Cưỡng chế thi hành án dân sự với tính chất đặc thù là dùng quyền lực
nhà nước áp đặt đối với đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự, bảo đảm
cho các bản án, quyết định được nghiêm chỉnh thi hành, góp phần thực hiện
chức năng quản lý xã hội của Nhà nước. Việc tổ chức cưỡng chế thực hiện
một cách đúng đắn nhất, phù hợp nhất, đạt kết quả cao nhất sẽ có hiệu quả
nhất của việc cưỡng chế thi hành án dân sự và nâng cao hiệu quả công tác thi
hành án dân sự. Nếu việc tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự thực hiện
không có căn cứ, sai trình tự, thủ tục; không đúng thẩm quyền, đối tượng và
không phù hợp với đặc trưng, bản chất pháp lý của vụ việc cưỡng chế thi
hành án dân sự sẽ làm giảm hiệu lực, hiệu quả thi hành án. Hiệu quả cưỡng
chế thi hành án dân sự ảnh hưởng bởi nhiều hoạt động, công đoạn khác nhau,
từ xác minh điều kiện cưỡng chế, đến lựa chọn biện pháp cưỡng chế, ra quyết
định cưỡng chế và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế .v.v. Tổ chức thực
hiện quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự là công việc khó khăn và phức
tạp nhất khi tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự mà hầu hết các vụ việc
cưỡng chế thi hành án dân sự đều phải trải qua.
Cưỡng chế thi hành án dân sự không chỉ phát huy hiệu quả ngay sau khi
tiến hành xong một vụ việc cưỡng chế cụ thể mà còn phát huy tác dụng trong
một thời gian dài sau đó. Thực trạng cưỡng chế thi hành án cũng đã chỉ ra
rằng, việc cưỡng chế thi hành án dân sự để có thể thành công, đạt được hiệu
quả phụ thuộc rất nhiều yếu tố năng lực tổ chức thực hiện quyết định cưỡng
chế, sự phối hợp giữa các lực lượng tham gia cưỡng chế, thái độ hợp tác, ý
thức chấp hành án của các bên đương sự, đặc biệt là nó còn phụ thuộc rất lớn
bởi nội dung các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Nếu các
quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đầy đủ, khoa học, rõ
ràng, phù hợp với thực tiễn, dễ nhận thức, dễ thực hiện trong thực tiễn sẽ
giúp cho việc cưỡng chế thi hành án dân sự thành công, đạt hiệu quả cao.95
Ngược lại, nếu quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nằm rải
rác ở nhiều văn bản, hình thức văn bản quy phạm pháp luật không cao, quy
định không rõ ràng, mâu thuẫn, chồng chéo sẽ dẫn đến khó khăn trong nhận
thức và thực hiện, rất dễ sai sót, vi phạm trong cưỡng chế thi hành án dân sự.
Ở góc độ này, những bất cập của lý luận và pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự được phát hiện thông qua thực tiễn cưỡng chế thi hành án dân sự
được coi là tiêu chí có ý nghĩa quan trọng hơn đối với các nhà nghiên cứu, các
cơ quan quản lý nhà nước, nhưng ở góc độ đánh giá khác, những vi phạm
trong cưỡng chế thi hành án dân sự không được phát hiện và xử lý thì cưỡng
chế thi hành án dân sự cũng chưa hiệu quả. Với các giải pháp đã được đưa ra,
công tác thi hành án dân sự của tỉnh Đắk Lắk sẽ đạt được nhiều kết quả khả
quan trong thời gian tới.
107 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1280 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân
sự từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk
3.1.1. oàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự theo
hướng đề cao trách nhiệm Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự và cá
nhân Chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự
Trong tổ chức thi hành án, Chấp hành viên có quyền độc lập tác nghiệp
và chỉ tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi
của mình; Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm quản lý, chỉ
đạo, hướng dẫn về mặt chuyên môn nghiệp vụ đối với cán bộ, công chức,
Chấp hành viên.
Chấp hành viên là người được Thủ trưởng cơ quan thi hành án giao
nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thi hành án, đồng thời là chủ thể chịu trách nhiệm
chính trước pháp luật về những hành vi của mình và được pháp luật bảo vệ.
Thi hành án dân sự là hoạt động rất đa dạng, động chạm đến quyền, lợi ích
của nhiều cá nhân, tổ chức, liên quan đến nhiều lĩnh vực, Chấp hành viên dù
muốn cũng không có đủ khả năng đáp ứng tất cả các lĩnh vực chuyên môn,
trong những trường hợp như vậy đòi hỏi phải có sự hỗ trợ, chỉ đạo, hướng dẫn
về mặt chuyên môn nghiệp vụ của Thủ trưởng đơn vị. Mặt khác, Thủ trưởng
cơ quan Thi hành án dân sự chịu trách nhiệm quản lý, chỉ đạo về thi hành án
dân sự, bảo đảm việc áp dụng thống nhất các quy định của pháp luật trong
hoạt động thi hành án dân sự; hướng dẫn nghiệp vụ thi hành án dân sự cho
Chấp hành viên, công chức khác của cơ quan thi hành án dân sự thuộc phạm
vi quản lý. Thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự phải chịu trách nhiệm
77
trước Thủ trưởng cơ quan cấp trên trực tiếp và trước pháp luật về toàn bộ hoạt
động của cơ quan.
Vì vậy, để đảm bảo hoạt động thi hành án dân sự nói chung, hoạt động
cưỡng chế thi hành án dân sự nói riêng đảm bảo tuân thủ nghiêm túc trình tự,
thủ tục được pháp luật quy định, nâng cao kết quả, hiệu quả của công tác này,
thì cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự theo
hướng đề cao trách nhiệm thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sựvà cá nhân
Chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự.
3.1.2. Minh bạch hóa quá trình cưỡng chế thi hành án dân sự
Quá trình tổ chức thi hành án dân sự cũng như quá trình cưỡng chế thi
hành án phải được minh bạch hóa thông qua việc, Chấp hành viên và cơ quan
Thi hành án dân sự phải thông báo đầy đủ, ngay từ khi phát sinh nghĩa vụ của
các bên (thời điểm ra quyết định thi hành án) cho đến khi các bên thực hiện
xong quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
Quyết định về thi hành án, giấy báo, giấy triệu tập và văn bản khác có
liên quan đến việc thi hành án phải thông báo cho đương sự, người có quyền,
nghĩa vụ liên quan để họ thực hiện quyền, nghĩa vụ theo nội dung của văn bản
đó, thông qua các hình thức [57, tr.24]:
- Thông báo trực tiếp hoặc qua cơ quan, tổ chức, cá nhân khác theo quy
định của pháp luật;
- Niêm yết công khai;
- Thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Khi thông báo trực tiếp cho cá nhân, văn bản thông báo cho cá nhân phải
được giao trực tiếp và yêu cầu người đó ký nhận hoặc điểm chỉ. Trường hợp
người được thông báo vắng mặt thì văn bản thông báo được giao cho một
trong số những người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú
với người đó, bao gồm vợ, chồng, con, ông, bà, cha, mẹ, bác, chú, cô, cậu, dì,
78
anh, chị, em của đương sự, của vợ hoặc chồng của đương sự. Việc giao thông
báo phải lập thành biên bản. Trường hợp người được thông báo không có
người thân thích có đủ năng lực hành vi dân sự cùng cư trú hoặc có nhưng
người đó từ chối nhận văn bản thông báo hoặc người được thông báo vắng
mặt mà không rõ thời điểm trở về thì người thực hiện thông báo phải lập biên
bản về việc không thực hiện được thông báo, có chữ ký của người chứng kiến
và thực hiện việc niêm yết công khai. Trường hợp người được thông báo đã
chuyển đến địa chỉ mới thì phải thông báo theo địa chỉ mới của người được
thông báo [18, tr.3].
Khi thông báo trực tiếp cho cơ quan, tổ chức, thì văn bản thông báo phải
được giao trực tiếp cho người đại diện theo pháp luật hoặc người chịu trách
nhiệm nhận văn bản của cơ quan, tổ chức đó và phải được những người này
ký nhận. Trường hợp cơ quan, tổ chức được thông báo có người đại diện tham
gia việc thi hành án hoặc cử người đại diện nhận văn bản thông báo thì những
người này ký nhận văn bản thông báo.
Việc thông báo cũng có thể thực hiện bằng hình thức niêm yết công khai.
Việc niêm yết công khai văn bản thông báo chỉ được thực hiện khi không rõ
địa chỉ của người được thông báo hoặc không thể thực hiện được việc thông
báo trực tiếp, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Cơ quan thi hành án
dân sự trực tiếp hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú hoặc
nơi cư trú cuối cùng của người được thông báo hoặc cá nhân, tổ chức có đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật thực hiện việc niêm yết.
Việc niêm yết được thực hiện bằng cách niêm yết văn bản thông báo tại
trụ sở cơ quan thi hành án dân sự, trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã, nơi cư trú
hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được thông báo và lhải lập thành biên
bản, trong đó ghi rõ ngày, tháng, năm niêm yết; số, ngày, tháng, năm, tên của
văn bản thông báo; có chữ ký của người chứng kiến.
79
Trường hợp cần thiết, việc thông báo được thực hiện qua trên phương
tiện thông tin đại chúng. Nếu xác định đương sự đang có mặt tại địa phương
nơi đương sự cư trú thì việc thông báo được thực hiện trên báo ngày trong hai
số liên tiếp hoặc trên đài phát thanh, đài truyền hình của tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương của địa phương đó hai lần trong 02 ngày liên tiếp. Trường
hợp xác định đương sự không có mặt tại địa phương nơi đương sự cư trú thì
việc thông báo được thực hiện trên báo ngày trong hai số liên tiếp hoặc trên
đài phát thanh, đài truyền hình của trung ương hai lần trong 02 ngày liên tiếp.
Bên cạnh đó, cơ quan Thi hành án dân sự phải niêm yết công khai trình
tự, thủ tục thi hành án dân sự tại trụ sở cơ quan. Hoạt động thi hành án dân sự
chịu sự giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân và Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các cơ quan nhà nước khác trong thi hành án dân sự theo quy định
của pháp luật.
Đồng thời, Viện kiểm sát nhân dân có quyền kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của Cơ quan Thi hành án dân sự, Chấp hành viên, cơ quan, tổ chức,
cá nhân có liên quan trong việc thi hành án dân sự. Khi kiểm sát thi hành án
dân sự, Viện kiểm sát nhân dân có quyền yêu cầu Chấp hành viên, cơ quan
Thi hành án dân sự ra quyết định về thi hành án, gửi các quyết định về thi
hành án; thi hành đúng bản án, quyết định; tự kiểm tra việc thi hành án và
thông báo kết quả kiểm tra cho Viện kiểm sát nhân dân; yêu cầu cơ quan, tổ
chức và cá nhân cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng có liên quan đến việc thi
hành án; Trực tiếp kiểm sát hoạt động thi hành án dân sự của cơ quan thi hành
án dân sự và các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan; ban hành kết luận
kiểm sát khi kết thúc việc kiểm sát; Tham gia phiên họp của Tòa án xét miễn,
giảm nghĩa vụ thi hành án đối với khoản thu nộp ngân sách nhà nước và phát
biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân; Kiến nghị xem xét hành vi, quyết
định liên quan đến thi hành án có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng của Tòa
án, cơ quan Thi hành án dân sự, yêu cầu khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý
người vi phạm; kiến nghị cơ quan, tổ chức liên quan có sơ hở, thiếu sót trong
80
hoạt động quản lý khắc phục nguyên nhân, điều kiện dẫn tới vi phạm pháp
luật và áp dụng các biện pháp phòng ngừa; Kháng nghị hành vi, quyết định
của Thủ trưởng, Chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự có vi phạm pháp
luật nghiêm trọng xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của cơ quan, tổ chức, cá nhân; yêu cầu đình chỉ việc thi hành, thu hồi, sửa đổi,
bổ sung hoặc hủy bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc thi hành án,
chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật [57, tr.13].
3.1.3. Xã hội hóa thi hành án dân sự
Nghị quyết số 9-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định
“Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà
nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ
chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình... từng bước
thực hiện việc xã hội hóa và quy định những hình thức, thủ tục để giao
cho tổ chức không phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công
việc thi hành án dân sự”; “Nghiên cứu chế định Thừa phát lại (thừa
hành viên); trước mắt có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương,
sau vài năm, trên cơ sở tổng kết, đánh giá thực tiễn sẽ có bước đi tiếp
theo” [5, tr.3].
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, ngày 1 /11/2008 Quốc hội đã ban
hành Nghị quyết số 2 /2008/QH12 về thi hành Luật Thi hành án dân sự, trong
đó quy định “Để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hoá một số công việc
có liên quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và tổ chức thực
hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương.
Việc thí điểm được thực hiện trong 03 năm, từ ngày 01 tháng 7 năm 2009 đến
ngày 01 tháng 7 năm 2012 [53, tr.2].
Sau 03 năm thực hiện, Chính phủ đã tổng kết, đánh giá kết quả thực
hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, trên cơ sở đó, Quốc hội đã ban hành
81
Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội khóa XIII về tiếp tục thí điểm chế
định Thừa phát lại đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2015.
Thực hiện Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ đã ký Quyết định số 510/QĐ-TTg ngày 25/3/2012 phê duyệt Đề
án tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, theo đó việc thí điểm
chế định Thừa phát lại được mở rộng từ 12 đến 15 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương.
Kết thúc thí điểm, Quốc hội đã đánh giá và thông qua Nghị quyết số
107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về thực hiện chế định thừa phát lại, trong
đó ghi nhận kết quả đạt được trong việc thực hiện thí điểm chế định Thừa
phát lại và chính thức cho thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi cả
nước từ ngày 01/01/2016.
Việc tổ chức thí điểm thành công chế định Thừa phát lại đã góp phần
quan trọng cho công tác xã hội hóa các nghề tư pháp, làm sáng tỏ và đầy đủ
hơn ý nghĩa của những nỗ lực cải cách trên cả ba lĩnh vực lập pháp, hành pháp
và tư pháp của đất nước ta. Đối với người dân, xã hội, việc thực hiện thí điểm
chế định Thừa phát lại đã góp phần nâng cao nhận thức không những đối với
cơ quan nhà nước mà còn đối với người dân về một chủ trương mới của
Đảng, Nhà nước. Đối với hoạt động tư pháp và liên quan, hoạt động Thừa
phát lại đã bước đầu hỗ trợ tích cực cho các hoạt động tư pháp được nhanh
hơn, hiệu quả hơn, góp phần giảm tải công việc của các cơ quan tư pháp,
trước hết là của Tòa án và Cơ quan Thi hành án dân sự.
Thực tiễn đã cho thấy, Thừa phát lại đã bắt đầu trở thành một nghề, từng
bước khẳng định vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội và trong hoạt
động bổ trợ tư pháp. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền về Thừa phát lại ở cả
Trung ương và địa phương còn chưa sâu rộng nên hiểu biết của người dân và
xã hội về Thừa phát lại còn hạn chế; sự phối hợp của các cấp, các ngành và
82
của các cơ quan đối với Văn phòng Thừa phát lại còn chưa chặt chẽ, có lúc có
chưa hiệu quả [12, tr.9].
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự
từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về cưỡng chế
thi hành án dân sự
Ngày 25/11/201 , tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu
lực kể từ ngày 01/7/2015. Ngày 18/7/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị định
số 62/2015/NĐ-CP để hướng dẫn thi hành Luật. Việc ban hành Luật, Nghị
định, Thông tư liên tịch, Thông tư đã tạo ra hệ thống pháp luật thi hành án cơ
bản đồng bộ, từ chức năng, nhiệm vụ; cơ cấu tổ chức bộ máy; trình tự, thủ tục
tổ chức thi hành án Trên cơ sở đó, việc tổ chức thi hành Luật đã đạt được
nhiều kết quả quan trọng, nhận thức của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và các
tầng lớp nhân dân về ý nghĩa, vai trò của công tác thi hành án dân sự được nâng
lên rõ rệt; vị thế cơ quan Thi hành án dân sự được nâng lên một bước; nhờ đó,
kết quả công tác thi hành án dân sự đã có những chuyển biến tích cực và đạt kết
quả khả quan.
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực nêu trên, Luật sửa đổi, bổ sung
và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng đã bộc lộ những hạn chế, khó khăn,
vướng mắc nhất định, như
- Có những vấn liên quan đến Luật Thi hành án dân sự, những vấn đề
liên quan đến Nghị định số 62/2015/NĐ-CP quy định còn thiếu, chưa rõ, cần
thiết phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
- Có những vấn đề đã được Luật, Nghị định quy định và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, cơ quan Thi hành án
dân sự địa phương còn lúng túng, còn có cách hiểu khác nhau, chưa thống nhất.
- Có những vấn đề phát sinh trong thực tiễn nhưng pháp luật chưa có quy
83
định, dẫn đến gặp nhiều khó khăn trong quá trình tổ chức thi hành án.
- Có những vấn đề liên quan đến các văn bản khác có liên quan cần sửa
đổi, bổ sung cụ thể (như Luật Tương trợ Tư pháp năm 2007; Nghị định số
110/2013/NĐ-CP (được Nghị định số 67/2015/NĐ-CP ngày 1 /8/2015 sửa
đổi bổ sung quy định về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với hành
vi không thực hiện công việc phải làm theo bản án); Thông tư liên tịch số
03/2012/TTLT-BTP-BCA, ngày 30/3/2012 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an cần bổ
sung quy định lực lượng Công an phối hợp bảo vệ cưỡng chế, tạm giữ tài sản
trong thi hành án dân sự; Thông tư số 08/2015/TT-BTP về hệ thống mẫu biểu).
Nhằm góp phần tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc nêu trên, thể chế pháp
luật về thi hành án dân sự cần tiếp tục được nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, cụ
thể như
3.2.1.1. Về kê biên tài sản
Việc viện dẫn tại điểm c khoản 2 Điều 98 Luật thi hành án dân sự là
không phù hợp, cụ thể
“2. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày kê biên tài sản, Chấp
hành viên ký hợp đồng dịch vụ với tổ chức thẩm định giá trên địa bàn
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có tài sản kê biên trong các
trường hợp sau đây:
a)....
b).......
c) Thi hành phần bản án, quyết định quy định tại khoản 1 Điều 36
của Luật này”. [57, tr.50].
Trong trường hợp này, Chấp hành viên chủ động ký Hợp đồng bán đấu
giá tài sản trong trường hợp thi hành án chủ động theo khoản 2 Điều 36 Luật
(khoản 1 Điều 36 của Luật quy định về ra quyết định thi hành án theo đơn yêu
cầu). Do vậy, phải sửa khoản 2 Điều 98 Luật thi hành án dân sự cho phù hợp.
3.2.1.2. Về việc kê biên quyền sử dụng đất
84
Khoản 2 Điều 110 Luật thi hành án dân sự quy định về quyền sử dụng
đất được kê biên, bán đấu giá để thi hành án
“ 2. Người phải thi hành án chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất mà thuộc trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai hoặc thuộc diện quy
hoạch phải thu hồi đất, nhưng chưa có quyết định thu hồi đất thì vẫn
được kê biên, xử lý quyền sử dụng đất đó” [57, tr.55].
Tuy nhiên, Điều 188 Luật Đất đai năm 2013 quy định về điều kiện thực
hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng
cho, thế chấp quyền sử dụng đất; góp vốn bằng quyền sử dụng đất, theo đó: “a)
Có Giấy chứng nhận, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 186 và trường
hợp nhận thừa kế quy định tại khoản 1 Điều 168 của Luật này” [56, tr.55].
Như vậy, quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 110 Luật thi hành án dân
sự có sự mâu thuẫn với quy định của Luật Đất đai, gây khó khăn cho Chấp
hành viên khi kê biên, bán đấu giá quyền sử dụng đất để thi hành án.
3.2.1.3. Những vấn đề khác chưa có quy định
Về chuyển giao nghĩa vụ thi hành án
Luật Thi hành án dân sự quy định trường hợp thi hành nghĩa vụ về tài
sản mà người phải thi hành án chết; tuy nhiên, đối với trường hợp người có
quyền lợi nghĩa vụ liên quan đứng tên chủ sở hữu, sử dụng tài sản đảm bảo thi
hành án chết (trong các vụ việc tín dụng, ngân hàng) thì luật chưa có quy
định. Việc tài sản đảm bảo thi hành án là tài sản thế chấp đứng tên sở hữu, sử
dụng của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được thông qua hợp đồng ủy
quyền hoặc bảo lãnh. Theo quy định của Luật dân sự khi bên ủy quyền chết
thì hợp đồng ủy quyền chấm dứt; trường hợp bên bảo lãnh là cá nhân chết thì
bảo lãnh chấm dứt, nghĩa vụ bảo lãnh được chuyển giao cho người thừa kế.
Theo đó, có thể thấy khi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đứng tên chủ
sở hữu, sử dụng tài sản đảm bảo thi hành án chết được xác định là sự kiện
85
pháp lý ảnh hưởng đến việc xử lý tài sản đảm bảo thi hành án, nhưng Luật sửa
đổi, bổ sung không quy định cụ thể đã ảnh hưởng đến quá trình thi hành án.
Về thi hành quyết định giám đốc thẩm
Khoản 50 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng
Dân sự năm 2011 và Điều 3 3 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 quy định
thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, theo đó, Hội đồng xét xử
giám đốc thẩm có thẩm quyền hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định
của Tòa án; sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án. Tuy
nhiên, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 201
chưa quy định về thi hành quyết định giám đốc thẩm hủy một phần và sửa
một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án.
Về phối hợp bảo vệ tạm giữ tài sản
Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày 30/3/2012 của Bộ
Tư pháp và Bộ Công an chỉ quy định về phối hợp bảo vệ cưỡng chế trong thi
hành án dân sự, chưa quy định hỗ trợ Chấp hành viên trong việc tạm giữ tài
sản. Do đó, cần có sự nghiên cứu để bổ sung quy định lực lượng Công an
phối hợp bảo vệ cưỡng chế, tạm giữ tài sản trong thi hành án dân sự.
Bên cạnh đó, có thể nói rằng, trong tổ chức cưỡng chế thi hành án, thì
Chấp hành viên là người đóng vai trò trung tâm. Hiệu quả tổ chức cưỡng chế
thi hành án một phần phụ thuộc vào hiệu quả tác nghiệp của Chấp hành viên,
và muốn Chấp hành viên tác nghiệp đạt hiệu quả cao, thì quyền hạn được
pháp luật trao cho Chấp hành viên có ý nghĩa hết sức quan trọng. Quy định về
quyền hạn của Chấp hành viên hiện nay tuy cơ bản đã đầy đủ, nhưng chưa có
cơ chế bảo đảm cho các quyền này phát huy hiệu quả, nhất là khi Chấp hành
viên yêu cầu đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc cơ quan,
tổ chức, cá nhân có liên quan thực hiện các nội dung công việc có liên quan
đến trách nhiệm, nghĩa vụ của họ nhưng họ từ chối thực hiện hoặc không thực
86
hiện, thực hiện không đầy đủ, không đúng yêu cầu, làm ảnh hưởng đến tiến
độ, kết quả, chất lượng và hiệu quả tổ chức thi hành án.
3.2.2. Xác định rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong quá trình
cưỡng chế thi hành án dân sự
Hiện nay, pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự tuy đã có các quy
định về trách nhiệm của các chủ thể trong cưỡng chế thi hành án. Tuy nhiên,
trách nhiệm chủ yếu vẫn là của Chấp hành viên, nếu Chấp hành viên vi phạm
các quy định về trình tự, thủ tục thi hành án dân sự thì sẽ bị xử lý theo quy
định. Trong khi đó, trách nhiệm của các bên đương sự, đặc biệt là trách nhiệm
của người phải thi hành án tuy có quy định, nhưng những quy định này chưa
mang tính ràng buộc, chưa có chế tài đủ mạnh, chưa đề cao tính nghiêm khắc
và nghiêm minh, nên chưa phát huy được tính răn đe và hiệu quả thực thi
quyền lực nhà nước trong thi hành án dân sự, dẫn đến rất nhiều trường hợp ý
thức tuân thủ pháp luật của một số tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc thi
hành án, nhất là của người phải thi hành án chưa cao, có trường hợp cố tình
chây ỳ, tẩu tán tài sản, thậm chí là chống đối quyết liệt, gây khó khăn cho việc
tổ chức thi hành án; nhiều trường hợp cố tình khiếu nại vượt cấp nhằm mục
đích kéo dài thời gian thi hành án, trốn tránh nghĩa vụ thi hành án; nhiều
trường hợp đương sự không hợp tác, nhiều cơ quan hữu quan không phối hợp,
không thực hiện trách nhiệm của mình đã được pháp luật quy định.
Vì vậy, pháp luật về thi hành án dân sự cần tiếp tục được hoàn thiện, cần
đề cao tính nghiêm khắc và nghiêm minh trong thi hành án dân sự, quy định
rõ trách nhiệm của các chủ thể tham gia quá trình tổ chức thi hành án, nhất là
cần làm rõ thêm trách nhiệm của người phải thi hành án, trách nhiệm của
người được thi hành án và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
3.2.3. Nâng cao năng lực thực thi công vụ của Chấp hành viên cơ
quan Thi hành án dân sự
87
Để nâng cao năng lực cho Chấp hành viên, công chức làm công tác thi hành
án dân sự trong tổ chức thực hiện việc kê biên, thẩm định giá, bán đấu giá tài sản
của người phải thi hành án, cần thực hiện các giải pháp sau đây
Thứ nhất, cần tổ chức tập huấn chuyên sâu về nội dung, trình tự, thủ tục
thực hiện việc kê biên, xử lý tài sản để thi hành án, các quy định của pháp luật
có liên quan.
Thứ hai, tổ chức kiểm tra các hoạt động kê biên, xử lý tài sản để thi hành án,
nhất là các vụ việc có giá trị lớn. Kịp thời phát hiện các sai sót để khắc phục,
thông tin rộng rãi, phổ biến các dạng sai sót, vi phạm, tồn tại, hạn chế trong tác
nghiệp thi hành án trong toàn hệ thống để Chấp hành viên, công chức làm công
tác thi hành án tổ chức nghiên cứu, đối chiếu và rút kinh nghiệm chung.
Thứ ba, tập trung chỉ đạo Chấp hành viên thực hiện tốt công tác xác minh
điều kiện thi hành án của đương sự. Trong đó, tập trung xác minh, làm rõ các
thông tin về tài sản, trên cơ sở đó, làm việc với cơ quan nhà nước quản
lýchuyên ngành để giải quyết các vấn đề khó khăn, vướng mắc phát sinh, làm
rõ trường hợp nào có thể kê biên thì áp dụng biện pháp kê biên, xử lý tài sản
đảm bảo thi hành án và trường hợp nào không thực hiện được việc kê biên thì
cần kịp thời báo cáo, phối hợp với cơ quan hữu quan hoặc có biện pháp giải
quyết phù hợp, đúng quy định.
3.2.4. Bảo đảm sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan có trách nhiệm
trong cưỡng chế thi hành án dân sự
Để công tác thi hành án dân sự, nhất là trong tổ chức cưỡng chế thi hành
án đạt hiệu quả, thì các cơ quan có trách nhiệm liên quan phải phối hợp chặt
chẽ, nhịp nhàng và đồng bộ, giải quyết kịp thời những vướng mắc, khó khăn
phát sinh trong việc phối hợp, đặc biệt là trong tổ chức cưỡng chế thi hành các
vụ án lớn, phức tạp, có ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội
ở địa phương.
88
Các cơ quan có liên quan đề xuất biện pháp giải quyết những vướng
mắc, khó khăn trong việc phối hợp các cơ quan có liên quan và tổ chức cưỡng
chế thi hành án dân sự. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
ngành, đơn vị mình, các cơ quan hữu quan phải có trách nhiệm chỉ đạo hoặc
đề xuất chỉ đạo đối với tập thể, cá nhân thuộc ngành, đơn vị mình phối hợp
chặt chẽ với cơ quan Thi hành án dân sự. Cùng tập thể lãnh đạo cơ quan, đơn
vị mình xem xét, giải quyết các vấn đề có liên quan đến chỉ đạo việc tổ chức
phối hợp các cơ quan có liên quan trong thi hành án dân sự; chỉ đạo việc tổ
chức cưỡng chế thi hành án dân sự thuộc chức năng quản lý của ngành, đơn vị
mình để phối hợp thực hiện.
3.2.5. Đẩy mạnh xã hội hóa thi hành án dân sự
Việc triển khai thực hiện chế định Thừa phát lại giúp cơ quan Thi hành
án dân sự giảm tải được các công việc về tống đạt văn bản thi hành án, xác
minh điều kiện thi hành án. Hoạt động trực tiếp tổ chức thi hành án của Thừa
phát lại góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cơ quan Thi hành án
dân sự, tạo cơ chế vừa phối hợp, hỗ trợ vừa cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh
vực thi hành án, góp phần hạn chế một số tiêu cực trong hoạt động thi hành
án. Từ vai trò, tác động của việc thực hiện chế định Thừa phát lại có thể thấy,
mô hình này là cần thiết cho người dân, xã hội nói chung, cho hoạt động Tư
pháp nói riêng. Hiệu quả hoạt động Thừa phát lại bước đầu đã cho thấy đây là
một hướng đi đúng về xã hội hóa hoạt động Tư pháp, hoạt động thi hành án
dân sự mà chủ trương của Đảng, Nghị quyết của Quốc hội đã đề ra.
3.2.6. Các giải pháp riêng cho tỉnh Đắk Lắk
Nhóm giải pháp thứ 01: Đổi mới công tác tổ chức cán bộ, chấn chỉnh kỷ
cương, kỷ luật hành chính, giáo dục nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức
nghề nghiệp cho đội ngũ Chấp hành viên của tỉnh.
Thực hiện phương châm “đoàn kết, sáng tạo, kỷ cương, thi đua hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ”, yêu cầu cán bộ, công chức toàn Ngành Thi hành án
89
dân sự của tỉnh phải thường xuyên học tập, nâng cao trình độ chính trị, đạo
đức nghề nghiệp, chuyên môn nghiệp vụ. Thực hiện nghiêm túc quy chế làm
việc, quy định những điều cán bộ, công chức không được làm, bộ chuẩn mực
đạo đức nghề nghiệp của Chấp hành viên.
Tăng cường công tác tập huấn bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cho đội ngũ Chấp hành viên; Thường xuyên theo dõi, giúp đỡ,
hướng dẫn, kịp thời tháo gỡ vướng mắc khó khăn trong công tác cho Chấp
hành viên, công chức thi hành án. Những Chấp hành viên trình độ chuyên
môn, kỹ năng nghề nghiệp còn yếu, tiếp tục bố trí cho đi học hoặc buộc tự
học lại chương trình nghiệp vụ Chấp hành viên, đồng thời tăng cường bồi
dưỡng phát triển nguồn Chấp hành viên mới.
Tổ chức và động viên các Chấp hành viên đăng ký thi Chấp hành viên
giỏi bằng các sáng kiến hay, kinh nghiệm tốt có giá trị thực tiễn. Từng bước
nghiên cứu, xây dựng bộ mẫu chỉ dẫn thực hành nghiệp vụ cho từng tình
huống nghiệp vụ cụ thể, làm cẩm nang công tác thi hành án dân sự cho Chấp
hành viên, công chức thi hành án.
Hàng năm xây dựng Kế hoạch luân chuyển và Kế hoạch chuyển đổi vị
trí công tác đối với Chấp hành viên để triển khai thực hiện có hiệu quả, góp
phần bồi dưỡng toàn diện và sử dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ, tạo điều
kiện cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, Chấp hành viên có môi trường để
học hỏi, trau dồi kiến thức toàn diện ở các lĩnh vực, vị trí, địa bàn khác nhau,
khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín trong lĩnh vực công tác và từng địa
phương; tạo môi trường rèn luyện, thử thách, tạo điều kiện bồi dưỡng cho
Chấp hành viên, nhất là Chấp hành viên trẻ, có triển vọng trưởng thành nhanh
hơn và toàn diện hơn, đáp ứng yêu cầu cán bộ trước mắt và lâu dài của toàn
bộ hệ thống cơ quan Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk, từng bước điều chỉnh
việc bố trí đội ngũ Chấp hành viên hợp lý, tăng cường lực lượng Chấp hành
viên cho cơ quan Thi hành án dân sự trong tỉnh đang có nhu cầu cấp bách
hoặc có nhiều khó khăn.
90
Trong quy hoạch cán bộ cần chú trọng nguồn quy hoạch nòng cốt là đội
ngũ Chấp hành viên, từ kết quả phê duyệt quy hoạch, triển khai công tác đào
tạo, bồi dưỡng hợp lý, dựa vào vị trí việc làm, tiêu chuẩn của ngạch công
chức, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý và nhu cầu xây dựng, phát triển
nguồn nhân lực của cơ quan, góp phần nâng cao năng lực đội ngũ Chấp hành
viên một cách toàn diện cả về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ lẫn trình độ lý
luận chính trị và kỹ năng, kinh nghiệm công tác cũng như năng lực thực thi
công vụ, xây dựng đội ngũ Chấp hành viên đáp ứng tốt yêu cầu đổi mới về tổ
chức và hoạt động của Ngành Thi hành án dân sự của tỉnh trong tình hình mới.
Hàng năm cần tổ chức sơ kết, tổng kết, đánh giá kết quả triển khai thực
hiện giải pháp gắn với đánh giá, phân loại công chức trên cơ sở coi trọng hiệu
quả công tác, phẩm chất chính trị và đạo đức nghề nghiệp. Nêu cao ý thức phê
bình và tự phê bình, kiểm điểm, xử lý kịp thời những công chức vi phạm pháp
luật, vi phạm đạo đức công vụ. Động viên, khen thưởng kịp thời những công
chức có sáng kiến, giải pháp hay, việc làm tốt.
Nhóm giải pháp thứ 02: Thực hiện nghiêm túc chế độ kiểm tra công tác
thi hành án dân sự, kiểm tra toàn diện và kiểm tra theo chuyên đề
Hàng năm tổ chức kiểm tra toàn diện ít nhất 30% và ít nhất 20% tổng số
các Chi cục Thi hành án dân sự trực thuộc. Kịp thời phát hiện, chấn chỉnh
những sai sót, khuyết điểm trong công tác thi hành án dân sự, trọng tâm là việc
áp dụng các quy định của pháp luật trong hoạt động thi hành án dân sự; khắc
phục thiếu sót vi phạm do Viện kiểm sát nhân dân kiến nghị, kháng nghị.
Định kỳ 03 tháng 01 lần, Cục Thi hành án dân sự tỉnh tổ chức giao ban
công tác thi hành án dân sự với Chi cục Thi hành án dân sự các huyện, thị xã,
thành phố của tỉnh. Nội dung giao ban tập trung đánh giá kết quả thi hành án,
những ưu, khuyết điểm, tồn tại thiếu sót trong công tác thi hành án dân sự, tìm
ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục, hướng giải quyết đối với các vụ việc
thi hành án có khó khăn, phức tạp ...
91
Phân công Lãnh đạo Cục, Lãnh đạo các Phòng chuyên môn thuộc Cục,
Chấp hành viên Cục Thi hành án dân sự tỉnh phụ trách từ 01 đến 02 Chi cục
Thi hành án dân sự trực thuộc. Thường xuyên bám sát địa bàn phụ trách để
nắm bắt kết quả tổ chức thi hành án và tiến độ giải quyết việc thi hành án theo
tỷ lệ về việc và tiền để có biện pháp tham mưu giúp Cục trưởng trong lãnh
đạo, chỉ đạo công tác thi hành án dân sự ở các đơn vị trực thuộc. Trực tiếp
làm việc với các Chi cục, Ban chỉ đạo thi hành án các huyện, thành phố, thị xã
để chỉ đạo giải quyết những việc thi hành án dân sự có khó khăn, phức tạp và
những việc thi hành án cần có sự phối hợp của các ban ngành liên quan.
Nhóm giải pháp thứ 03: Nâng cao năng lực quản lý tổ chức thi hành án
dân sự của Chi cục trưởng đối với Chấp hành viên các Chi cục Thi hành án
dân sự trực thuộc
Chỉ đạo rà soát, sửa đổi bổ sung Quy chế làm việc của các Chi cục Chi
cục Thi hành án dân sự trực thuộc. Phân công cụ thể nhiệm vụ quyền hạn cho
Lãnh đạo Chi cục và cán bộ công chức theo phương châm “rõ người, rõ việc,
rõ trách nhiệm, rõ thời gian hoàn thành”;
Hàng tuần, các Chi cục Thi hành án dân sự phải tổ chức giao ban, để Chi
cục trưởng kịp thời chỉ đạo đôn đốc tổ chức thi hành những vụ việc cụ thể.
Biểu dương kịp thời những công chức có sáng kiến hay việc làm tốt trong
tuần; Kiên quyết xử lý đối với những công chức có dấu hiệu vi phạm quy chế
làm việc và đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên; Nâng cao tinh thần đoàn
kết, tinh thần trách nhiệm của Chấp hành viên, cán bộ công chức.
Những việc có khó khăn, vướng mắc vượt quá thẩm quyền, vượt khả
năng tự giải quyết phải kịp thời xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên để tránh thiếu
sót, vi phạm trong tổ chức thi hành án. Những việc thi hành án cần phải
cưỡng chế có khó khăn, phức tạp, Chi cục chủ động dự thảo Kế hoạch, xin ý
kiến của Ban chỉ đạo thi hành án dân sự để Ban chỉ đạo tổ chức họp và kết
luận để Chi cục tổ chức triển khai thực hiện.
92
Quản lý kinh phí đúng chế độ tài chính hiện hành về chế độ tự chủ; Ưu
tiên kinh phí cho việc tổ chức phối hợp các cơ quan hữu quan trong thi hành
án dân sự, đặc biệt là Uỷ ban nhân dân cấp xã, công an phường xã, thị trấn,
trại giam, trại tạm giam.
Nhóm giải pháp thứ 04: Nâng cao năng lực nghiệp vụ tổ chức thi hành
án cho Chấp hành viên, bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của
pháp luật.
Tuân thủ đầy đủ các nguyên tắc, trình trự, thủ tục theo quy định của pháp
luật về thi hành án dân sự và các quy định của pháp luật có liên quan; Tổ chức
thi hành án kịp thời, liên tục, không để gián đoạn, chấp hành nghiêm chỉnh
thời hạn, thời hiệu ban hành các văn bản về thi hành án dân sự.
Tích cực, kiên trì động viên, thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành,
bằng nhiều biện pháp Tác động về mặt tinh thần, tư tưởng, nêu cao ý thức
chấp hành pháp luật, làm cho người phải thi hành án nhận thức được quyền,
nghĩa vụ, trách nhiệm của mình, từ đó lựa chọn biện pháp tự nguyện thi
hành án;
Xác minh điều kiện thi hành án kịp thời, yêu cầu phải xác minh trực tiếp
cụ thể điều kiện kinh tế, hiện trạng tài sản; Khai thác thông tin thông qua
nhiều kênh như người thân, bạn bè, đồng nghiệp, khối phố, Buôn làng, cơ
quan đơn vị nơi người phải thi hành án cư trú, công tác, có tài sản, tại cơ quan
đăng ký quyền sở hữu, đăng ký giao dịch bảo đảm, Kho bạc, Ngân hàng, tổ
chức tín dụng v.v.
Nếu người phải thi hành án có điều kiện thi hành không tự nguyện thi
hành, hoặc có dấu hiệu chống đối, trốn tránh việc thi hành án thì phải kiên
quyết áp dụng biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế để thi hành, hoặc đề
nghị khởi tố vụ án hình sự về tội không chấp hành án;
Chủ động phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban nhân dân cấp xã và các cơ quan
tổ chức nơi người phải thi hành án cư trú, công tác, để khuyến khích tự
93
nguyện thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án và áp dụng biện pháp bảo
đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án hiệu quả, an toàn.
Nhóm giải thứ 05: thành lập các Tổ, Đội công tác của Cục Thi hành án
dân sự tỉnh trực tiếp xuống từng Chi cục Thi hành án dân sự để kiểm tra, đôn
đốc, nắm bắt tình hình, chỉ đạo và hướng dẫn về chuyên môn nghiệp vụ, tháo
gỡ những khó khăn, vướng mắc đối với từng đơn vị Thi hành án dân sự trực
thuộc, từng Chấp hành viên và từng vụ việc thi hành án cụ thể.
Để tăng tính linh hoạt, hiệu quả, tiến độ nhanh, các Tổ, Đội công tác
được thành lập với số lượng 02 hoặc 03 người. Tùy vào tình hình yêu cầu
công tác, cùng lúc có thể thành lập nhiều Tổ, Đội công tác để triển khai nhiệm
vụ tại nhiều đơn vị khác nhau. Các Tổ, Đội công tác không chỉ thực hiện
nhiệm vụ đôn đốc, kiểm tra, mà còn thực hiện việc hướng dẫn, tháo gỡ khó
khăn vướng mắc, phức tạp, thậm chí là trực tiếp tham gia hỗ trợ giải quyết các
việc thi hành khó khăn, phức tạp, đặc biệt là các vụ việc thi hành án lớn (có
giá trị rất lớn, có nhiều đối tượng phải thi hành án, vụ việc khó, rất khó thi
hành) và các vụ việc tổ chức cưỡng chế có tính chất phức tạp, ảnh hưởng đến
an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Các Tổ, Đội công tác có thể tham gia hỗ trợ, chỉ đạo cưỡng chế thi hành
án tại các Chi cục Thi hành án dân sự trực thuộc. Để hỗ trợ và chỉ đạo cưỡng
chế tại các Chi cục, thì trước khi tổ chức cưỡng chế, các Tổ, Đội công tác sẽ
nghiên cứu kỹ hồ sơ và trình tự, thủ tục tác nghiệp của Chấp hành viên, nhận
định tính chất vụ việc, dự liệu các tình huống có thể xảy ra và phương án xử
lý, giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình cưỡng chế từ đó xây dựng
kế hoạch, phương án giải quyết, trực tiếp chỉ đạo Chi cục Thi hành án dân sự
trực thuộc xây dựng nội dung, liên hệ với các cơ quan có thẩm quyền ở địa
phương để các Tổ, Đội công tác (có sự tham gia của Chi cục) tổ chức trao đổi
làm việc với các cơ quan hữu quan thống nhất quan điểm, phương thức làm
việc, tạo nên tính nền nếp, hiệu quả trong hoạt động phối hợp thi hành án, góp
phần nâng cao kết quả, hiệu quả thi hành án dân sự tại các địa phương.
94
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Cưỡng chế thi hành án dân sự với tính chất đặc thù là dùng quyền lực
nhà nước áp đặt đối với đối tượng bị cưỡng chế thi hành án dân sự, bảo đảm
cho các bản án, quyết định được nghiêm chỉnh thi hành, góp phần thực hiện
chức năng quản lý xã hội của Nhà nước. Việc tổ chức cưỡng chế thực hiện
một cách đúng đắn nhất, phù hợp nhất, đạt kết quả cao nhất sẽ có hiệu quả
nhất của việc cưỡng chế thi hành án dân sự và nâng cao hiệu quả công tác thi
hành án dân sự. Nếu việc tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự thực hiện
không có căn cứ, sai trình tự, thủ tục; không đúng thẩm quyền, đối tượng và
không phù hợp với đặc trưng, bản chất pháp lý của vụ việc cưỡng chế thi
hành án dân sự sẽ làm giảm hiệu lực, hiệu quả thi hành án. Hiệu quả cưỡng
chế thi hành án dân sự ảnh hưởng bởi nhiều hoạt động, công đoạn khác nhau,
từ xác minh điều kiện cưỡng chế, đến lựa chọn biện pháp cưỡng chế, ra quyết
định cưỡng chế và tổ chức thực hiện quyết định cưỡng chế .v.v. Tổ chức thực
hiện quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự là công việc khó khăn và phức
tạp nhất khi tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự mà hầu hết các vụ việc
cưỡng chế thi hành án dân sự đều phải trải qua.
Cưỡng chế thi hành án dân sự không chỉ phát huy hiệu quả ngay sau khi
tiến hành xong một vụ việc cưỡng chế cụ thể mà còn phát huy tác dụng trong
một thời gian dài sau đó. Thực trạng cưỡng chế thi hành án cũng đã chỉ ra
rằng, việc cưỡng chế thi hành án dân sự để có thể thành công, đạt được hiệu
quả phụ thuộc rất nhiều yếu tố năng lực tổ chức thực hiện quyết định cưỡng
chế, sự phối hợp giữa các lực lượng tham gia cưỡng chế, thái độ hợp tác, ý
thức chấp hành án của các bên đương sự, đặc biệt là nó còn phụ thuộc rất lớn
bởi nội dung các quy định pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự. Nếu các
quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự đầy đủ, khoa học, rõ
ràng, phù hợp với thực tiễn, dễ nhận thức, dễ thực hiện trong thực tiễn sẽ
giúp cho việc cưỡng chế thi hành án dân sự thành công, đạt hiệu quả cao.
95
Ngược lại, nếu quy phạm pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự nằm rải
rác ở nhiều văn bản, hình thức văn bản quy phạm pháp luật không cao, quy
định không rõ ràng, mâu thuẫn, chồng chéo sẽ dẫn đến khó khăn trong nhận
thức và thực hiện, rất dễ sai sót, vi phạm trong cưỡng chế thi hành án dân sự.
Ở góc độ này, những bất cập của lý luận và pháp luật về cưỡng chế thi hành
án dân sự được phát hiện thông qua thực tiễn cưỡng chế thi hành án dân sự
được coi là tiêu chí có ý nghĩa quan trọng hơn đối với các nhà nghiên cứu, các
cơ quan quản lý nhà nước, nhưng ở góc độ đánh giá khác, những vi phạm
trong cưỡng chế thi hành án dân sự không được phát hiện và xử lý thì cưỡng
chế thi hành án dân sự cũng chưa hiệu quả. Với các giải pháp đã được đưa ra,
công tác thi hành án dân sự của tỉnh Đắk Lắk sẽ đạt được nhiều kết quả khả
quan trong thời gian tới.
96
KẾT LUẬN LUẬN VĂN
Công tác thi hành án dân sự ngày càng có vị trí, vai trò hết sức quan
trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội, giữ gìn an ninh - trật tự an toàn xã
hội, đảm bảo cho các Bản án của Tòa án và các cơ quan có thẩm quyền
được thực thi trên thực tế. Với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, công tác
thi hành án dân sự ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực đối với đời sống
kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Các quy định của pháp luật về cưỡng
chế thi hành án dân sự hiện nay đã tạo được hành lang pháp lý cơ bản bảo
đảm cho công tác thi hành án dân sự hiệu quả hơn, phù hợp hơn với yêu cầu
của thực tiễn và tính chất đặc thù của hoạt động thi hành án dân sự. Trình
tự, thủ tục thi hành án dân sự được quy định rõ ràng, dễ thực hiện hơn, phát
huy tương đối hiệu quả mối quan hệ phối hợp trong thi hành án dân sự, nhận
thức và ý thức chấp hành pháp luật về thi hành án dân sự của cá nhân, tổ
chức được nâng lên...
Tuy nhiên, bên cạnh đó đã cho thấy còn nhiều hạn chế và khó khăn,
vướng mắc trong cưỡng chế thi hành án dân sự. Việc nghiên cứu và triển
khai Đề án này sẽ tháo gỡ được nhiều khó khăn, vướng mắc trong công
tác thi hành án dân sự của tỉnh Đắk Lắk, góp phần thiết thực góp phần bảo
đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo
đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần
giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ
máy nhà nước theo đúng nguyên tắc đã được Hiến định "Bản án, quyết
định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức,
cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh
chấp hành” [55, tr.26].
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết
08-NQ/TW ngày 02 thảng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
3. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (200 ), Văn kiện Hội
nghị lần thứ Chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb chính
trị quốc gia, Hà Nội.
4. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số
48-NQ/TW ngày 24 thảng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống Pháp luật Việt Nam đên năm 2010, định
hướng đến năm 2020, Hà Nội.
5. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số
49/NQ-TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải
cách Tư pháp đên năm 2020, Hà Nội.
6. Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Bộ Chính trị (201 ), Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/201 của Bộ Chính
trị về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 9-NQ/TW ngày 2/6/2005 của
Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà
Nội.
8. Bộ Nội vụ (2010), Thông tư số 10 /2010/TT-BNV ngày 28 tháng 10 năm
2010 quy định mã số, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức Chấp
hành viên và Thư ký thi hành án dân sự, Hà Nội.
9. Bộ Tư pháp (2010), Thông tư số 17/2010/TT-BTP ngày 11 tháng 10 năm
2010 quy định phân cấp quản lý công chức, công chức lãnh đạo cơ quan
quản lý Thi hành án dân sự và cơ quan Thi hành án dân sự, Hà Nội.
10. Bộ Tư pháp (2013), Thông tư số 01/2013/TT-BTP ngày 03/01/2013 của
98
Bộ Tư pháp hướng dẫn Chế độ báo cáo thống kê thi hành án dân sự.
11. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 08 /2015/TT-BTP ngày 26 tháng 6 năm
2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2013/TT-BTP ngày
03/01/2013 của Bộ Tư pháp hướng dẫn Chế độ báo cáo thống kê thi hành
án dân sự, Hà Nội.
12. Bộ Tư pháp (2015), Thông tư số 09/2015/TT-BTP ngày 26 tháng 6 năm
2015 quy định việc phân cấp quản lý công chức, viên chức, người lao động
thuộc Tổng cục Thi hành án dân sự và các cơ quan thi hành án dân sự, Hà
Nội.
13. Bộ Tư pháp (2016), Thông tư số 01/2016/TT-BTP ngày 01 tháng 02 năm
2016 hướng dẫn thực hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu
mẫu nghiệp vụ trong thi hành án dân sự, Hà Nội.
14. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (2011), Thông tư liên tịch số 1 /2011/TTLT-
BTP-BCA-BTC-TANDTC- VKSNDTC ngày 11/7/2011 hướng dẫn hoạt
động của Ban Chỉ đạo thi hành án dân sự, Hà Nội.
15. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (2013), Quy chế số 14/2013/QCLN/BTP-BCA-TANDTC-
VKSNDTC ngày 09 tháng 10 năm 2013 về phối hợp liên ngành trong
công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
16. Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Toà án nhân dân tối cao và Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (2016), Thông tư liên tịch số 05/2016/TTLT -
BTP - BCA - BTC -TANDTC - VKSNDTC ngày 19 tháng 5 năm 2016
hướng dẫn hoạt động của Ban Chỉ đạo Thi hành án dân sự, Hà Nội.
17. Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
(2010), Thông tư liên tịch số 1 /2010/TTLT-BTP-TANDTC- VKSNDTC
ngày 26/7/2010 hướng dẫn một sổ vẩn đề về thủ tục THADS và phối hợp
liên ngành trong thi hành án dân sự, Hà Nội.
18. Bộ Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao
99
(2016), Thông tư liên tịch số 11/2016/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC
ngày 01/8/2016 quy định một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối
hợp liên ngành trong thi hành án dân sự, Hà Nội.
19. Chính phủ (2009), Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13 thảng 7 năm 2009
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân sự, Hà Nội.
20. Chính phủ (2009), Nghị định 7 /2009/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2009
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thỉ hành một sổ điều của
Luật thi hành án dân sự về cơ quan quản lý thi hành án dân sự, cơ quan thi
hành án dân sự và công chức làm công tác thi hành án dân sự, Hà Nội.
21. Chính phủ (2010), Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 quy định
về đào tạo, bồi dưỡng công chức, Hà Nội.
22. Chính phủ (2010), Nghị định số 2 /2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 quy định
về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức, Hà Nội.
23. Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 11/8/2011 Ban hành
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 – 2020,
Hà Nội.
24. Chính phủ (2012), Báo cáo số 299/BC-CP ngày 23 tháng 10 năm 2012
tổng kết thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số
2 /2008/QH12 ngày 1 /11/2008 của Quốc hội, Hà Nội.
25. Chính phủ (2013), Nghị định 125/2013/NĐ-CP ngày 1 tháng 10 năm
2013 của Chính phủ sửa đỗi bổ sung một sổ điều của Nghị định số
58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ
tục thi hành án dân sự, Hà Nội.
26. Chính phủ (2015), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm
2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.
27. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk, Báo tổng kết công tác thi hành án
100
dân sự tỉnh Đắk Lắk năm 2011, 2012, 2013, 2014, 2015, 2016, Đắk Lắk.
28. Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đắk Lắk, Báo thống kê kết quả công tác thi
hành án dân sự năm 2011, 2012, 2013, 201 , 2015, 2016, Đắk Lắk.
29. Đại học Quốc gia Hà Nội - Khoa Luật (2003), Giáo trình lý luận Nhà
nước và pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
30. Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb
Công an nhân dân, Hà Nội.
31. Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt
Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
32. Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk (2015), Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh
Đắk Lắk thứ XVI (nhiệm kỳ 2015 - 2020), Đắk Lắk.
33. Hoàng Thế Anh (2005), Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện
nay, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh.
34. Hoàng Kim Chiến (2007), Quản lý Nhà nước về thi hành án dân sự, luận
văn thạc sỹ luật học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
35. Lê Minh Tâm (2001), ”Thử bàn mấy vấn đề lý luận về thi hành án”, Tạp
chí Luật học, số 2/2001.
36. Lê Xuân Hồng (2002), Xã hội hóa một số nội dung thi hành án dân sự,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
37. Lê Anh Tuấn (200 ), Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự Việt Nam, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
38. Lê Anh Tuấn (2016), Tiêu chí nào đánh giá hiệu quả cưỡng chế thi hành án
dân sự? Cổng thông tin điện tử Tổng cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp.
39. Lê Thị Lệ Duyên, Bàn về quan hệ phối hợp giữa cơ quan thi hành án với
các cơ quan hữu quan trong thi hành án dân sự - Trang điện tử tạp chí
dân chủ & pháp luật.
40. Nguyễn Công Long (2000), Các biện pháp cưỡng chề thi hành án dân sự,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
101
41. Nguyễn Quang Thái (2003), Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án
dân sự ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
42. Nguyễn Quốc Việt (2007), “Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về thi
hành án dân sự ở Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính công,
Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Thanh Thủy (2001), Hoàn thiện pháp luật về thi hành án dân sự,
Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
44. Nguyễn Đức Nghĩa (2005), Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc phục án tồn
đọng trong thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ Luật
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
45. Nguyễn Văn Mạnh (2009), Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của
nhân dân và vì nhân dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Phạm Công Hùng (2010), “Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trên
địa bàn thành phố Hà Nội”, Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính công,
Học viện Hành chính Quốc gia.
47. Tổng cục Thi hành án dân sự, Báo cáo số 218/BC-TCTHADS ngày 22
tháng 01 năm 2016 về tổng kết công tác năm 2015, giai đoạn 2011 - 2015
và định hướng công tác 2016 - 2020, nhiệm vụ trọng tâm, giải pháp chủ
yếu năm 2016, Hà Nội.
48. Thang Văn Phúc và Nguyễn Minh Phương (2007), Xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức đáp ứng đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Tỉnh ủy Đắk Lắk (2015), Chỉ thị số 38-CT/TU ngày 06/10/2015 về tăng
cường sự lãnh đạo đối với công tác thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh,
Đắk Lắk.
50. Tống Minh Lý (2015), “Quản lý nhà nước về thi hành án dân sự trên địa
bàn tỉnh Kon Tum”, Luận văn Thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện
Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
102
51. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật cán bộ,
công chức, Hà Nội
52. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Luật Thi
hành án dân sự năm 2008, Hà Nội.
53. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Nghị quyết số
24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự,
Hà Nội.
54. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012), Nghị quyết số
37/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về công tác phòng, chống vi phạm pháp
luật và tội phạm, công tác của Viện kiêm sát nhân dân, của Tòa án nhân
dân và công tác thi hành án dân sự năm 2013, Hà Nội.
55. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp
2013, Hà Nội.
56. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Luật đất đai
2013, Hà Nội.
57. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (201 ), Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.
58. Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Nghị quyết
số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội về công tác phòng,
chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của Viện kiển sát nhân
dân, của Toà án nhân dân và công tác thi hành án năm 2016 và các năm
tiếp theo, Hà Nội.
59. Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Luận cứ khoa học và thực
tiễn của việc đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong
giai đoạn mới, Báo cáo phúc trình đề tài cấp nhà nước độc lập, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_phap_luat_ve_cuong_che_thi_hanh_an_dan_su_tu_thuc_t.pdf