Thoát khỏi cơ chế chật hẹp của thời bao cấp, chuyển sang nền kinh
tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, thời gian qua thị trường bảo
hiểm nói chung, BHNT nói riêng đã có sự phát triển vượt bậc cả về số
lượng và chất lượng.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển, thị trường BHNT Việt Nam chưa
xứng tầm với tiềm năng phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay, còn
bộc lộ nhiều hạn chế, như: Công tác giải quyết bồi thường chưa thuận tiện,
trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý và kinh doanh chưa cao, năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp còn thấp.
108 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3171 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sống của người dân ngày càng được nâng cao, nhu cầu sử dụng dịch vụ
y tế và y tế cao cấp gia tăng.
Trên thực tế các doanh nghiệp BHNT đã thỏa mãn một phần nhu cầu
BHNT của dân cư và các tổ chức doanh nghiệp. Để đánh giá chính xác nhu
cầu bảo hiểm thực tế của thị trường có thể xem xét hai chỉ tiêu: số hợp đồng
bảo hiểm đang có hiệu lực, đây chính là nhu cầu thực tế đối với sản phẩm
BHNT đã được thỏa mãn của khách hàng; số hợp đồng bảo hiểm khai thác
82
mới mỗi năm, thực chất phản ánh nhu cầu BHNT thực tế phát sinh hàng năm
được thỏa mãn. Theo số liệu (bảng 2.6) có thể thấy rằng, nhu cầu bảo hiểm
thực tế vẫn tập trung vào các sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp với số hợp đồng
đang có hiệu lực đạt 3.316 nghìn hợp đồng năm 2004 và 3.487 nghìn hợp
đồng năm 2005, tăng 5,16%. Nhu cầu đối với sản phẩm bảo hiểm hỗn hợp
chiếm 70,09% tổng nhu cầu trên thị trường trong năm 2005. Nhu cầu bảo
hiểm đối với các sản phẩm bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm trả
tiền định kỳ còn thấp, chỉ chiếm trên dưới 1% nhu cầu thực tế được đáp ứng
trên thị trường trong cả hai năm 2004 và 2005. Đặc biệt, nhu cầu phát sinh đối
với hầu hết các sản phẩm BHNT có xu hướng giảm từ giữa năm 2005 đến
nay. Cụ thể, nhu cầu phát sinh đối với sản phẩm BHNT hỗn hợp giảm 22,8%,
đối với sản phẩm bảo hiểm trọn đời là 44,5%, đối với sản phẩm bảo hiểm tử
kỳ giảm 54%, còn với sản phẩm trả tiền định kỳ giảm 40%,v.v. Nhìn tổng thể
thị trường BHNT Việt Nam có thể thấy rằng nhu cầu đối với các sản phẩm
BHNT có chiều hướng đi xuống. Nguyên nhân chủ yếu do tác động của tình
hình kinh tế Việt Nam từ cuối năm 2003 đến nay có chiều hướng bất lợi cho
thị trường BHNT, như: Giá vàng tăng đến chóng mặt, các ngân hàng đồng
loạt tăng lãi suất, lạm phát có chiều hướng gia tăng, thu nhập thực tế của
người dân giảm đi tương đối. Bên cạnh đó là giá xăng dầu tăng và không ổn
định. Dịch cúm gia cầm diễn ra hết sức phức tạp v.v…
3.3. Một số giải pháp chủ yếu phát triển thị trường BHNT ở Việt Nam
83
Trên cơ sở đánh giá thực trạng thị trường BHNT ở Việt Nam, kinh
nghiệm phát triển thị trường BHNT tại một số nước trên thế giới cũng như
dựa vào định hướng và mục tiêu phát triển thị trường BHNT của Chính phủ,
định hướng phát triển kinh tế xã hội Việt Nam đến năm 2010, điều kiện dân
số, tiềm năng phát triển của thị trường và đánh giá về nhu cầu bảo hiểm thực
tế được đáp ứng và phát sinh đề tài đưa ra một số giải pháp chủ yếu phát triển
thị trường BHNT ở Việt Nam.
3.3.1. Giải pháp về phía Nhà nước
Để thực hiện được định hướng phát triển thị trường BHNT mà chiến
lược đã đề ra cũng như mục tiêu cụ thể mà thị trường BHNT Việt Nam trong
quá trình phát triển phải đạt được, Nhà nước cần phải có những giải pháp
sau đây:
3.3.1.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ
Hiện nay hệ thống văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh
BHNT trên thị trường Việt Nam về mặt số lượng thì rất nhiều, nhưng lại rất
phân tán và còn nhiều bất cập. Hoạt động kinh doanh BHNT trên thị trường
bảo hiểm Việt Nam có thể chịu sự điều chỉnh của các nguồn luật như: Bộ
luật dân sự, luật kinh doanh bảo hiểm…Ngoài ra còn có các văn bản dưới
luật như các nghị định, thông tư hướng dẫn, giải thích luật khi áp dụng đã gây
ra không ít khó khăn trong việc quản lý và thi hành, cản trở việc phát triển thị
trường BHNT.
Một số khái niệm, thuật ngữ trong các văn bản pháp luật về bảo hiểm
sử dụng cũng chưa thống nhất, có thể dẫn tới phát sinh tranh chấp không cần
thiết. Ví dụ: trong điều khoản mà Bộ Tài chính ban hành có sử dụng thuật ngữ
“giá trị giải ước” để chỉ khoản tiền mà doanh nghiệp phải trả cho người mua
bảo hiểm sau khi hợp đồng bảo hiểm bị hủy bỏ, nếu hợp đồng bảo hiểm đã có
hiệu lực trên 2 năm, thì ở khoản 3 điều 35 luật kinh doanh bảo hiểm lại dùng
thuật ngữ “giá trị hoàn lại” để chỉ nội dung này.
84
Tóm lại, muốn phát triển thị trường bảo hiểm nói chung, BHNT nói
riêng một cách toàn diện, an toàn và lành mạnh để phục vụ cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì Nhà nước phải sớm hoàn thiện các
văn bản pháp lý. Cụ thể Nhà nước nên thống nhất các hoạt động kinh doanh
bảo hiểm vào một nguồn luật để tránh chồng chéo, điều chỉnh những quy định
xung đột trong các nguồn luật về một số nội dung liên quan tới hoạt động kinh
doanh BHNT, thống nhất các khái niệm, thuật ngữ sử dụng trong các văn bản
pháp luật. Có như vậy mới phát huy được vai trò của hệ thống pháp luật trong
quản lý điều hành hoạt động kinh doanh BHNT trên thị trường.
3.3.1.2. Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước đối với thị trường bảo hiểm
nhân thọ
Để tạo điều kiện phát triển thị trường BHNT, hội nhập với thị trường
bảo hiểm khu vực và quốc tế thì việc đổi mới cơ chế quản lý nhà nước đối với
hoạt động kinh doanh bảo hiểm là một việc làm rất cần thiết. Trong thời gian
qua, thực hiện những cam kết mở cửa, hội nhập nền kinh tế theo các hiệp định
đa phương, song phương ký với các nước, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực
trong việc đổi mới quan điểm, cách thức quản lý nhà nước đối với thị trường
BHNT nhưng sự đổi mới còn nhiều hạn chế và có những bất cập trong lĩnh
vực quản lý nhà nước như: sự thống nhất cơ quan quản lý, cơ chế, chính sách,
thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý, các hoạt động kiểm tra, thanh tra,
giám sát…Chính vì những điều này đã gây ra không ít khó khăn cho các
doanh nghiệp BHNT, ảnh hưởng tới hiệu quả kinh doanh. Vì vậy, phải có sự
đổi mới nhanh chóng cơ chế quản lý nhà nước đối với thị trường BHNT. Cụ
thể, nội dung đổi mới quản lý nhà nước cần tập trung vào những vấn đề sau:
- Thống nhất các cơ quan quản lý đối với các hoạt động kinh
doanh bảo hiểm.
- Tăng quyền chủ động và tính tự chịu trách nhiệm của các doanh
nghiệp BHNT trong các vấn đề liên quan đến nội dung các báo cáo, kết quả
hoạt động và trong việc thực hiện các quy định của pháp luật. Hạn chế sự can
85
thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Hoạt động quản lý
phải mang tính chuyên nghiệp. Quan hệ giữa cơ quan quản lý nhà nước và
doanh nghiệp dựa trên tinh thần hợp tác, xây dựng.
- Nâng cao năng lực của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động
của thị trường BHNT theo chuẩn mực quản lý nhà nước đối với thị trường
BHNT của các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Cơ quan quản lý nhà
nước phải được kiện toàn theo hướng vừa thực hiện chức năng tham mưu,
vừa thực hiện chức năng kiểm tra, kiểm soát, giám sát đối với hoạt động kinh
doanh BHNT.
- Ban hành quy chế xử phạt hành chính trong kinh doanh bảo hiểm, chỉ
tiêu giám sát hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Đơn giản hóa thủ tục hành chính trong các khâu cấp giấy phép, thẩm
định hồ sơ phê chuẩn, đăng ký sản phẩm và các thủ tục khác, như: thay đổ
vốn, mở rộng nội dung, phạm vi hoạt động.
3.3.1.3. Tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động của thị trường bảo
hiểm nhân thọ
Để tạo ra sự phát triển toàn diện, an toàn và lành mạnh cho thị trường
BHNT Việt Nam thì một trong những giải pháp không thể thiếu được đối với
cơ quan quản lý nhà nước đó là công tác tăng cường kiểm tra giám sát các
hoạt động kinh doanh BHNT trên thị trường. Trong những năm gần đây, quy
mô và tốc độ tăng trưởng của thị trường BHNT rất cao, đây cũng là một thành
tựu đáng mừng. Song bên cạnh đó cũng kéo theo tính phức tạp của quá trình
phát triển. Nếu không tăng cường kiểm tra giám sát hoạt động của thị trường
BHNT sẽ không đảm bảo được định hướng phát triển thị trường BHNT giai
đoạn 2003-2010. Cụ thể hoạt động kiểm tra giám sát ở những nội dung sau:
- Trong quá trình xem xét cấp giấy phép hoạt động kinh doanh bảo
hiểm phải đánh giá đúng năng lực của chủ đầu tư, người quản trị điều hành,
kế hoạch kinh doanh.
86
- Kiểm tra giám sát các hoạt động soạn thảo hợp đồng bảo hiểm và định
phí bảo hiểm, xóa bỏ các hoạt động bất hợp pháp của các cá nhân và các
doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.
- Tiêu chuẩn hóa các hoạt động quản lý và tiếp thị của các công ty bảo
hiểm cũng như các đại lý và môi giới BHNT nhằm hạn chế các hiện tượng
cạnh tranh không lành mạnh thông qua việc chi trả hoa hồng, giảm phí bảo
hiểm hoặc mở rộng phạm vi bảo hiểm…
- Giám sát doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện các qui định của Nhà nước
và các qui định của bản thân doanh nghiệp về quản lý tài chính, kế toán, đánh
giá rủi ro, quản lý tài sản.
- Giám sát việc trích lập các nguồn dự phòng nghiệp vụ, biên khả năng
thanh toán bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
- Giám sát việc sử dụng các nguồn vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp
bảo đảm vốn chủ sở hữu phù hợp với qui mô kinh doanh của doanh nghiệp.
- Quản lý hoạt động đầu tư, bảo đảm đầu tư của doanh nghiệp được đa
dạng, trong hạn mức qui định của pháp luật, định giá tài sản đầu tư thận trọng,
cân đối giữa tài sản nợ và nguồn vốn của doanh nghiệp, bảo quản tài sản có
của doanh nghiệp.
- Đánh giá các chỉ tiêu tài chính, kinh tế của doanh nghiệp một cách
thường xuyên, xây dựng chỉ tiêu cảnh báo sớm, đánh giá kịp thời tình hình tài
chính của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Nghiêm cấm cạnh tranh bất hợp pháp, gây bất ổn định thị trường.
Giám sát hoạt động của doanh nghiệp tuân thủ các qui định về công khai hóa
thông tin, cung cấp thông tin trung thực cho khách hàng, bồi thường hoặc chi
trả tiền bảo hiểm nhanh chóng đầy đủ.
- Xây dựng các tiêu chuẩn để kiểm tra giám sát phải mang tính khách
quan và công khai.
- Thống nhất cơ quan kiểm tra giám sát hoạt động thị trường BHNT để
tránh chồng chéo.
87
Trên đây là một số giải pháp về phía Nhà nước cần sớm triển khai
nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển thị trường BHNT Việt Nam
đảm bảo tính toàn diện, an toàn và lành mạnh.
3.3.2. Giải pháp về phía Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam được thành lập theo quyết định số
23/1999/QĐ-BTCCBCP ngày 09/07/1999. Có thể nói rằng, sự ra đời của hiệp
hội đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trên con đường phát triển thị trường
bảo hiểm Việt Nam.Với vai trò là một tổ chức xã hội nghề nghiệp, thực hiện
chức năng hỗ trợ và làm cầu nối giữa các doanh nghiệp đại diện cho các
doanh nghiệp bảo hiểm trước cơ quan quản lý nhà nước và công chứng.
Trong thời gian qua Hiệp hội đã có một số thành công nhất định. Hiệp hội đã
cùng các doanh nghiệp đưa ra được các thỏa thuận cam kết cạnh tranh lành
mạnh, tăng cường sự hợp tác chặt chẽ giữa các doanh bảo hiểm hoạt động
trên thị trường, thúc đẩy thị trường đi theo đúng đường lối chính sách của Nhà
nước Việt Nam. Tuy nhiên, sự gắn kết giữa các thành viên của Hiệp hội vẫn
chưa thật sự chặt chẽ. Hiệp hội thiếu bộ phận giám sát thi hành thỏa thuận của
các thành viên dẫn đến các trường hợp vi phạm thỏa thuận về mức phí, tranh
dành thu hút đại lý của nhau. Để phát triển thị trường bảo hiểm nói chung và
BHNT nói riêng một cách an toàn, lành mạnh và toàn diện, trong thời gian
tới, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cần có những giải pháp sau:
- Hiệp hội cần đề xuất phương hướng mở rộng phạm vi hợp tác giữa
các doanh nghiệp bảo hiểm về đào tạo, trao đổi thông tin, hợp tác kinh doanh,
đánh giá rủi ro, tính phí bảo hiểm, đồng bảo hiểm, tái bảo hiểm cũng như các
biện pháp đề phòng và hạn chế tổn thất.
- Xem xét và sửa đổi bổ sung điều lệ Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam theo
hướng khuyến khích các doanh nghiệp bảo hiểm tham gia hiệp hội. Gắn quyền
lợi và trách nhiệm của các doanh nghiệp bảo hiểm hội viên với hiệp hội.
- Hiệp hội cần xây dựng cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý nhà
nước về kinh doanh bảo hiểm và hiệp hội để kiểm tra, giám sát việc thực hiện
88
các thỏa thuận, cam kết trong hoạt động kinh doanh trên thị trường bảo hiểm
giữa các doanh nghiệp bảo hiểm hội viên. Kịp thời ngăn chặn và xử lý các
trường hợp không tuân thủ quy chế hợp tác và các hành vi vi phạm quản lý về
hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
- Tổ chức lại bộ máy lãnh đạo và các ban chuyên trách của hội. Tổng
thư ký của hội bảo hiểm phải có năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
làm việc chuyên trách. Xây dựng cơ chế tiền lương, tiền thưởng cho cơ quan
hiệp hội nhằm tạo động lực cho hoạt động và cống hiến vì sự phát triển của
ngành bảo hiểm.
- Xây dựng những quy định về xử phạt hành chính đối với trường hợp
hội viên vi phạm điều lệ của hiệp hội.
Thực hiện được các giải pháp nêu trên, Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam sẽ
thực hiện được đúng vai trò của mình trong việc thúc đẩy phát triển thị trường
bảo hiểm nói chung và thị trường BHNT nói riêng ở Việt Nam.
3.3.3. Giải pháp về phía các doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
Đứng trước những cơ hội và thách thức đối với thị trường BHNT Việt
Nam trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa, muốn phát triển một thị trường
BHNT một cách toàn diện, an toàn và lành mạnh thì ngoài sự cố gắng nỗ lực
của Nhà nước, bản thân các doanh nghiệp BHNT kinh doanh trên thị trường
cũng cần phải có những giải pháp phát triển doanh nghiệp của mình nhằm góp
phần vào sự phát triển chung của thị trường BHNT. Muốn phát triển hoạt
động kinh doanh trên thị trường, các doanh nghiệp bảo hiểm cần thực hiện
một số giải pháp chủ yếu sau:
3.3.3.1. Xây dựng chiến lược kinh doanh
Chiến lược kinh doanh ngày càng đóng một vai trò quan trọng đối với
sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp BHNT
nói riêng. Trước hết, chiến lược kinh doanh giúp cho doanh nghiệp xác
định rõ mục đích, hướng đi của mình, làm cơ sở và kim chỉ nam cho mọi
89
hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường. Hai là, cùng với sự thay đổi và
phát triển nhanh chóng của môi trường kinh doanh thì chiến lược kinh
doanh tạo điều kiện để doanh nghiệp nắm bắt được những cơ hội và vượt
qua những thách thức trên thị trường. Ba là, chiến lược kinh doanh góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực và đảm bảo cho sự phát
triển liên tục, bền vững của doanh nghiệp. Cuối cùng, xây dựng và thực
hiện chiến lược kinh doanh tạo ra căn cứ vững chắc cho việc đề ra các
chính sách và quyết định phù hợp của doanh nghiệp trên thị trường. Hiện
nay, thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam đang cạnh tranh ngày càng
gay gắt và khốc liệt, việc xây dựng và thực hiện chiến lược kinh doanh bảo
hiểm càng có ý nghĩa. Qua thực tiễn hoạt động của các doanh nghiệp BHNT
trên thị trường cho thấy, chỉ có doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh đúng
đắn thì doanh nghiệp đó đứng vững và thành công trong cạnh tranh. Ngược
lại, các doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng bế tắc hoạt động không hiệu quả
hoặc có nguy cơ dẫn đến phá sản.
Chiến lược kinh doanh bảo hiểm phải thể hiện được tầm nhìn dài hạn
trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên cả thị trường
trong nước và ngoài nước, phải có chiến lược trong ngắn hạn và dài hạn, phải
luôn coi trọng chất lượng cũng như hiệu quả với phương châm phục vụ khách
hàng tốt nhất để phát triển.
3.3.3.2. Nâng cao chất lượng dịch vụ bảo hiểm
Có thể nói rằng, chất lượng dịch vụ giữ vai trò quyết định sự thành
công của doanh nghiệp BHNT trong hoạt động khai thác phát triển thị trường.
Công tác dịch vụ của một công ty BHNT thường kéo dài từ khi giới thiệu về
sản phẩm cho khách hàng tiềm năng đến khi chi trả tiền bảo hiểm. Quá trình
này có thể kéo dài trong nhiều năm theo thời hạn hợp đồng. Vì vậy, việc nâng
cao chất lượng dịch vụ hoàn toàn không đơn giản và đòi hỏi một quá trình
liên tục.
* Nâng cao chất lượng dịch vụ trong khâu khai thác:
90
ấn tượng đầu tiên của khách hàng đối với công ty bảo hiểm thường phát
sinh trong giai đoạn này. Việc nâng cao chất lượng dịch vụ khâu khai thác
nên chú trọng vào khâu giới thiệu về hình ảnh công ty, giới thiệu giải thích
về các sản phẩm BHNT và công tác giải đáp thắc mắc của khách hàng khi
tham gia bảo hiểm. Để thực hiện tốt công việc này cần chú trọng vào một
số công tác sau:
- Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo trên các phương tiện
truyền thanh, truyền hình, các nơi công cộng về BHNT nói chung và các sản
phẩm bảo hiểm nói riêng.
- Nâng cao chất lượng đại lý. Dứt khoát phải trang bị cho đại lý BHNT
các kiến thức cơ bản nhất về bảo hiểm, bảo hiểm nhân thọ, đạo đức nghề nghiệp,
nghệ thuật bán hàng. Sau khi có chứng chỉ đại lý, đại lý vẫn cần được tiếp tục
đào tạo, nâng cao kiến thức nhằm phục vụ khách hàng một cách tốt nhất.
- Công tác đánh giá rủi ro cần được thực hiện chính xác, nhanh gọn để
nhanh chóng trả lời khách hàng về việc từ chối bảo hiểm hoặc chấp nhận bảo
hiểm và phát hành hợp đồng. Sau khi hợp đồng được phát hành cần chuyển
hợp đồng đến tay khách hàng một cách nhanh nhất. Trên thực tế một số các
công ty bảo hiểm khuyến khích đại lý tặng quà khách hàng khi trao hợp đồng
bảo hiểm hoặc vào ngày kỷ niệm của hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, điều
quan trọng nhất cần chú trọng là việc giải thích rõ ràng, chính xác cho khách
hàng về quyền lợi và trách nhiệm của họ khi tham gia bảo hiểm để tránh các
trường hợp hiểu lầm giữa các bên.
- Hàng quý, hàng năm, các doanh nghiệp BHNT, nhất là Bảo Việt
Nhân thọ phải tiến hành phân tích cụ thể để đánh giá chất lượng khâu khai
thác. Công việc này phải được thực hiện bằng một hệ thống chỉ tiêu thống
kê cụ thể, thống nhất. Sau khi đánh giá phải có những điều chỉnh thích hợp
và rút ra những bài học kinh nghiệm trong công tác tuyển dụng, đào tạo và
sử dụng đại lý.
* Nâng cao chất lượng dịch vụ trong công tác giải quyết khiếu nại:
91
Để nâng cao chất lượng dịch vụ trong giám định chi trả bảo hiểm, các
công ty bảo hiểm thực hiện các công việc sau:
- Hướng dẫn người thụ hưởng lập hồ sơ yêu cầu trả tiền bảo hiểm, sau
đó nhanh chóng tiếp nhận hồ sơ và thu thập các thông tin cần thiết. Trên thực
tế rất nhiều người thụ hưởng không hiểu rõ thủ tục yêu cầu trả tiền bảo hiểm
và họ thường lúng túng trong khâu này. Công ty có thể nâng cao chất lượng
công việc này thông qua sự linh hoạt trong thủ tục: có thể hướng dẫn trực tiếp
qua điện thoại, thông qua đại lý, hoặc hướng dẫn tại công ty tùy thuộc vào
điều kiện của khách hàng.
- Khi chi trả tiền bảo hiểm cần có sự linh hoạt trong phương thức chi
trả: có thể chi trả bằng tiền mặt, chi trả qua chuyển khoản, qua bưu điện, qua
mạng. Việc này sẽ tạo thuận lợi cho những khách hàng ở xa hoặc không có
điều kiện trực tiếp đến công ty bảo hiểm.
* Nâng cao chất lượng trong khâu thu phí bảo hiểm:
Thu phí BHNT hàng tháng, hàng quí, hàng năm tưởng chừng đơn giản
song thực tế đã phát sinh nhiều vấn đề như: Đến hạn đại lý không có mặt để
thu phí, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Khi thay đổi đại lý thu phí khách hàng
không được biết trước v.v… Điều này đã làm cho khách hàng ngờ vực và
thiếu tin tưởng. Đây là vấn đề tối kỵ bởi vì thời hạn của hợp đồng BHNT rất
dài, thị trường lại luôn biến động, cạnh tranh trên thị trường lại chưa thực sự
lành mạnh. Chỉ cần một lời lẽ ác ý, khách hàng sẽ nản lòng và dễ dẫn đến tình
trạng hủy bỏ hợp đồng BHNT v.v…
3.3.3.3. Hoàn thiện và phát triển sản phẩm
* Đối với các sản phẩm bảo hiểm trợ cấp:
Do bảo hiểm xã hội của nước ta hiện nay chưa phát triển, chưa đáp ứng
được nhu cầu cho người dân. Vì vậy, phát triển và đa dạng hóa các sản phẩm
bảo hiểm trợ cấp nhằm khai thác thị trường bảo hiểm hưu trí mà hiện tại bảo
hiểm xã hội còn bỏ ngỏ là một việc làm hết sức có ý nghĩa, vừa thể hiện tính
92
kinh doanh, vừa thể hiện tính nhân văn sâu sắc. Trên thị trường BHNT hiện
tại chỉ có Bảo Việt Nhân Thọ có sản phẩm trợ cấp niên kim, do vậy các doanh
nghiệp BHNT trên thị trường có thể phát triển và đa dạng hóa loại sản phẩm
này. Mặt khác do hình thức bảo hiểm này liên quan đến chính sách xã hội của
Nhà nước, do vậy để sản phẩm này phát triển thì Chính phủ Việt Nam nên có
sự hỗ trợ về chính sách thuế.
Các loại sản phẩm bảo hiểm trợ cấp cần có sự linh hoạt về thời gian
hưởng trợ cấp, số đối tượng hưởng trợ cấp. Có thể nói rằng hiện tại loại sản
phẩm bảo hiểm trợ cấp có tiềm năng phát triển lớn nhất trên thị trường do
nhiều yếu tố như tập quán tiết kiệm của dân cư, sự mong muốn có thu nhập ổn
định khi tuổi già, tăng thêm thu nhập ngoài lương hưu hoặc thay thế lương hưu.
* Đối với các sản phẩm bảo hiểm tiết kiệm:
Phần lớn các sản phẩm BHNT đang triển khai trên thị trường là các sản
phẩm BHNT kết hợp tiết kiệm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy tỉ lệ các hợp đồng
bảo hiểm có thời hạn dưới 10 năm vẫn còn rất lớn và ảnh hưởng đến khả năng
phát triển thị trường vốn trong dài hạn. Mặt khác, do đồng nội tệ vẫn có sự
dao động nhất định so với đồng ngoại tệ và vàng nên tư tưởng của người dân
vẫn thiên về việc tiết kiệm thông qua ngoại tệ hoặc vàng. Doanh thu khai thác
bị ảnh hưởng rất lớn vì nguyên nhân này. Với điều kiện kinh tế nước ta ngày
càng ổn định và phát triển, thu nhập người dân ngày càng tăng, các công ty
bảo hiểm có thể đa dạng hóa các sản phẩm BHNT hỗn hợp theo hướng thiết
kế các sản phẩm bảo hiểm có số tiền bảo hiểm tăng hoặc được bảo đảm theo
lạm phát hoặc các sản phẩm bảo hiểm bảo đảm theo giá trị vàng hoặc ngoại
tệ. Các sản phẩm này có thể phải có mức phí cao hơn bình thường, tuy nhiên
lại đáp ứng được mong muốn bảo đảm sự trượt giá của khách hàng khi tham
gia bảo hiểm.
* Phát triển các sản phẩm kết hợp giữa bảo hiểm, tiết kiệm và đầu tư:
Các sản phẩm kết hợp giữa ba yếu tố bảo hiểm, tiết kiệm và đầu tư đã
được triển khai từ lâu tại các nước có thị trường BHNT phát triển. Thị trường
93
BHNT Việt Nam đang trong quá trình hội nhập do vậy việc phát triển các sản
phẩm BHNT có đủ ba yếu tố này là xu hướng tất yếu. Mặt khác khi các sản
phẩm kết hợp bảo hiểm, tiết kiệm và đầu tư ra đời sẽ tạo ra sự đa dạng cho
sản phẩm, mở rộng cơ hội lựa chọn cho người tham gia bảo hiểm, cạnh tranh
với các sản phẩm tài chính khác (ví dụ như cổ phiếu, trái phiếu, tiết kiệm,...).
* Phát triển các sản phẩm bảo hiểm nhóm:
Như đã đề cập, phạm vi đảm bảo của bảo hiểm xã hội vẫn còn rất hạn
chế về đối tượng, mức trợ cấp còn thấp so với mức sống dân cư. Mặt khác rất
nhiều doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế phát sinh nhu cầu bảo hiểm nhóm
để gắn kết giữ chân những lao động lành nghề, có năng lực, nâng cao phúc lợi
cho người lao động. Mặc dù vậy, thị trường hiện tại chỉ có ba doanh nghiệp là
Bảo Việt, AIA và Bảo minh-CMG cung cấp sản phẩm bảo hiểm nhóm với số
hợp đồng bảo hiểm nhóm đang có hiệu lực chưa đến con số 1000 ( trong khi ở
các nước có thị trường bảo hiểm phát triển như Mỹ, Canađa, tỉ lệ hợp đồng
bảo hiểm nhóm chiếm xấp xỉ 40% số hợp đồng BHNT được khai thác). Thực
tế khai thác bảo hiểm nhóm ở Việt Nam còn thấp có thể do một số nguyên
nhân sau:
- Các sản phẩm bảo hiểm nhóm còn ít, chưa phù hợp, thiếu hấp dẫn đối
với các doanh nghiệp, các tổ chức và thậm chí cả các hộ gia đình.
- Công tác tư vấn, giới thiệu về sản phẩm bảo hiểm nhóm còn hạn chế.
Để khắc phục và khai thác triệt để nhu cầu tiềm năng đối với các sản
phẩm bảo hiểm nhóm các doanh nghiệp BHNT chú trọng hơn nữa vào thiết
kế các sản phẩm bảo hiểm nhóm với các sản phẩm đa dạng:
+ Sản phẩm bảo hiểm tiết kiệm nhóm: Sản phẩm có thể phù hợp với các
tổ chức, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, gắn kết giữa những người
lao động có vị trí và năng lực nhất định với tổ chức và doanh nghiệp. Phí bảo
hiểm có thể do tổ chức, doanh nghiệp chi trả hoặc do tổ chức, doanh nghiệp
và người lao động được bảo hiểm cùng đóng góp.
94
+ Bảo hiểm tử kỳ nhóm: quyền lợi bảo hiểm sẽ được trả cho thân nhân
khi thành viên được bảo hiểm trong nhóm bị tử vong.
+ Bảo hiểm tai nạn nhóm: sản phẩm này có thể có phạm vi bảo
hiểm tương tự sản phẩm bảo hiểm cho cá nhân tuy nhiên khi bảo hiểm cho
nhóm phí bảo hiểm có thể linh hoạt và thấp hơn tùy thuộc vào số thành
viên trong nhóm.
+ Bảo hiểm y tế nhóm: đảm bảo các chi phí y tế (chi phí điều trị, phẫu
thuật, nằm viện) cho các thành viên trong nhóm.
Các sản phẩm bảo hiểm nhóm ngoài thiết kế cho các doanh nghiệp,
tổ chức, cũng có thể thiết kế cho các hộ gia đình. Khi thiết kế các sản
phẩm bảo hiểm nhóm cần có sự linh hoạt về thời gian đóng phí và hình
thức thanh toán phí.
* Sử dụng linh hoạt các điều khoản bổ sung để mở rộng phạm vi cho
các sản phẩm bảo hiểm chính:
Để sản phẩm được đa dạng có phạm vi đảm bảo cao, các công ty bảo
hiểm cần thiết kế các điều khoản bổ sung linh hoạt phù hợp với nhu cầu của
người tham gia bảo hiểm. Ví dụ, các công ty bảo hiểm có thể đưa ra các điều
khoản bổ sung bảo hiểm thu nhập bị mất do mất khả năng lao động, bảo hiểm
tổn thương hoặc thương tật do tai nạn, bảo hiểm trợ cấp phẫu thuật và nằm
viện. Việc thiết kế đưa ra nhiều điều khoản bổ sung có thể mở rộng phạm vi
bảo hiểm cho khách hàng, mặt khác cũng là hình thức mở rộng phạm vi kinh
doanh của doanh nghiệp bảo hiểm. Chẳng hạn, từ đầu năm 2005 trở lại đây
Bảo Minh – CMG đã lồng ghép dịch vụ đi học tập ở nước ngoài vào một số
sản phẩm bảo hiểm chủ lực của mình để từ đó đã làm cho số lượng hợp đồng
mới khai thác tăng vọt và đặc biệt là số tiền bảo hiểm trong mối hợp đồng rất
cao v.v…
95
3.3.3.4. Hoàn thiện các kênh phân phối
Phân phối sản phẩm là một hoạt động hết sức cần thiết, có vai trò rất
quan trọng trong hoạt động của doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp BHNT
nói riêng. Để sản phẩm và dịch vụ bảo hiểm đến tay được khách hàng, phục
vụ mọi nhu cầu của khách hàng, rõ ràng các doanh nghiệp bảo hiểm phải tổ
chức, hình thành mạng lưới phân phối khoa học và phù hợp . Trên thị trường
BHNT hiện nay, các kênh phân phối sản phẩm BHNT tương đối đa dạng,
gồm các đại lý chuyên nghiệp, bán chuyên nghiệp, một số doanh nghiệp phân
phối qua ngân hàng. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều kênh phân phối mới chỉ
mang tính chất giới thiệu sản phẩm (qua mạng internet) hoặc chưa được sử
dụng (các đại lý phi nhân thọ, bưu điện) hoặc đang được sử dụng nhưng vẫn
còn tồn tại nhiều vấn đề (các đại lý chuyên nghiệp với vấn đề đạo đức nghề
nghiệp). Các kênh phân phối này có thể có phạm vi giao tiếp rộng hoặc có sẵn
các khách hàng truyền thống. Cho nên nếu tận dụng được các đối tượng này
làm các đại lý BHNT thì có thể khai thác được các khách hàng truyền thống
của họ hoặc phổ biến sản phẩm trên phạm vi rộng. Vì vậy, giải pháp hoàn
thiện các kênh phân phối cần nhấn mạnh vào ba nội dung chính: thứ nhất,
nâng cao chất lượng tuyển dụng đại lý; thứ hai, nâng cao chất lượng chuyên
môn và chất lượng phục vụ của các kênh phân phối; thứ ba, là đa dạng hóa
các kênh phân phối.
* Nâng cao chất lượng tuyển dụng đại lý:
Như đã phân tích, tỉ lệ đại lý bỏ việc hoặc bị đào thải tại một số doanh
nghiệp BHNT tương đối cao do chất lượng đầu vào của họ không đáp ứng
được đòi hỏi của nghề nghiệp. Để giảm tỷ lệ đại lý bị đào thải, bỏ việc nhằm
giảm chi phí cho doanh nghiệp bảo hiểm, các doanh nghiệp cần nâng cao chỉ
tiêu và chất lượng tuyển dụng, như: Yêu cầu người tham gia tuyển dụng phải
có kinh nghiệm bán hàng, giao tiếp, có trình độ học vấn ít nhất tốt nghiệp phổ
thông trung học, ưu tiên cho những người có tuổi đời cao, có kinh nghiệm làm
việc trong các lĩnh vực. Ngay trong quá trình tuyển dụng cần định hướng rõ
96
cho họ các khó khăn và đòi hỏi của nghề đại lý bảo hiểm nhân thọ. Trước khi
tuyển dụng, cần thông báo công khai số lượng chỉ tiêu trong từng đợt , yêu
cầu đặt ra và phải rõ ràng, dễ hiểu. Thậm chí phải công bố công khai trách
nhiệm và quyền lợi mà họ được hưởng v.v…Thực hiện tốt công tác tuyển
dụng đại lý, là cơ sở cho việc nâng cao chất lượng chuyên môn để phục vụ
khách hàng.
* Nâng cao chất lượng chuyên môn và dịch vụ của các kênh phân phối:
Nâng cao chất lượng chuyên môn và dịch vụ của các kênh phân phối sẽ
quyết định hiệu quả khai thác bảo hiểm nhân thọ. Chính vì vậy, một trong
những giải pháp cơ bản để phát triển thị trường BHNT là nâng cao chất lượng
chuyên môn và dịch vụ của hệ thống phân phối sản phẩm. Việc nâng cao chất
lượng chuyên môn được cụ thể hóa như sau:
+ Nâng cao chất lượng công tác đào tạo. Do nguồn tuyển dụng ngày
càng hạn chế và tỉ lệ đại lý bỏ việc vẫn còn rất cao nên các doanh nghiệp
BHNT cần lựa chọn các đại lý thực sự có năng lực thông qua việc chú trọng
hơn nữa đến chất lượng của nguồn tuyển dụng như trình độ, kinh nghiệm, sự
nhiệt tình. Công tác đào tạo cần thực hiện thường xuyên liên tục cung cấp đầy
đủ các kiến thức cơ bản về bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng cho đại lý.
Trang bị các kiến thức xã hội, giao tiếp, nghệ thuật bán hàng cho đại lý.
+ Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho các đại lý. Đây là vấn đề rất nóng
của thị trường bảo hiểm nói chung và BHNT nói riêng. Trên thị trường hiện tại
vẫn còn tồn tại các đại lý vi phạm đạo đức nghề nghiệp khi nói xấu công ty
bạn, xúi giục khách hàng hủy bỏ hợp đồng bảo hiểm để tham gia bảo hiểm tại
công ty khác, giải thích về quyền lợi bảo hiểm mơ hồ, lẫn lộn, thu nạp đại lý
của các công ty khác... để đảm bảo các đại lý hoạt động trung thực, tuân thủ
đạo đức nghề nghiệp cần qui định các hình thức thưởng phạt nghiêm minh.
+ Tổ chức các buổi trao đổi nghề nghiệp, rút kinh nghiệm giữa các đại
lý thành công với các đại lý mới vào nghề, giữa các đại lý đang cùng hành
nghề. Đặc điểm của hoạt động đại lý là việc từng cá nhân tự vận động, làm
97
việc riêng rẽ và gặp gỡ nhiều đối tượng khách hàng khác nhau. Nên việc trao
đổi, rút kinh nghiệm là rất quan trọng, giúp cho các đại lý mới nhanh chóng
hòa nhập với công việc, thực hiện được các chỉ tiêu khai thác đặt ra. Với các
đại lý đã hoạt động một thời gian nhất định, việc trao đổi kinh nghiệm sẽ giúp
họ thành công hơn trong hoạt động, tránh vấp phải những sai lầm của những
đại lý đi trước.
* Đa dạng hóa các kênh phân phối:
Đa dạng hóa các kênh phân phối theo hướng:
+ Sử dụng các đại lý chuyên nghiệp: Hiện tại các công ty BHNT đều
coi đây là lực lượng chủ yếu phân phối sản phẩm bảo hiểm nhân thọ. Tuy
nhiên, các đại lý này lại chủ yếu tập trung tại các thành phố lớn. Để khai thác
hiệu quả tất cả các khách hàng tiềm năng tại tất cả các tỉnh thành thì giải pháp
trong thời gian tới là phát triển các đại lý chuyên nghiệp tại các địa phương,
ưu tiên các đối tượng làm các công tác xã hội, cộng đồng (ví dụ những người
làm việc trong hội phụ nữ, hội nông dân, công tác xã phường).
+ Sử dụng các đại lý là các nhân viên làm công ăn lương của công ty
bảo hiểm. Hiện tại kênh phân phối này chỉ được một số ít công ty bảo hiểm,
như: Bảo Việt, Bảo Minh - CMG thực hiện. Tuy nhiên, nếu sử dụng các đối
tượng này làm một kênh phân phối sản phẩm BHNT sẽ tận dụng được các
kiến thức họ có về bảo hiểm và bảo hiểm nhân thọ. Việc giải thích thuyết
phục khách hàng sẽ thuận lợi. Để sử dụng kênh phân phối này một cách hiệu
quả cần qui định rõ quyền lợi và trách nhiệm của họ khi khai thác bảo hiểm.
+ Sử dụng các môi giới bảo hiểm. Các sản phẩm bảo hiểm nhóm đã
được một số công ty BHNT triển khai và xu hướng trong thời gian tới loại sản
phẩm này sẽ phát triển nhanh do bảo hiểm xã hội còn bỏ qua hoặc nhu cầu
bảo hiểm ngày càng tăng của các doanh nghiệp. Các môi giới bảo hiểm
thường là những người có quan hệ rộng đối với các doanh nghiệp khác nhau
khi đại diện cho khách hàng tham gia bảo hiểm phi nhân thọ. Chính vì vậy, sử
dụng kênh phân phối này sẽ tận dụng được các mối quan hệ sẵn có của họ.
98
Hiện tại trên thị trường bảo hiểm Việt Nam chỉ có 4 công ty môi giới bảo
hiểm, tuy nhiên khi sử dụng môi giới bảo hiểm, ngoài các công ty môi giới
bảo hiểm đang hoạt động, các doanh nghiệp BHNT có thể sử dụng các môi
giới là cá nhân hoặc các tổ chức, doanh nghiệp (ví dụ các văn phòng luật sư,
các tổ chức môi giới thương mại, vận tải,v.v.) làm môi giới trong lĩnh vực khác
không phải là bảo hiểm để tận dụng tối đa các mối quan hệ và uy tín của họ.
+ Sử dụng kênh phân phối là các ngân hàng, bưu điện. Hiện tại đã có
sự kết hợp nhất định giữa các doanh nghiệp BHNT ở Việt Nam với các ngân
hàng thương mại nhưng mới chỉ dừng ở mức làm đại lý thu phí. Và hiện tại,
kênh phân phối này lại kém phát triển vì rất nhiều lý do khác nhau, như: Hoa
hồng chưa thỏa đáng; người bán bảo hiểm không được đào tạo; cơ chế hợp tác
không rõ ràng v.v… Trong khi đó, ở Tây Ban Nha hay Italia hiện nay, các
doanh nghiệp BHNT coi đây là kênh phân phối chủ yếu. Các doanh nghiệp
BHNT ở Việt Nam cần phải nghiên cứu suy nghĩ về vấn đề này. Xét về lâu
dài đây là kênh phân phối rất quan trọng bởi lẽ ngân hàng và bưu điện có
quan hệ rất rộng. Khách hàng của họ thường là những khách hàng lớn. Hơn
nữa nếu họ làm đại lý BHNT thì uy tín sẵn có của họ cao hơn rất nhiều so
với đại lý là các cá nhân v.v… Đặc biệt, xu hướng hội nhập và nhất thể hóa
hiện nay đang diễn ra nhanh chóng, nếu sử dụng ngân hàng, bưu điện làm
đại lý còn phải tính tới sự hợp tác toàn diện hơn, cả trong lĩnh vực đầu tư,
trong việc trả tiền bảo hiểm…
+ Phân phối bảo hiểm qua mạng. Công nghệ thông tin đã phát triển
tương đối mạnh ở nước ta và phổ biến rộng rãi tại các thành phố lớn, các
trung tâm tỉnh thành. Việc phổ biến thông tin qua mạng sẽ cung cấp cho
người sử dụng mạng quan tâm tới sản phẩm BHNT những thông tin chi tiết về
sản phẩm. Hiện tại rất nhiều loại hàng hóa được bán qua mạng do vậy việc
phân phối sản phẩm BHNT qua mạng tại Việt Nam là rất khả thi. Tuy nhiên
khi sử dụng kênh phân phối này cần thiết lập các diễn đàn trao đổi trực tiếp
99
hoặc gián tiếp để có thể kịp thời giải đáp các thắc mắc và đáp ứng nhu cầu
của khách hàng.
3.3.3.5. Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo
Trong nền kinh tế thị trường, công tác tuyên truyền quảng cáo cho sản
phẩm của mình ở các doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Đặc biệt, đối với sản
phẩm BHNT hiện nay. Thông qua hoạt động này, giúp cho người dân nhận
thức được vai trò quan trọng của việc tham gia BHNT.
Tuy nhiên, mỗi công ty bảo hiểm có một chính sách quảng cáo khác
nhau như quảng cáo hình ảnh của công ty, quảng cáo theo sản phẩm, quảng
cáo theo nhóm sản phẩm. Hoạt động quảng cáo cũng rất đa dạng như quảng
cáo trên các phương tiền truyền thông, truyền hình, tờ rơi, các hội thảo khách
hàng. Thực tế hiểu biết về BHNT của dân cư đã được tăng rõ rệt so với thời
điểm năm 1996 hay 2000. Tuy nhiên vẫn còn rất nhiều người nhầm lẫn giữa
các hình thức bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ, bảo hiểm xã hội,v.v. Trong
thời gian tới các công ty bảo hiểm cần tăng cường công tác quảng cáo, quảng
cáo trên diện rộng và tới tất cả các tầng lớp dân cư. Việc mở rộng quảng cáo
có thể theo các phương thức sau:
- Tăng cường quảng cáo trên các phương tiện truyền thanh, truyền
hình. Phương pháp này có thể phổ biến hình ảnh của doanh nghiệp hoặc sản
phẩm trên phạm vi rộng, đến nhiều người.
- Quảng cáo trên báo, tạp chí có thể quảng cáo về công ty hoặc thông qua
các hình thức trả lời hỏi đáp, thắc mắc. Phương pháp này vừa thể hiện sự quan
tâm của doanh nghiệp đối với các khách hàng của mình, vừa làm rõ các vướng
mắc của khách hàng và tạo ra được diễn đàn trao đổi về bảo hiểm nhân thọ.
- Thực hiện việc tuyên truyền quảng cáo chuyên sâu về sản phẩm thông
qua các hội nghị khách hàng ở qui mô vừa và nhỏ. Thường thì thông qua các
hội thảo khách hàng, người tham dự hội thảo có thể phân biệt được sự khác
biệt giữa BHNT với các hình thức bảo hiểm khác và có ý thức nhất định về
một số sản phẩm mà họ cần.
100
- Quảng cáo qua các tờ rơi. Hiện tại các công ty BHNT sử dụng các tờ
rơi để giới thiệu về bản thân công ty, về từng sản phẩm của công ty mình. Tuy
nhiên trên các tờ rơi cần bổ sung thêm các thông tin cho biết sản phẩm phù
hợp với nhóm khách hàng tiềm năng nào, phục vụ cho các nhu cầu gì,
quyền lợi cơ bản khi tham gia bảo hiểm ra sao. Ngoài ra có thể thiết kế các
tờ rơi mang tính chất tổng hợp các thông tin về các sản phẩm của công ty
để khách hàng có thể thấy được khả năng đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của
công ty đối với nhu cầu của khách hàng cũng như thông qua đó phát sinh
thêm nhu cầu bảo hiểm.
3.3.3.6. Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
Nhân lực và phát triển nguồn nhân lực (cả về trí lực và thể lực) là giải
pháp quan trọng nhất dẫn đến sự thành công hay thất bại của bất kỳ doanh
nghiệp nào. Vì vậy, chú trọng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phải được
coi là nhiệm vụ trọng tâm của các doanh nghiệp BHNT hiện nay.
Trong lĩnh vực kinh doanh BHNT, do đặc điểm của sản phẩm là vô hình,
thời gian của hợp đồng thường kéo dài nên chất lượng nguồn nhân lực phục
vụ nhu cầu kinh doanh bảo hiểm là rất quan trọng. Thực tế cho thấy, tình
trạng thiếu nguồn nhân lực có trình độ cao ở các doanh nghiệp BHNT trong
nước hiện nay là rất phổ biến, nhưng việc quan tâm đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng cao ở các doanh nghiệp BHNT chưa được chú
trọng. Phần lớn nguồn nhân lực làm việc trong các doanh nghiệp BHNT là
theo kinh nghiệm nên khả năng bị hạn chế. Hơn nữa, khi thị trường BHNT
Việt Nam xuất hiện các doanh nghiệp BHNT nước ngoài với những kinh
nghiệm, trình độ quản lý, năng lực cạnh tranh…chiếm ưu thế vượt trội đã gây
nên hiệu ứng chuyển dịch nguồn nhân nhân lực có chất lượng cao từ các
doanh nghiệp BHNT trong nước sang doanh nghiệp BHNT nước ngoài. Đây
101
cũng là một khó khăn lớn trong việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực ở
các doanh nghiệp BHNT Việt Nam.
Để đáp ứng nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, các doanh
nghiệp BHNT cần phải quan tâm tới công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân
lực. Cụ thể những công việc mà các doanh nghiệp BHNT phải làm như sau:
- Coi trọng hơn nữa trong việc đào tạo và đào tạo lại nguồn nhân lực hiện
có đang hoạt động quản lý và kinh doanh bằng nhiều hình thức như ngắn hạn,
dài hạn, trong nước và ngoài nước.
- Hợp tác chặt chẽ với các trường đại học, các tổ chức..có liên quan tới
nghiệp vụ kinh doanh BHNT trong nước và ngoài nước trong việc đào tạo,
bồi dưỡng kiến thức chuyên môn phục vụ cho nhu cầu kinh doanh BHNT.
- Xây dựng quy trình tuyển dụng, bổ nhiệm, bãi miễn cán bộ một cách
khoa học.
- Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích đào tạo các chuyên gia giỏi trong một
số lĩnh vực quan trọng của hoạt động quản lý và kinh doanh BHNT như: tính phí
bảo hiểm, thẩm định rủi ro, quản lý rủi ro, đầu tư và quản lý vốn đầu tư…
- Xây dựng chính sách tiền lương, tiền thưởng phù hợp và gắn với hiệu
quả làm việc, đảm bảo thu nhập cho người lao động nhằm duy trì và thu hút
nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao.
3.3.3.7. Nâng cao hiệu quả đầu tư để bảo toàn và phát triển vốn
Kinh doanh BHNT không giống với các ngành kinh doanh khác trong
nền kinh tế, đây là ngành kinh doanh đặc biệt. Khi hợp đồng BHNT được ký
kết, người bảo hiểm tiến hành thu phí trước của khách hàng. Sau đó bằng sự
cam kết của mình, các doanh nghiệp BHNT thực hiện trách nhiệm của mình
đối với khách hàng. Hay nói cách khác, kinh doanh bảo hiểm có “chu trình
kinh doanh đảo ngược”.Trong hoạt động kinh doanh BHNT, các doanh
nghiệp luôn phải quản lý một nguồn vốn rất lớn do những người tham gia
đóng góp được tích tụ lại qua nhiều năm. Trong đó, có một nguồn vốn nhàn
102
rỗi được gọi là quỹ dự phòng nghiệp vụ. Pháp luật cho phép các doanh nghiệp
BHNT được phép sử dụng nguồn vốn này để đầu tư nhằm bảo toàn và tăng
trưởng vốn. Việc đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng vốn vừa là quyền lợi, vừa
là trách nhiệm của các doanh nghiệp. Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
BHNT không chỉ là lợi nhuận do hoạt động thu phí đem lại, mà chủ yếu do
kết quả đầu tư tài chính dưới nhiều hình thức đưa đến.
Hoạt động đầu tư để bảo toàn và phát triển vốn là một trong những giải
pháp rất quan trọng đối với các doanh nghiệp BHNT hiện nay nếu muốn tồn
tại và phát triển. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là tìm cách nào để đầu tư cho phù
hợp với doanh nghiệp của mình, vừa đảm bảo quyền lợi cho khách hàng, vừa
đảm bảo mức sinh lời cao, đồng thời đạt được mục tiêu lượi nhuận và phát
triển. Thực tế hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp BHNT hiện nay trên thị
trường cho thấy, sự luôn chuyển dòng vốn đầu tư chưa hiệu quả, phạm vi đầu
tư còn hạn hẹp, chưa đa dạng, phong phú. Cơ hội đầu tư của các doanh nghiệp
còn quá ít. Thị trường chứng khoán của Việt Nam chậm phát triển nên chưa
thể là một kênh đầu tư vốn hấp dẫn cho các doanh nghiệp BHNT. Do vậy, các
doanh nghiệp chủ yếu tập trung đầu tư vào gửi tiết kiệm ngân hàng, trái phiếu
Chính phủ- khiến cho hiệu quả đầu tư vốn nhàn rỗi chưa cao.
Để bảo toàn và tăng trưởng vốn, các doanh nghiệp BHNT nên thực
hiện một số biện pháp cụ thể sau:
- Mạnh dạn đầu tư vào thị trường chứng khoán. Kinh nghiệm của thị
trường BHNT ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy đây là
hình thức đầu tư chủ yếu của các doanh nghiệp. Tuy nhiên chứng khoán chỉ là
những giấy tờ có giá, chứ không phải là tài sản thực, quá trình lưu thông của
nó được vận hành theo một quy trình đặc biệt. Vì vậy, để đảm bảo an toàn,
hạn chế rủi ro đầu tư thấp nhất các doanh nghiệp nên xem xét lựa chọn đầu tư
vào những chứng khoán đã được đăng ký trên thị trường chứng khoán.Về loại
hình đầu tư này, các doanh nghiệp BHNT có hai hình thức đầu tư:
103
+ Mua trái phiếu Chính phủ, đây là hình thức đầu tư chủ yếu hiện nay.
Với hình thức này tuy lãi suất đầu tư không cao nhưng có ưu điểm là đảm bảo
tính an toàn.
+ Mua cố phiếu của các doanh nghiệp, công trình, đây là hình thức đầu
tư phổ biến được nhiều doanh nghiệp BHNT quan tâm sau hình thức mua trái
phiếu Chỉnh phủ. Song hình thức đầu tư này tính an toàn không cao nên các
doanh nghiệp phải thận trọng khi đầu tư.
- Đầu tư kinh doanh bất động sản: hình thức đầu tư này hướng tới lợi
ích trong tương lai, vì vậy hoạt động đầu tư phải gắn với chính sách quy
hoạch và phát triển mới có thể giảm thiểu được rủi ro trong đầu tư. Hiện nay
các doanh nghiệp BHNT chưa phát triển hình thức đầu tư này.
- Đề nghị Nhà nước cho phép mở rộng hình thức đầu tư như kinh
doanh tín dụng, đầu tư ra nước ngoài…để các doanh nghiệp bảo hiểm BHNT
có thêm cơ hội trong lĩnh vực đầu tư nhằm đạt hiệu quả hơn nữa trong hoạt
động bảo toàn và phát triển vốn.
Bảo toàn và tăng trưởng vốn trong hoạt động kinh doanh BHNT trên thị
trường cạnh tranh và sôi động như hiện nay quả là không dễ dàng đối với các
doanh nghiệp BHNT. Nhưng với sự giúp đỡ của Nhà nước và nỗ lực tích cực
của các doanh nghiệp BHNT, chắc chắn hoạt động đầu tư này sẽ đạt hiệu quả
cao hơn.
2.3.3.8. Hiện đại hóa công nghệ thông tin
áp dụng triệt để những thành tựu mới của công nghệ thông tin phục vụ
cho hoạt động quản lý và kinh doanh bảo hiểm là một trong những giải pháp
hết sức cần thiết đối với các doanh nghiệp BHNT hiện nay. Các doanh nghiệp
muốn phát huy hết năng lực cạnh tranh của mình trên thị trường phải xây
dựng và hiện đại hóa hệ thống công nghệ tin học ứng dụng trong hoạt động
quản lý nghiệp vụ, tài chính, phục vụ khách hàng…Trong đó đặc biệt là việc
ứng dụng công nghệ tin học trong quá trình phân tích và đánh giá rủi ro, tính
104
phí bảo hiểm, trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ, phân tích hệ thống báo cáo
thông tin tài chính, phân tích và quản trị hệ thống dữ liệu, dự báo xu hưưóng
phát triển thị trường. Xây dựng hệ thống giao dịch trên mạng, lập địa chỉ
websites, ứng dụng tin học trong quản lý nội bộ doanh nghiệp, đảm bảo thu
thập thông tin cập nhật trong ngành, kịp thời xử lý các diễn biến của thị
trường. Tất cả những việc làm trên đều nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và
kinh doanh, giảm thiểu chi phí trong quản lý và kinh doanh, nâng cao chất
lượng sản phẩm và dịch vụ cung cấp, hạ thấp phí bảo hiểm, từ đó nâng cao
năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc ứng dụng thông tin vào hoạt
động quản lý và kinh doanh BHNT, tháng 10/2004, Công ty TNHH bảo hiểm
nhân thọ quốc tế Mỹ Việt Nam (AIA) đã đưa hệ thống giải đáp thông tin tự
động (IVR) vào hoạt động. Đây là một phương tiện công nghệ thông tin rất
hiện đại và lần đầu tiên được trang bị cho ngành BHNT ở Việt Nam. Với hệ
thống này khách hàng chỉ cần điện thoại vào đường dây nóng của công ty vào
bất cứ lúc nào (24/24) để tìm kiếm các thông tin về hợp đồng, về phí bảo
hiểm, thủ tục giải quyết quyền lợi bảo hiểm…Ngoài ra, hệ thống IVR còn
phục vụ cho đội ngũ đại lý bảo hiểm của AIA giải đáp tất cả các câu hỏi về
tình trạng hợp đồng của khách hàng mình đang quản lý. Đặc biệt tất cả các
thông tin này đều được bảo mật và hệ thống IVR chỉ trả lời khi người sử dụng
cung cấp mã số riêng của họ.
Hoạt động đầu tư công nghệ thông tin vào quản lý và kinh doanh bảo
hiểm nhân thọ của công ty AIA là một điển hình tiên tiến để các doanh nghiệp
bảo hiểm nói chung, BHNT nói riêng học hỏi kinh nghiệm.
Các giải pháp đề xuất được đưa ra trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng thực
trạng của thị trường BHNT ở Việt Nam trong thời gian qua, sự vận hành và
các tồn tại của thị trường, các số liệu dự báo về tiềm năng phát triển của thị
trường của Chính phủ và số liệu điều tra thực tế, điều kiện kinh tế xã hội ở
Việt Nam trong thời gian tới. Để phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ toàn
105
diện, an toàn và lành mạnh theo định hướng chiến lược mà Đảng và Nhà nước
đã đề ra cho ngành bảo hiểm, đòi hỏi phải có sự nỗ lực của tất cả các ngành,
các cấp, các đơn vị tổ chức và các bên có liên quan.
106
kết luận
Thoát khỏi cơ chế chật hẹp của thời bao cấp, chuyển sang nền kinh
tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, thời gian qua thị trường bảo
hiểm nói chung, BHNT nói riêng đã có sự phát triển vượt bậc cả về số
lượng và chất lượng.
Tuy nhiên trong quá trình phát triển, thị trường BHNT Việt Nam chưa
xứng tầm với tiềm năng phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay, còn
bộc lộ nhiều hạn chế, như: Công tác giải quyết bồi thường chưa thuận tiện,
trình độ chuyên môn của cán bộ quản lý và kinh doanh chưa cao, năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp còn thấp...
Để thị trường BHNT Việt Nam phát triển, phục vụ cho mục tiêu phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, đòi hỏi phải có sự kết hợp đồng bộ hệ thống
các giải pháp thuộc Nhà nước, Hiệp hội và các doanh nghiệp bảo hiểm nhân
thọ nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự phát triển của thị trường bảo
hiểm nhân thọ trong điều kiện hiện nay.
Với mục đích nghiên cứu đã đặt ra, dựa trên cơ sở nghiên cứu thị
trường BHNT Việt Nam, kết hợp với những kinh nghiệm thực tiễn của một số
nước trên thế giới, luận văn đã tổng hợp được những vấn đề lý luận cơ bản,
nghiên cứu thực trạng BHNT ở Việt Nam và từ đó đề xuất những giải pháp
nhằm phát triển thị trường BHNT ở Việt Nam.
Tác giả mong muốn các giải pháp đưa ra ở trên sẽ được áp dụng trong
thực tiễn, góp phần nhỏ bé của mình vào sự phát triển của thị trường BHNT
Việt Nam. Do hạn chế về mặt thời gian nghiên cứu và nhận thức của mình,
luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tác giả mong nhận được
những ý kiến đóng góp quý báu từ các thầy cô giáo, các bạn đồng nghiệp
và những ai có quan tâm đến vấn đề nghiên cứu này để luận văn được
hoàn thiện hơn.
107
Danh mục Tài liệu tham khảo
1. Bảo Việt 40 năm xây dựng và phát triển (2005), Nxb Văn hóa Thông tin,
Hà Nội.
2. Bộ Tài chính - Vụ Bảo hiểm (2005), Báo cáo tổng kết năm.
3. Các văn bản pháp luật về bảo hiểm (1996), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
4. Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ năm 2003 đến năm
2010, Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
5. Công ty tái bảo hiểm Thụy Sĩ (2001), Tạp chí Thông tin Thị trường bảo
hiểm - tái bảo hiểm, (1).
6. Công ty tái bảo hiểm Thụy Sĩ (2001), Tạp chí Thông tin Thị trường bảo
hiểm - tái bảo hiểm, (1).
7. Công ty tái bảo hiểm Thụy Sĩ (2004), Tạp chí Thị trường bảo hiểm, (1).
8. Nguyễn Văn Định (2004), Giáo trình quản trị kinh doanh bảo hiểm, Nxb
Thống kê.
9. Nguyễn Văn Định (chủ biên) (2005), Giáo trình bảo hiểm, Trường Đại
học Kinh tế quốc dân, Nxb Thống kê.
10. Emmett J. Vaughan và Therese M. Vaughan (1995), Essentials of
Insurance: A risk managemenr perspective, Nxb John Wiley
&Sons, Inc, USA.
11. Học viện Bảo hiểm Hoàng gia Anh (1998), Bảo hiểm: Nguyên tắc và
thực hành, David bland biên soạn, bản dịch, Nxb Tài chính.
12. Lê Quốc Huy (dịch) (2004), "Phát triển bảo hiểm Trung Quốc", Tạp chí
Thị trường bảo hiểm, (1).
13. Jean-claude Harrari (1984), Nxb Withrreby & Co, Ltd.
14. Kenneth Huggins và Robert D. Land (1992), Operations of Life and
Health Insurance Companies, Xuất bản lần thứ hai, LOMA, USA.
15. Trương Mộc Lâm (2001), Một số vấn đề về pháp lý trong kinh doanh
bảo hiểm, Tổng Công ty bảo hiểm Việt Nam.
108
16. Luật kinh doanh bảo hiểm (2001), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Trịnh Trọng Nghĩa (2005), Thời báo tài chính Nga, (1).
18. Nguyệt Quế (2002), Tạp chí Bảo hiểm, (4).
19. Nguyễn Văn Quyết (2003), Tạp chí Bảo hiểm, (2), tr.39.
20. Thị trường bảo hiểm Việt Nam - 2005 (2006), Nxb Tài chính, Hà Nội.
21. Thủ tướng Chính phủ (2003), Quyết định số 175/2003/QĐ-TTg ngày 29-
8-2003 về chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ
năm 2003 đến năm 2010.
22. Tổng cục Thống kê (1994), Niên giám thống kê năm 1994, Hà Nội.
23. Tổng cục Thống kê (1995), Niên giám thống kê năm 1995, Hà Nội.
24. Tổng cục Thống kê (1996), Niên giám thống kê năm 1996, Hà Nội.
25. Tổng cục Thống kê (1997), Niên giám thống kê năm 1997, Hà Nội.
26. Tổng cục Thống kê (1998), Niên giám thống kê năm 1998, Hà Nội.
27. Tổng cục Thống kê (1999), Niên giám thống kê năm 1999, Hà Nội.
28. Tổng cục Thống kê (2000), Niên giám thống kê năm 2000, Hà Nội.
29. Tổng cục Thống kê (2001), Niên giám thống kê năm 2001, Hà Nội.
30. Tổng cục Thống kê (2002), Niên giám thống kê năm 2002, Hà Nội.
31. Tổng cục Thống kê (2003), Niên giám thống kê năm 2003, Hà Nội.
32. Tổng cục Thống kê (2004), Niên giám thống kê năm 2004, Hà Nội.
33. Tổng cục Thống kê (2005), Niên giám thống kê năm 2005, Hà Nội.
34. www.aia.com.vn
35. www.baoviet.com.vn
36. www. manulife.com.vn.
37. www.prudential.com.vn
38. www.vcci.com.vn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 21_1642.pdf