Coi trọng đầu tư phát triển nghề cá, nhất là hỗ trợ vốn cho ngư dân phát triển các
phương tiện đánh bắt xa bờ; nâng cao trình độ công nghệ chế biến thủy sản để nâng cao chất
lư ợng sản phẩm; đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho chế biến và
đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Quy định chính sách phân phối thu nhập hợp lý, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của
người lao động, để hạn chế đến mức thấp nhất sự bất công trong phân phối. Nhà nước nên
quy định mức lương tối thiểu của người lao động, đồng thời người sử dụng lao động cũng
có nghĩa vụ thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, vệ sinh an toàn lao động, cải
thiện điều kiện làm việc cho người lao động.
69 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2518 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ện nay việc xử lý chất thải khí, lỏng, rắn, tiếng động, chưa được tốt, đã gây ra
tình trạng ô nhiễm môi trường rất lớn, nhất là các cơ sở chế biến thủy sản, nguyên liệu mau
ươn, chống thối, mặc dù vừa qua các ngành chức năng đã rất cố gắng trong quản lý vệ sinh
môi trường nhưng ô nhiễm không giảm mà thậm chí còn tăng lên.
2.2.4. Việc cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến chưa đầy đủ và đều
đặn
Do việc cung ứng nguyên liệu chưa đầy đủ và đều đặn nên chưa tận dụng được
công suất máy móc, thiết bị để hạ giá thành sản phẩm, không tạo được việc làm thường
xuyên cho công nhân. Nguyên nhân chủ yếu là do hoạt động khai thác và nuôi trồng còn
thiếu sót, khó khăn. Vẫn còn những kiểu khai thác mang tính chất hủy diệt nguồn thủy sản,
cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý, số tàu công suất nhỏ còn nhiều, khai thác vẫn tập trung
gần bờ là chủ yếu. Hoạt động nuôi trồng thủy sản còn gặp nhiều khó khăn, mang nặng tính
tự phát, nên tốc độ phát triển chậm so với các tỉnh lân cận, chủ yếu là kinh tế hộ.
2.2.5. Vấn đề đào tạo, nâng cao kiến thức cho người lao động trong ngành thủy
sản Kiên Giang còn nhiều hạn chế
Về giáo dục ý thức chấp hành pháp luật:
Vừa qua Sở thủy sản và các ngành chức năng của Kiên Giang đã có nhiều cố gắng
trong việc tuyên truyền phổ biến mọi chủ trương, chính sách có liên quan đến ngành nhằm
nâng cao sự hiểu biết của ngư dân, về pháp luật tránh những sai phạm. Song nhìn chung
hiện nay các hành vi vi phạm của kinh tế tư nhân trong các lĩnh vực của ngành thủy sản
còn khá gay gắt, phổ biến nhất là hành vi vi phạm về bảo vệ nông lâm thủy sản như sử
dụng kích thước mắt lưới nhỏ hơn quy định, vi phạm vùng cấm, vi phạm đăng ký, đăng
kiểm, sử dụng chất nổ trong khai thác thủy sản. Thí dụ năm 1998 kiểm tra 3.133 lượt
phương tiện thì xử lý 879, hay 6 tháng đầu năm 1999 kiểm tra 505 lượt phương tiện trong
đó xử lý 437 chiếc. Năm 1998 tổ chức 10 cuộc kiểm tra có 82 cơ sở vi phạm thủ tục đăng
ký kinh doanh, chỉ riêng 6 tháng đầu năm 1999 phát hiện 271 trường hợp vi phạm.
Nhìn chung, ý thức chấp hành các quy định về bảo vệ nông, lâm thủy sản của ngư
dân còn nhiều hạn chế.
Về thông tin tư vấn:
Hiện nay một trong những vấn đề khó khăn của kinh tế tư nhân là tình trạng thiếu
thông tin tư vấn. Ngành thủy sản Kiên Giang là một ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh
nhưng lại đang đi thông tin. Vừa qua trung tâm khuyến ngư của tỉnh đã xây dựng được
chuyên mục thủy sản trên sóng phát thanh truyền hình tỉnh, đã phản ánh kịp thời các hoạt
động của ngành thủy sản trên các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến và bảo vệ nguồn
lợi, khoa học - công nghệ, môi trường đối với bà con ngư dân. Nhưng chuyên mục thủy
sản được phát sóng truyền thanh, truyền hình và một vài bài đăng trên báo địa phương với
thời lượng ngắn, nội dung hạn hẹp, không đủ để chuyển tải kịp thời lượng thông tin tư vấn,
nhất là còn nặng về lý thuyết, đề tài chưa phong phú, nghiên cứu thực tiễn quá ít, vì vậy
sức thuyết phục chưa cao. Phần lớn hoạt động của các cơ sở kinh tế tư nhân chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm để phát triển, vì thế nhiều nguồn lực kinh tế thủy sản của tỉnh chưa được
khai thác đầy đủ có hiệu quả.
Về khoa học - công nghệ:
Nhìn chung, Trung tâm khuyến ngư đã có nhiều cố gắng trong công tác tập huấn
chuyển giao công nghệ đến ngư dân. Chỉ hơn hai năm, 1997- 1998 và 6 tháng đầu năm
1999, đã mở được 77 lớp tập huấn kỹ thuật nuôi cá nước ngọt, nuôi tôm nước lợ, cho hơn
5.950 lượt người tham gia, chủ yếu ở các huyện An Biên, An Minh, Giồng Riềng, Phú
Quốc, Hòn Đất, Châu Thành, thị xã Rạch Giá, giúp bà con nắm bắt những phương pháp kỹ
thuật nuôi thủy sản, cách phòng tránh bệnh nuôi tôm, cá nhưng cũng ở góc độ là chuyển
giao về mặt lý thuyết.
Ngành cũng kết hợp với Công ty Sao Biển tổ chức hội thảo về máy thủy trong lĩnh
vực khai thác với hơn 90 người tham dự, phục vụ cho chương trình đánh cá xa bờ và đã
mở lớp tập huấn kỹ thuật khai thác cho 69 ngư dân.
Bên cạnh đó ngành cũng đã xây dựng nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản thí điểm
và các chương trình khuyến ngư, như mô hình nuôi tôm, nuôi nghêu, nhưng kết quả thu
hoạch không đáng kể, thậm chí có công trình không thu hồi được vốn đầu tư, các chương
trình ươm tôm giống, sản xuất cá giống (cá sặc rằng) phát triển khá tốt.
Tuy nhiên, hoạt động khuyến ngư còn yếu, chưa toàn diện, các bài giảng trong tập
huấn còn nghèo nàn và nặng về lý thuyết, thiếu các mô hình chuẩn, các chương trình thiết
thực, lĩnh vực nghiên cứu khuyến ngư còn nghèo, cả về nội dung lẫn hình thức. Đôi lúc
còn đi sau ngư dân trong thực tiễn về chế biến khai thác, nuôi trồng nên chưa đáp ứng yêu
cầu thực tiễn của bà con ngư dân.Vì vậy, công tác tập huấn, chuyển giao công nghệ thuộc
các chương trình khuyến ngư hiệu quả còn thấp, nuôi trồng phát triển chậm và chưa thật sự
vững chắc. Có thể nói, trong thời gian qua công tác khuyến ngư chưa thật sự đi vào cuộc
sống của bà con ngư dân.
Kết luận chương 2
Kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang gồm nhiều hình thức đa dạng
trong tất cả các lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ hậu cần, thương mại. Kinh
tế tư nhân đã đóng góp đáng kể vào thành tựu phát triển của ngành này cả về tăng sản
lượng, tạo việc làm, nộp ngân sách, cải thiện đời sống ngư dân... Tuy nhiên, kinh tế tư
nhân cũng có nhiều mặt hạn chế, như khai thác ven bờ vượt quá sản lượng cho phép; nuôi
trồng còn phân tán, manh mún, thủ công; chế biến quy mô còn nhỏ và gây ô nhiễm môi
trường; trong thương mại còn hiện tượng tranh mua, tranh bán, cạnh tranh không lành
mạnh; cơ chế, chính sách của Nhà nước với kinh tế tư nhân còn những điểm chưa phù hợp;
quản lý của Nhà nước trong một số lĩnh vực còn lỏng lẻo, nhất là thất thu thuế; việc giáo
dục ý thức chấp hành pháp luật, việc cung cấp thông tin và chuyển giao công nghệ cho ngư
dân còn nhiều hạn chế, nói một cách khác, công tác khuyến ngư chưa thật sự đi vào cuộc
sống của ngư dân.
Chương 3
Những giải pháp chủ yếu
để phát huy năng lực kinh tế tư nhân
trong ngành thủy sản ở Kiên Giang
Chính sách kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước ngày càng hoàn thiện,
ổn định, đã tạo hành lang pháp lý và tâm lý an tâm cho ngư dân thúc đẩy nghề cá phát
triển. Khu vực kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản sẽ tăng đầu tư, ngày càng tăng về số
lượng và mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh. Xu hướng này là tất yếu vì:
Thứ nhất: trong nền kinh tế thị trường không cần thiết duy trì tỷ trọng lớn của kinh
tế Nhà nước, kinh tế nhà nước chỉ chiếm một tỷ lệ nhất định nào đó, ở những lĩnh vực cần
thiết, thuộc huyết mạch của nền kinh tế để đủ sức giữ vai trò chủ đạo và định hướng các
loại hình kinh tế khác và đảm bảo an ninh quốc phòng. Thực tiễn ở nước ta và các nước
khác cho thấy nhiều cơ sở kinh tế Nhà nước hoạt động kém hiệu quả vì không có người
chịu trách nhiệm đích thực và thiếu khả năng thích ứng với sự thay đổi nhanh của thị
trường. Hiện nay, Nhà nước ta cũng đang chủ trương sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước
thông qua cổ phần hóa, bán, khoán, cho thuê hoặc giải thể những doanh nghiệp thua lỗ kéo
dài.
Thứ hai: phát triển kinh tế tư nhân sẽ tạo thêm nhiều việc làm, tận dụng nguồn lao
động dồi dào; giảm thất nghiệp, giảm đói nghèo và tạo nguồn thu cho ngân sách.
Phương hướng chung: phát triển kinh tế thủy sản ở Kiên Giang trong những năm tới
là: tập trung đẩy mạnh tốc độ phát triển toàn diện, đồng bộ, tận dụng tối đa điều kiện sinh
thái đặc thù về cả khai thác, nuôi trồng, chế biến, thương mại và dịch vụ hậu cần, gắn với
bảo vệ chủ quyền và an ninh trên biển. Đi đôi với đẩy mạnh khai thác, từng bước đưa
ngành nuôi trồng thủy sản trở thành ngành sản xuất chính.
Theo hướng đó, trong thời gian tới kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên
Giang sẽ phát huy năng lực trên tất cả các lĩnh vực nói trên không hạn chế về số lượng và
quy mô, được khuyến khích làm giàu chính đáng, động viên tinh thần tương thân tương ái,
giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, từng bước hạn chế sự bóc lột dẫn đến bần cùng hóa
người lao động, tiến theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Muốn vậy, cần thực hiện tốt những giải pháp chủ yếu sau đây:
3.1. Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân
trong ngành thủy sản Kiên Giang
Đăng ký kinh doanh
Luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty đã được Nhà nước ban hành tháng
12/1990 và có hiệu lực từ tháng 4/1991, Nghị định 66/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng có
hiệu lực từ 2/3/1992, kèm theo đó có các Nghị định, các Thông tư của các Bộ, Ngành liên
quan hướng dẫn thực hiện việc quản lý về đăng ký kinh doanh đối với loại hình kinh tế tư
nhân. Đối với ngành thủy sản theo Nghị định số 26 của Chính phủ ban hành ngày 7/5/1998
thì vốn pháp định của loại hình doanh nghiệp tư nhân là 150 triệu đồng, công ty trách
nhiệm hữu hạn là 300 triệu đồng, công ty cổ phần là 300 triệu đồng Việt Nam. Thông tư 05
của liên bộ (Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tư pháp ngày 10/7/1998) quy định về trình tự và
thủ tục đăng ký của doanh nghiệp, đã thực hiện cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện
cho các thành phần kinh tế kinh doanh. Tuy vậy trong ngành thủy sản Kiên Giang hiện nay
vẫn còn khoảng 30% cơ sở chưa đăng ký kinh doanh theo luật định, một phần do sự thiếu
hiểu biết của người kinh doanh, một phần do các bước tiến hành để hoàn thành thủ tục
được cấp giấy phép thành lập, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh còn lắm khâu nhiều
cửa (nhất là khâu thẩm định vốn, chứng nhận vốn doanh nghiệp tư nhân trong lĩnh vực khai
thác thủy sản). Vì vậy, để khuyến khích tự nguyện đăng ký kinh doanh và quản lý tốt thì
nên thống nhất cấp giấy phép thành lập các loại hình doanh nghiệp và giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh làm một (chỉ cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh). Đồng thời
phải thường xuyên kiểm tra nhằm thực hiện tốt hơn việc quản lý đăng ký kinh doanh đối
với mọi đơn vị kinh tế tư nhân.
Thống kê, kế toán
Công tác thống kê, kế toán của các đơn vị kinh tế tư nhân hoạt động trong ngành
thủy sản là một bài toán có quá nhiều ẩn số mà cho đến nay mặc dù có sự phối hợp của các
ngành chức năng cùng tham gia quản lý nhưng vẫn chưa tìm ra cách giải quyết tốt nhất. Do
đó phải tiến hành từng bước cho họ làm quen dần với chế độ thống kê, kế toán mà Nhà
nước quy định; phải hướng dẫn họ, tập hợp các chi phí hàng tháng hợp lý, hợp pháp (có
hóa đơn, chứng từ) kết hợp với sổ nhật ký sản lượng, sổ theo dõi bán hàng và khi đã đủ điều
kiện thì bắt buộc họ phải áp dụng chế độ thống kê, kế toán.
Cơ quan quản lý nên chọn một vài doanh nghiệp hay lĩnh vực nào đó trong nghề cá
và quy định thời gian làm thí điểm, rồi tiến đến việc thống nhất quản lý theo chế độ thống
kê, kế toán theo pháp lệnh, làm cơ sở để tính thuế.
Quản lý thuế
Với kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản đến thời điểm hiện nay chủ yếu là áp
dụng hình thức thu thuế khoán, và thất thu còn nhiều.
Để chống thất thu thuế, xây dựng một môi trường phát triển nền kinh tế thị trường
lành mạnh có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và phát huy đồng
bộ hai chức năng của ngành thuế thì phải thực hiện chế độ kế toán, hạch toán theo pháp
lệnh thống kê, kế toán quy định hiện hành.
- Trong lĩnh vực khai thác, trong trường hợp chưa thể áp dụng chế độ thống kê, kế
toán như trong khâu khai thác thủy sản thì ngoài việc ban hành định mức sản lượng chuẩn
ổn định 3 năm phải điều chỉnh giá tính thuế kịp thời cho sát hợp với giá cả thị trường từng
thời điểm.
Có thể xem xét áp dụng sổ “Nhật ký sản lượng” trên từng tàu nhằm theo dõi sản
lượng khai thác, cơ cấu sản lượng để từ đó có cơ sở xây dựng sản lượng chuẩn cho từng
nghề, từng loại công suất máy tốt hơn, cũng như giúp cho việc nắm được doanh thu, sản
lượng thật của lĩnh vực khai thác.
- Trong khâu dịch vụ nghề cá, hướng dẫn cho các chủ tàu tập hợp các chi phí hợp
lý, hợp lệ (hóa đơn, chứng từ) gửi về cơ quan thuế hàng tháng để làm cơ sở kiểm tra chéo
các đối tượng kinh doanh trong từng lĩnh vực dịch vụ (trước mắt là mặt hàng xăng, dầu,
nước đá). Trên cơ sở đó giúp các đối tượng nộp thuế làm quen với chế độ thống kê, kế
toán theo quy định, tạo sự công bằng hợp lý trong quá trình thực hiện nghĩa vụ thuế với
Nhà nước.
Mặt khác, cần đối chiếu số lượng tàu giữa ngành thuế quản lý và đăng kiểm để tìm
ra những tàu thuyền trên từng huyện, thị chưa đăng ký, kê khai nộp thuế theo luật định.
Thường xuyên kết hợp với ngành thủy sản, kiểm ngư để kiểm tra việc chấp hành nộp
thuế thông qua công tác đăng kiểm hàng tháng, quý, năm.
- Trong khâu thu mua chế biến: (mua nguyên liệu bán thành phẩm) cần thống kê
số lượng hộ mua và sơ chế mặt hàng hải sản, từ đó tiến hành phân loại để có cách thu thuế
cho phù hợp. Nhất thiết phải bắt buộc các cơ sở thực hiện chế độ thống kê, kế toán như:
thống kê nguyên liệu mua vào (số lượng doanh số mua vào...), ghi chép chi phí trong quá
trình chế biến (điện nước, tỷ lệ hao hụt...), doanh thu bán ra cho từng kỳ... từ đó có căn cứ
huy động nguồn thu từng tháng, quý, năm của các đơn vị, cá nhân tốt hơn, tiến đến thực
hiện chế độ kế toán, hạch toán hoàn chỉnh, ổn định. Xem xét xây dựng định mức tiêu hao
nguyên liệu trong quá trình chế biến của từng mặt hàng áp dụng phạm vi cả tỉnh (nếu là cơ
sở thực hiện thuế khoán).
- Trong khâu dịch vụ sửa chữa đóng tàu thuyền: Tổ chức điều tra phân loại số
lượng đối tượng, hành nghề đóng mới, sửa chữa tàu thuyền trên phạm vi cả tỉnh nhằm bắt
buộc thực hiện chế độ kế toán thống kê theo quy định. Điều tra khảo sát, lập định mức
chung để tổ chức quản lý nguồn thu đối với trường hợp đóng mới tàu thuyền truyền thống
mà tỉnh đang áp dụng (áp dụng cho những cơ sở không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ chế độ kế toán). Cán bộ nghiệp vụ ngành kiểm tra, giám sát, hướng dẫn hai bên (chủ ụ
tàu và chủ phương tiện) lập hợp đồng dân sự cụ thể đóng mới hay gia công sửa chữa... trên
cơ sở đó, ngành thuế nắm danh sách theo từng tháng, quí làm cơ sở cho việc xem xét
doanh số hoạt động của các cơ sở đóng tàu để có mức thu sát hợp thực tế hơn, đồng thời
cũng giúp ngành thuế kiểm soát số phương tiện mới đi vào hoạt động. Các cơ sở vừa đóng
mới vừa sửa chữa tàu thuyền, nhưng hiện nay đều quản lý thuế khoán không tách biệt rõ
hai khâu. Có nhiều trường hợp chủ ụ tàu bao thầu hết nguyên vật liệu đầu vào nhưng chỉ
đóng thuế theo dạng gia công. Vì vậy, đối với những trường hợp chủ cơ sở gia công lấy
tiền công thì chủ đầu tư (chủ tàu) phải có các giấy tờ chứng minh nguồn gốc gỗ của mình
mua. Trường hợp chủ ụ tàu bao trọn gói thì hóa đơn cũng phải thể hiện rõ toàn bộ giá
thành theo hóa đơn đã lập trước đó.
- Trong lĩnh vực thương mại: Cần thống kê nắm lại các đối tượng kinh doanh thủy
sản (dạng buôn chuyến cố định và cả vừa cố định vừa buôn chuyến) để quản lý thu, tránh
thất thu về số hộ. Cán bộ thuế phối hợp với ngành thủy sản kiểm tra chặt chẽ các điểm lên
xuống hàng tại các bến cảng, bến tàu, mua bán trên biển và xử lý nghiêm minh các đối
tượng lên hàng thủy sản không đúng bến, không đúng cảng cá quy định. Cần tăng cường
kiểm tra các hoạt động mua bán thủy sản trên một số địa bàn và khu vực trọng điểm của
tỉnh, bắt buộc thực hiện chế độ thống kê, kế toán đối với một số doanh nghiệp có quy mô
hoạt động kinh doanh lớn. Kết hợp chặt chẽ với quản lý thị trường tăng cường kiểm tra
kiểm soát một số điểm tập kết hàng chuẩn bị vận chuyển đi nơi khác, ngăn chặn kịp thời
hiện tượng lậu trốn thuế, tích cực tăng cường các biện pháp quản lý thuế tại gốc.
Qua các phương tiện thông tin đại chúng mở rộng chuyên mục thuế, nêu gương
những cơ sở cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh lành mạnh, có trách nhiệm, ý thức
trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước, có nhiều hình thức khen thưởng cho
các cơ sở làm tốt và phạt nặng đối với những cơ sở trốn lậu thuế, luồn lách trong quá trình
sản xuất, kinh doanh. Ngành thuế cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở
mới phát sinh đăng ký, kê khai kịp thời, kết hợp chặt chẽ với lực lượng biên phòng, quản
lý thị trường, các cơ quan hải sản ở địa phương.
Khoa học công nghệ và môi trường
Trên cơ sở Luật bảo vệ môi trường, các chương trình về khoa học công nghệ và
môi trường đối với khu vực kinh tế tư nhân, để quản lý về mặt Nhà nước chặt chẽ hơn,
ngành thủy sản cần phải:
- Quy định loại công nghệ theo chiến lược phát triển kinh tế của ngành thủy sản
trong từng thời kỳ. Mục tiêu đề ra cho năm 2000 là chủ động sản xuất giống các loại tôm,
cá có giá trị kinh tế cao, phục vụ cho nghề nuôi tôm nước lợ, nuôi cá lồng bè và các loại
hình nuôi thủy sản khác, trước mắt cần sớm đưa vào sản xuất theo các quy trình công nghệ
của các trường, viện và từ các đề tài nghiên cứu thực nghiệm tại chỗ [37, 86].
- Quy định cụ thể về thẩm định dự án khi chuyển giao công nghệ từ nước ngoài về.
Để quản lý về môi trường, tỉnh quy hoạch cụ thể khu vực được và không được
phép xây dựng các cơ sở sản xuất. Việc xây dựng các cơ sở sản xuất, kinh doanh có ảnh
hưởng đến môi trường phải được cơ quan quản lý môi trường xem xét, chấp nhận, chấm dứt
tình trạng làm xong mới xin giấy phép.
3.2. Coi trọng đầu tư phát triển nghề cá
Để phát triển thủy sản theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì phải tranh thủ
huy động tối đa mọi nguồn vốn để đầu tư vào các lĩnh vực của nghề cá. Những năm trước
đây, do thiếu vốn nên các công trình xây dựng không đồng bộ, chậm đổi mới, mua sắm
phần lớn là tàu công suất nhỏ, không có khả năng khai thác xa bờ. Kết cấu hạ tầng mang
tính chất chắp vá, chưa tương xứng với yêu cầu sản xuất ngày càng tăng, nên chưa tận
dụng được các nguồn lực của tỉnh trong ngành thủy sản. Đã khắc phục tình trạng trên cần
chú trọng các lĩnh vực như sau:
Trước hết phải đầu tư phát triển mạnh phương tiện có công suất lớn, tổ chức
đánh bắt xa bờ, xa đảo, từng bước mở rộng ngư trường về biển Đông và Trường Sa để
nâng cao hiệu quả khai thác, đảm bảo giá trị kinh tế, gắn khai thác với bảo vệ nguồn lợi, góp
phần bảo vệ an ninh vùng biển.
Đầu tư cho chế biến thủy sản là một trong 3 chương trình kinh tế lớn của
ngành hiện nay. Cần khuyến khích ngư dân đầu tư mới để ứng dụng quy trình công nghệ
tiên tiến, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo yêu cầu ngày càng cao và tăng nhanh giá
trị kim ngạch xuất khẩu.
Đầu tư cho nuôi trồng thủy sản: Những năm qua, ngành nuôi trồng thủy sản
Kiên Giang đã đạt những kết quả đáng kể nhưng so với tiềm năng tự nhiên còn rất nhiều
hạn chế và chưa trở thành ngành sản xuất chính. Nguyên nhân chủ yếu là bà con ngư dân
thiếu vốn và chưa nắm vững kỹ thuật nuôi, chưa chủ động được con giống và thức ăn, còn
lệ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên chưa phòng ngừa được dịch bệnh, nên năng suất
còn thấp. Dự kiến trong kế hoạch 2001 - 2010, số vốn đầu tư cho nuôi trồng thủy sản là
260 tỷ đồng, bình quân mỗi năm là 20 tỷ đồng, trong đó đầu tư cho sản xuất giống và thức
ăn là 15,6 tỷ đồng, ngân sách chiếm 5,82%, vốn vay chiếm 66,61%, vốn tự có chiếm
27,57% [35, 85].
Thực hiện kế hoạch trên từng bước chuyển nuôi trồng thủy sản trở thành ngành
sản xuất chính, đi vào sản xuất hàng hóa, đáp ứng nhu cầu về nguyên liệu cho chế biến và
nhu cầu của thị trường ngày càng cao.
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng để đáp ứng yêu cầu khai thác, chế biến, nuôi
trồng thủy sản, bao gồm các cảng cá, bến cá, các cơ sở dịch vụ hậu cần cho nghề cá. Trước
mắt cần tập trung xây dựng một số công trình chính trọng điểm như các cảng cá: Tắc Cậu,
An Thới, Nam Du, tàu dịch vụ hậu cần nghề cá, tàu kiểm ngư, dự kiến tổng số vốn đầu tư
là 315,066 tỷ đồng. Ngoài những công trình trên, Nhà nước cho ngư dân vay vốn để đóng
tàu lớn đánh bắt xa bờ, có chính sách ưu đãi và chỉ cho phép đóng mới tàu cá có công suất
được lắp đặt từ 45CV trở lên, nâng cấp các phương tiện cũ để đặt máy có công suất cao,
đồng thời chuyển dần những ngư dân không có khả năng đánh bắt xa bờ sang nuôi trồng
hải sản và Nhà nước hỗ trợ vốn bằng tín dụng ưu đãi. Xây dựng hoàn chỉnh đề án tổ chức
đội tàu khai thác của tỉnh với quy mô 188 chiếc có công suất 60 CV - 550 CV, dự kiến
tổng đầu tư cho nghề cá nhân dân trong 10 năm (2001 - 2010) là 981 tỷ đồng. Tỉnh đề nghị
Trung ương đầu tư xây dựng khu trú bão cho tàu khai thác xa bờ giúp bà con ngư dân thêm
an tâm bám biển.
3.3. Quy định chính sách phân phối thu nhập hợp lý, bảo đảm quyền lợi hợp
pháp của người lao động trong khu vực kinh tế tư nhân
Trong nền kinh tế thị trường, sự phân hóa giàu nghèo trong cộng đồng dân cư là
một tất yếu khách quan, nhưng vẫn phải quan tâm giải quyết những sự bất hợp lý trong tỷ
lệ ăn chia giữa người lao động với chủ, đặc biệt là ở lĩnh vực khai thác thủy sản. Để hạn
chế sự bất bình đẳng và bảo vệ quyền lợi chính đáng cho người lao động trong khu vực
kinh tế tư nhân, Nhà nước cần phải có sự quản lý ngày càng chặt chẽ hơn. Phải nghiên cứu
đề xuất chính sách phân phối hợp lý trong lĩnh vực đánh bắt thủy sản, thiết lập một cách ăn
chia mới. Đây là một việc làm rất khó khăn và phức tạp, bởi lẽ cách ăn chia cũ đã tồn tại
hàng chục năm và điều quan trọng là nhu cầu việc làm của lao động phổ thông còn quá
lớn. Giải quyết việc này là cả một quá trình xem xét, tính toán kỹ lưỡng trên nhiều khía
cạnh khác nhau để đạt mục đích, vừa giải quyết việc làm, vừa đảm bảo quyền lợi chính
đáng cho người lao động và người sử dụng lao động. Để hạn chế đến mức thấp nhất sự bất
công trong phân phối, Nhà nước nên quy định mức lương tối thiểu cho người lao động
hàng tháng mà người sử dụng lao động phải trả. Đồng thời quy định người sử dụng lao
động cũng phải thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế bắt buộc và đảm bảo an
toàn cho người lao động, nhất là người lao động trên biển. An toàn lao động phải bao gm
an toàn về tính mạng, phương tiện và các cơ sở vật chất khác. Vùng biển Tây Nam Bộ
được xác định là một ngư trường trọng điểm của cả nước. Hàng năm có hàng chục ngàn
tàu thuyền của Kiên Giang và các địa phương khác đến hoạt động. Trong khi đó, thời tiết,
khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, vùng khơi thường xảy ra áp thấp nhiệt đới, gió bão
thất thường đe dọa đến tính mạng, tài sản của người sản xuất trên biển. Do đó cần phải có
các biện pháp đảm bảo an toàn cho người lao động, việc bảo đảm an toàn, giảm thiểu
những thiệt hại do bão gây ra phụ thuộc nhiều khâu: khả năng dự báo, mạng lưới thông tin
liên lạc, hướng dẫn phòng tránh, xây dựng những cơ sở hậu cần, bến bãi né tránh bão,
phương tiện cứu nạn, tổ chức quản lý chặt chẽ các hoạt động trên biển... Vì vậy để hạn chế
đến mức thấp nhất những thiệt hại do gió bão gây ra buộc các chủ phương tiện phải trang
bị đầy đủ phao và phương tiện cứu sinh cho người lao động trên tàu. Mặt khác, Nhà nước
cũng phải gấp rút thực hiện dự án xây dựng khu trú bão an toàn cho tàu đánh bắt xa bờ để
giúp bà con ngư dân an tâm bám biển, tăng cường khả năng dự báo bão chính xác và tăng
cường kiểm tra các tàu thuyền trước khi ra khơi. Đó là những yêu cầu cấp bách và hết sức
cần thiết để đảm bảo an toàn trên biển và hạn chế thiệt hại do gió bão gây ra.
Chính quyền địa phương phải hướng dẫn, kiểm tra việc thực thi các văn bản pháp
luật về bảo hộ lao động, vệ sinh an toàn lao động, cải thiện điều kiện làm việc của người
lao động, ký kết hợp đồng lao động... Như vậy, sẽ làm lành mạnh hóa quan hệ phân phối
cũng như chính sách xã hội đối với người lao động trong nghề cá ở Kiên Giang.
3.4. Tổ chức lại sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản
ở Kiên Giang
Nuôi trồng và khai thác thủy sản là hai ngành quan trọng cung cấp nguyên liệu cho
công nghiệp chế biến thủy sản và hàng hóa cho thị trường. Trong tương lai nuôi trồng thủy
sản sẽ đóng vai trò chủ yếu. Do đó, trên cơ sở điều kiện tự nhiên của từng vùng, từng khu
vực cần bố trí tổ chức sản xuất của ngành nuôi trồng và khai thác một cách hài hòa nhằm
phục hồi khả năng sinh trưởng của nguồn lợi thủy sản, đảm bảo hiệu quả kinh tế- xã hội
nói chung.
Hiện nay chưa thiết lập được trật tự trong việc đánh bắt thủy sản, và còn tình trạng
mất cân đối giữa nuôi trồng và khai thác. Do đó, việc tổ chức lại sản xuất là vấn đề cấp
thiết đặt ra cho ngành thủy sản Kiên Giang.
Để giải quyết tốt vấn đề trên cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa nông lâm -
thủy lợi, kinh tế ven biển, hải đảo và một chính sách đầu tư thích đáng. Nhà nước có thể
giao diện tích mặt nước ven biển cho các đơn vị kinh tế tư nhân sử dụng, đầu tư vào nuôi
trồng có thời hạn như chính sách giao đất, giao rừng.
Khai thác thủy sản: Đây là ngành sản xuất vật chất cơ bản của nghề cá, có
vị trí quan trọng trong việc cung cấp nguồn nguyên liệu cho chế biến, nó có nhiệm vụ cắt
đứt mối quan hệ giữa các tài nguyên thủy sản khỏi môi trường tự nhiên để tạo ra hàng hóa
cho tiêu dùng, chế biến xuất khẩu. Đồng thời, khai thác thủy sản cũng gắn liền với đời
sống và việc làm của hàng triệu ngư dân vùng ven biển và hải đảo. Do đó, phát triển khu
vực khai thác thủy sản phải gắn với vấn đề giải quyết việc làm và bảo đảm an ninh quốc
phòng.
Trong những năm qua, khai thác thủy sản đã vượt quá trữ lượng cho phép,
nhưng đặc thù của nguyên liệu thủy sản là khả năng phục hồi tự nhiên của các loại động,
thực vật thủy sản phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan của con người trong việc khai thác
và bảo vệ chúng. Từ đó, việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản là một trong những
nội dung quan trọng của việc xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu thủy sản; cho phép
tạo ra khả năng khai thác vô tận để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Ngoài ra,
việc bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản còn có tác dụng tích cực góp phần vào việc
bảo vệ môi trường sinh thái. Để bảo vệ nguồn lợi thủy sản cần chấm dứt việc tự do mở
rộng năng lực đánh bắt mà không theo quy hoạch các dự án đã được xem xét kỹ. Thực hiện
nghiêm quy hoạch của tỉnh [35, 92], không cho phép phát triển thêm, đồng thời từng bước
giảm dần số lượng phương tiện có công suất dưới 45 CV. Thời kỳ 2000 - 2005 không cho
đăng ký nghề cào máy dưới 90 CV, cấm hẳn nghề cào máy dưới 20 CV hoạt động, giữ
nguyên hiện trạng nghề cào máy từ 20 CV - 90 CV, chỉ cho đăng ký mới nghề cào và vây
công suất máy từ 90 CV trở lên, nghề câu công suất máy từ 60 CV trở lên. Thời kỳ 2005 -
2010, hạn chế phát triển thêm nghề cào, các nghề khai thác có tính chọn lọc, chỉ cho đăng
ký mới máy từ 90CV trở lên. Giảm dần số lượng tàu khai thác vùng ven biển và thực hiện
triệt để chỉ thị cấm cào bờ, xiệp mé, dù đây là nghề truyền thống của ngư dân địa phương
vì nó ảnh hưởng đến nguồn lợi tôm vùng biển, hạn chế các nghề đáy sông, đăng mé, các
nghề kết hợp ánh sáng, họ lưới rê, nghề câu.
Thực hiện quy định kích thước mắt lưới để bảo vệ nguồn lợi thủy sản, từng bước
giảm dần tỷ lệ tôm, cá, mực con trong các mẻ lưới. Theo quy hoạch tổng thể phát triển
ngành thủy sản giai đoạn 2001- 2010 của tỉnh, quy định kích thước mắt lưới các nghề như
sau:
Bảng số 9: Quy định kích thước mắt lưới tại các mốc thời kỳ
Đơn vị tính: mm
Danh mục 1995-
2000
2001-
2005
2006-
2010
Cào tôm, cá (mắt lưới ở đụt cào)
+ Tàu có công suất máy < 100 cv
+ Tàu có công suất máy (100 cv
20
30
28
34
34
40
Lưới vây (trừ vây cá cơm) và các nghề kết hợp AS 18 18 18
Lưới vây cá cơm (mắt lưới phần từng lưới) 10 10 10
Các loại đăng 20 20 20
Đáy biển hàng cạn, đáy cửa sông, te, xiệp (mắt lưới 18 18 18
phần đụt)
Lưới rê cá trích 28 28 28
Lưới rê thu 90 90 90
Lưới rê tôm (lớp giữa) 44 44 44
(Nguồn: Quy hoạch tổng thể ngành thủy sản Kiên Giang đến năm 2010).
Nghiêm cấm khai thác các bãi sinh sản, các loài hải sản chưa đến tuổi khai thác và
quy định khai thác theo mùa. Đây cũng là những biện pháp áp dụng để bảo vệ nguồn lợi ở
thời kỳ quan trọng của chu kỳ sống của thủy sản như thời gian chúng đẻ trứng, cá chưa
trưởng thành. ở ngư trường Kiên Giang thường vào tháng 4 đến tháng 7 hàng năm là tôm,
cá đẻ rộ nhất và thường đẻ ở vùng từ 10 mét nước vào bờ, các bãi san hô, thảm thực vật, đá
ngầm. Trong khoảng thời gian này nên cấm khai thác vùng chúng sinh sản. Để đảm bảo
đời sống ổn định cho nhân dân vùng ven biển và huyện đảo, ngành có quy định mốc thời
gian các vùng cấm như sau:
- Vùng cấm quanh năm (đối với tất cả các nghề): từ bờ ra đến độ sâu 1 mét nước
và quanh các đảo từ bờ đảo ra 1 hải lý.
- Vùng cấm các nghề sát hại nhiều tôm, cá, mực con như xiệp, cào.. từ 1 mét nước
đến 5 mét nước.
- Vùng biển cần chú trọng bảo vệ là khu vực ven bờ có độ sâu nhỏ hơn 30 mét
nước. Vì đây là các bãi đẻ của cá, bãi giao vĩ của tôm và là nơi sinh sống của các loài hải
sản.
Bảng số 10: Quy định vùng cấm theo các mốc thời kỳ
Thời kỳ 1995-2000 2001-2005 2006-2010
Phương tiện cơ
giới công suất
trên 22 CV
Từ đường có độ
sâu 5m nước trở
ra khơi
Từ đường có độ
sâu 10m nước trở
ra khơi
Từ đường có độ
sâu 15m nước trở
ra khơi
Phương tiện cơ
giới công suất từ
60 CV trở lên
Từ đường có độ
sâu 10m nước trở
ra khơi
Từ đường có độ
sâu 15m nước trở
ra khơi
Từ đường có độ
sâu 20m nước trở
ra khơi
Phương tiện cơ
giới công suất trên
110 CV
Từ đường có độ
sâu 15m nước trở
ra khơi
Từ đường có độ
sâu 20m nước trở
ra khơi
Từ đường có độ
sâu 25m nước trở
ra khơi
(Nguồn: Quy hoạch tổng thể ngành thủy sản tỉnh Kiên Giang đến 2010).
Ngoài ra, trong khai thác hải sản để đảm bảo yêu cầu vừa khai thác vừa đảm bảo
phục hồi phát triển nguồn lợi, vừa bảo vệ môi sinh, môi trường thì ngư dân cần phải thực
hiện đúng quy định phân tuyến khai thác trên biển. Phương tiện cơ giới công suất trên 22
CV khai thác từ đường có độ sâu 5 mét trở ra khơi, công suất từ 60 CV trở lên từ mực
nước 10 mét trở ra, công suất trên 110 CV từ đường có độ sâu 15 mét trở ra khơi... Cấm
các phương tiện cơ giới khai thác thủy sản vùng Đông Hồ (Hà Tiên), sông rạch, đồng
ruộng trong toàn tỉnh.
Quản lý chặt chẽ các nghề lưới kéo cá, tôm và nghêu lụa vì làm phá hủy
thảm thực vật, các bãi san hô, làm xáo trộn đáy biển, ảnh hưởng đến môi trường sống của
các loài thủy sản. Phát triển hợp lý, có hiệu quả thủy sản vùng xa bờ.
Nuôi trồng thủy sản: đây là ngành sản xuất vật chất quan trọng trong hệ
thống kinh tế thủy sản cũng như trong toàn bộ hệ thống kinh tế quốc dân. Nó có nhiệm vụ
tái tạo, bổ sung và ngày càng phát triển các nguồn lợi thủy sản để cung cấp ngày càng
nhiều hàng hóa cho tiêu dùng, cho xuất khẩu và nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thủy
sản. Do đó, phải phát triển nhiều loại hình kinh tế tư nhân trong ngành nuôi trồng thủy sản.
Trong nuôi trồng thủy sản, đất đai, diện tích mặt nước là tư liệu sản xuất
chủ yếu và không thể thay thế được. Vì vậy, khi sử dụng đất đai, diện tích mặt nước để
phát triển nuôi trồng thủy sản, cần phải tiết kiệm, tận dụng mọi diện tích mặt nước, kể cả
mặn, ngọt, lợ, từng bước nâng cao tay nghề của người sản xuất, mở rộng hình thức nuôi
quảng canh cải tiến, nuôi bán thâm canh tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị kinh tế
cao, từng bước hạn chế diện tích nuôi quảng canh ở vùng ven biển nhằm sớm khôi phục rừng
phòng hộ, góp phần cải tạo môi trường sinh thái ngày càng tốt hơn.
Thông qua hệ thống tổ chức khuyến ngư từ tỉnh đến huyện, xã để triển khai các
chương trình theo sự chỉ đạo của Bộ, ngành, địa phương; thường xuyên tập huấn hướng
dẫn kỹ thuật cho người sản xuất về kỹ thuật nuôi, chăm sóc, quản lý và nhất là điều kiện vệ
sinh môi trường nước, dự báo về sự phát triển lây lan của dịch bệnh.
Tiến hành điều tra quy hoạch nuôi trồng thủy sản trong quy hoạch tổng thể của
tỉnh nhằm xác định vị trí, diện tích khu vực nuôi trồng con hợp lý; gắn phát triển nuôi
trồng với bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường sinh thái và cảnh quan thiên nhiên.
Tăng cường công tác quản lý tại các cơ sở sản xuất giống, ươm nuôi, các đại lý mua
bán, vận chuyển giống từ ngoài tỉnh vào nhằm kịp thời phát hiện mầm bệnh trên tôm, cá giống
để xử lý ngay, không cho dịch bệnh có điều kiện phát tán rộng sang nhiều vùng, gây thiệt hại
cho người chăn nuôi.
Đầu tư mới trang thiết bị kỹ thuật hiện đại phục vụ cho công tác kiểm dịch
động vật thủy sản, tạo điều kiện tốt nhất giúp cán bộ kỹ thuật nhanh chóng tìm mầm bệnh
và sớm đề ra giải pháp xử lý thích hợp.
Tóm lại, cần phải phục hồi và bảo vệ các môi trường quan trọng, đặc biệt
là môi trường sống ven bờ, từng bước hạn chế và cấm khai thác vùng nước từ độ sâu 10m
nước trở vào bờ. Xây dựng các mô hình phù hợp với đặc điểm của từng vùng sinh thái, gắn
quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản với nhiệm vụ khôi phục phát triển nguồn lợi, bảo vệ
môi sinh, môi trường để khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách lâu bền và có hiệu quả.
Trong lĩnh vực chế biến, kinh nghiệm phát triển thủy sản cho thấy chế biến
công nghiệp phải đi trước một bước để tạo đà cho sự khởi động của các khâu nuôi trồng,
khai thác và trong thực tế khi chế biến, công nghiệp phát triển đã tạo tiền đề, tạo thị trường
cho sản xuất: nguyên liệu, nước đá, bao bì, thức ăn cho nuôi tôm, lưới sợi cho khai thác...
Do đó, để phát huy năng lực kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản phải tổ chức lại sản xuất
trong khu vực chế biến thủy sản. Cần phải từng bước giảm tình trạng manh mún, phân tán,
gây ô nhiễm môi trường, di dời các cơ sở chế biến nhỏ hình thành các làng, khu vực chế
biến tập trung theo quy hoạch của tỉnh và từng bước đưa các doanh nghiệp đi vào hoạt
động theo luật định. Tỉnh ban hành và triển khai áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật, nghiệp
vụ tối thiểu, đảm bảo vệ sinh, an toàn chất lượng cho nguyên liệu trong quá trình lưu thông
trên thị trường. Tiếp tục giữ vững và phát huy thế mạnh của nghề chế biến truyền thống.
Hình thành tổ chức dịch vụ cung ứng nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm từ bản thân các
làng nghề hoặc của tổ chức thương mại Nhà nước để tránh tình trạng chèn ép giá. Thông
qua chương trình khuyến ngư, mở lớp tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật chế biến các mặt hàng
thủy sản với quy trình tiên tiến nhằm làm tăng chất lượng sản phẩm, đa dạng hóa sản phẩm
phù hợp nhu cầu thị trường và tăng hiệu quả kinh tế. Tích cực tìm kiếm thị trường mới với
giá cả có lợi cho các doanh nghiệp.
Trong khâu lưu thông cần khắc phục tình trạng tranh mua, tranh bán và
trốn, lậu thuế bằng cách chuyển một số chủ nậu vựa cá, các đầu mối tập kết hàng thủy sản
khai thác vào một vài cảng đang được xây dựng, hình thành chợ cá ngay trên khu vực cảng
cá, mua bán theo dạng đấu thầu từng loại thủy sản, trong đó, Nhà nước cung cấp các dịch
vụ (kho, vận chuyển).
Trong lĩnh vực hậu cần nghề cá cần nâng cao chất lượng các cơ sở đóng mới và
sửa chữa tàu thuyền phục vụ cho chương trình đánh bắt xa bờ của tỉnh, tổ chức mạng lưới
dịch vụ cung cấp ngư lưới cụ, bao bì đóng gói.
3.5. Cần có những biện pháp kiên quyết và đồng bộ để chấm dứt tệ dùng chất
nổ, xung điện, chất độc để đánh bắt thủy sản
Từ đầu những năm 80 đã phát triển tệ dùng xung điện, chất độc, chất nổ để đánh
bắt thủy sản. Việc sử dụng những phương tiện nói trên không những đã làm hủy diệt nguồn
lợi thủy sản, gây ô nhiễm môi trường mà còn thiệt hại cả sinh mạng, tài sản của nhân dân.
Chính phủ, các cơ quan chức năng của Nhà nước: Bộ Thủy sản, Bộ Quốc phòng,
Bộ Công an, ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo hướng dẫn. Trong tổ
chức thực hiện đã thường xuyên tuyên truyền vận động để nhân dân hiểu rõ tác hại của các
tệ nạn này, đơn vị bảo vệ nguồn lợi thủy sản của tỉnh đã phối hợp với cơ quan công an, lực
lượng vũ trang thường xuyên theo dõi, phát hiện nhiều vụ vi phạm và xử lý kịp thời. Tuy
nhiên, các tệ nạn đánh bắt thủy sản như trên vẫn chưa chấm dứt, do chưa nhận thức đầy đủ
các tác hại của việc mình làm. Mặt khác, các văn bản pháp luật ban hành chưa đồng bộ và
thực hiện chưa kiên quyết.
Việc ngăn chặn tệ nạn trên không phải là công việc riêng của ngành thủy sản hay
lực lượng bảo vệ nguồn lợi thủy sản mà phải là công việc chung của toàn xã hội, của các
cấp, các ngành, trong đó ngành thủy sản là lực lượng nòng cốt. Đẩy mạnh hơn nữa công
tác tuyên truyền giáo dục làm cho mọi người biết được tác hại của tệ nạn này và biến nhận
thức thành hành động, thành phong trào toàn dân tham gia phòng chống.
Cần có chính sách đặc biệt đối với hộ nghèo chuyển đổi nghề nghiệp, mặt khác
Nhà nước sớm nghiên cứu giao quyền và nghĩa vụ cho các cộng đồng và hộ làm nghề cá
quyền sử dụng mặt nước.
Các cơ quan chức năng phải quản lý chặt chẽ vật liệu nổ theo nội dung Nghị định
47/CV ngày 12/8/96 của Chính phủ không thất thoát ra ngoài và ngăn chặn nhập lậu vật
liệu nổ, tăng cường hơn nữa việc trang bị phương tiện cho lực lượng kiểm ngư kiểm tra,
kiểm soát. Rà soát lại các văn bản pháp quy để điều chỉnh, bổ sung kịp thời. Phối hợp chặt
chẽ, đồng bộ giữa các ngành chức năng, chính quyền các cấp, đài, báo để vận động tuyên
truyền, phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm. Ngoài ra cần khuyến khích bằng vật chất
cho các đơn vị tuần tra trên biển.
3.6. Khuyến khích các đơn vị kinh tế tư nhân hợp tác và liên kết với nhau theo
những hình thức thích hợp như góp vốn, cung cấp dịch vụ, liên kết đào tạo
Trên nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, sự hợp tác và liên kết này là cần thiết do
nghề cá có tính rủi ro cao, do sự hạn chế của nguồn lợi thủy sản, và do yêu cầu bảo vệ
nguồn lợi, bảo vệ môi trường sinh thái. Sự hợp tác và liên kết càng cấp thiết khi mở rộng
đánh bắt xa bờ. Nó không chỉ giới hạn trong nội bộ kinh tế tư nhân, trong ngành, trong tỉnh
mà cả với các doanh nghiệp Nhà nước, với những ngành hữu quan và với cả các tỉnh bạn.
Hợp tác và liên kết sẽ tạo ra sức mạnh tổng hợp, giúp các đơn vị đứng vững và phát triển
trong kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kết luận chương 3
Kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang sẽ ngày càng tăng về quy mô
và số lượng đơn vị, sẽ từng bước trang bị lại kỹ thuật tiên tiến, hiện đại hơn.
Phương hướng chung của tỉnh là phát huy hơn nữa năng lực kinh tế tư nhân trong
tất cả các lĩnh vực nuôi trồng, khai thác, chế biến, dịch vụ hậu cần, thương mại, khuyến
khích làm giàu chính đáng và tương thân tương ái, giúp đỡ lẫn nhau.
Để thực hiện phương hướng trên, cần ra sức thực hiện những giải pháp chủ yếu
như tăng cường năng lực và hiệu quả quản lý Nhà nước, coi trọng đầu tư phát triển nghề
cá; quy định chính sách phân phối thu nhập hợp lý bảo đảm quyền lợi chính đáng của
người lao động; tổ chức lại sản xuất, kinh doanh của kinh tế tư nhân; ngăn chặn tệ dùng
chất nổ, xung điện, chất độc để đánh bắt thủy sản, khuyến khích các đơn vị kinh tế tư nhân
hợp tác và liên kết với nhau dưới những hình thức thích hợp.
Kết luận
Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước,
ngành thủy sản ở Kiên Giang đã khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Trong những năm
đổi mới vừa qua, kinh tế tư nhân đã đạt nhiều thành tựu đáng kể trong các lĩnh vực khai
thác, nuôi trồng, chế biến, dịch vụ hậu cần và thương mại thủy sản. Kinh tế tư nhân đã tạo
nhiều việc làm, góp phần cải thiện đời sống ngư dân, đáp ứng nhu cầu thủy sản trên thị trường
trong tỉnh, tăng thêm hàng xuất khẩu và tăng thu cho ngân sách
Nhà nước.
Nhưng kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản của tỉnh cũng còn nhiều mặt hạn chế,
như chủ yếu đánh bắt ven bờ vượt quá sản lượng cho phép, làm kiệt quệ nguồn thủy sản;
quy mô sản xuất và kinh doanh nhỏ bé, phân tán, trình độ công nghệ lạc hậu, thiếu thông
tin; quyền lợi của người lao động trong kinh tế tư nhân chưa được đảm bảo; nhiều doanh
nghiệp tư nhân còn lẩn tránh đăng ký kinh doanh, trốn thuế, lậu thuế hoặc vi phạm các quy
định về bảo vệ môi trường sinh thái...
Xu hướng tất yếu là kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục phát triển tăng lên cả về số đơn vị
và quy mô của từng đơn vị, và sẽ từng bước được trang bị kỹ thuật tiên tiến, hiện đại hơn.
Đảng và chính quyền của tỉnh Kiên Giang đã xác định phương hướng chung là
phát huy hơn nữa năng lực kinh tế tư nhân trong tất cả các lĩnh vực: khai thác, nuôi trồng,
chế biến, dịch vụ hậu cần và thương mại thủy sản, nhất là khuyến khích đánh bắt xa bờ.
Để thúc đẩy kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản phát triển lành mạnh, bền vững,
bảo vệ môi trường, sinh thái và cảnh quan thiên nhiên cần phải ra sức thực hiện tốt những
giải pháp chủ yếu sau đây:
Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý của Nhà nước, thực hiện tốt việc đăng ký
kinh doanh, từng bước hướng các đơn vị kinh tế tư nhân thực hiện nghiêm chế độ thống kê
kế toán theo pháp luật, trên cơ sở đó đảm bảo thu thuế đúng và đủ; bảo vệ môi trường và
chuyển giao công nghệ thích hợp.
Coi trọng đầu tư phát triển nghề cá, nhất là hỗ trợ vốn cho ngư dân phát triển các
phương tiện đánh bắt xa bờ; nâng cao trình độ công nghệ chế biến thủy sản để nâng cao chất
lượng sản phẩm; đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho chế biến và
đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Quy định chính sách phân phối thu nhập hợp lý, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của
người lao động, để hạn chế đến mức thấp nhất sự bất công trong phân phối. Nhà nước nên
quy định mức lương tối thiểu của người lao động, đồng thời người sử dụng lao động cũng
có nghĩa vụ thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, vệ sinh an toàn lao động, cải
thiện điều kiện làm việc cho người lao động.
Tổ chức lại sản xuất, kinh doanh của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản, đảm bảo sự
phát triển hài hòa giữa khai thác và nuôi trồng nhằm phục hồi khả năng sinh trưởng các nguồn
lợi thủy sản, từng bước giảm tình trạng manh mún, phân tán, gây ô nhiễm môi trường của công
nghiệp chế biến, hình thành các làng, các khu vực chế biến tập trung theo quy hoạch của tỉnh.
Cần có những biện pháp kiên quyết và đồng bộ để chấm dứt tệ dùng chất nổ, xung
điện, chất độc để đánh bắt thủy sản. Việc ngăn chặn tệ nạn này không chỉ là việc riêng của
ngành thủy sản hay lực lượng bảo vệ mà phải là công việc chung của toàn xã hội, trong đó
ngành thủy sản là nòng cốt.
Khuyến khích các đơn vị kinh tế tư nhân hợp tác và liên kết với nhau theo những hình
thức thích hợp, trên nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi.
Những giải pháp chủ yếu trên đây được thực hiện triệt để, sẽ mở ra triển vọng sáng
sủa cho sự phát triển kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang.
DANH Mục Tài Liệu THAM Khảo
[1]. Báo cáo của Sở Thủy sản Kiên giang từ 1990 đến nay.
[2]. Báo cáo của Chi cục thuế tỉnh Kiên Giang 1998-1999.
[3]. Báo cáo tình hình quản lý thu thuế ngành thủy sản từ năm 1997 đến 6 tháng đầu
năm 1999.
[4]. Báo cáo của ngành tài chính tỉnh Kiên Giang.
[5]. Chỉ thị số 02CT/TW của Bộ Chính trị khóa VIII về đẩy mạnh phát triển kinh tế biển
theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
[6]. Chỉ thị 03 ngày 06/03/1997 của Bộ trưởng Bộ Thủy sản về triển khai dự án đầu tư
đánh cá xa bờ.
[7]. Chỉ thị 20 về phát triển kinh tế biển của Bộ Chính trị (22/9/1997).
[8]. Cân bằng lại giữa 2 khu vực công cộng và khu vực tư nhân: kinh nghiệm của các
nước đang phát triển. Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương dịch và xuất
bản, Hà Nội 1993, tr. 268, 44.
[9]. Công nghiệp hóa - hiện đại hóa để phát triển ngành thủy sản thành ngành kinh tế
mũi nhọn. Tạp chí Cộng sản số 5/1994, tr. 1-3.
[10]. Dự án quy hoạch tổng thể ngành thủy sản đến năm 2010 (các chính sách về chiến
lược hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển) do Vương quốc Đan Mạch,
Bộ ngoại giao Canada và Bộ Thủy sản thực hiện tháng 4/1997.
[11]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật, Hà
Nội, năm 1987.
[12]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1992.
[13]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII. Nxb Sự
thật, Hà Nội, 1996.
[14]. Đề án chiến lược phát triển kinh tế biển, hải đảo và ven biển Tỉnh Kiên Giang đến
năm 2010. ủy ban nhân dân tỉnh Kiên giang
[15]. Đề án quy hoạch tổng thể phát triển ngành thủy sản đến 2010 của Bộ Thủy sản,
1998.
[16]. Đánh giá trình độ công nghệ khai thác, chế biến của Kiên Giang.
[17]. Giáo trình kinh tế - chính trị Mác Lênin. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1999, tr. 522.
[18]. Võ Nguyên Giáp, Khoa học về biển về kinh tế miền biển. Nxb Sự thật, Hà Nội,
1981.
[19]. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị
trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam: đặc điểm và xu hướng phát triển. Đề
tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, mã số 94 - 980076/ĐT do PGS, PTS Hồ Văn Vĩnh -
Trưởng khoa QLKT chủ nhiệm đề tài, Hà Nội, 1995.
[20]. PTS Hoàng Thịnh Lâm, Thủy sản Việt Nam - Thực trạng và triển vọng. Tạp chí
Thương mại số 12/1997, tr. 14-15.
[21]. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33. Nxb Mátxcơva, 1978, tr. 363.
[22]. Đào Thị Phương Liên, Sự phát triển của kinh tế tư nhân trong quá trình chuyển nền
kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường. Luận án PTS kinh tế, Hà Nội, 1995.
[23]. Luật Bảo vệ môi trường.
[24]. Luật Công ty.
[25]. Luật Doanh nghiệp Tư nhân.
[26]. Nguyễn Thị Hồng Minh, Phát huy năng lực các thành phần kinh tế trong công
nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay. Luận án PTS Khoa học
kinh tế, Hà Nội, 1996.
[27]. Tạ Quang Ngọc, Một số vấn đề đặt ra khi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nghề
cá nước ta. Tạp chí cộng sản số 3/1996, tr. 2-3.
[28]. Trần Đức Nguyên, Chế độ sở hữu, hình thức tổ chức kinh tế và thành phần kinh tế. Thông
tin lý luận số 7/1990 tr. 21-25, và số 8/1990 tr. 13-17.
[29]. Niên giám thống kê 1997-1998 của cục thống kê Kiên Giang, tr. 29-36-110
[30]. Nghị định 66/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng ngày 2/3/1992 về cá nhân và nhóm
kinh doanh có vốn thấp hơn vốn pháp định quy định trong nghị định 221/HĐBT.
[31]. Nghị định số 26/CP ngày 7/5/1998.
[32]. Nghị định 47 CP (12/8/1996) về quản lý vật liệu nổ.
[33]. Nghị quyết 03-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa VII) về một số nhiệm vụ phát triển
kinh tế biển trong những năm trước mắt.
[34]. Phát triển kinh tế thủy sản khu vực đồng bằng sông Cửu Long (tài liệu phục vụ hội
nghị giao kế hoạch năm 1999 vùng 6). Bộ Thủy sản 12/1998.
[35]. Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Thủy sản Kiên giang giai đoạn 1996, 2000 và
2010 của Sở Thủy sản Kiên Giang.
[36]. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chương trình phát triển nuôi trồng
thủy sản thời kỳ 1999-2010 (8-12/1999).
[37]. Quyết định 159 của Thủ tướng Chính phủ về đánh bắt xa bờ (3/9/1998).
[38]. Nguyễn Công Tạn tại buổi làm việc với Bộ Thủy sản 13/2/1998. Năm 1998, ngành
thủy sản phải đẩy mạnh khai thác, nuôi trồng, chế biến...Tạp chí Thủy sản số 1/98
[39]. Hoàng Thanh, Nghề cá Việt Nam đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa bằng sức
mạnh nào? Tạp chí Thủy sản số 1/1995, tr. 3 - 6.
[40]. Thông tư 05 liên bộ, Bộ Kế hoạch và đầu tư, Bộ Tư pháp (10/7/1998).
[41]. Thông báo tình hình kinh tế xã hội năm 1999. Cục Thống kê Kiên Giang.
[42]. PTS Hồ Xuân Thông (chủ biên), Tổng quan về ảnh hưởng của quá trình đổi mới lên
sự phát triển của ngành thủy sản Việt Nam.
[43]. Tổng kết thực tiễn kinh tế biển nước ta về định hướng phát triển đến năm 2000,
2010.
[44]. Nguyễn Tấn Trịnh, Phát triển kinh tế biển nước ta theo hướng công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Tạp chí Cộng sản số 2/1998.
[45]. Văn kiện Đại hội Đảng bộ Tỉnh Kiên Giang lần 6.
[46]. Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Thông tin
chuyên đề Kinh tế Tư nhân - thực trạng và giải pháp. Hà Nội, 3/1994.
mục lục
Trang
Mở đầu 1
Chương 1: vai trò và đặc điểm của kinh tế tư nhân trong
ngành thủy sản ở kiên giang
4
1.1. Vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển thủy sản ở Kiên
Giang
4
1.1.1. Ngành thủy sản trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Kiên Giang 4
1.1.2. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế tư nhân trong ngành thủy
sản Kiên Giang
7
1.2. Những đặc điểm chủ yếu của kinh tế tư nhân trong ngành thủy
sản ở Kiên Giang
17
Chương 2: thực trạng và những vấn đề đặt ra của kinh tế tư
nhân trong ngành thủy sản ở kiên giang
21
2.1. Thực trạng của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở
Kiên Giang
21
2.1.1. Xét về từng loại hình kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản
Kiên Giang
21
2.1.2. Năng lực của kinh tế tư nhân trên các lĩnh vực của ngành thủy
sản ở Kiên Giang
25
2.1.3. Sự đóng góp của kinh tế tư nhân đối với tỉnh 30
2.1.4. Về cơ chế hoạt động 32
2.1.5. Hạn chế của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở
Kiên Giang
33
2.2. Những vấn đề cần giải quyết để phát triển lành mạnh kinh tế tư
nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang
36
2.2.1. Việc quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân trong một
số lĩnh vực còn lỏng lẻo
36
2.2.2. Quyền lợi của người lao động trong kinh tế tư nhân ở lĩnh vực
thủy sản chưa được đảm bảo
39
2.2.3. Công tác quản lý vệ sinh môi trường chưa đạt yêu cầu đặt ra 40
2.2.4. Việc cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến chưa đầy
đủ và đều đặn
40
2.2.5. Vấn đề đào tạo, nâng cao kiến thức cho người lao động trong
ngành thủy sản Kiên Giang còn nhiều hạn chế
41
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu để phát huy năng lực
kinh tế tư nhân trong ngàng thủy sản ở Kiên
giang
44
3.1. Nâng cao năng lực và hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với
kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản Kiên Giang
45
3.2. Coi trọng đầu tư phát triển nghề cá 50
3.3. Quy định chính sách phân phối thu nhập hợp lý, bảo đảm
quyền lợi hợp pháp của người lao động trong khu vực kinh tế
tư nhân
51
3.4. Tổ chức lại sản xuất kinh doanh của kinh tế tư nhân trong ngành
thủy sản ở Kiên Giang
53
3.5. Cần có những biện pháp kiên quyết và đồng bộ để chấm dứt tệ
dùng chất nổ, xung điện, chất độc để đánh bắt thủy sản
59
3.6. Khuyến khích các đơn vị kinh tế tư nhân hợp tác và liên kết
với nhau theo những hình thức thích họp như góp vốn, cung
cấp dịch vụ, liên kết đào tạo
60
Kết luận 62
Danh mục tài liệu tham khảo 64
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Phát huy năng lực của kinh tế tư nhân trong ngành thủy sản ở Kiên Giang.pdf