- Chỉ ra những cơ hội cũng như thách thức đối với hoạt động thương mại và
đầu tư giữa Việt Nam và Nhật Bản đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm phát
triển quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai nước trong bối cảnh VJEPA đi vào thực
thi chính thức
Luận văn đã chứng minh rằng Hiệp định VJEPA được ký kết và đi vào thực thi
sẽ góp phần tăng cường quan hệ kinh tế hai nước trên diện rộng. Việc ký kết Hiệp
định VJEPA không chỉ mang lại cho hai quốc gia đối tác là Việt Nam và Nhật Bản
những lợi ích kinh tế như gia tăng giá trị trao đổi thương mại, thúc đẩy cạnh tranh,
đầu tư, chuyển giao tri thức, công nghệ và thông tin mà còn đem lại cả những lợi
ích phi kinh tế như gia tăng vị thế đối với Việt Nam - quốc gia được xem là yếu hơn
- trên trường quốc tế đồng thời củng cố hòa bình và an ninh . Hơn nữa, việc ký kết
và thực thi JVEPA sẽ là môt tiền đề quan trọng để Việt Nam tiếp tục theo đuổi tiến
trình đa phương hóa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra với việc tiếp tục các cuộc đàm
phán song phương với các quốc gia khác trong phạm vi khu vực và quốc tế.
109 trang |
Chia sẻ: aquilety | Lượt xem: 3866 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển quan hệ thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Nhật Bản trong bối cảnh hình thành BFTA (hiệp định thương mại song phương) giữa hai nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h tế - xã hội 5 năm với tốc độ tăng GDP bình quân hàng năm đạt 7,5%-8%, phấn
đấu đạt trên 8%, nâng GDP bình quân lên mức 1050 – 1100 USD/người vào năm
2010. [22]
Để quan hệ thương mại giữa Việt Nam – Nhật Bản tiếp tục phát triển mạnh mẽ
và sôi động hơn nữa, góp phần tích cực thực hiện tốt mục tiêu phấn đấu đặt ra trên
đây, các nhà kinh tế và hoạch định chính sách thương mại của cả hai nước đều đã
thống nhất trong thời gian tới, cả hai bên cần thực hiện tôt các giải pháp cơ bản sau:
3.2.1.1. Cần có một cơ cấu các sản phẩm XNK hợp lý và có hiệu quả cao phù
hợp với mục tiêu phát triển một nền kinh tế bển vững
Cơ cấu hàng hóa trao đổi của Việt Nam trong thương mại với Nhật Bản hiện nay
còn tồn tại nhiều hạn chế mặc dù nó phản ánh giai đoạn phát triển hiện tại của nền
kinh tế Việt Nam với những lợi thế so sánh về tài nguyên và lao động. Hàng hóa
xuât khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm thô như nguyên liệu, đặc biệt là dầu
thô, chiếm tới 35% kim ngạch XNK Việt Nam – Nhật Bản, ngoài ra là các loại hàng
hóa có mức độ gia công chế biến thấp là sản phẩm của các ngành công nghiệp nhẹ
sử dụng nhiều lao động (như hàng thủy, hải sản trên 19%, quần áo may mặc 21%,
còn lại 25% là than, cà phê, gỗ….). Cho tới nay, Việt Nam vẫn chưa hình thành
đươc những mặt hàng chủ lực chế biến sâu và tinh để có thể xuất khẩu sang thị
trường Nhật Bản. [23]
Về cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản chủ yếu là các mặt hàng
chế tạo có hàm lượng công nghệ cao, sản phẩm của công nghiệp nặng, các loại máy
móc thiết bị phục vụ trong lĩnh vực xây dựng khai thác. Mặc dù tỷ trọng hàng tiêu
dùng giảm mạnh và tỷ trọng máy móc, trang thiết bị lẻ, nguyên nhiên vật liệu cơ
70
bản tăng nhanh và mạnh, nhưng điều lưu ý là cho đến nay Việt Nam vẫn chưa nhập
được những dây chuyền công nghệ hiện đại nhất.
Cơ cấu XNK Việt Nam – Nhật Bản trên đây cũng phản ánh thực trạng chung về
cơ cấu XNK của Việt Nam với các thị trường, bạn hàng trên thế giới hiện nay. Cơ
cấu này, trước mắt có thể trong giai đoạn ngắn từ 3-5 năm hoặc tối đa là trong vòng
10 năm tới còn có thể được chấp nhận song nếu tiếp tục kéo dài trong tương lai chắc
chắn sẽ gây ra nhiều bất lợi cho Việt Nam. Riêng đối với thị trường Nhật Bản,
những thặng dư thương mại của Việt Nam nhờ xuất siêu hoặc ít nhất là sự chênh
lệch cán cân thương mại Việt Nam – Nhật Bản hiện giữ được ở mức tương đối thấp
như hiện nay nếu xét về thực chất hoàn toàn không phải là sự phản ánh sự tăng
trưởng phồn vinh của một nền kinh tế, cũng như thế mạnh của Việt Nam trong hoạt
động ngoại thương với Nhật Bản mà nó cho thấy tình trạng kém phát triển của một
nền kinh tế hoàn toàn dựa vào hoạt động “mua đắt bán rẻ” tài nguyên và lao động.
Và đây chính là sự thua thiệt của Việt Nam về giá trị xuất khẩu thu được trong khi
lại phải trả giá cho việc nhập khẩu các sản phẩm cao cấp từ bên ngoài mà một phần
lớn trong số các sản phẩm này được làm ra từ nguồn nguyên liêu thô được xuât đi
với giá “rẻ”. [23]
Vấn đề đặt ra là hiện tại, cùng với việc phải chấp nhận một cơ cấu XNK như
vây, song để rút ngắn cái giá phải trả vì bị thua thiệt do một cơ cấu xuất khẩu “bán
rẻ các nguồn tài nguyên thiên nhiên” như vậy, ngay từ bây giờ, chúng ta cần phải
tận dụng các nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu, kêu gọi vốn đầu tư nước
ngoài…. để nhập khẩu các máy móc, trang thiết bị kỹ thuật mới cùng với dây
chuyền công nghệ hiện đại để phát triển nhanh các ngành công nghệ chế tạo, chế
biến phục vụ kịp thời cho việc sản xuất, chế biến mang tính chiều sâu các sản phẩm
xuất khẩu. Ví dụ như việc thay vì xuất khẩu nhiều dầu thô như hiện nay trong khi
hàng năm chúng ta lại phải nhập khẩu một lượng lớn xăng dầu đã qua chế biến sâu
từ Nhật Bản, ta tiến hành nhập khẩu các máy móc, thiết bị kỹ thuật mới, các dây
chuyền công nghệ hiện đại từ Nhật Bản hay từ các nước phát triển khác để từ đó
hình thành nên các nhà máy lọc và chế biến dầu của Việt Nam như nhà máy lọc dầu
71
Dung Quất là một ví dụ điển hình, để qua đó không những ta có thể cung cấp lượng
dầu tinh phục vụ cho nhu cầu thị trường nội địa mà còn tích trữ lượng dầu dư thừa
phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Với các mặt hàng thô nông-lâm sản như gạo, ngũ
cốc khác và mặt hàng thủy hải sản….. Cũng tương tự, ta cần tiến tới sản xuất để có
thể xuất khẩu các sản phẩm đó sau khi đã trai qua công nghệ chế biến thực phẩm và
từ đó sẽ thu được giá trị xuất khẩu cao hơn. [23]
Về cơ cấu nhập khẩu các loại hàng hóa từ Nhật Bản trong những năm tới, trước
hết cần xác định là cơ cấu các sản phẩm đã nhập khẩu trong thời gian qua về cơ bản
là hợp lý (đương nhiên chúng ta loại trừ không tính đến những hàng hóa nhập phi
mậu dịch, đặc biệt là với những hàng hóa nhập lậu, trốn thuế mà ta không thể và
chưa thể kiểm soát hết). Cụ thể là những năm qua, nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật
Bản chủ yếu là các loại máy móc thiết bị, nguyên vật liệu (chiếm gần 4/5 kim ngạch
nhập khẩu từ Nhật Bản của Việt Nam), sợi tổng hợp và hóa chất cũng chiếm một tỷ
lệ đáng kể, khoảng 9,3%. [23] Tuy nhiên, cũng cần xác định rằng, tiến trình phát
triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa của nước ta đang và sẽ phát triển mạnh mẽ, đòi
hỏi chúng ta cần phải tăng nhập khẩu các loại máy móc, thiết bị kỹ thuật và dây
chuyền công nghệ hiện đại của Nhật Bản, điều này sẽ khiến cho kim ngạch xuất
khẩu từ Nhật Bản sẽ tăng lên đến mức có thể làm cho cán cân thương mại Việt –
Nhật tiến tới mức nhập siêu nghiêng về phía Việt Nam. Cần xác định rõ ràng rằng,
đây là một xu thế phát triển hoàn toàn bình thường và phù hợp với quy luật của
những quốc gia đang trong gia đoạn đầu của quá trình thúc đẩy công nghiệp hóa và
hiện đại hóa đất nước. Tât nhiên, chúng ta cần phải tính toán để sao cho mức nhập
siêu chỉ tiến tới một giới hạn nào là có thể chấp nhận được và là cân đối trong sự
phát triển chung của cả nền kinh tế quốc dân. Hoạt động XNK giữa Việt Nam và
Nhật Bản là điều Chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm, mà sự hiệu quả của hoạt
đông XNK được phản ảnh thông qua kim ngạch thương mại hai chiều giữa hai
nước. Để thực hiện được mục tiêu này, Việt Nam cần phải hạn chế xuất khẩu các
nguyên liệu thô và thực phẩm chưa qua chế biến mà Nhật Bản là một thị trường
72
nhập khẩu chủ chốt mà ngược lại cần gia tăng kim ngạch xuất khẩu đối với các mặt
hàng đã qua chế biến vào thị trường này. [23]
Như vậy, có thể thấy rằng, trong vòng 10 năm nữa, tới năm 2020 trọng tâm đẩy
mạnh xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản trong những năm tới đây
mà trước hết là đến năm 2010 vẫn sẽ là các mặt hàng mà Việt Nam vốn có ưu thế
như là: Hàng dệt may, đồ thủ công – mỹ nghệ, các sản phẩm thủy hải sản tươi sống,
giày dép và các sản phẩm da, than đá, cao su, rau củ quả, thực phẩm đã qua chế
biến, chè, đồ gốm sứ và các sản phẩm từ gỗ.
3.2.1.2. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam nếu muốn thâm nhập thành công
và đứng vững trên thị trường Nhật Bản thì cần phải tìm hiểu kỹ về thị trường này
Vấn đề đặt ra ở đây là các nhà nhập khẩu và người tiêu dùng Nhật Bản quan tâm
điều gì và các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý những điểm gì để đạt được hiệu
quả cao nhất khi xuất khẩu hàng vào thị trường này. Dưới đây là một số lưu ý dành
cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hóa vào thị trường Nhật Bản:
a. Các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý đến một số luật lệ thương mại của
Nhật Bản
Hàng hoá nhập khẩu vào thị trường Nhật Bản được kiểm soát bằng một hệ
thống luật pháp tương đối chặt chẽ vì các lý do bảo vệ quyền lợi an ninh quốc gia,
lợi ích kinh tế hoặc bảo đảm an toàn, vệ sinh thực phẩm cho người tiêu dùng. Một
số hàng hoá bị điều tiết theo quy chế sản phẩm, nghĩa là sản phẩm muốn nhập khẩu
vào thị trường Nhật phải được các bộ ngành có liên quan của nước này cho phép,
đặc biệt phải tuân thủ các hệ thống nguyên tắc áp dụng đối với các loại hàng hoá
công nghiệp, nông nghiệp, hay thực phẩm chế biến v.v… Hiện Nhật Bản là một
trong những quốc gia đang áp dụng hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh an toàn
thực phẩm có yêu cầu rất khắt khe với mục đích bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Các
tiêu chuẩn của Nhật Bản hầu như tương đương, thậm chí cao hơn cả những tiêu
chuẩn quốc tế thông thường. Nhưng các tiêu chuẩn chất lượng này được áp dụng
phù hợp với nguyên tắc của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), tức là không
mang tính phân biệt đối xử giữa hàng hóa trong nước hay nhập khẩu. Hàng hoá
73
nhập khẩu vào Nhật Bản còn bị chi phối bởi hàng loạt các luật lệ và quy định về
kiểm dịch, trách nhiệm của nhà sản xuất và người kinh doanh sản phẩm phải bồi
thường đối với các thiệt hại do sử dụng những sản phẩm chất lượng không đảm bảo.
Sau đây là một số quy định luật pháp thương mại tiêu biểu và có ảnh hưởng lớn đến
việc tiêu thụ hàng hoá, nhất là đối với các sản phẩm có thế mạnh mà Việt Nam có
thể thâm nhập vào thị trường Nhật mà các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý.
a1. Luật trách nhiệm sản phẩm
Luật trách nhiệm sản phẩm được áp dụng đối với các sản phẩm nói chung và
sản phẩm nhập khẩu nói riêng. Luật này được ban hành vào tháng 7-1995 để bảo vệ
người tiêu dùng. Luật này quy định rằng nếu như một sản phẩm có khuyết tật gây
ra thương tích cho người hoặc thiệt hại về của cải thì nạn nhân có thể đòi nhà sản
xuất bồi thường cho các thiệt hại xảy ra liên quan đến sản phẩm có khuyết tật và các
quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và khuyết tật của sản phẩm.
a2. Luật vệ sinh thực phẩm
Luật vệ sinh thực phẩm quy định cho tất cả các thực phẩm và đồ uống tiêu dùng
trên thị trường Nhật Bản. Hàng hoá được phân chia thành nhiều nhóm: các gia vị
thực phẩm, các máy móc dùng để chế biến và bảo quản thực phẩm, các dụng cụ
đựng và bao bì cho các gia vị cũng như cho thực phẩm, đồ chơi trẻ em và các chất
tẩy rửa dùng cho việc làm sạch thực phẩm và đồ ăn. Các loại hàng này khi đưa vào
sử dụng phải có giấy phép của Bộ Y tế và Phúc lợi Nhật Bản. Do vậy, các doanh
nghiệp Việt Nam cần phải hiểu đúng chế độ quản lý vệ sinh thực phẩm để có thể
tránh những vi phạm đáng tiếc.
b. Hệ thống phân phối hàng hoá ở Nhật Bản
Hàng hoá vào thị trường Nhật Bản phải qua nhiều khâu phân phối lưu thông
nên khi đến được tay người tiêu dùng hàng hoá có giá cả rất cao so với giá nhập
khẩu. Các khâu phân phối của Nhật từ sản xuất đến bán buôn, bán lẻ có những yêu
cầu khác nhau. Yêu cầu đối với nhà sản xuất là đảm bảo đáp ứng đúng yêu cầu của
người tiêu dùng và chào hàng với giá cả hợp lý. Hệ thống phân phối sản phẩm của
Nhật bao gồm các khâu, các mối quan hệ giữa các nhà sản xuất (nhà xuất khẩu), các
74
công ty thương mại, các nhà bán buôn và các nhà bán lẻ (cửa hàng bách hoá, siêu
thị, các cửa hàng tiện dụng, các cửa hàng bán lẻ chuyên doanh, các trung tâm buôn
bán ở các khu phố có nhiều cửa hàng bán lẻ, hoặc các dịch vụ bán hàng qua hệ
thống thông tin, truyền hình phục vụ tận địa chỉ người tiêu dùng).Các kênh phân
phối hàng nhập khẩu thay đổi tuỳ theo từng loại sản phẩm, mạng lưới bán buôn và
các công ty tham gia vào quá trình này. Các doanh nghiệp Việt Nam cần nắm được
hệ thống phân phối này để tạo thuận lợi cho hàng hoá của mình đứng vững trên thị
trường Nhật Bản.
c. Thuế tiêu thụ
Tất cả các hàng hoá bán trên thị trường Nhật hiện nay đều phải chịu mức thuế
tiêu thụ là 5% (cho tới năm 1997 là 3%) và hàng nhập khẩu cũng chịu chung quy
định này. Đây là một chi tiết hết sức quan trọng bởi đối với bát kỳ một loại hàng
hóa nhập khẩu nào, nếu bị cộng thêm 1% thuế thì mức giá bán ra tại thị trường nước
nhập khẩu sẽ tăng lên tương đối, và điều này cũng khiến cho giá bán ra của các sản
phẩm đó tăng lên theo một tỷ lệ tương ứng, điều này làm giảm tính cạnh tranh về
giá của sản phẩm với các sản phẩm cùng loại. [3]
d. Tìm hiểu và khai thác các chương trình những tài trợ cho nhập khẩu tại
Nhật Bản
Mặc dù hệ thống ngân hàng Nhật Bản đang đứng trước nhiều áp lực cạnh tranh
Quốc tế ngày càng lớn, cùng với việc tháo bỏ hàng loạt những quy định trong
ngành, mối liên hệ giữa các doanh nghiệp và các tổ chức ngân hàng và các công ty
phi tài chính là khá bền chặt. Mối quan hệ giữa những công ty, người sử dụng và
nhà xuất khẩu là một đặc điểm quan trọng của môi trường tài chính Nhật Bản. Các
công ty Nhật Bản kinh doanh tổng hợp là một tổ chức thống nhất, đảm nhận nhiều
chức năng, trong đó có cả marketing và phân phối, tài trợ, vận tải và thu thập thông
tin thương mại, tham gia hoạt động vào nhiều chức năng của các nhà xuất, nhập
khẩu, các công ty giao nhận vận tải, ngân hàng, luật, kế toán và cố vấn doanh
nghiệp. Vì vậy, khi doanh nghiệp Việt Nam làm ăn với các đối tác Nhật Bản nên
làm quen với các công ty dạng này. Ngoài ra, để xuất khẩu hàng hoá vào Nhật Bản,
75
các công ty Việt Nam có thể tìm kiếm những chương trình tài trợ của chính phủ
Nhật Bản đối với một số mặt hàng mà Nhật Bản có chính sách khuyến khích nhập
khẩu, bao gồm các khoản giảm thuế, cho vay có đảm bảo thông qua ngân hàng Phát
Triển Nhật Bản (Development Bank of Japan - DBJ) hoặc các chương trình cho
vay khác. Nhật Bản đang phát triển 22 khu vực thương mại tự do nhằm cung cấp cơ
sở hạ tầng cho việc nhập khẩu và ưu đãi thuế quan. [3]
e. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam tại thị trường Nhật
Việc xuất khẩu một mặt hàng mà mình có thế mạnh thì không phải là khó,
nhưng để giữ được thị trường thì cần phải có cả các lợi thế cạnh tranh khác như giá
cả và lợi ích mà sản phẩm mang lại cũng như các dịch vụ khác kèm theo, ví dụ như
dich vụ hậu mãi…Cạnh tranh là sự giành giật khách hàng không chỉ đối với các nhà
sản xuất bản địa mà còn cả với các nhà xuất khẩu đến từ các nước khác nhau trên
thế giới. Cạnh tranh trên thị trường thế giới đang ngày càng trở thành một cuộc
chiến giữa các thương hiệu chứ không chỉ đơn thuần là “cuộc chiến tranh giá cả,
chất lượng” thông thường. Vì vậy các doanh nghiệp xuất khẩu cần xác định rõ và
tận dụng triệt để lợi thế cạnh tranh của mình cũng như sự khác biệt của sản phẩm
cung cấp so với sản phẩm khác cùng loại đang có mặt và chiếm lĩnh thị trường. Hơn
nữa, để đứng vững trên thị trường Nhật Bản, các nhà xuất khẩu Việt Nam cần phải
tạo được một hình ảnh đáng tin cậy cho các sản phẩm xuất khẩu, thiện chí muốn
thiết lập quan hệ hợp tác làm ăn lâu dài. Muốn như vậy, chúng ta cần đầu tư nghiên
cứu kỹ thị trường Nhật Bản nhiều hơn nữa để hiểu sâu sát hơn những đặc thù của
thị trường này và qua đó chứng tỏ cho đối tác thấy rằng đó là những mặt hàng xuất
khẩu rất có tiềm năng vì đã có sự nghiên cứu kỹ về thị trường, thị hiếu tiêu dùng, có
khả năng đáp ứng các đơn hàng lớn một cách hoàn hảo và nhanh chóng cũng như
thoả mãn được các đòi hỏi khác về sản phẩm và nhu cầu thực tế của thị trường Nhật
Bản. Do sở thích của người tiêu dùng là rất khác nhau, lại liên tục thay đổi, vì vậy
việc đa dạng hoá các chủng loại sản phẩm và thường xuyên cải tiến mẫu mã là hết
sức cần thiết để đảm bảo sự tồn tại trên một thị trường nơi mà có quá nhiều luồng
Hàng hóa khác nhau. Vậy nên, đa dạng hoá sản phẩm, khai thác điểm mạnh, tính
76
độc đáo của sản phẩm của mình. Đây chính là một điểm mà các doanh nghiệp Việt
Nam cần hết sức chú ý. Các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam cần chú ý hơn
việc nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến hình thức, mẫu mã, bao bì đóng gói và
nhất là phấn đấu giảm giá thành sản phẩm hơn nữa mới có thể cạnh tranh nổi với
hàng hoá của một số nước Đông Á khác, điển hình là hàng Trung Quốc, đang có
mặt khắp mọi ngõ ngách ở thị trường Nhật Bản. Các doanh nghiệp cần xây dựng
một chiến lược dài hạn như nghiên cứu thị trường phát triển sản phẩm, tập trung
vào các khâu đem lại giá trị tăng cao, thiết kế mẫu mã, xây dựng chiến lược kinh
doanh, phát triển thương hiệu….Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần làm
tốt khâu quảng cáo, giới thiệu sản phẩm. Do vậy cần thiết phải tạo điều kiện thuận
lợi để các doanh nghiệp xuất khẩu của ta được tham gia các hội chợ, triển lãm hàng
hoá tại Nhật Bản, không chỉ riêng ở Tokyo mà còn ở hầu hết các trung tâm thương
mại, công nghiệp và các thành phố lớn của Nhật Bản. Trong thời buổi cạnh tranh
cao, việc chủ động tìm đến với thị trường và tiếp xúc bạn hàng, người tiêu dùng sẽ
mang lại cơ hội kinh doanh và thành công cho các doanh nghiệp. Từ sự khác biệt về
môi trường văn hóa và công nghiệp giữa hai quốc gia, nên có một số mặt hàng có
thể chưa xuất hiện tại thị trường Nhật Bản. Vì thế, việc cung cấp thông tin về công
dụng của sản phẩm, cách sử dụng, đặc trưng, chất lượng của sản phẩm trở nên rất
quan trọng. Do đó, cần tăng cường giới thiệu, quảng bá sản phẩm tại các hội chợ
triển lãm, qua mạng Internet và các phương tiện thông tin khác. Tại Nhật, nhìn
chung thông điệp bằng ngôn ngữ hay quảng cáo bằng hình ảnh trên các hệ thống
phương tiện thông tin đại chúng như: báo ảnh, tuần báo, đặc san, hệ thống các kênh
truyền hình cáp v.v được đánh giá là có hiệu quả quảng cáo vì có thể nhằm vào
đúng đối tượng khách hàng. Đồng thời, cần có sự phối hợp chặt chẽ và đồng bộ về
cơ chế chính sách thương mại giữa hai nước nhằm xoá bỏ nhanh những hạn chế, bất
cập hiện tại để tạo điều kiện xúc tiến phát triển mạnh hơn nữa các hoạt động xuất
nhập khẩu hàng hoá giữa hai nước. Một đặc điểm nữa đó là mối quan hệ giữa các
doanh nghiệp Nhật Bản thường rất chặt chẽ. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam
nếu muốn thâm nhập thị trường Nhật Bản, nên thông qua các doanh nghiệp trong
77
nước đã khẳng định được uy tín của mình tại thị trường này. Theo đánh giá, Nhật
Bản là thị trường rất tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam do có tới gần
130 triệu người tiêu dùng và đặc biệt là khi mà Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam-
Nhật Bản đã chính thức có hiệu lực. [3]
Với mức thuế suất ưu đãi được giảm dần theo 3 giai đoạn (từ ngày 1/10/2009
đến 31/3/2010, từ ngày 1/4/2010 đến 31/3/2011, từ ngày 1/4/2011 đến 31/3/2012,
tùy theo mặt hàng cụ thể) nhằm thực hiện Hiệp định Đối tác kinh tế Việt Nam -
Nhật Bản (VJEPA) giai đoạn 2009-2012 khi chính thức có hiệu lực, 9.706 mặt hàng
của Nhật Bản sẽ được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt, thấp hơn so
với hiện hành, như lương thực, thực phẩm; các sản phẩm dinh dưỡng y tế, đồ uống,
dược phẩm, mỹ phẩm; các sản phẩm hóa chất, vật liệu xây dựng, máy móc, thiết
bị... khi nhập khẩu vào Việt Nam. Ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam cũng
nhận được nhiều ưu đãi thuế quan theo nội dung của VJEPA. Và cơ hội tăng khả
năng thâm nhập thị trường Nhật Bản của Việt Nam cũng sẽ được mở rộng. Chính
phủ Việt Nam cần tiến hành đàm phán và thúc đẩy hơn nữa đàm phán cấp chính
phủ với Nhật trong vấn đề mở cửa thị trường, trước mắt là đối với các mặt hàng
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Hiện tại, Nhật Bản vẫn được xem như là một thị
trường có mức độ bảo hộ cao mà sự bảo hộ đó được tiến hành dưới hình thức phi
thuế quan. [6, tr. 57-58]
Dễ thấy nhất là các sản phẩm trong lĩnh vực nông nghiệp, thủy sản, gia công...
sẽ gần như ngay lập tức có cơ hội tăng xuất khẩu vào thị trường này. Song, điều
quan trọng với các doanh nghiệp không chỉ là nhanh chóng tăng kim ngạch xuất
khẩu vào Nhật Bản, mà hiệu ứng sâu từ VJEPA mang lại cho các doanh nghiệp Việt
Nam chính là cơ hội lớn để nắm bắt tâm lý thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng
Nhật Bản, qua đó, hướng tới phát triển sản xuất mạnh hơn trong tương lai. Điều mà
các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý chính là học hỏi nhiều hơn nữa để sáng tạo ra
các sản phẩm đáp ứng nhu cầu lớn của một quốc gia có trình độ phát triển cao như
Nhật Bản. Thông qua đó, thúc đẩy trình độ sản xuất của các doanh nghiệp Việt
Nam, theo hướng gắn chặt với nhu cầu thị trường và ở mức cao hơn là tạo ra nhu
78
cầu về hàng hoá cho thị trường. Các doanh nghiệp Việt Nam không nên quá chú
trọng tới kết quả cắt giảm thuế quan trước mắt để tính toán tới xuất khẩu hàng hoá
sao cho có lợi, mà cần phải nghiên cứu thực sự tâm lý tiêu dùng của người Nhật để
tạo ra các sản phẩm có giá trị dựa trên năng lực sáng tạo của người Việt Nam. [21]
3.2.1.3. Sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc đào tạo nhân lực, giúp doanh
nghiệp tiếp cận thị trường Nhật Bản
a. Nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về cơ hội mà VJEPA mang lại
cho doanh nghiệp
Đây là việc làm rất quan trọng vì nếu doanh nghiệp không nhận thức được đầy
đủ bản chất của VJEPA và những cơ hội mà Hiệp định này mang lại thì doanh
nghiệp không thể tận dụng được những lợi thế của Hiệp định. Ví dụ, để được hưởng
mức thuế 0% theo VJEPA, hàng dệt may của ta xuất khẩu sang Nhật có thể phải sử
dụng nguồn nguyên phụ liệu nội địa hoặc được nhập khẩu từ Nhật Bản hoặc các
nước ASEAN. Từ trước đến nay các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may trong
nước chỉ quen làm hàng gia công nên ít để ý đến việc yêu cầu các nhà cung cấp
nguyên vật liệu cung cấp chứng nhận C/O xuất xứ. Trong khi đó, thị trường Nhật
Bản lại là một thị trường rất khắt khe về tiêu chuẩn nguồn gốc xuât xứ của hàng hóa
nói chung và hàng may mặc nói riêng. Chính vì thế khi tiến hành làm hàng để xuất
khẩu sang Nhật, doanh nghiệp nên lưu ý tới giấy chứng nhận này ngay khi nhận
nguyên vật liệu gia công, vì nếu để lâu nhà cung ứng sẽ tìm cách từ chối cấp lại và
hệ quả tất yếu là khi hàng đưa tới Nhật, sẽ gặp khó khăn trong khâu kê khai nguồn
gốc xuât xứ và ảnh hưởng tới việc hưởng thuế ưu đãi 0%. [6] , tr. 63-64
Ngoài ra, nên tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về thương mại cho
các cán bộ lãnh đạo và chuyên viên xúc tiến thương mại, marketing của các công ty
Việt Nam đang tham gia vào mậu dịch quốc tế dưới sự trình bày của các chuyên gia
của nước ngoài và đặc biệt là của Nhật Bản. Mục tiêu của các chương trình này là
để nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ chuyên viên hoạt động trong
lĩnh vực thu hút đầu tư thương mại của Việt Nam để họ có thể kip thời năm bắt và
79
theo kịp những tiêu chuẩn cũng như những thay đổi của thị trường thương mại quốc
tế mà Nhật Bản là đại diện tiêu biểu cho những tiêu chuẩn đó.
b. Tăng cường hoạt động của Văn phòng xúc tiến thương mại để trợ giúp
doanh nghiệp thâm nhập thị trường Nhật Bản
Chính phủ Việt Nam cần thành lập thêm hoặc gia tăng các hoạt động của các
văn phòng hay ủy ban xúc tiến thương mại của Việt Nam tại Nhật Bản nhằm thúc
đẩy hơn nữa khả năng xuât khẩu của hàng hóa Việt Nam vào thị trường Nhật. Cho
tới nay, Việt Nam vẫn chỉ phó thác công việc này cho các văn phòng thương vụ, mà
đứng đầu là các tham tán thương mại tại sứ quán mình tại nước ngoài nói chung và
tại Nhật Bản nói riêng. Tuy nhiên, các vị tham tán thương mại lại thường chỉ ưu tiên
chú trọng tới các vấn đề thương mại song phương ở cấp độ chính phủ hay đơn thuần
chỉ đưa ra các giải pháp chung chung ở mức vĩ mô. Trong khi đó, bản thân các công
ty kinh doanh và hoạt động trong lĩnh vực XNK của Việt Nam vì e ngại về vấn đề
chi phí thường ít chịu bỏ tiền hay không có khả năng bỏ tiền túi để tiến hành những
chuyến đi khảo sát thị trường và nghiên cứu thị trường cũng như ít có những
chương trình khuyếch trương giới thiệu, quảng bá các sản phẩm của mình tại Nhật
Bản – mà những hoạt động này ngược lại thường được các hãng nước ngoài tiến
hành một cách rầm rộ tại thị trường Việt Nam. Chính vì vậy, Việt Nam cần nhanh
chóng thành lập thêm các văn phòng xúc tiến thương mại của Chính phủ tại các
thành phố lớn Nhật Bản mà nhiệm vụ của các văn phòng này bên cạnh việc nghiên
cứu và cung cấp thông tin về các công ty Nhật Bản cũng như về thị trường Nhật
Bản sẽ đứng ra tổ chức và hỗ trợ phần kinh phí cho những chuyến đi nghiên cứu,
khảo sát thị trường của các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời hỗ trợ cho các hoạt
động hội chợ triển lãm, trưng bày, quảng cáo và giới thiệu sản phẩm của các công ty
Việt Nam ở thị trương Nhật Bản. Đây là một việc làm hết sức cấp bách đối với phía
Việt Nam khi ta mong muôn khai thác và gia tăng giá trị xuât khẩu vào thị trường
đầy tiềm năng như Nhật Bản trong thời điểm hiện nay.
3.2.2. Giải pháp phát triển quan hệ đầu tƣ với Nhật Bản
3.2.2.1. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống các chính sách, cơ chế cấp
phép và khuyến khích đầu tư của Việt Nam theo hướng thông thoáng, phù hợp
với thông lệ quốc tế và lợi ích kinh tế của Việt Nam
80
Hiện tại, trong quan hệ đầu tư Việt Nam – Nhật Bản vẫn còn tồn tại khá nhiều
hạn chế mà những hạn chế này đã làm cản trở đáng kể tới tiềm năng và nhu cầu
phát triển thực tiễn của cả hai nước, trong đó có những hạn chế thuộc về hệ thống
các chính sách, cơ chế cấp phép và khuyến khích đầu tư của Việt Nam mặc dù đã
được sửa đổi, hoàn thiện nhiều lần song vẫn chưa thế tháo gỡ hết các khó khăn, ách
tắc mà chúng ta cần giải quyết triệt để. Chính vì thế, xuất phát từ quá trình tìm hiểu
làm rõ thực trạng khó khăn, hạn chế còn tồn đọng trong quan hệ đầu tư Viêt – Nhật,
để mối quan hệ này tiếp tục phát triển và có hiệu quả cao hơn nữa, đòi hỏi cả hai
phía Việt Nam và Nhật Bản cần có sự phối hợp chặt chẽ trong việc nhanh chóng
tháo gỡ các vướng mắc trong các hoạt động đầu tư giữa hai nước. Riêng về phía
Việt Nam, chúng ta phải có những chính sách và biện pháp thích hợp nhằm cải
thiện môi trường kinh doanh ở Việt Nam sao cho năng động, thông thoáng hơn để
tạo sự hấp dẫn hơn nữa trong việc thu hút các nhà đầu tư và doanh nghiệp Nhật Bản
vào làm ăn, phát triển buôn bán với nước ta; đồng thời cần tìm ra biện pháp chủ
động nhằm biến một thị trường phát triển đầy tiềm năng như Nhật Bản trở thành
một thị trường mục tiêu của các doanh nghiệp và nhà đầu tư Việt Nam. Song hành
với những nỗ lực từ phía Việt Nam, đòi hỏi phía Nhật Bản cũng phải có sự nỗ lực
hợp tác trong việc nhanh chóng tháo gỡ những khó khăn, hạn chế còn tồn đọng
thuộc về phía Nhật Bản. Dưới đây là một số giải pháp và kiến nghị cụ thể nhằm
nhanh chóng tháo gỡ những khó khăn, hạn chế vẫn đang kìm hãm sự phát triển quan
hệ đầu tư Việt Nam – Nhật Bản:
Về phía Việt Nam, để cải thiện môi trường kinh doanh, chúng ta cần nhanh
chóng tháo gỡ những hạn chế gây cản trở cho quan hệ thương mại đầu tư song
phương như là: Chính phủ Việt Nam nên có những biện pháp hữu hiệu giảm các thủ
tục hành chính ma luôn đi kèm với đó là tệ nạn quan liêu giấy tờ gây khó khăn
nhũng nhiễu đối với các doanh nghiệp nước ngoài nói chung và các doanh nghiệp
Nhật Bản nói riêng trong các thủ tục liên quan tới giấy tờ hành chính. Chính phủ
cần quan tâm và tạo nhiều điều kiện hơn nữa cho các doanh nghiệp Nhật Bản đã
tham gia đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam trong các hoạt động của doanh nghiệp
81
như: Gia hạn hay cấp mới các giấy phép hoạt động kinh doanh, tìm hiểu khai thác
thông tin từ cổng thông tin của các cơ quan Bộ và ngang Bộ….
3.2.2.2. Cần có chính sách ưu đãi và khuyến khích các công ty của Nhật Bản
hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp và phát triển công nghiệp mở rộng cơ
sở sản xuất và kinh doanh sang Việt Nam
_ Chính phủ Việt Nam nên ban hành những chính sách ưu đãi và khuyến khích
các công ty của Nhật Bản hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp và phát triển
công nghiệp chuyển cơ sở sản xuất và kinh doanh của mình sang Việt Nam. Những
chính sách này cần phải rõ ràng, có quy định cụ thể ngành công nghiệp nào của Việt
Nam, mà các công ty của Nhật Bản nên và có thể đầu tư với những điều kiện cụ thể
như hiên nay. Việc đầu tư và mở rộng quy mô kinh doanh, sản xuất của các doanh
nghiệp Nhật Bản hoạt động trong các lĩnh vực công nghiệp và phát triển công
nghiệp sẽ góp phần giúp Việt Nam nâng cao hiệu quả trong chuyên môn của cán bộ
công nhân viên người Việt cũng như hiệu quả trong sản xuất mà điều này được thể
hiện rõ ở chất đầu ra của quá trình sản xuất. Đẩy mạnh và khuyến khích đầu tư của
các doanh nghiệp Nhật sử dụng nguồn nguyên liệu thô đầu vào vốn vẫn nhập khẩu
từ Việt Nam chuyển quy mô sản xuất sang nước ta sẽ đặc biệt góp phần hạn chế
xuất khẩu các nguyên liệu thô đang ngày càng cạn kiệt từ trong nước ra thị trường
bên ngoài, đồng thời qua đó sẽ tạo ra thêm công ăn việc làm cho một số lượng lớn
lao động Việt Nam. Để có thể gia tăng nhanh số lượng nhà đầu tư Nhật Bản tới Việt
Nam, biện pháp tốt nhất là Chính phủ Việt Nam nên đưa ra các chính sách hỗ trợ
tích cực, khuyến khích sự tham gia của các hãng sản xuất có thương hiệu hàng đầu
của Nhật Bản trực tiếp tham gia đầu tư trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu tại
đây.
_ Việt Nam cần ban hành những chính sách cụ thể và tích cực hơn so với các
chính sách hiện tại nhằm thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư Nhật Bản tham gia
tích cực vào các ngành công nghiệp khai thác, chế biến và công nghiệp may mặc
nhằm nâng cao giá trị và chất lượng của sản phẩm làm ra, bởi đây là những ngành
công nghiệp mà các sản phẩm được tạo ra chủ yếu được xuất sang thị trường Nhật
82
Bản. Sự tham gia của họ không những đảm bảo cho sự có mặt của hàng hóa Việt
Nam trên thị trường Nhật mà đây còn là cơ sở giúp cho hàng hóa Việt Nam được
biết tới nhiều hơn bởi một lượng người tiêu dùng nước ngoài sinh sống và làm việc
tại Nhật Bản. Qua đó, giúp cho Việt Nam có thể khai thác hiệu quả hơn những tiềm
năng sẵn có của mình nhằm hướng tới mục tiêu tạo ra các sản phẩm có chất lượng
cao đáp ứng được tiêu chuẩn và thị thiếu quốc tế.
_ Chính phủ Việt Nam cần có những chính sách tích cực hơn nữa nhằm giải
quyết các khoản nợ mà các công ty Việt Nam do quá trình mua chịu chưa trả được,
và nhiều công ty Nhật Bản bán hàng cho phía Việt Nam nhưng vẫn chưa thu được
tiền hàng. Chính phủ Việt Nam cần có những chế tài nhằm bảo đảm lợi ích thích
đáng cho các doanh nghiệp như vậy của Nhật Bản để tạo cho họ tâm lý thoải mái và
tiếp tục hoạt động đầu tư của mình tại Việt Nam, chứ không nên tiếp tục kéo dài
một hiện tượng như hiện nay đó là: Một công ty vẫn duy trì văn phòng đại diện của
mình tại Việt Nam song hoạt động chủ yếu của văn phòng đó không phải là xúc tiến
và thúc đẩy hoạt động thương mại và thay vào đó là đi thu đòi nợ hay như có một số
công ty của Nhật đã đề nghị được gia hạn giấy phép hoạt động của văn phòng đại
diện của công ty tại Việt Nam mà một phần lý do là để theo đuổi và giai quyết các
khoản nợ mà khách hàng là các doanh nghiệp Việt Nam chưa trả được.
_ Chính phủ Việt Nam nên đề ra những kế hoạch cụ thể nhằm cải tạo và nâng
cấp cơ sở hạ tầng của ngành thương mại trong nước sao cho tương xứng với tầm cỡ
quôc tế để đảm bảo cho hoạt động đầu tư giữa Việt Nam với thế giới nói chung và
với Nhật Bản nói riêng ngày càng phát triển. Chỉ khi đó, hiện tương các doanh
nghiệp Nhật Bản kêu ca, phàn nàn về việc hàng hóa giao không đúng tiến độ; thiết
bị vận chuyển, kho tàng, cầu cảng không đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế hay hoạt động
đầu tư gặp nhiều trở ngại trong quá trình phát triển do phải đầu tư quá nhiều vào
việc nâng cấp và cải tạo cơ sở kinh doanh mới thực sự chấm dứt. Nếu vấn đề này
được tháo gỡ, chắc chắn thị trường Việt Nam sẽ thu hút được sự quan tâm hơn nữa
của nhiều nhà đầu tư và doanh nghiệp Nhật Bản. Và một sự thật hiển nhiên đó là
một khi môi trường kinh doanh hoàn toàn thông thoáng và trở nên hấp dẫn đối với
83
các doanh nghiệp Nhật Bản thì sẽ chẳng có lý do gì khiến cho họ sau khi đầy hứng
khởi tham gia thị trường Việt Nam đã phải “tất tả xách vali” rời khỏi thị trường chỉ
vì lý do làm ăn không hiệu quả hay tệ hơn là buộc phải duy trì hoạt động khi mà
việc thu hồi nợ là mục đích chính hơn là hoạt động kinh doanh. Và tất nhiên với
một môi trường kinh doanh đầy ưu đãi, các nhà đầu tư không chỉ của Nhật mà của
quốc tế sẽ tiếp tục mong muốn ở lại lâu hơn so với dự định và kèm theo đó có thể là
sự xuất hiện của nhiều hơn nữa các nhà đầu tư đến từ các quốc gia khác.
_ Chính sách công nghiệp, định hướng thị trường của Việt Nam cần căn cứ theo
sự biến đổi cơ cấu của nền kinh tế Nhật Bản cũng như vai trò của nó trong khu vực
Đông Nam Á nói riêng và Châu Á – Thái Bình Dương nói chung. Nói một cách cụ
thể hơn đó là Việt Nam cần có một chính sách ưu đãi đầu tư hấp dẫn hơn đối với
các nhà đầu tư quốc tế mà trong đó Nhật Bản được xem như một trong những đối
tác chiến lược quan trọng nhất của chính sách này.
3.2.2.3. Phát triển nguồn nhân lực nhằm thu hút và tiếp nhận có hiệu quả
vốn đầu tư cũng như công nghệ và kỹ năng từ Nhật Bản
- Nâng cao kỹ năng đàm phán của các doanh nghiệp Việt Nam trong những cuộc
thương lượng để thông qua đó sẽ có sức thuyết phục hơn trong quá trình thu hút đầu
tư của Nhật Bản tại Việt Nam. Ví dụ như: Xây dựng các chương trình, nội dung học
tập và tổ chức các lớp học hay khóa đào tạo về kỹ năng đàm phán, phù hợp với điều
kiện làm việc của cán bộ công nhân, viên chức tại các doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực xúc tiến thương mại nhằm bồi dưỡng kiến thức chuyên môn sâu nhằm
nâng cao kỹ năng tay nghề trong thực tiễn nâng cao cả về trình độ học vấn cũng như
kỹ năng nghề nghiệp nhằm đem lại hiệu quả cao trong công việc; Trong đó các
doanh nghiệp cần đặc biệt coi trọng công tác phổ cập ngoại ngữ, tin học cho mặt
bằng cán bộ công nhân viên chức nói chung, đặc biệt từ khâu tuyển dụng nhân sự.
Sự cần thiết của những chương trình này là ở chố nếu chúng ta tiếp tục chậm chễ
trong mời gọi đầu tư quốc tế và thiếu sáng suốt đưa ra những quyết định kip thời và
đúng đắn thì chính chúng ta đã khiến cho nhiều cơ hội “làm ăn” bị tuột mất trước
mắt khi mà các nhà đầu tư sẽ tìm tới các đối tác láng giềng.
84
- Hiện nay, Việt nam thiếu một thế hệ có thể làm quản lý ở bậc trung cấp. Các
doanh nghiệp nước ngoài thường khó tìm được những người quản lý bậc trung cấp
mà có đủ khả năng làm việc. Vì thế, thông qua các chương trình đào tạo thông qua
học việc (OJT - On the Job Training) dài hạn, các nhà quản lý theo yêu cầu nghề
nghiệp được lựa chọn từ số sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học. Một nhà sản
xuất hàng điện tử Nhật Bản thậm chí còn sẵn sàng đứng ra hỗ trợ cho khoá đào tạo
thường niên về quản lý cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt nam. Hiệu quả của
các chương trình này sẽ cao hơn rất nhiều nếu chính phủ đứng ra tổ chức các khoá
học nhằm tăng cường trình độ quản lý ở bậc trung cấp. Ví dụ: Các khoá đào tào
chính thức của Hiệp hội Học bổng Kỹ thuật hải ngoại (AOTS) cần được các doanh
nghiệp Việt nam chủ động tham gia.
- Đào tạo và nâng cao trình độ phiên dịch Việt-Nhật
Tiếng Việt là một trong các ngôn ngữ rất khó học đối với người Nhật. Vượt qua
được rào cản ngôn ngữ là điều quan trọng để Nhật Bản và Việt nam cùng nhau phát
triển sâu rộng hơn các ngành công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp phụ trợ của Việt
nam. Phiên dịch viên có chất lượng đóng vai trò quan trọng trong việc diễn giải
chính xác thông tin và nâng cao sự hiểu biết của hai bên. Để nâng cao trình độ phiên
dịch, việc xuất bản một cuốn từ điển Nhật-Việt gồm những thuật ngữ kỹ thuật, đặc
biệt là các thuật ngữ kinh tế và kỹ thuật, là việc làm hết sức thiết thực.
85
KẾT LUẬN
Trong suốt giai đoạn hơn 36 năm chính thức thiết lập quan hệ song phương cho
tới nay, có thể nói quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản chưa bao giờ lại phát triển,
đạt tới độ hưng thịnh và có nhiều dấu mốc quan trọng như hiện nay. Kể từ sự kiện
Nhật Bản nối lại viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam vào tháng 11
năm 1992 cho tới nay, mối quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản ngày càng
phát triển mạnh mẽ và khả quan hơn trên mọi lĩnh vực từ chính trị, kinh tế, văn hóa,
giáo dục mà đặc biệt là sự thịnh vượng trong quan hệ thương mại đầu tư song
phương giữa hai nước. Một nguyên nhân có thể được xem là cơ bản nhất đã góp
phần dẫn tới thành công đó chính là sự nỗ lực từ cả hai phía nhằm thực hiện một
cách có hiệu quả nhất sự phân công trao đổi các lợi thế so sánh vốn có từ tiềm năng
và thế mạnh của cả hai nước. Cho tới nay, Nhật Bản đã trở thành một trong những
đối tác hàng đầu của Việt Nam trong lĩnh vực kinh tế thương mại, đầu tư trực tiếp
(FDI) và hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Tuy nhiên, các kết quả, thành tựu khả
quan đó nếu so với tiềm năng và nhu cầu hợp tác phát triển giữa hai nước là vẫn là
chưa tương xứng. Việc ký kết Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật Bản
(VJEPA) và nhất trí thực hiện nội dung của Hiệp đinh này của hai nước chính là dấu
mốc quan trọng nhất trong mối quan hệ song phương về thương mại và đầu tư Việt
Nam- Nhật Bản.
Trong khuôn khổ có hạn, Luận văn đã giải quyết được những vấn đề cơ bản
sau :
- Làm rõ các vấn đề lý luận về Hiệp định thương mại tư do song phương đồng
thời phân tích những điểm cơ bản của VJEPA - một hiệp định thương mại tự do
song phương đầu tiên của Việt Nam
- Phân tích và đánh giá thực trạng thương mại song phương giữa Việt Nam và
Nhật Bản từ 2005 đến nay cũng như hoạt động đầu tư từ Nhật Bản sang Việt Nam
từ 2003 đến nay.
86
- Chỉ ra những cơ hội cũng như thách thức đối với hoạt động thương mại và
đầu tư giữa Việt Nam và Nhật Bản đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm phát
triển quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai nước trong bối cảnh VJEPA đi vào thực
thi chính thức
Luận văn đã chứng minh rằng Hiệp định VJEPA được ký kết và đi vào thực thi
sẽ góp phần tăng cường quan hệ kinh tế hai nước trên diện rộng. Việc ký kết Hiệp
định VJEPA không chỉ mang lại cho hai quốc gia đối tác là Việt Nam và Nhật Bản
những lợi ích kinh tế như gia tăng giá trị trao đổi thương mại, thúc đẩy cạnh tranh,
đầu tư, chuyển giao tri thức, công nghệ và thông tin…mà còn đem lại cả những lợi
ích phi kinh tế như gia tăng vị thế đối với Việt Nam - quốc gia được xem là yếu hơn
- trên trường quốc tế đồng thời củng cố hòa bình và an ninh. Hơn nữa, việc ký kết
và thực thi JVEPA sẽ là môt tiền đề quan trọng để Việt Nam tiếp tục theo đuổi tiến
trình đa phương hóa mà Đảng và Nhà nước đã đề ra với việc tiếp tục các cuộc đàm
phán song phương với các quốc gia khác trong phạm vi khu vực và quốc tế.
87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt :
1. Hồng Anh (2009), “Hàng trăm mặt hàng nhập từ Nhật Bản trong diện miễn
thuế”, Báo nhân sự Việt Nam.
2. Phạm Anh (2009), “Chỉ 20% Doanh nghiệp tận dụng được lợi thế về thuế”, Tạp
chí Cuộc sống số, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
3. Ban biên tập Báo điện tử Thông tin kinh tế - nhịp cầu thương mại (2006), “Hệ
thống phân phối hàng hoá của Nhật: Hiểu rõ để tiếp cận”.
4. Ban biên tập Báo điện tử Sài Gòn Giải Phóng (2009), “Cắt giảm thuế quan Việt
- Nhật: Cửa lớn cho xuất khẩu đã mở”.
5. Ban biên tập Tạp chí Báo mới (2010), “Cơ hội thâm nhập thị trường Nhật Bản
đối với hàng thủy sản nhờ VJEPA”.
6. Bộ Công Thương (2009), Những điều doanh nghiệp cần biết về Hiệp định đối
tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản, Dự án Mutrap do Liên minh Châu Âu tài trợ.
7. Cục đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch đầu tư (2007), Báo cáo 20 năm đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam (1988-2007), Hà Nội.
8. Cục đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch đầu tư (2009), Tổng quan đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam 2009, Hà Nội.
9. Cục xúc tiến thương mại (2009), “Công nghiệp phụ trợ Việt Nam và việc hợp
tác với Nhật Bản”, Hà Nội
10. Cục xúc tiến thương mại (2009), “Lợi ích của VJEPA đối với các doanh nghiệp
Việt Nam”, Hà Nội.
11. Dự án hỗ trợ thương mại đa biên (Mutrap) do Liên minh Châu  tài trợ (2009),
Thêm cơ hội cho hàng dệt may Việt Nam sang Nhật, ngày 24/09/2009, Hà Nội.
12. Vương Ngô Hương Giang (2009), Hiệp định Thương mại Tự do song phương
(BFTA), Khóa luận tốt nghiệp chuyên ngành Kinh tế đối ngoại, Đại học Ngoại
Thương, Hà Nội, tr. 21- 30.
88
13. Phương Hằng (2010), “Năm 2009: Xuất khẩu hàng hoá đạt 56,6 tỷ USD ”, Báo
điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, ngày 12/01/2010.
14. Hội thanh niên sinh viên Việt Nam vùng Tokai - Nhật Bản (2007), “Quan Hệ
Thương Mại Việt Nam - Nhật Bản: Vượt Thách Thức Đón Cơ Hội”.
15. Kênh thông tin điện tử Kinh tế-tài chính và thị trường chứng khoán (2010), “XK
sang Nhật Bản trong tháng 1/2010 tăng kim ngạch so cùng kỳ”.
16. Cầm Văn Kình (2008), “Cơ hội lớn để hàng Việt vào Nhật ”, Báo điện tử tuổi
trẻ - Tuoitreonline.
17. Hoa Minh (2009), “Việt Nhật miễn thuế cho 92% hàng hóa mỗi nước ”, Thời
báo Kinh tế Việt Nam.
18. Nguyễn Duy Nghĩa (2009), “Phát triển công nghiệp phụ trợ và việc hợp tác với
Nhật Bản”, Cổng thương mại điện tử Quốc gia – ECOMVIET.
19. Thúy Nhung (2008) - “Hoàn tất đàm phán về Hiệp định Đối tác kinh tế Việt -
Nhật”, Báo điện tử - Thời báo Kinh tế Việt Nam.
20. Nguyễn Trang Nhung (2007), “Nhật Bản: Thị trường rộng mở nhưng nhu cầu
của thị trường là gì?”, Trung tâm Thông tin PTNNNT - Viện Chính sách và
Chiến lược PTNNNT - Bộ Nông nghiệp & PTNT.
21. Trần Anh Phương, “Chiến lược đẩy mạnh thương mại Việt – Nhật”, Thời báo
Kinh tế Việt Nam, số 61 năm 2006.
22. Trần Anh Phương (2008), “Thương mại Việt Nam – Nhật Bản trong tiến trình
phát triển quan hệ giữa hai nước”, NXB Chính Trị Quốc Gia, tr. 129-130.
23. Trần Anh Phương (2008), “ Thương mại Việt Nam – Nhật Bản trong tiến trình
phát triển quan hệ giữa hai nước ”, NXB Chính Trị Quốc Gia, tr. 131-134.
24. Sở Công Thương Bình Dương (2009), Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam - Nhật
Bản, Bình Dương.
25. Thời báo kinh tế Việt Nam (2007), “Nhiều lo ngại về chi phí đầu tư tại Việt
Nam”, ngày 5/6/2007.
26. Đỗ Đức Thịnh (1996), Quan hệ kinh tế Việt Nam – Nhật Bản đang phát triển,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
89
27. Thông tấn xã Việt Nam (2006), “Ngày càng nhiều đầu tư của Nhật Bản vào Việt
Nam”.
28. Thanh Thùy (2006), “Thương mại Việt - Nhật: 10 mặt hàng xuất khẩu triển
vọng”, Báo điện tử - Thời báo Kinh tế Việt Nam.
29. Tạp chí khu công nghiệp Việt Nam (2009), “Nhật Bản khẳng định: Việt Nam vẫn
là địa chỉ đầu tư hấp dẫn ”.
30. Tổng cục Hải quan (tháng 12/2009), Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam –
Nhật Bản 2009, Hà Nội.
31. Phạm Thị Huyền Trang (2008), Thực trạng và xu thế phát triển của Hiệp định
thương mại tự do (FTA) trong khu vực ASEAN, Khóa luận tốt nghiệp chuyên
ngành Kinh tế đối ngoại, Đại học Ngoại Thương, Hà Nội, tr. 5-6.
32. Trung tâm báo chí và hợp tác truyền thông quốc tế (2006), “Honda Việt Nam:
Thị trường xe máy 10 năm nhìn lại”.
33. Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại Việt Nam - Bộ Công Thương
(2009), “Mỗi ngày gần 2 tấn thanh long xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản”.
34. Trung tâm Thông tin Công nghiệp và Thương mại Việt Nam - Bộ Công Thương
(2010), “Tình hình nhập khẩu từ Nhật Bản tháng 1/2010”.
35. Trung tâm thông tin công nghiệp và thương mại Việt Nam - Bộ Công Thương
(2009), “Xuất khẩu vẫn còn có lối đi”.
36. Nguyễn Thị Yến (tháng 11 năm 2009), “Hàng dệt may sang Nhật: cần chú ý đến
xuất xứ nguyên liệu”, Website Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Hải Dương.
Tiếng Anh :
37. Baldwin, Richard (1996), “A Domino Theory of Regionalism”, NBER Working
Papers 4465, National Bureau or Economic Research, Inc.
38. Bhagwati, Jagdish & Anne Krueger (1995), “The Dangerous drift to
Preferential Trade Agreements”, AEI Press, Washington. D.C
39. De Melo, J. & A. Panagariya (1993), “New Dimension in Regional Integration”,
Cambridge, Cambridge University Press.
90
40. Hirofumi, Shibata (1967), “The Theory of Economic Unions: A Comparative
Analysis of Customs Unions, Free Trade Areas, and Tax Unions”, American
Aconomist, Vol. 9 Issue 2.
41. JETRO (2009), White Paper on Foreign Direct Investment, (1997-2009), Tokyo.
Các website:
1. 15. www.wikipedia.net
2. 16. www.moit.gov.vn
3. 17. www.mofa.gov.vn
4. 18.
5. 19.
6. www.mofa.go.jp 20.
7. 21.
8. 22.
9. 23.
10. 24.
11. 25. www.mpi.gov.vn
12. 27. www.moit.gov.vn
13. 28.
14. 29.
91
PHỤ LỤC
Phụ lục 1 : Xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản trong tháng 12 và cả 12
tháng năm 2009
Nƣớc/Mặt hàng chủ yếu ĐVT
Số liệu tháng báo cáo
Cộng dồn đến hết tháng
báo cáo
Lƣợng
Trị giá
(USD)
Lƣợng
Trị giá
(USD)
Nhật Bản 659.958.288 6.291.809.82
Hàng thủy sản USD 65.596.434 760.725.464
Hàng rau quả USD 2.971.739 31.878.215
Hạt điều Tấn 89 435.05 870 3.879.162
Cà phê Tấn 2.784 4.524.092 57.45 90.312.416
Hạt tiêu Tấn 144 584.016 1.876 8.371.386
Gạo Tấn 4.166 1.725.516
Sắn và các sản phẩm từ
sắn Tấn 522 192.113 10.131 2.471.372
Bánh kẹo và các sản phẩm
từ ngũ cốc USD 2.232.718 21.283.182
Than đá
Tấn 113.197 9.761.310
1.375.1
22 145.558.775
Dầu thô
Tấn 142.076 85.330.770
1.021.5
40 480.116.943
Xăng dầu các loại Tấn 1.978 1.217.633 70.621 24.031.905
Quặng và khoáng sản khác Tấn 218 379.84 44.36 6.092.795
Hóa chất USD 3.537.347 30.562.555
Sản phẩm hóa chất USD 4.688.439 43.714.835
Chất dẻo nguyên liệu Tấn 2.315 4.291.555 22.92 37.214.810
Sản phẩm từ chất dẻo USD 18.818.195 193.284.113
Cao su Tấn 1.064 2.572.881 8.749 15.900.209
Sản phẩm từ cao su USD 4.238.067 29.530.719
Túi xách, ví,vali, mũ và ô
dù USD 6.477.391 64.935.154
Sản phẩm mây, tre, cói và
thảm USD 3.083.740 26.227.912
Gỗ và sản phẩm gỗ USD 37.120.833 355.366.244
Giấy, các sản phẩm từ giấy USD 7.344.995 49.961.374
Hàng dệt, may USD 95.902.812 954.075.543
Giày dép các loại USD 13.864.316 122.473.697
92
Sản phẩm gốm, sứ USD 3.671.304 34.005.216
Thủy tinh và các sản
phẩm từ thủy tinh USD 4.640.338 52.040.455
Đá quý, kim loại quý và
sản phẩm USD 2.415.060 41.141.298
Sắt thép các loại Tấn 136 530.838 1.597 4.556.492
Sản phẩm từ sắt thép USD 7.807.273 75.482.239
Máy vi tính, sản phẩm
điện tử và linh kiện USD 34.755.980 380.970.568
Máy móc, thiết bị, dụng
cụ phụ tùng khác USD 61.077.229 599.945.096
Dây điện và dây cáp điện USD 83.125.993 639.502.471
Phương tiện vận tải và phụ
tùng USD 23.905.158 238.328.522
Nguồn: Tổng cục hải quan Việt Nam (2009)[30]
93
Phụ lục 2: Thống kê kim ngạch xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu của Việt
Nam sang Nhật Bản trong tháng 02/2010
STT Nhóm hàng xuất khẩu
Xuất khẩu
(Triệu
USD)
Tỷ trọng
kim ngạch
xuất sang
Nhật Bản
(%)
So với
tháng
02/2009
(%)
1 Sản phẩm dệt may 64,9 15,2 - 4,5
2 Sắt thép loại khác 56,2 13,1 146,4
3
Máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ
tùng
50,6 11,8 20,9
4 Hàng thuỷ sản 39,6 9,3 8,1
5
Máy vi tính, sản phẩm điện tử &
linh kiện
26,4 6,2 12,0
6 Gỗ và sản phẩm từ gỗ 25,2 5,8 - 10,3
7 Linh kiện, phụ tùng ô tô khác 18,1 4,2 107,7
8 Than đá 15,0 3,5 282,2
9 Giày dép các loại 14,2 3,3 13,9
10 Sản phẩm từ chất dẻo 13,5 3,2 - 1,0
11 Cà phê 8,8 2,1 - 29,7
12
Thuỷ tinh & sản phẩm bằng thuỷ
tinh
5,6 1,3 600,2
13 Túi xách, ví, va li, mũ & ô dù 5,2 1,2 - 12,9
14 Sản phẩm từ giấy 5,1 1,2 83,0
15 Sản phẩm từ sắt thép 4,3 1,0 -9,1
16 Sản phẩm hoá chất 3,9 0,9 39,3
17 Hàng hoá khác 71,2 16,6 - 40,0
94
Tổng cộng 427,8 100,0 4,9
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam (2010).
Phụ lục 3: Thống kê kim ngạch nhập khẩu một số mặt hàng chủ yếu của Việt
Nam có xuất xứ Nhật Bản trong tháng 02/2010
S
TT
Nhóm hàng
Nhập
khẩu
(Triệu
USD)
Tỷ trọng
kim ngạch
nhập khẩu
từ Nhật
Bản (%)
So
sánh
tháng
2/2009
(%)
1
Máy móc, thiết bị, dụng cụ & phụ
tùng
155,4
28,4 2,7
2 Sắt thép các loại
75,3
13,8 92,1
3
Máy vi tính, sản phẩm điện tử & linh
kiện
51,6
9,5 2,6
4 Sản phẩm chất dẻo
28,3
5,2 46,6
5 Sản phẩm từ sắt thép
27,6
5,1 87,3
6 Vải các loại
22,4
4,1
-
34,7
7 Chất dẻo nguyên liệu
19,4
3,6 59,8
8 Linh kiện ô tô 9 chỗ ngồi chở xuống
15,7
2,9
220,
1
9 Phôi thép
13,0
2,4 83,4
1
0
Linh kiện, phụ tùng ô tô khác
12,8
2,3 97,5
95
1
1
Sản phẩm hoá chất
11,3
2,1 29,8
1
2
Nguyên phụ liệu dệt, may, da, giày
8,9
16
-
17,1
1
3
Hoá chất
8,9
1,6 - 9,4
1
4
Dây điện & dây cáp điện
6,5
1,2 1,7
1
5
Đồng
6,4
1,2 55,7
1
6
Sản phẩm từ giấy
6,3
1,1 81,9
1
7
Linh kiện & phụ tùng xe máy 6,0 1,1 13,4
1
8
Kim loại thường khác
5,8
1,1
167,
5
1
9
Ô tô 9 chỗ ngồi trở xuống
5,8
1,1
178,
3
2
0
Hàng hoá khác 58,7 10,8
-
35,5
Tổng cộng
546,1
100,0 12,9
Nguồn: Tổng cục Hải quan Việt Nam (2010)
96
Phụ lục 4 : Cơ cấu các mặt hàng nhập khẩu từ Nhật Bản tháng 1 năm 2010
Mặt hàng
Tháng
1/2010
(nghìn USD)
So tháng
12-09 (%)
So tháng
1-09 (%)
So tháng
1-08 (%)
Tổng 608.594 -25,41 104,10 -8,60
Máy móc,thiết bị, dụng cụ, phụ tùng 162.596 -34,87 47,00 -25,46
Máy vi tính, sp điện tử và linh kiện 71.344 -19,97 90,67 -7,82
Sắt thép các loại 58.286 -42,55 210,11 -33,17
Linh kiện, phụ tùng ô tô 53.943 19,41 608,75 150,04
Sản phẩm từ chất dẻo 29.907 -27,91 132,23
Xăng dầu các loại 23.016 99,19
Chất dẻo nguyên liệu 22.071 -8,17 283,04 18,88
Vải các loại 21.700 -32,04 31,01 -2,36
Sản phẩm từ sắt thép 17.504 -26,28 19,45
Sản phẩm hóa chất 13.705 -23,38 133,40 17,65
Hóa chất 12.498 6,90 203,35 -6,09
Kim loại thường khác 12.288 1,55 146,55 63,30
Ô tô nguyên chiếc các loại 9.282 -67,30 371,89 51,17
Nguyên phụ liệu dệt may, da giày 9.052 -25,61 25,88 -16,73
Phân bón các loại 7.373 187,11 154,33
Dây điện và dây cáp điện 7.326 -35,95 41,81
Linh kiện, phụ tùng xe máy 5.813 -28,77 36,52 16,05
Sản phẩm từ cao su 5.279 -30,85 179,46
Sản phẩm từ kim loại thường khác 5.005 -0,75 361,29
97
Cao su 4.650 -27,12 308,61 169,72
Giấy các loại 4.055 32,91 148,47 61,88
Sản phẩm từ giấy 3.806 -30,67 67,59
Nguyên phụ liệu thuốc lá 3.631 -1,36 474,53 204,10
Hàng thủy sản 2.611 -9,47 40,75
Thuốc trừ sâu và nguyên liệu 1.754 -25,04 112,09 6,30
Dược phẩm 1.542 37,80 302,61 539,83
Xơ, sợi dệt các loại 1.530 23,89 893,51 123,68
Sản phẩm khác từ dầu mỏ 1.465 -44,74 454,92
Đá quý, kim loại quý và sản phẩm 1.296 -16,22 126,18
Phương tiện VT khác và phụ tùng 1.222 -79,85
Gỗ và sản phẩm gỗ 339 36,69 -42,64 1,80
Thức ăn gia súc và nguyên liệu 141 -61,05 -69,87 -82,78
Xe máy nguyên chiếc 102 -45,16 -62,64 -90,53
Nguyên phụ liệu dược phẩm 66 112,90
Nguồn : Trung tâm Thông tin Công nghiệp - Thương mại
Việt Nam - Bộ Công Thương, (2010) [34]
98
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3361_8758.pdf