và ngoài nước thì công tác 
bảo vệ đối tượng BTXH mới đạt hiệu quả. Thực hiện chủ trương này nhà 
nước cần thiết phải có chiến lược cụ thể và khả thi với mục tiêu là khuyến 
khích và tạo điều kiện cho các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước tài trợ, 
giúp đỡ về tài chính và kỹ thuật tham gia hoạt động trợ giúp BTXH với các 
hình thức phù hợp. 
118 
KẾT LUẬN 
Có thể khẳng định rằng pháp luật về BTXH là vấn đề hữu ích và quan trọng 
của nhân loại, không chỉ ở những nước nghèo, kém phát triển mà cả ở những 
quốc gia phát triển, có nền công nghiệp tiên tiến và cuộc sống hiện đại. Thực 
chất đây là một cuộc chiến chống các rủi ro trên bình diện toàn cầu. Pháp luật 
về BTXH là một phần của an sinh xã hội thể hiện trình độ phát triển bền vững 
của quốc gia thông qua việc phát triển kinh tế lẫn chăm lo, bảo đảm an toàn 
cho các thành viên trong xã hội khi họ gặp rủi ro và trở nên yếu thế, khi đó họ 
rất cần có sự trợ giúp từ nhà nước cũng như của cộng đồng, xã hội. 
Đối với Việt Nam, vấn đề pháp luật về BTXH luôn được Đảng và Nhà 
nước quan tâm không chỉ khi kinh tế bắt đầu phát triển mà ngay khi đất nước 
đang trên đường đấu tranh giành độc lập. Đó là một trong những vấn đề cơ 
bản của chính sách xã hội hướng vào phát triển con người nói chung và đối 
tượng BTXH nói riêng, tạo cơ hội cho họ có điều kiện bình đẳng hoà nhập 
vào cộng đồng, vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội. 
Đắk Lắk là một tỉnh thuộc khu vực Tây Nguyên, trong những năm qua việc 
thực hiện pháp luật về BTXH đã đạt được những thành tựu nhất định trong 
hoạt động cũng như quản lý đối với hoạt động BTXH, đã phần nào chăm lo 
được các đối tượng yếu thế đủ điều kiện hưởng BTXH về tài chính, giáo dục, 
đào tạo, khám chữa bệnh, dạy nghề, ưu đãi lãi suất tạo điều kiện cho đối 
tượng yếu thế trên địa bàn đảm bảo được mức sống tối thiểu. Tuy nhiên, tốc 
độ phát triển kinh tế của tỉnh chưa cao, lại chịu tác động của quá trình chuyển 
đổi kinh tế ở cấp vĩ mô và vi mô nên các đối tượng yếu thế ngày một đông 
hơn. Nhu cầu trợ giúp của các nhóm đối tượng này cũng lớn lên và rất khác 
nhau do đặc điểm riêng của vị thế quá trình thực hiện cũng như quản lý hoạt 
động BTXH rất khó khăn và không tránh khỏi những tồn tại, hạn chế về tổ 
chức bộ máy, nguồn lực thực hiện hoạt động, công tác quản lý đối 
119 
tượngQua những phân tích đánh giá về thực trạng thực hiện pháp luật về 
BTXH của tỉnh cũng đã chỉ ra những bất cập trong các văn bản pháp qui, 
những qui định chính sách BTXH. Từ đó đặt ra yêu cầu cần bổ sung một 
khung pháp lý và hệ thống pháp luật thật chặt chẽ hơn để hoàn thiện hệ thống 
pháp luật về BTXH cũng như việc quản lý hoạt động này từ trung ương 
xuống địa phương. 
Luận văn “Pháp luật về bảo trợ xã hội - Từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” đã phân 
tích và đánh giá những mặt được và hạn chế trong quá trình thực hiện pháp 
luật về BTXH trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian qua. Qua đó tác giả 
cũng trình bày một số phương hướng, giải pháp nhằm góp phần thực hiện tốt 
hơn các hoạt động chăm lo các đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh. Với những 
tiềm năng sẵn có của mình, Đắk Lắk nhất định sẽ vượt qua khó khăn, thách 
thức ở phía trước, thực hiện thắng lợi mục tiêu tăng trưởng kinh tế phải gắn 
liền đảm bảo an sinh xã hội, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân 
dân nói chung và cho các đối tượng yếu thế trên địa bàn tỉnh nói riêng. 
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới PGS. TS. Huỳnh Văn Thới 
và các thầy, cô giáo đã giúp đỡ nhiệt tình để tôi có thể hoàn thành luận văn 
này. Tuy nhiên, do kiến thức và kinh nghiệm nghiên cứu khoa học còn hạn 
chế nên khó tránh khỏi nhiều thiết sót. Vì vậy tôi kính mong nhận được sự bổ 
sung, góp ý của các thầy, cô giáo để tôi có thể bổ sung kiến thức cho bản 
thân, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao tại cơ quan đang công tác. 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Các văn kiện của Đảng 
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (1987), Nghị quyết 
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, NXB Sự thật, Hà Nội. 
2. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết 
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, NXB Sự thật, Hà Nội. 
3. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Nghị quyết 
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Sự thật, Hà Nội. 
2. Các văn bản pháp luật 
 4. Nghị định số 67/2007/NĐ-CP (2007) ngày 13/4/2007 của Chính phủ về 
chính sách trợ giúp xã hội cho đối tượng bảo trợ xã hội. 
 5. Thông tư số 24/2010/TTLT-BLĐTBXH - BTC ngày 18/8/2010 của Bộ 
Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số 
điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP ngày 13 tháng 4 năm 2007 của Chính 
phủ về chính sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội và Nghị định số 
13/2010/NĐ-CP ngày 27 tháng 02 năm 2010 của Chính phủ về sửa đổi, bổ 
sung một số điều của Nghị định số 67/2007/NĐ-CP của Chính phủ về chính 
sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội. 
 6. Thông tư liên tịch 37/2012/TTLT-BLĐTBXH-BYT-BTC-BGDĐT ngày 
28/12/2012 của Liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Y tế, Tài chính, 
Giáo dục và Đào tạo quy định về việc xác định mức độ khuyết tật do hội đồng 
xác định mức độ khuyết tật thực hiện. 
 7. Thông tư liên tịch số 29/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 24/10/2014 
về hướng dẫn thực một số điều Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 
21/10/2013 của Chính phủ quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối 
tượng bảo trợ xã hội. 
8. Nghị định 68/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ quy định điều 
kiện, thủ tục thành lập, tổ chức, hoạt động và giải thể cơ sở bảo trợ xã hội. 
9. Nghị định 13/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 27/02/2010 về sửa đổi 
bổ sung một số điều của Nghị định 67/2007/NĐ-CP ngày 13/4/2007 về chính 
sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội. 
10. Nghị định 136/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày 21/10/2013 về chính 
sách trợ giúp các đối tượng bảo trợ xã hội. 
11. Nghị định số 144/2013/NĐ-CP ngày 29/10/2013 của Chính phủ về quy 
định xử phạt vi phạm hành chính về Bảo trợ, cứu trợ xã hội và bảo vệ chăm 
sóc trẻ em. 
12. Quốc hội Khóa XII (2010), Luật Người khuyết tật, Hà Nội. 
13. Quốc hội Khóa XII (2009), Luật Người cao tuổi, Hà Nội. 
3. Các tài liệu tham khảo khác 
14. Báo cáo 50/BC-LĐTBXH ngày 10/01/2016 của Sở Lao động - Thương 
binh và Xã hội tỉnh Đắk Lắk về kết quả thực hiện công tác Bảo trợ xã hội năm 
2015, giai đoạn 2011-2015 và kế hoạch thực hiện năm 2016. 
 15. Ban Đại diện hội Người cao tuổi tỉnh Đắk Lắk (2015), Báo cáo tổng 
kết 09/BC-NCT ngày 15/5/2015 của Ban Đại diện hội Người cao tuổi về 
phong trào thi đua yêu nước “Tuổi cao - gương sáng” Hội người cao tuổi 
tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2011-2015. 
16. Cục thống kê tỉnh Đắk Lắk (2015), Niên giám thống kế. 
17. Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa luật (2005), Giáo trình Lý luận chung 
về Nhà nước và Pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
18. file:///C:/Users/USER/Downloads/So2_2013_DangNguyenAnh.pdf 
19. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Khoa Nhà nước và Pháp 
luật (2004), Tài liệu học tập và nghiên cứu môn lý luận chung về nhà nước và 
pháp luật, tập I, Lưu hành nội bộ. 
20. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Nhà nước và Pháp 
luật (2005), Tài liệu phục vụ học tập và nghiên cứu môn lý luận chung về nhà 
nước và pháp luật, Hà Nội. 
21. Học viện Chính trị Quốc gia (2001), Lý luận chung về nhà nước và 
pháp luật, Nxb Chính trị Quốc gia Hà Nội. 
22. Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi tỉnh Đắk Lắk (2015), Báo cáo 
10/BC-HBT ngày 21/7/2015 của Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi về 
tình hình hoạt động giai đoạn 2011-2015. 
 23. Nguyễn Hữu Dũng (2008), “mối quan hệ giữa phát triển kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện chính sách an sinh xã hội ở 
nước ta trong quá trình hội nhập”, tạp chí Lao động - Xã hội (số 332,4/2008), 
Hà Nội. 
 24. Nguyễn Hữu Dũng (2010), hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt 
Nam: Thực trạng và định hướng phát triển, tạp chí khoa học ĐHQGHN, kinh 
tế và kinh doanh 26, 118-128. 
 25. Nguyễn Ngọc Toản, một số kiến nghị đổi mới chính sách trợ cấp xã 
hội trong giai đoạn tới, tạp chí Lao động - Xã hội (273), từ 16 - 31/10/2005, 
tr. 36-37, Hà Nội. 
 26. Nguyễn Ngọc Toản, đề xuất quan điểm tiếp cận phát triển chính sách 
trợ giúp xã hội ở Việt Nam, tạp chí Lao động - Xã hội (379), từ 16 - 
31/3/2010, Hà Nội. 
 27. Nguyễn Xuân Thu, Chính sách, pháp luật về cứu trợ xã hội ở việt nam 
hiện nay, Đại học luật Hà Nội. 
28. Quyết định số 122/2007/QĐ-UBND ngày 21/9/2007 của Uỷ ban nhân 
dân tỉnh Đắk Lắk về điều chỉnh, bổ sung một số chế độ, chính sách xã hội cho 
đối tượng bảo trợ xã hội. 
29. Quyết định số 26/2010/QĐ-UBND ngày 14/10/2010 của Uỷ ban nhân 
dân tỉnh Đắk Lắk về việc quy định mức trợ cấp, trợ giúp cho các đối tượng 
bảo trợ xã hội. 
30. Quyết định số 328/QĐ-UBND ngày 18/02/2009 của Ủy ban nhân dân 
tỉnh Đắk Lắk về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ 
máy Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Đắk Lắk. 
31. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và 
Pháp luật, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2001. 
 32. www.fetp.edu.vn/cache/MPP04-513-L09V-2012-05-09-14532602.pdf 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_van_phap_luat_ve_bao_tro_xa_hoi_tu_thuc_tien_tinh_dak_l.pdf luan_van_phap_luat_ve_bao_tro_xa_hoi_tu_thuc_tien_tinh_dak_l.pdf