Những quan niệm về nhân sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng tích cực cũng như 
tiêu cực đến đời sống xã hội Việt Nam. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nhân 
sinh quan Phật giáo chịu sự quy định và biến đối cùng với tồn tại xã hội, mà trước hết là 
sự biến đổi của kinh tế-xã hội, của đất nước và của thời đại. Hiện nay, trong bối cảnh mới 
Phật giáo đã có sự cải biến, đổi mới cả về giáo lý, lễ nghi và biện pháp hoằng pháp hóa 
đạo để thích nghi với hoàn cảnh mới, điều kiện mới.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 84 trang
84 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4416 | Lượt tải: 4 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hật là sinh 
hoạt văn hóa mang bản sắc dân tộc, qua đó giúp con người hướng tới điều thiện vốn là 
nét đẹp của văn hóa truyền thống. Chùa không chỉ là nơi thỏa mãn niềm tin tôn giáo của 
con người mà có thể nói đây còn là địa điểm để thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của họ. Chùa 
được xây dựng ở những nơi có phong cảnh đẹp, sơn thủy hữu tình, hòa mình vào thiên 
nhiên, tô đẹp cho thiên nhiên nhưng lại mang dáng vẻ rất trầm mặc và thanh thoát như 
một tiên cảnh ẩn hiện dưới những bóng cây mát mẻ, lưng dựa vào núi, mặt hướng ra sông 
hoặc nằm nơi đầu làng. 
Ngày nay chùa vẫn là nơi sinh hoạt văn hóa của đông đảo quần chúng nhân dân, 
biểu hiện là đến rằm tháng bảy - ngày hội Vu Lan mọi người dân Việt Nam đều cầu 
nguyện cho người chết được siêu thoát, ngày mồng tám tháng tư lễ hội Phật Đản, lễ hội 
Chùa Hương với hát chèo đò gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian... Như vậy, tín ngưỡng 
Phật giáo với sinh hoạt văn hóa của con người Việt Nam trở thành những giá trị văn hóa 
trong đời sống tinh thần của dân tộc. Lễ hội chùa chứa đựng những nội dung văn hóa 
nhất định trong di sản văn hóa của chúng ta. Ngày nay những giá trị ấy vẫn góp phần làm 
đẹp cho cuộc sống của con người trong xã hội. 
Song trước sự biến đổi của đời sống kinh tế - xã hội, ảnh hưởng nhân sinh quan 
Phật giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam, trong đó có sinh hoạt văn hóa 
của người dân tại các ngôi chùa cũng thay đổi rất nhiều. Những nét đẹp trong giá trị văn 
hóa đã bị thị trường hóa, từ thiện, từ tâm để tu bổ sửa chữa lại chùa là việc làm hết sức 
cần thiết cho những niềm tin nhân quả và bảo tồn một trong những di sản văn hóa dân 
tộc, nhưng cũng cần có sự phê phán việc lợi dụng những hành vi trên để trục lợi làm 
giảm uy tín của nhà chùa vốn là nơi linh thiêng, thanh tịnh. Do tác động của cơ chế thị 
trường đã khiến sinh hoạt văn hóa của các nhà chùa có sự biến đổi, nhiều tín đồ, người 
lên chùa đã quá sa đà vào việc lễ bái dẫn đến hiện tượng mê tín, dị đoan gây nhiều lãng 
phí về mặt tiền bạc, thời gian. Trên thực tế đã xuất hiện danh nghĩa khôi phục văn hóa 
Phật giáo để bày ra lễ hội tốn kém, những hiện tượng mê tín, dị đoan nhờ đó mà phát 
triển. Nơi sinh hoạt văn hóa trước đây của nhiều người dân Việt Nam nay đã biến thành 
chợ trời của sự cúng bái. Có kẻ mượn danh Phật tiến hành các hành vi mê tín, dị đoan: 
bùa ngải, lên đồng, gọi hồn... thực chất là lợi dụng lòng mê muội của người dân, những 
người này lên chùa cầu mong Đức Phật che chở, phù hộ cho họ được may mắn có nhiều 
tài lộc, quan niệm nhân sinh của người tín đồ cũng có nhiều biến đổi để thích ứng với 
thời đại mới. Trong điều kiện mới những ngôi chùa khó giữa được dáng vẻ như xưa. Hiện 
nay những danh thắng ấy như một xã hội thu nhỏ có cả nhà ăn, quán trọ, cửa hàng với 
không khí sôi động ồn ào, náo nhiệt của thị trường. 
Cuộc sống của con người trong xã hội rất đa dạng, có nhiều uẩn khúc, hiện nay 
chưa có một lý thuyết nào có thể giải thích thỏa mãn. Đạo Phật với sinh hoạt văn hóa của 
nó vẫn có cơ sở để tồn tại và rõ ràng Phật giáo không phải là con đường cứu khổ duy nhất 
cho con người. 
2.2.2. Xu hướng biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo 
Là một trong những hình thái của ý thức xã hội, ý thức tôn giáo trong đó có Phật 
giáo chịu sự quy định của kinh tế - xã hội đất nước. Trước thực tế nước ta hiện nay, sự 
phát triển kinh tế đang diễn ra một cách mau lẹ, sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội trở 
nên nhanh chóng… đã làm tôn giáo cũng có khả năng tự biến đổi để thích nghi theo xu 
hướng "đồng hành với dân tộc", sống "tốt đời, đẹp đạo", "sống phúc âm giữa lòng dân 
tộc". Không nằm ngoài quy luật chung đó, ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo cũng 
biến đổi theo xu hướng ngày càng thoáng hơn, thực dụng hơn, thực tế hơn. Trước xu thế 
toàn cầu hóa trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa tư tưởng Phật giáo Việt Nam 
từng bước hòa nhập vào các diễn biến của thế giới và đất nước. Phật giáo biến đổi theo sự 
biến đổi của cơ sở kinh tế, thích ứng với xã hội đang thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa đất nước, cũng như các tôn giáo khác, Phật giáo hướng con người đến cái thiện, diệt 
trừ cái ác, mang tính nhân văn, loại bỏ cái lạc hậu, tiếp nhận và chọn lọc những yếu tố 
mới trong đời sống tôn giáo, phát huy những yếu tố truyền thống lành mạnh, vì vậy đã 
hấp dẫn lôi kéo nhiều người trong xã hội với tôn chỉ, mục đích cứu khổ cho con người. 
Đây cũng chính là những nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng số lượng các tín đồ và hoạt 
động tín ngưỡng, tôn giáo trong đó có Phật giáo ở Việt Nam. ảnh hưởng của việc chuyển 
đổi nền kinh tế từ cơ chế tập quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường cùng với 
những mặt trái của nó đã xô đẩy nhiều người tìm đến với tôn giáo nói chung, Phật giáo 
nói riêng. Trong những năm gần đây số lượng người đến chùa ngày càng nhiều gồm đủ 
mọi thành phần: Người già, người trẻ, trí thức, nhà buôn, công chức… với những lý do 
và mục đích riêng. Song về cơ bản, chúng ta có thể nhận thấy, việc đi chùa của những 
người này là nhằm mục đích cầu xin điều gì đó. Bên cạnh đó, cũng có người đi chùa đơn 
giản là để lấy lại sự thoải mái, thư giãn trong tâm hồn. Cũng không ít người đi chùa là vì 
sùng mộ Phật, nhưng lại rất cảnh giác với việc thương mại hóa chùa chiền, buôn thần, 
bán thánh... để kiếm tiền. Qua đây chứng tỏ rằng, sự giác ngộ, trình độ nhận thức, sự hiểu 
biết về tín ngưỡng Phật giáo của nhân dân ta đã được nâng lên. 
Cùng với xã hội loài người, thực tiễn xã hội Việt Nam đang vận động biến đổi 
từng ngày, từng giờ kéo theo đó là ý thức xã hội trong đó có ý thức tôn giáo, Phật giáo 
cũng biến đổi cho phù hợp. Hiện nay Phật giáo đang có sự điều chỉnh thay đổi về nhiều 
mặt, kể cả giới luật … để phù hợp với xu hướng biến đổi của kinh tế - xã hội đất nước. 
Theo thời gian, trình độ dân trí, trạng thái tình cảm, quan niệm đạo đức, văn hóa, lối sống 
(ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo) của các tín đồ phật tử cũng thay đổi. Nhiều điều 
mà trước đây họ thực hiện, thì ngày nay không được chấp nhận cũng là điều dễ hiểu. Các 
giới luật cũng được giải thích một cách nhẹ nhàng. Ví dụ như đối với giới đầu tiên trong 
giới luật xưa bắt đầu bằng câu cấm sát sinh, thì trong một số tài liệu Phật học ngày nay đã 
nêu nội dung giới này như sau: "ý thức được những khổ đau do sát hại gây ra, con xin 
theo hạnh đại bi để bảo vệ sự sống của mọi người và mọi loài"… làm người nghe cảm 
thấy dễ chấp nhận hơn. Về giới luật "cấm sát sinh", Phật giáo đã thấy được phần nào hạn 
chế của nó là khó thực hiện trong đời sống nên Hòa thượng Thích Thánh Nghiêm nói: 
"Không được tự mình sát sinh còn nếu mua thịt cá về nhà thì không có hại gì" [22, tr. 34]. 
Hoặc về giới thứ năm "không uống rượu" cũng được giải thích mở rộng như: "không 
dùng các chất ma túy, không tiêu thụ những sản phẩm độc hại như: sách báo, âm nhạc, 
phim ảnh... có nội dung không lành mạnh". Những sự thay đổi như vậy đã làm giảm bớt 
tính khắt khe của giới luật và nhằm mở rộng ảnh hưởng của nó trong xã hội, để dễ dàng 
thu hút đông đảo người đến với đạo Phật hơn. 
Trong lịch sử, Phật giáo Việt Nam có lúc thịnh, suy, nhưng luôn luôn đi cùng dân 
tộc, gắn bó với đất nước. Trong quá trình lịch sử của mình, Phật giáo Việt Nam đã có 
nhiều biến đổi thích ứng với phong tục, tập quán, hoàn cảnh xã hội của con người Việt 
Nam, góp phần làm nên bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. Hiện nay, công cuộc đổi 
đã đem lại sự biến đổi sâu sắc trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong đó đáng chú 
ý là sự phát triển của nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường đã 
góp phần làm nên những thành tựu quan trọng về kinh tế, kéo theo sự chuyển biến tích 
cực về chính trị, văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, mặt trái kinh tế thị trường cũng là nguyên 
nhân của nhiều hiện tượng tiêu cực đối với đời sống xã hội. Tồn tại với tính cách là một 
những hình thái ý thức xã hội, Phật giáo Việt Nam có sự biến đổi đáng kể để thích ứng 
với thực tiễn của đất nước. Nhiều vị chức sắc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã nhận 
thấy sự cần thiết phải thích ứng với tình hình mới của thời đại. Những hoạt động từ thiện, 
từ bi của Phật giáo là những nét đẹp trong xã hội nhất là khi nền kinh tế thị trường với 
mặt trái của nó đã đưa một số người đến với chủ nghĩa cá nhân. Điều này được họ quan 
tâm chú ý nhằm mở rộng ảnh hưởng của Phật giáo, mà trước hết là nhân sinh quan Phật 
giáo đối với đời sống tinh thần của con người Việt Nam. 
Thực tế những năm gần đây cho thấy, không khí sinh hoạt Phật giáo sôi nổi hơn 
rất nhiều so với trước. Có hiện tượng này là do Phật giáo thỏa mãn được một số nhu cầu 
của con người trong điều kiện hiện nay. Từ việc đào tạo tăng ni trong cả nước, các hoạt 
động Phật pháp ngày càng mở rộng về quy mô lẫn tổ chức và nội dung, đẩy mạnh các hoạt 
động thu hút tín đồ v.v... Biểu hiện rõ nét của điều đó là việc người dân lên chùa dâng 
hương lễ 
Phật ngày một nhiều, tệ cúng bái thờ tự nhiều lúc, nhiều nơi phát triển tràn lan v.v... Hiện 
nay ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của con người Việt Nam 
đã có những nét khác trước. Sự biến đổi ảnh hưởng của Phật giáo và nhân sinh quan của 
Phật giáo nói riêng là vấn đề rất đáng quan tâm hiện nay. Phật giáo, với nhiều ưu thế 
trong việc truyền bá ảnh hưởng của mình thông qua hệ thống nhà chùa, các hoạt động 
sinh hoạt tín ngưỡng có tính chất rộng rãi v.v... Nhiều ngôi chùa, nhất là những ngôi chùa 
lớn ngày càng thu hút nhiều tầng lớp dân cư không chỉ thuần túy là sinh hoạt văn hóa tinh 
thần như trước, mà còn nảy sinh nhiều biểu hiện vượt quá khuôn khổ cho phép của hoạt 
động tôn giáo. Bên cạnh việc sinh hoạt của Phật giáo góp phần trong việc bảo tồn, phát 
triển những giá trị văn hóa truyền thống cũng như củng cố, tôn tạo những giá trị đời sống 
tinh thần, thì sự biến đổi nhân sinh quan Phật giáo cũng làm nảy nhiều vấn đề phức tạp 
xung quanh hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo hiện nay. 
ở một số địa phương, chẳng hạn ở Huế, việc xây dựng, tập hợp lực lượng quần 
chúng của Phật giáo đã mở rộng sang nhiều hình thức mới. Nhiều tổ chức Phật giáo như hội 
Đoàn thanh niên Phật tử, Gia đình Phật tử v.v... ra đời, tích cực mở rộng ảnh hưởng. 
Những hoạt động này được kết hợp với nhiều hoạt động xã hội đã tạo ưu thế trong việc 
thu hút các tín đồ và cạnh tranh ảnh hưởng đối với các tôn giáo khác. Sự phát triển mạnh 
của những hoạt động truyền bá trên đây cũng gây nên nhiều hiện tượng phức tạp không 
chỉ đối với xã hội mà ngay cả trong nội bộ giáo hội Phật giáo. Đây đó xảy ra mâu thuẫn, 
chia rẽ bè phái gây mất đoàn kết nội bộ ảnh hưởng đến trật tự chung, tạo ra kẽ hở cho các 
thế lực phản động lợi dụng phục vụ cho âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn 
dân, phá hoại công cuộc đổi mới của đất nước. 
Hiện nay, xu hướng biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo nhằm phát 
huy ảnh hưởng của đạo Phật, cộng với mặt trái của cơ chế thị trường, nhất là xu hướng 
chạy theo đồng tiền, sự phân hóa giàu nghèo, sa sút đạo đức đã tạo điều kiện cho việc nảy 
sinh tâm lý tín ngưỡng và cả mê tín dị đoan phát sinh, phát triển mạnh. Điều đó ảnh 
hưởng rất lớn không chỉ đối với sinh hoạt của Phật giáo, mà còn ảnh hưởng tới hoạt động 
xã hội và đời sống sinh hoạt của nhiều gia đình người Việt Nam. Sự biến đổi của ảnh 
hưởng nhân sinh quan Phật giáo đã thúc đẩy mạnh mẽ xu hướng thế tục hóa của Phật 
giáo. Biểu hiện rõ nét của xu hướng này là sự tham gia vào những hoạt động xã hội có 
tính chất nhập thế. Chẳng hạn như sự tham gia của nhiều vị giáo chức cũng như các tín 
đồ vào các công tác giáo dục, y tế, các hoạt động cứu trợ, từ thiện... đã góp phần cùng xã 
hội làm giảm bớt những nỗi khổ, bất hạnh của nhiều người do thiên tai hay những rủi do 
đem lại. Chính những hoạt động xã hội mang đậm tính nhân đạo đã góp phần giảm bớt 
tính chất thần thánh, làm cho hoạt động của Phật giáo không xa lánh với cuộc sống đời 
thường, gần gũi với người dân. Nhiều người tín đồ từ chủ trương xuất thế xa lánh cuộc 
sống trần tục chuyển sang nhập thế, quay về với cuộc sống hiện thực ở đời. Xu hướng thế 
tục hóa của Phật giáo một mặt thúc đẩy các tín đồ gắn liền, không thoát ly công cuộc đổi 
mới của đất nước, mặt khác giúp họ nhận rõ hơn nghĩa vụ, trách nhiệm của người công 
dân đối với đất nước, đối với dân tộc. Bên cạnh các hoạt động tôn giáo, các tín đồ Phật tử 
phải chăm lo công việc đời thường, làm theo lẽ đời, theo phương châm đạo pháp - dân 
tộc và chủ nghĩa xã hội. Chính việc hướng tới đời sống thế tục, tận tâm với lợi ích thế tục 
lại của người Phật tử thúc đẩy xu hướng thế tục hóa sẽ đem lại nhiều cơ hội cho Phật giáo 
mở rộng ảnh hưởng của mình trong quần chúng nhân dân. 
Trước thời kỳ đổi mới, nhà chùa duy trì sự tồn tại và phát triển của mình chủ yếu 
bằng việc thu nhập dựa vào việc canh tác trên ruộng đất của nhà chùa, thì trong điều kiện 
kinh tế thị trường với sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất hàng hóa đã làm đời sống kinh 
tế của đất nước có bước chuyển biến mạnh mẽ, đời sống của các tầng lớp dân cư trong đó 
có các phật tử và tín đồ Phật giáo được nâng lên và cải thiện một bước rõ rệt. Trong bối 
cảnh kinh tế thị trường, sinh hoạt của nhà chùa, khó giữ được dáng vẻ như xưa. Với việc 
mở rộng và phát triển giáo hội, đội ngũ tăng ni, chức sắc và các tín đồ ngày càng đông 
v.v... Để có thể duy trì và phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của các tầng lớp 
dân cư, hoạt động của nhà chùa buộc phải có những thay đổi trên nhiều lĩnh vực để thích 
ứng với tình hình mới, trong đó có lĩnh vực kinh tế. Tính chất kinh doanh đã len lỏi vào 
trong nhiều hoạt động của nhà chùa. Nhiều chùa sẵn sàng đáp ứng và thực hiện những 
yêu cầu của tín đồ như làm lễ giải oan, cầu siêu... cũng là hai bên cùng có lợi: các tín đồ 
phật tử thỏa mãn nhu cầu tâm linh, còn về phía nhà chùa cũng tăng thêm thu nhập. Phần 
lớn số lượng tiền dùng cho việc tu bổ, sửa chữa chùa là do những tín đồ, những người lên 
chùa cung tiến, những người này quan niệm: nếu cung tiến vào chùa nhiều tiền sẽ được 
Phật phù hộ cho nhiều tài lộc trong cuộc sống. 
2.3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế 
những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo ở nước ta hiện nay 
2.3.1. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển kinh tế thị 
trường, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh 
Chúng ta đang phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 
nhằm mục đích phát triển sản xuất xã hội, tạo ra nhiều sản phẩm, nâng cao đời sống vật 
chất cho nhân dân lao động. Đây cũng là điều kiện tốt để phát triển con người một cách 
toàn diện trên các mặt Đức - Trí - Thể - Mỹ. Với sức mạnh vật chất, hoạt động vật chất, 
cải tạo hiện thực, chúng ta mới hy vọng khắc phục dần được những biểu hiện tiêu cực của 
Phật giáo đang chi phối tâm lý, cách suy nghĩ, lối sống của một phận không nhỏ của quần 
chúng nhân dân. Đức Phật cũng xác định rằng: Tình trạng nghèo khổ là một trong những 
nguyên nhân của sự bạo hành trong xã hội. Vì vậy, để phát huy những ảnh hưởng tích 
cực của nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình đổi mới ở đất nước ta hiện nay, thì giải 
pháp quan trọng đó là sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây 
dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Đảng ta xác định: "Kinh tế thị trường mà chúng ta 
đang xây dựng là nền kinh tế không chỉ tồn tại trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã 
hội mà còn tồn tại trong cả chủ nghĩa xã hội" [7, tr. 97]. 
Đó là nền kinh tế trong đó việc tăng trưởng kinh tế gắn liền với việc phát triển 
văn hóa xã hội, từng bước thực hiện công bằng xã hội, cải thiện đời sống nhân dân. Phát 
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó kinh tế nhà nước vươn lên 
giữ vai trò chủ đạo cùng kinh tế tập thể trở thành nền tảng của kinh tế quốc dân. Nhà 
nước phải thực sự của dân, do dân và vì dân. 
Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển kinh tế thị trường là 
chúng ta đã thực hiện mục tiêu cao cả thiêng liêng bất di bất dịch của nhân dân ta. Như 
Đảng ta nhiều lần chỉ rõ: "Xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, đi lên chủ 
nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội gắn liền với 
độc lập dân tộc". 
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ đường lối cách 
mạng nước ta. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do nhân dân lao 
động làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế 
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân 
tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng 
theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá 
nhân; các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ 
hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Cũng có thể diễn đạt mục 
tiêu ấy trong giai đoạn hiện nay là: "Xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, 
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". 
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nghĩa là nền kinh tế của 
chúng ta không phải là kinh tế bao cấp, quản lý theo kiểu tập trung bao cấp, nhưng đó 
cũng không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Phát triển kinh tế thị trường 
định hướng xã hội chủ nghĩa đã nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. 
Chúng ta đang phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích phát triển 
sản xuất xã hội, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, nâng cao đời sống vật chất cho nhân 
dân. Qua đó phát huy ảnh hưởng tích cực của nhân sinh quan Phật giáo vì muốn thay đổi 
đời sống tinh thần thì phải thay đổi điều kiện kinh tế. Chỉ khi nào cuộc sống của con 
người không còn đói nghèo và trong xã hội không còn áp bức bất công khi đó thì cõi niết 
bàn cũng giảm bớt sự hấp dẫn. Xóa bỏ đói nghèo, nâng cao đời sống vật chất cho nhân 
dân là loại trừ nguồn gốc nảy sinh nhu cầu tôn giáo, đẩy lùi ước mơ ở thiên đường bên 
kia, tạo lập thiên đường của con người ở chính thế giới thực tại này. Sự phát triển không 
ngừng về kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa sẽ quyết định sự mất dần ảnh hưởng tiêu cực 
của tôn giáo nói chung, nhân sinh quan Phật giáo nói riêng. Vì vậy, thực hiện các chương 
trình phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất của đồng bào, chăm lo cuộc 
sống cho họ là trách nhiệm của công tác tôn giáo, để bên cạnh niềm tin tôn giáo là niềm 
tin có cơ sở thực tế vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước. 
 Phát triển kinh tế đất nước, hạn chế phân hóa giàu nghèo trong xã hội sẽ hạn chế 
ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo. Kinh tế phát triển sẽ tạo điều kiện cho 
văn hóa, xã hội tiến bộ, góp phần nâng cao trình độ nhận thức của nhân dân. Điều đó sẽ 
dần dần hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo nói chung của Phật 
giáo mà trước hết là nhân sinh quan Phật giáo nói riêng trong đời sống tinh thần của 
người dân Việt Nam. Sự phát triển không ngừng về kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa, 
hoàn thiện mọi quan hệ xã hội, phát triển lối sống xã hội chủ nghĩa… sẽ góp phần giải 
quyết nguồn gốc xã hội và nguồn gốc nhận thức của tôn giáo cũng như của Phật giáo ở 
nước ta. Đây là điều kiện tiên quyết để phát huy tốt những ảnh hưởng tích cực của nhân 
sinh quan Phật giáo, lấy đạo pháp phục vụ dân tộc, xóa bỏ những hoạt động mê tín dị 
đoan, góp phần ổn định chính trị xã hội, củng cố niềm tin của quần chúng nhân dân vào 
Đảng và Nhà nước. 
 Việc phát huy những ảnh hưởng tích cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời 
sống tinh thần của con người Việt Nam sẽ có tác động tích cực trở lại, góp phần thực hiện 
tốt đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, bởi 
theo lý luận chủ nghĩa Mác là ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại đối 
với tồn tại xã hội. Vì vậy cần có cơ chế, chính sách phát huy nội lực của nhân dân, tạo ra 
phong trào quần chúng mạnh mẽ, rộng khắp và thường xuyên tham gia phát triển văn 
hóa, xây dựng nếp sống văn minh, bảo vệ nền văn hóa dân tộc cũng như bồi đắp cá tính 
con người Việt Nam. 
2.3.2. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo, tổ chức phật tử 
trong đời sống kinh tế - xã hội 
Sự tồn tại và phát triển của tôn giáo nói chung và Phật giáo ở nước ta hiện nay đã 
cho thấy, Phật giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận quần chúng nhân dân. Phật 
giáo vẫn tồn tại và ảnh hưởng đến đời sống tinh thần con người Việt Nam với cả những 
mặt tích cực và mặt tiêu cực. Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh 
hưởng tiêu cực của Phật giáo - đặc biệt nhân sinh quan Phật giáo, là yêu cầu khách quan 
trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Cùng với những giải pháp khác thì việc phát huy vai 
trò tích cực của các tổ chức Phật giáo trong đời sống kinh tế - xã hội là điều kiện để thực 
hiện thắng lợi yêu cầu khách quan trên đây. 
Thực tế ở nước ta trong mấy năm gần đây đã xuất hiện những giáo phái mới 
(Thanh Hải Vô Thượng Sư, Long Thọ Bồ Tát, Long Hoa Di Lặc…), những hoạt động mê 
tín dị đoan diễn ra khắp nơi, trong mọi lứa tuổi và trong mọi tầng lớp dân cư. Thực trạng 
này đòi hỏi công tác quản lý tôn giáo của Đảng, Nhà nước phải được tăng cường hơn 
nữa. Trong đó việc tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo, xây dựng 
phát huy vai trò các tổ chức tôn giáo là việc làm bức thiết. Để phát huy vai trò tích cực 
của các tổ chức Phật giáo sẽ giúp Phật giáo phát triển đúng hướng, phù hợp với đời sống 
hiện đại; thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chú trọng giải quyết những 
lợi ích thiết thân kể cả quyền tự do tín ngưỡng của các Phật tử. Qua đó đã giúp đỡ đồng 
bào nâng cao trình độ về mọi mặt có nhiều đóng góp tích cực và lớn lao vào sự nghiệp 
cách mạng của nước ta. 
Tư tưởng đại đoàn kết các dân tộc, không phân biệt tín ngưỡng tôn giáo, tín 
ngưỡng tự do và lương giáo đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra ngay từ khi khai 
sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã trở thành chính sách lớn của Đảng và Nhà 
nước ta, thực chất là sự tôn trọng quần chúng nhân dân và đời sống tâm linh của họ. 
Trong cổ vũ động viên cũng như trong chỉ đạo thực tiễn phong trào cách mạng Hồ Chủ 
tịch và Đảng ta luôn quan tâm đến niềm tin tôn giáo của đồng bào theo đạo. Hồ Chủ Tịch 
mong muốn mỗi giáo dân vừa là người chân chính yêu nước, vừa là chân chính tín đồ. 
Quan điểm tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, quyền bình đẳng giữa các tín ngưỡng tôn 
giáo của Đảng và Nhà nước được biểu hiện trên nhiều khía cạnh. Đại biểu của các tín đồ 
tôn giáo, trong đó có giới tăng ni, phật tử có mặt trong thành phần quốc hội, tham gia vào 
các cơ quan quyền lực nhà nước. Giới tăng ni, phật tử đang là bộ phận hữu cơ trong khối 
đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Điều đó chứng tỏ Phật giáo ngày càng 
gắn bó với dân tộc. 
 Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo góp phần đảm bảo cơ cấu 
trong các tổ chức Phật giáo đưa hoạt động của giáo hội Phật giáo đi đúng hướng, không 
trái với mục tiêu của Đảng và Nhà nước, duy trì sự ổn định xã hội, đoàn kết tôn giáo, 
đoàn kết dân tộc để cùng nhau xây dựng, phát triển đất nước trong công cuộc đổi mới 
toàn diện. Nhà nước căn cứ vào luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người tín 
đồ và các tổ chức Phật giáo, đồng thời tạo điều kiện cho tổ chức này gìn giữ và phát triển 
các giá trị văn hóa đạo đức truyền thống, từ đó phát huy những mặt tích cực của ảnh 
hưởng nhân sinh quan Phật giáo đối với đời sống xã hội. 
Trong việc phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong các hoạt động của 
Phật giáo thì các vị chức sắc, lãnh đạo giáo hội, giáo đoàn có vai trò rất lớn. Họ có ảnh 
hưởng rất lớn trong việc ngăn chặn kịp thời các hành vi vượt ra khỏi khuôn khổ của giáo 
luật cũng như luật pháp của số tín đồ lợi dụng chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng để 
gây rối làm mất an ninh, trật tự xã hội, ngăn chặn thế lực phản động bên ngoài, lợi dụng 
Phật giáo trong chiến lược diễn biến hòa bình. Mặt khác, các vị chức sắc, nhà tu hành 
cũng phải tuân theo nghĩa vụ của người công dân. Họ cũng bị pháp luật xử lý nếu tham gia 
các hoạt động gây rối, gây mất trật tự ổn định xã hội, chống phá sự nghiệp đổi mới, đi 
ngược lại với lợi ích của dân tộc. Công việc này đòi hỏi chúng ta phải phát huy sức mạnh 
tổng hợp của nhiều người, nhiều cấp, nhiều ngành, của cả hệ thống chính trị. Trong công 
tác quản lý các hoạt động tôn giáo, chúng ta phải hết sức cẩn trọng để tránh có sự hiểu 
lầm, không để kẻ xấu lợi dụng và bảo vệ sự vững chắc khối đại đoàn dân tộc. 
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề 
tôn giáo, Đảng và Nhà nước vẫn xác định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận 
quần chúng nhân dân, ở một mức độ nhất định nó vẫn phát huy tác dụng và hướng dẫn 
hoạt động của con người. Trong tình hình hiện nay, trên cơ sở phương pháp luận duy vật 
biện chứng, chúng ta phải biết đánh giá, phát huy những giá trị tích cực của nhân sinh 
quan Phật giáo trong giai đoạn hiện nay, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh 
quan Phật giáo trong đời sống xã hội. 
Quá trình hội nhập với các quốc gia trong khu vực và thế giới đã mở ra cho đất 
nước nhiều điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng và đẩy mạnh quan hệ hợp tác quốc tế. 
Tuy nhiên, quá trình đó cũng đặt dân tộc ta đứng trước nhiều thách thức mới. Đảng và 
nhà nước ta đã động viên toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước bằng ý 
chí tự lực tự cường, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của các nước trên thế giới. Các chính 
sách về tôn giáo mà Đảng ta đưa ra nhằm phát huy khối đại đoàn kết dân tộc, phát nhân 
tố con người, vì con người... phải động viên được khoảng mười triệu tín đồ Phật tử cố kết 
trong hàng ngũ của toàn dân theo tinh thần đại đoàn kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 
nêu để cùng nhau xây dựng và phát triển đất nước. Trong xã hội ta hiện nay, giới tăng ni, 
phật tử và những người có cảm tình với Phật giáo chiếm số lượng khá đông. Đây là lực 
lượng xã hội to lớn có thể phát huy năng lực sáng tạo trong lao động sản xuất cũng như 
trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy tinh thần yêu nước của đồng bào 
có đạo, tự giác và phối hợp đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực thù địch 
lợi dụng vấn đề tôn giáo, dân tộc để phá hoại đại đoàn kết dân tộc, chống chế độ. 
Vì vậy, việc đoàn kết những người có tín ngưỡng và tôn giáo khác nhau, củng cố 
và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất, tập hợp mọi lực lượng quần chúng nhân dân 
quanh Đảng nhằm góp phần vào sự nghiệp đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ 
nghĩa đi đến thắng lợi là việc làm rất cần thiết và cấp bách. 
Trong không khí hòa bình, cả nước đang đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội đòi 
hỏi các tín đồ, nhà tu hành, các vị chức sắc phải thực hiện tốt nghĩa vụ của mình. Họ 
không chỉ dừng lại ở việc tổ chức và hành đạo theo tín ngưỡng mà còn phải vì sự nghiệp 
chung của dân tộc, hòa mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội 
chủ nghĩa. Trên thực tế họ không thể tách rời khỏi các hoạt động chung của xã hội, trong 
đó có việc thực hiện tốt các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, phải gắn đạo 
với đời. Hiện nay trong thành phần đại biểu Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc, Hội đồng nhân 
dân các cấp bao gồm cả các đại biểu đại diện cho các tôn giáo, trong đó có Phật giáo. 
Điều này thể hiện một cách nhất quán chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng. Giới 
tăng ni, phật tử Việt Nam hiện đang thực sự là bộ phận hữu cơ trong khối đại đoàn kết 
toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng để cùng nhau xây dựng và phát triển đất nước. 
Hiện nay, trong các hoạt động truyền bá Phật pháp, thì việc đào tạo các tăng ni, 
phật tử cũng rất được chú trọng. Điều này đã tạo điều kiện để cho các tín đồ Phật giáo 
được tiếp xúc nghiên cứu, nắm vững nâng cao hiểu biết của mình về kiến thức Phật giáo. 
Trên cơ sở đó, các Phật tử sẽ phân biệt được tín ngưỡng Phật giáo với tín ngưỡng của các 
tôn giáo khác. Nếu làm tốt điều này, sẽ hạn chế việc các tín đồ bị lôi cuốn vào các hoạt 
động mê tín dị đoan, mà nhiều người lợi dụng dưới danh nghĩa hoạt động để tiến hành, 
đang được coi là vấn đề bức xúc trong xã hội. Việc hiểu và nắm chắc giáo lý đạo Phật, 
các tín đồ sẽ là bộ lọc giúp cho người Phật tử tự giác, không dễ bị mua chuộc, lôi kéo hay 
vô tình vi phạm đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về tôn giáo. 
Để phát huy tốt vai trò của các tổ chức phật tử, chúng ta cần phải thực hiện tốt 
đường lối, chủ trương và các chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước. Trong đó, có 
việc loại trừ mọi mặc cảm thành kiến trong đồng bào cố đạo, không có đạo, tăng cường 
khối đoàn kết trong cộng đồng dân cư, đồng thời tạo ra các điều kiện để người tu hành có 
thể tham gia tốt hơn vào công tác quốc kế dân sinh. Đảng và Nhà nước cần tạo ra những 
điều kiện để giới tăng ni, phật tử được tham gia vào hoạt động lao động sản xuất, hoạt 
động chính trị xã hội, hoạt động văn hóa tư tưởng. Thông qua những hoạt động ấy đã gắn 
họ vào hoạt động thực tiễn cùng với các tầng lớp nhân dân khác trong cả nước để họ hiểu 
hơn về cuộc sống thực tại, khơi dậy ở họ tình yêu quê hương, làm chủ đất nước để ra sức 
đóng góp sức lực của mình trong công cuộc đổi mới của đất nước. Hiện nay chúng ta 
thấy có những cơ sở sản xuất, nuôi dưỡng trẻ em mồ côi... là do những tu sĩ và phật tử 
đảm nhiệm. Nhà nước cần có những chính sách khuyến khích động viên và tạo điều kiện 
thực hiện theo quy định của pháp luật cho các cá nhân tín đồ, các vị chức sắc, nhà tu hành 
tham gia việc xã hội hóa các hoạt động y tế, văn hóa, giáo dục với tư cách là công dân. 
Sự hi sinh hết mình, tận tụy cứu khổ cho mọi người đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều 
người dân Việt Nam. Đó là những tấm gương sáng cho mọi người để cùng nhau phát huy 
tinh thần tương thân tương ái trong xã hội. 
ở nước ta hiện nay, việc phát huy những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo thông 
qua việc thực hiện tốt trách nhiệm nghĩa vụ của người tín đồ trên cương vị của người 
công dân trong giới tăng ni, phật tử. 
Một điểm nữa cần chú ý, đó là Nhà nước quan tâm, chú ý, tạo điều kiện, có kế 
hoạch giúp đỡ về đời sống của người tu hành, nhất là đối với những tăng ni già yếu, đời 
sống của họ gặp khó khăn... theo truyền thống "Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người 
trong một nước phải thương nhau cùng" của con người Việt Nam. 
Trong các biện pháp nhằm phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực trong các 
hoạt động của Phật giáo, thì việc gây dựng dư luận phê phán mạnh mẽ các hủ tục mê tín 
dị đoan v.v... trong quần chúng nhân dân cũng là điều cần thiết, không kém phần hiệu 
quả. Cần vạch mặt những kẻ buôn thần, bán thánh. Toàn Đảng, toàn dân nêu cao tinh 
thần cảnh giác không để kẻ xấu lợi dụng, bảo vệ sự trong sạch của lòng tin đúng với ý 
nghĩa tâm linh. Làm tròn nhiệm vụ của người công dân cũng như của Phật tử. Đạo với 
đời toàn vẹn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
2.3.3 Đấu tranh chống những hiện tượng lợi dụng Phật giáo để chống phá sự 
nghiệp cách mạng của nước ta 
Công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay đã làm thay đổi mọi mặt đời sống xã 
hội. Kinh tế đang trên đà phát triển mạnh, đời sống tinh thần của nhân dân không ngừng 
được cải thiện nâng cao. Hiện nay việc mở cửa, giao lưu và hội nhập với các nước trong 
khu vực và thế giới đã mở ra cho đất nước ta nhiều cơ hội và thời cơ mới cho sự phát 
triển, nhưng cũng đưa lại không ít nguy cơ và thách thức mới. Các tôn giáo nước ta chịu 
ảnh hưởng lớn hơn, mạnh hơn từ phía bên ngoài. Một trong số đó là nguy cơ "diễn biến 
hòa bình", trong đó có vấn đề lợi dụng hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng nói chung và Phật 
giáo nói riêng để hòng phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, gây rối, tạo cớ can thiệp, chống 
phá sự nghiệp đổi mới, tiến tới xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta. 
Đấu tranh chống các hiện tượng lợi dụng, xuyên tạc hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng 
Phật giáo là yêu cầu bức thiết đối với việc chống lại nguy cơ diễn biến hòa bình của chủ 
nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, góp phần thúc đẩy sự nghiệp đổi mới của nhân dân 
ta tiến lên giành những thành tựu to lớn hơn. Muốn vậy chúng ta phải không ngừng nâng cao 
trình độ nhận thức về mọi mặt cho quần chúng nhân dân. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải được 
thực hiện thường xuyên lâu dài, mà trọng tâm là công tác giáo dục và đào tạo của nước ta. 
Đại hội IX của Đảng đã chỉ rõ sự cần thiết phải tạo ra được bước chuyển biến cơ bản, toàn 
diện về giáo dục và đào tạo: "Phát triển giáo dục đào tạo là một trong những động lực quan 
trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực 
con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" [7, tr. 
108]. 
Phát triển giáo dục nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, nâng 
cao trình độ nhận thức khoa học cho nhân dân là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, của 
cả xã hội, của mỗi gia đình và mỗi công dân, sự cần thiết phải có sự phối hợp tốt giữa gia 
đình, nhà trường và xã hội. Thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước trở thành một xã 
hội học tập. Cần phải chú trọng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh 
trong toàn dân. Đây là vấn đề có ý nghĩa hết sức lớn lao. Thực tế những năm qua cho 
thấy, công tác giáo dục thế giới quan duy vật của chúng ta còn có những hạn chế nhất 
định, chưa đạt được kết quả như mong muốn. Chúng ta phải xác định nhiệm vụ này rất 
phức tạp và khó khăn, nhất là trong điều kiện hiện nay khi chủ nghĩa xã hội thế giới đang 
lâm vào thoái trào. Chính vì vậy mà việc nâng cao dân trí, nâng cao trình độ nhận thực 
khoa học và chủ nghĩa vô thần cho quần chúng nhân dân là rất quan trọng. Vấn đề giáo 
dục tri thức tôn giáo trong nhà trường có ý nghĩa hết sức lớn lao. Qua đó đã giúp con 
người nhìn nhận, có thái độ đúng đắn với tôn giáo, thấy được cái tiến bộ cũng như cái 
hạn chế của nó. 
Trong điều kiện hiện nay, để công tác giáo dục thế giới quan duy vật có hiệu quả 
thiết thực thì cần phải có sự đổi mới và nâng cao chất lượng dạy và học các môn khoa 
học nói chung, trong đó có các môn học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, 
cần sử dụng tổng hợp các hình thức, phương tiện giáo dục khác nhau như thông qua phát 
thanh, truyền hình, sách báo, học tập qua mạng v.v... cùng với đa dạng hóa loại hình đào 
tạo sẽ góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng đào tạo. Để nâng cao từng bước 
chất lượng dạy và học các môn học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, thì trước tiên 
chúng ta phải không ngừng nâng cao trình độ của đội ngũ giảng viên trong hệ thống nhà 
trường của cả nước. Muốn vậy, Nhà nước phải có chính sách động viên, khuyến khích 
đội ngũ giảng viên học tập nâng cao trình độ, tạo điều kiện cho họ được đi tham quan 
thực tế để tích lũy kinh nghiệm phục vụ cho hoạt động giảng dạy. Bên cạnh đó, cần phải 
tạo ra không khí học tập tích cực, lôi cuốn sinh viên vào quá trình học tập tích cực và chủ 
động. Trong vài năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phát động thi Ôlympíc các 
môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nhiều hoạt động khác nhằm 
khuyến khích động viên hơn nữa sinh viên đi vào tìm hiểu, nghiên cứu sâu rộng các môn 
học này. Qua đó sẽ góp phần trang bị thế giới quan duy vật, bản lĩnh chính trị cho thế hệ 
trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước ngăn chặn và đẩy lùi những ảnh hưởng tiêu 
cực trong xã hội nói chung và của hoạt động Phật giáo nói riêng. 
Khi con người đã được trang bị thế giới quan duy vật, phương pháp luận biện 
chứng, nhận thức được những điều kiện và tiền đề để giải phóng thực sự con người thoát 
khỏi sự áp bức về mọi mặt, hướng tới sự phát 
triển một cách toàn diện, thì họ sẽ có khả năng phân biệt những hoạt động tín ngưỡng 
Phật giáo lành mạnh với việc lợi dụng chính sách tự do tôn giáo của Đảng và Nhà nước, 
đội lốt hoạt động tôn giáo nhằm chống phá cách mạng nước ta. Từ đó họ sẽ góp phần vào 
việc ngăn chặn những hoạt động sai trái nói trên, có khả năng chống lại ảnh hưởng tiêu 
cực của tôn giáo, Phật giáo. 
Cùng với việc nâng cao trình độ nhận thức về mọi mặt cho quần chúng nhân dân, 
đồng thời chúng ta cần nghiêm khắc trừng trị những kẻ lợi dụng tôn giáo để truyền đạo 
trái phép, chống Đảng, chia rẽ tôn giáo này với tôn giáo khác, chia rẽ đồng bào có đạo 
và không có đạo, làm tổn hại đến lợi ích của tổ quốc, của chế độ chủ nghĩa xã hội. Một 
mặt, Đảng, Nhà nước chủ trương nâng cao dân trí, chăm lo phát triển kinh tế, văn hóa, 
nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân giúp họ tìm thấy thiên đường ở cuộc 
sống thực tại; mặt khác, Đảng cũng chủ trương: "Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân 
tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích 
động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia" [7, tr. 
128]. Chủ trương đó sẽ từng bước được Đảng và Nhà nước ta cụ thể hóa và hoàn thiện 
thông qua hệ thống luật pháp về tín ngưỡng, tôn giáo theo tinh thần của Đại hội Đảng 
toàn quốc lần thứ IX: "Từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo" 
[7, tr. 128]. 
kết luận 
Phật giáo đã đến với dân tộc ta đã hơn 2500 năm nay, trong lịch sử, Phật giáo 
Việt Nam đã trải qua nhiều biến đổi thịnh - suy, thăng trầm cùng với lịch sử dân tộc. Phật 
giáo đã từng vươn lên chiếm lĩnh vị trí tư tưởng ở các triều đại Đinh, Lê. Phật giáo, với 
sự hưng thịnh đạt tới đỉnh cao dưới thời Lý, Trần, đã từng giữ vai trò chủ đạo trong đời 
sống tinh thần, được xem là quốc giáo dưới thời kỳ này. Phật giáo đã ảnh hưởng rất sâu 
đậm trong đời sống tinh thần của nhân dân ta trên nhiều lĩnh vực như đạo đức, lối sống, 
văn hóa... Kể từ khi du nhập, Phật giáo đã hòa đồng với tín ngưỡng, phong tục tập quán 
của của người Việt, đã trở thành Phật giáo Việt Nam với bản sắc riêng. Một trong những 
nét sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam là điểm tương đồng với tín ngưỡng bản địa. 
Phật giáo hóa tín ngưỡng cùng với tín ngưỡng hóa Phật giáo để mang đặc điểm riêng của 
Phật giáo Việt Nam. Đây là sự tổng hợp, chắt lọc những tư tưởng tinh túy của các tông 
phái Phật giáo kết hợp hài hòa với văn minh bản địa tạo thành tư tưởng vừa từ - bi - hỷ - 
xả vừa kết hợp với truyền thống văn hóa, chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cố kết cộng 
đồng... trong quá trình dựng nước và giữ nước của con người Việt Nam. Phật giáo đã gắn 
bó với tâm lý truyền thống của dân tộc, đi vào đời sống của nhân dân và truyền qua các 
thế hệ, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người dân Việt Nam, góp phần tạo nên bản sắc, 
cốt cách văn hóa của dân tộc ta. 
 Hiện nay, Phật giáo là tôn giáo lớn nhất ở nước ta. Phật giáo đứng vững và có 
sức sống lâu bền trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. Sự tồn tại và phát triển lâu dài 
của Phật giáo với tính cách là một trong những thành tố của cấu trúc văn hóa dân tộc, 
những tư tưởng triết lý của Phật giáo, đặc biệt nhân sinh quan của nó có giá trị nhân sinh 
sâu sắc như giàu lòng vị tha, yêu thương và yêu chuộng hòa bình... Giáo lý nhà Phật có 
nguồn gốc từ cuộc sống khổ đau của con người trong xã hội ấn Độ cổ đại, từ ước nguyện 
lớn lao muốn mang lại cho chúng sinh cuộc sống an vui hạnh phúc thực sự, thoát khỏi bể 
khổ trầm luân. Những quan niệm triết lý nhân sinh của Phật giáo là sự hội tụ, kết tinh của 
những yếu tố nhân bản, thể hiện sự thông cảm, thương xót vô hạn của Đức Phật, yêu 
thương chúng sinh, thắm thiết tình người và đặc biệt đã khơi dậy nguồn sức mạnh trong 
con người... đã góp phần tạo dựng, bồi đắp nên những giá trị văn hóa, đạo đức truyền 
thống của con người Việt Nam. 
Những quan niệm về nhân sinh của Phật giáo đã ảnh hưởng tích cực cũng như 
tiêu cực đến đời sống xã hội Việt Nam. Với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, nhân 
sinh quan Phật giáo chịu sự quy định và biến đối cùng với tồn tại xã hội, mà trước hết là 
sự biến đổi của kinh tế-xã hội, của đất nước và của thời đại. Hiện nay, trong bối cảnh mới 
Phật giáo đã có sự cải biến, đổi mới cả về giáo lý, lễ nghi và biện pháp hoằng pháp hóa 
đạo để thích nghi với hoàn cảnh mới, điều kiện mới. 
Sự biến đổi đó dẫn tới nhiều hệ quả khác nhau, trong đó có sự biến đổi rõ nét của 
sự ảnh hưởng của nhân sinh quan đối với các tín đồ Phật giáo. Hiện nay, sự biến đổi của 
ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo diễn ra ở cả hai chiều trái ngược nhau. Một mặt, sự 
biến đổi đó diễn ra theo chiều hướng tích cực. Đó là xu hướng đạo gắn với đời, việc tu 
tập của người tín đồ không xa lánh trần tục, không thoát ly sự nghiệp đổi mới của đất 
nước, người tín đồ ngoài việc lo hành đạo còn phải thực hiện tốt trách nhiệm và nghĩa vụ 
của người công dân v.v... Mặt khác, trong xu hướng nhập thế, cũng nảy sinh không ít 
hiện tượng một số người lợi dụng chính sách tự do tôn giáo, tín ngưỡng của Đảng và nhà 
nước, vô tình hay hữu ý tiếp tay cho các thế lực thù địch ở bên ngoài có những hành vi 
gây rối, chia rẽ âm mưu phá hoại khối đoàn kết dân tộc, cản trở công cuộc xây dựng và 
phát triển đất nước v.v... Điều đó đòi hỏi chúng ta là phải tìm ra các giải pháp để phát huy 
những ảnh hưởng tích cực, hạn chế và đẩy lùi ảnh hưởng tiêu cực mà sự biến đổi nhân 
sinh quan Phật giáo gây ra. Trên cơ sở nắm vững nội dung nguyên lý cơ bản của Phật 
giáo để phát huy những giá trị của nó trong đời sống xã hội, góp phần tích cực vào công 
cuộc đổi mới toàn diện đất nước, xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã 
hội công bằng, dân chủ, văn minh. 
Hiện nay, đa số các tín đồ, tăng ni và các vị chức sắc có nhiều đóng góp tích cực 
cho công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, với chủ trương đạo pháp, dân tộc và chủ 
nghĩa xã hội, đã được Đảng, Nhà nước nhân dân ghi nhận và đánh giá cao. Thời đại ngày 
nay, sự biến đổi mạnh mẽ của khoa học - công nghệ đã đưa loài người bước vào nền văn 
minh tin học. ở nước ta sự phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với 
những mặt trái của nó, quá trình mở cửa hội nhập quốc tế v.v... đã có tác động rất lớn đối 
với các tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng. Vì vậy, trong công tác tôn giáo, nói 
riêng đối với Phật giáo, chúng ta phải có thái độ khách quan, khoa học nhằm phát huy 
những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật 
giáo để xây dựng nền văn hóa tiến bộ. Để công tác tôn giáo đáp ứng được yêu cầu của 
tình hình mới, đòi hỏi phải phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội 
cũng như của mỗi người. Trước hết, chúng ta phải không ngừng học tập nâng cao bản 
lĩnh chính trị, trình độ năng lực công tác, quán triệt, vận dụng đúng đắn và sáng tạo 
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác tôn 
giáo ở địa phương, ngành mình công tác. 
Danh mục tài liệu tham khảo 
1. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương (2003), Tài liệu nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần 
thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà 
Nội. 
2. Nguyễn Thị Bảy (1997), Văn hóa Phật giáo và lối sống của người Việt ở Hà Nội và 
châu thổ Bắc Bộ, Nxb Thông tin, Hà Nội. 
3. Minh Chi (2001), "Về xu thế thế tục hóa và dân tộc hóa", Nghiên cứu tôn giáo, (3). 
4. Doãn Chính (chủ biên) (2003), Kinh văn của các trường phái triết học ấn Độ, Nxb 
Đại học quốc gia, Hà Nội. 
5. Nguyễn Đăng Duy (1999), Phật giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb Hà Nội. 
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
8. Đại học quốc gia Hà Nội, Trung tâm bồi dưỡng cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin 
và Tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Quán triệt vận dụng Nghị quyết Đại hội IX, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
9. Giáo trình triết học Mác - Lênin (2002), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
10. Trần Văn Giàu (1993), Đạo đức Phật giáo trong thời hiện đại, Nxb Thành phố Hồ Chí 
Minh. 
11. Nguyễn Hùng Hậu (1996), Góp phần tìm hiểu tư tưởng triết học Phật giáo Trần Thái 
Tông, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
12. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập I, Nxb Khoa 
học xã hội, Hà Nội. 
13. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà 
Nội. 
14. Bùi Biên Hòa (1998), Đạo Phật và thế gian, Nxb Hà Nội. 
15. Mai Xuân Hợi (1996), Thế giới quan, nhân sinh quan đạo Phật và sự ảnh hưởng của 
nó đối với đời sống xã hội Việt Nam, Luận văn cử nhân, Trường Đại học Khoa 
học Xã hội, Hà Nội. 
16. Thanh Hương (1949), Trí - Tuệ - Phật, Tân Việt ấn hành, Hà Nội. 
17. Trần Khang và Lê Cự Lộc (dịch), (2001), C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin, Bàn về tôn 
giáo và chủ nghĩa vô thần, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
18. Vũ Ngọc Khánh (1986), Phật giáo và văn hóa dân gian Việt Nam - Mấy vấn đề Phật 
giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết học, Hà Nội. 
19. Nguyễn Lang (1992), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập I, II, Nxb Văn học, Hà Nội. 
20. C. Mác - Ph.Ăngghen (1980), Tuyển tập, tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
21. Hồ Chí Minh (1985), Toàn tập, tập 5, Nxb Sự thật, Hà Nội. 
22. Thích Thánh Nghiêm (1991), Học Phật quần nghi, Phân viện Nghiên cứu Phật học, Hà 
Nội. 
23. Tâm Nguyên (dịch) (1973), Khuyên phát tâm bồ đề, Hương Sen ấn tống Phật lịch 
2517. 
24. Phân viện Nghiên cứu Phật học, Phật giáo và văn hóa dân tộc, Thư viện Phật học 
xuất bản. 
25. Phòng thông tin tư liệu, Ban Tôn giáo Chính phủ, Một số tôn giáo ở 
Việt Nam. 
26. Lê Văn Quán (1998), "Bước đầu tìm hiểu giá trị nhân sinh của Phật giáo", Nghiên cứu 
Phật học, (2). 
27. Thích Trí Quang (dịch) (1973), Kinh di giáo, Hương Sen ấn tống Phật lịch 2517. 
28. Thích Trí Quảng (1999), Lược giải kinh Pháp Hoa, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 
29. Phạm Văn Sinh (1995), Về vai trò của Phật giáo ở Việt Nam (qua triều đại nhà Lý), 
Luận án tiến sĩ triết học, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. 
30. Nguyễn Đức Sự (chủ biên), (2001), C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin, bàn về tôn giáo, 
Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 
31. Thích Chơn Thiện, (1999), Phật học khái luận, Nxb Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
32. Hoàng Thơ (2002), "Đạo đức Phật giáo với kinh tế thị trường", Triết học, (7). 
33. Nguyễn Tài Thư (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
34. Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 
35. Nguyễn Tài Thư (1996), Phật giáo Việt Nam, những vấn đề đặt ra hiện nay, tôn giáo 
tín ngưỡng hiện nay - Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp thiết, Thông tin 
chuyên đề, Hà Nội. 
36. Nguyễn Tài Thư (1997), "Cơ sở tín ngưỡng Phật giáo của người Việt Nam hiện nay", 
Thông tin lý luận. 
37. Trần Văn Trình (1999), "Tìm hiểu những khía cạnh xã hội của tình hình phát triển 
Phật giáo Hà Nội thời kỳ đổi mới", Nghiên cứu Phật học, (2). 
38. Trần Văn Trình (1999), "Tìm hiểu vấn đề đặc trưng của Phật giáo trong quá trình hội 
nhập với văn hóa Việt Nam", Nghiên cứu Phật học, (6). 
39. Lê Hữu Tuấn (1998), ảnh hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn 
hóa tinh thần ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia 
Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
40. Vũ Minh Tuyên (2000), Điều kiện tồn tại của Phật giáo Việt Nam hiện nay, Luận án 
tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 
41. Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh (1996), Vai trò của 
tôn giáo trong đời sống xã hội hiện nay. 
42. Nguyễn Hữu Vui (1995), "Cắt nghĩa hiện tượng gia tăng của tôn giáo hiện nay", Đại 
học Quốc gia Hà Nội, (1). 
43. Trần Quốc Vượng (1990), Phật giáo và văn học Việt Nam, Phật giáo và văn hóa dân 
tộc, Thư viện Phật học. 
44. Phạm Thị Xê (1996), ảnh hưởng của tư tưởng Phật giáo trong lối sống của người 
Huế hiện nay, Luận văn thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí 
Minh, Hà Nội. 
45. Hoàng Tâm Xuyên (1999), Mười tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
46. Walpola Rahula (1999), Lời giáo huấn của Phật đà, Nxb Tôn giáo, Hà Nội. 
mục lục 
 Trang 
 mở đầu 1 
 Chương 1: Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó 
đến đời sống tinh thần người Việt Nam 
6 
1.1. Nhân sinh quan Phật giáo 6 
1.1.1. Vị trí nhân sinh quan Phật giáo trong tư tưởng triết học 
Phật giáo 
 6 
1.1.2. Nội dung nhân sinh quan Phật giáo 11 
1.2. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh thần của 
con người Việt Nam 
24 
1.2.1. Quá trình ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến đời sống tinh 
thần của con người Việt Nam 
24 
1.2.2. ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo đến một số lĩnh vực trong 30 
đời sống tinh thần của con người Việt Nam 
 Chương 2: Sự biến đổi của những ảnh hưởng nhân sinh quan 
Phật giáo ở Việt Nam hiện nay - xu hướng và giải 
pháp 
48 
2.1. Những nhân tố tác động đến sự biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh 
quan Phật giáo ở nước ta hiện nay 
48 
2.1.1. Nhân tố kinh tế 48 
2.1.2. Sự giao lưu văn hóa với các nước trên thế giới 54 
2.1.3. Những hiện tượng lợi dụng tôn giáo để chống phá đường lối 
chính sách của Đảng và Nhà nước 
56 
2.1.4. Quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước về tôn giáo và chính 
sách đối với tôn giáo 
59 
2.2. Sự biến đổi ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo trong quá trình 
đổi mới ở Việt Nam hiện nay 
63 
2.2.1. Thực trạng 63 
2.2.2. Xu hướng biến đổi của ảnh hưởng nhân sinh quan Phật giáo 68 
2.3. Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn 
chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo ở 
nước ta hiện nay 
74 
2.3.1. Đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc phát triển kinh 
tế thị trường, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh 
74 
2.3.2. Phát huy vai trò tích cực của các tổ chức Phật giáo, tổ chức phật 
tử trong đời sống kinh tế - xã hội 
77 
2.3.3. Đấu tranh chống những hiện tượng lợi dụng Phật giáo để chống phá 
sự nghiệp cách mạng của nước ta 
82 
 Kết luận 86 
 Danh mục tài liệu tham khảo 89 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 LUẬN VĂN- Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam.pdf LUẬN VĂN- Phát huy những ảnh hưởng tích cực, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của nhân sinh quan Phật giáo trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam.pdf