Luận văn Phát triển và phát huy tiềm lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Bình Định

Một là, các địa phương muốn thúc đẩy phát triển DNVVN còn phụ thuộc rất lớn vào pháp luật, đường lối, chính sách ở Trung ương, do đó kiến nghị Trung ương tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách như chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách vốn - tín dụng,. để tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương triển khai thực hiện tốt hơn nhằm khuyến khích, hỗ trợ tích cực cho các DNVVN phát triển. Hai là, Trung ương cần xây dựng và thực hiện một cơ chế, một kế hoạch cung cấp các thông tin cơ bản về mọi DN đã ĐKKD để các cơ quan nhà nước cũng như công chúng có thể dễ dàng thu thập được các thông tin về một DN nào đó nhằm tạo ra sự tin tưởng, ngăn ngừa trình trạng lừa đảo trong quan hệ kinh doanh.

pdf113 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2325 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển và phát huy tiềm lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Bình Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từ 76% (1995) xuống còn 33% (2001) trên tổng số DN thuộc tỉnh. Phần lớn các DN đã định hướng được hoạt động, một số DN đã có chuyển biến tích cực, hoạt động có hiệu quả hơn. Số DN kinh doanh có hiệu quả từ 17% (1995) tăng lên 54% (2001), số kinh doanh thua lỗ từ 30% (1995) giảm còn 20% (tương ứng 6 DN năm 2001). Số DN hoạt động cầm chừng tuy có lãi nhưng không đáng kể là 8 DN. Hầu hết các DN chuyển giao về Trung ương đều có điều kiện phát triển tốt hơn cả về vốn, trang thiết bị, thị trường tiêu thụ và mở rộng SXKD. Các DN đã cổ phần hóa đều hoạt động có hiệu quả hơn trước [46]. Song bên cạnh đó, trong các DNNN thuộc tỉnh quản lý (chủ yếu là DNVVN) vẫn còn nhiều mặt tồn tại yếu kém như quy mô vốn bình quân của DN nhỏ, công nghệ kỹ thuật còn lạc hậu, năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh còn yếu, số DN hoạt động cầm chừng còn chiếm tỷ lệ lớn, công tác cổ phần hóa, giải thể DN tiến hành chậm,... Nguyên nhân là do một số DN, cán bộ quản lý các DN vẫn muốn tồn tại độc lập, không dám mở rộng sản xuất, sợ đổi mới nên hiệu quả hạn chế; trình độ năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý DN chưa đáp ứng yêu cầu SXKD trong cơ chế thị trường; tình hình tồn đọng tài chính trong nhiều DN khá nặng nề gây khó khăn trong việc sát nhập các DN; dôi thừa lao động trong các DN khá lớn;... Trước thực trạng đó, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX), tỉnh đã lập đề án về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2002-2005 với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN, để các DNNN trên địa bàn tỉnh (chủ yếu là DNVVN) thực sự là những DN hoạt động có hiệu quả và có sức cạnh tranh cao trong cơ chế thị trường, là lực lượng nòng cốt đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, góp phần quan trọng bảo đảm các sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu của tỉnh nhà. Để đạt được mục tiêu trên, tỉnh cần thực hiện một loạt các giải pháp, trong đó tập trung vào: - Phân loại và định hướng phát triển các DNNN. + Nhóm 1: Sát nhập các DN, các đơn vị trực thuộc có cùng ngành nghề, cùng lĩnh vực hoạt động kinh doanh (dự kiến sát nhập 9DN thành 3 DN); giải thể một số DN thua lỗ kéo dài, không cần thiết phải duy trì (dự kiến 1 DN). + Nhóm 2: Tiếp tục duy trì 100% vốn nhà nước đối với DNNN đang hoạt động trong lĩnh vực công ích (5 DN); tiếp tục chuyển một số DNNN hoạt động kinh doanh sang hoạt động công ích đúng định hướng của Đảng và Nhà nước (dự kiến 2 DN). Những DN này cần được kiện toàn về tổ chức, cán bộ, ưu tiên về tài chính để đổi mới công nghệ và trang thiết bị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động dịch vụ công ích. Chuyển giao cho Tổng công ty, công ty Trung ương quản lý một số DNNN, nếu xét thấy việc chuyển giao tạo điều kiện cho DN hoạt động thuận lợi hơn (dự kiến chuyển giao 1 DN). +Nhóm 3: Tiếp tục chuyển đổi DNNN theo các hình thức sở hữu thích hợp: Chuyển thành công ty TNHH một thành viên: Gồm một số DNNN hoạt động kinh doanh cần duy trì 100% vốn nhà nước (dự kiến 4 DN), trong năm 2002 tổ chức làm thí điểm 1 - 2 DN. Chuyển thành CTCP: Ngoại trừ một số DNNN giữ cổ phần chi phối theo đúng quy định của Nhà nước, phần còn lại Nhà nước không cần nắm cổ phần chi phối (dự kiến tiến hành cổ phần hóa 9 DN). Giao, bán, khoán, cho thuê DNNN có quy mô nhỏ (1 DN) (xem phụ lục 7). - Tăng cường sự phối hợp giữa các sở, ban, ngành, nhất là Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Tài chính - Vật giá, sở, ngành chủ quan để cùng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình đối với công tác sắp xếp đổi mới DN. - Sử dụng quỹ hỗ trợ sắp xếp và cổ phần hóa DNNN của tỉnh để hỗ trợ giải quyết khó khăn cho các DNNN. - Tập trung giải quyết tồn đọng về tài chính cho các DN, nhất là công nợ. - Tỉnh nghiên cứu lập quỹ hỗ trợ DN, giúp các DN giải quyết lao động dôi thừa, đào tạo cán bộ, đầu tư và bổ sung vốn cho các DN để các DN tìm thị trường tiêu thụ, tăng khả năng cạnh tranh. - Thực hiện công tác kiểm tra định kỳ đối với DN nhưng tránh chồng chéo gây khó khăn cho DN. Xây dựng cơ chế quản lý dân chủ và công khai tài chính của DN. Tăng cường vai trò của Đảng, sự giám sát của các tổ chức đoàn thể trong DN. 3.2.3. Thực hiện các chính sách khuyến khích phát triển DNVVN Mặc dù đã có sự phát triển đáng kể của các DNVVN trong những năm qua, song phân tích thực trạng DNVVN hiện nay trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, chúng ta nhận thấy DNVVN đang còn nhiều yếu kém, khó khăn, việc trợ giúp là hết sức cần thiết. Vì vậy đòi hỏi tỉnh phải tiếp tục thực hiện và hoàn thiện các chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển DNVVN trên địa bàn. Những quan điểm cơ bản trong các chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN ở tỉnh Quảng Ngãi: - Trước hết cần xác định rõ mục tiêu trợ giúp là nhằm tạo điều kiện cho các nhà DNVVN khởi sự kinh doanh và phát triển trong một môi trường thuận lợi, giúp cho các DNVVN nâng cao năng lực, tăng sức cạnh tranh trong kinh tế thị trường để SXKD có hiệu quả, từ đó phát huy được vai trò và tác dụng đối với nền kinh tế tỉnh nhà. - Về phương thức hỗ trợ, cần thiết vận dụng cả hai phương thức: + Hỗ trợ trực tiếp, đó là tỉnh cần phải đơn giản hóa các thủ tục ĐKKD, xóa bỏ các loại giấy phép không cần thiết, cung cấp thông tin, cung cấp mặt bằng kinh doanh, xây dựng kết cấu hạ tầng, đào tạo nhân lực,... + Hỗ trợ gián tiếp, đây là hình thức hỗ trợ chủ yếu. Gián tiếp là thông qua các giải pháp, cơ chế, chính sách có hiệu quả cao và hiệu ứng rộng và tác động đến môi trường kinh doanh của DN, ví dụ như tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường, thực hiện các chính sách miễn giảm thuế, hỗ trợ các tổ chức tư vấn để các tổ chức này có thêm thuận lợi hỗ trợ DNVVN. Việc hỗ trợ các DN không phải "cho họ cá" mà "cho họ cần câu", giúp họ về cách thức, phương pháp để họ tự phấn đấu vươn lên, chẳng hạn hỗ trợ về vốn thì không nhất thiết cung cấp vốn cho họ một cách trực tiếp, mà hỗ trợ làm sao để họ tiếp cận được với nguồn vốn dễ dàng hơn... Hỗ trợ DNVVN vừa đảm bảo tính hiệu quả trong tổng thể kinh tế địa phương vừa đảm bảo công bằng, tránh tình trạng quá chú trọng vào một số đối tượng, một số DN song cũng không tràn lan mà phải được tập trung trước hết cho DNVVN thực hiện các chương trình ưu đãi của tỉnh trong từng thời kỳ [17, tr. 45]. Các chính sách hỗ trợ đối với DNVVN chủ yếu là hỗ trợ gián tiếp. Cụ thể: - Về chính sách thị trường. Thị trường là yếu tố mang tính chất tổng hợp, là nhân tố quan trọng hàng đầu tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các DN. Đối với DNVVN trên địa bàn Quảng Ngãi hiện nay đều gặp phải những khó khăn lớn về thị trường đầu ra (thị trường tiêu thụ sản phẩm) và cả thị trường các yếu tố đầu vào (thiết bị công nghệ, vốn...). Để giúp các DNVVN tháo gỡ những khó khăn này, cần thực hiện một số giải pháp: + Thực hiện các hoạt động cụ thể nhằm tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại để giúp các DNVVN có thể có được cơ hội thu thập các loại thông tin cần thiết cho mình về thị trường, về giá cả, về cung cầu, chất lượng, mẫu mã, chủng loại sản phẩm như:  Hỗ trợ tư vấn cho các DNVVN về các kiến thức kinh doanh, thị trường, cách tiếp cận thị trường; cung cấp các thông tin về thị trường, giá cả,... kịp thời, thường xuyên; các ấn phẩm cần thiết, tổ chức hội thảo, các thông tin chuyên đề liên quan đến hoạt động thương mại của các DNVVN; giúp các DNVVN giới thiệu sản phẩm thông qua triển lãm, hội chợ.  Tích cực và chủ động mở rộng quan hệ với các tổ chức liên quan tới chính sách thương mại và tới các DNVVN trong nước và nước ngoài như: Phòng Công nghiệp và Thương mại Việt Nam, Trung tâm hỗ trợ DNVVN của Liên minh HTX Việt Nam. + Trong giai đoạn hiện nay nhu cầu xây dựng kết cấu hạ tầng, nhu cầu sản xuất vật liệu xây dựng,... ở Quảng Ngãi ngày càng tăng do sự phát triển mạnh của khu công nghiệp Dung Quất, các khu công nghiệp của tỉnh và kế hoạch xây dựng thị xã Quảng Ngãi trở thành thành phố tỉnh lỵ, tỉnh nên tạo điều kiện thuận lợi cho các DNVVN tham gia vào các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng đầu tư bằng vốn ngân sách có qui mô nhỏ, đấu thầu các công trình xây dựng nông thôn như:  Công khai hóa các thông tin về kế hoạch xây dựng, kế hoạch mua sắm của cơ quan nhà nước cấp nhằm giúp cho các DNVVN tham gia đấu thầu cung ứng các sản phẩm trang thiết bị phục vụ hoạt động cho các cơ quan nhà nước, đấu thầu sửa chữa nhà cửa, trường học.  Nếu điều kiện cho phép và phù hợp với các quy định hiện hành thì có thể chia dự án thành các gói thầu nhỏ để DNVVN có thể tham gia. + Khuyến khích các mối quan hệ kinh tế giữa các DN lớn như Công ty Đường Quảng Ngãi, Công ty Hóa chất Quảng Ngãi... có thể hỗ trợ cho DNVVN thông qua việc ký kết các hợp đồng cung ứng nguyên liệu vật liệu, phân phối sản phẩm, làm đại lý.... nhằm có tác dụng vừa bảo đảm thị trường, công ăn việc làm ổn định, vừa tạo điều kiện thuận lợi để chuyển giao công nghệ, kỹ năng quản lý từ DN lớn sang DNVVN. + Chiến lược phát triển kinh tế của tỉnh phải được xây dựng chính xác, ổn định để giúp các DN xây dựng được chiến lược của DN và định hướng điều chỉnh hoạt động của DN sao cho phù hợp với chiến lược chung của tỉnh. +Tăng cường kiểm tra, thanh tra và quản lý thị trường như xử lý hàng lậu, hàng giả,... nhằm góp phần hỗ trợ và tạo môi trường ổn định, bình đẳng cho DNVVN trên địa bàn. - Về chính sách đất đai. Đất đai là một yếu tố đầu vào cơ bản của quá trình sản xuất, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với DNVVN, bởi vì: DNVVN chủ yếu sử dụng công nghệ thấp, sử dụng nhiều lao động, trụ sở và nơi sản xuất thường là công trình đơn giản (1 tầng, cấp 4) do đó đòi hỏi diện tích nơi làm việc lớn và hay xen kẽ vào khu dân cư. Nếu là các DNVVN kinh doanh thương mại thì phải đòi hỏi vị trí thuận lợi, đó là các trung tâm dân cư nhưng nơi ấy đất đai eo hẹp và giá trị cao. Phát triển DNVVN luôn đi kèm với xây dựng kết cấu hạ tầng do đó đều đụng chạm đến đất đai, mà nếu không giải quyết sẽ cản trở đến hoạt động SXKD của DNVVN,... Chính vì vậy, hiện nay các DNVVN, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh phổ biến là mặt bằng sản xuất chật hẹp, nhiều DN nhỏ phải tận dụng nhà ở để tổ chức sản xuất, không đảm bảo vệ sinh công nghiệp và vệ sinh môi trường. Các cơ sở này gặp khá nhiều khó khăn về mặt bằng sản xuất. Nguyên nhân chính do các DNVVN thiếu vốn, giá đất khá cao và một phần khác là những qui định về đất đai còn nhiều vướng mắc. Nếu không có các qui định rõ ràng và ổn định về quyền sử dụng dài hạn, quyền sở hữu hoặc quyền thuê đất đai, nhà xưởng thì không có một DN nào có thể yên tâm tiến hành SXKD. Vì vậy tỉnh cần tăng cường các biện pháp hỗ trợ trong chính sách đất đai nhằm tạo cho các DNVVN có điều kiện thuận lợi để ổn định và mở rộng mặt bằng, đồng thời có đủ giấy tờ hợp pháp về đất đai để làm thủ tục thế chấp vay vốn. Các giải pháp cụ thể: Một là, đẩy nhanh các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai. Thực hiện triệt để việc giao đất lâu dài và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tạo cơ sở pháp lý cần thiết để người sử dụng đất và cơ quan quản lý đất đai thực hiện đúng các quyền, nghĩa vụ về đất đai theo qui định của pháp luật, giúp các DN yên tâm bỏ vốn đầu tư, kinh doanh. Hai là, xây dựng hệ thống thông tin đất đai cũng như công bố công khai quy hoạch sử dụng đất đai. Đây sẽ là một biện pháp hỗ trợ đắc lực cho việc hình thành thị trường đất đai và nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Mặc dù thị trường bất động sản chưa hình thành nhưng thông qua việc cung cấp thông tin về cung và cầu đất đai, tỉnh có thể tổ chức đấu thầu, cho thuê những diện tích đất chưa được sử dụng hoặc sử dụng không hiệu quả. Ba là, đối với các DNVVN đang hoạt động tại các làng nghề truyền thống muốn mở rộng diện tích mặt bằng cần mua lại quyền sử dụng đất hoặc thuê đổi đất với người dân thì cần có sự can thiệp và vai trò trung gian của cơ quan cấp cơ sở trên nguyên tắc hai bên cùng có lợi và ưu tiên lợi ích của người sản xuất nông nghiệp về giá cả và thu nhận lao động vào làm việc ở các DN. Bốn là, thực hiện nhanh, thỏa mãn công tác giải tỏa, đền bù nhằm vừa đảm bảo quy hoạch đất cho xây dựng các khu công nghiệp, vừa đảm bảo lợi ích thỏa đáng cho người dân. Năm là, tạo quỹ đất để hình thành các DNVVN. Các DNVVN hiện nay của tỉnh chủ yếu tập trung ở thị xã Quảng Ngãi, thị trấn các huyện, là nơi đất ít người đông. Địa điểm của các DN hoặc là xen kẽ với nhà ở dân cư hoặc dùng chính nhà ở để kinh doanh. Vấn đề đặt ra là cần có địa điểm độc lập cho DNVVN. Muốn vậy tỉnh phải xúc tiến việc thực hiện Nghị định 90/2001/NĐ-CP, tạo thuận lợi cho DNVVN có mặt bằng sản xuất phù hợp với yêu cầu của họ, đồng thời dành quỹ đất và có chính sách khuyến khích để xây dựng các khu công nghiệp cho các DNVVN. Tạo điều kiện thuận lợi để DNVVN phát triển trong các khu công nghiệp của tỉnh bởi vì hiện tại diện tích đất sử dụng tại các khu công nghiệp chiếm tỷ lệ thấp như khu công nghiệp Quảng Phú: 41% tổng diện tích, Tịnh Phong: 19%...Trong thực tế không ít chủ các DN không thích dời các DN, xây dựng theo đất quy hoạch bởi hoặc thủ tục rườm rà hoặc tốn kém chi phí di chuyển, nộp thuế... Do đó tỉnh một mặt phải cương quyết bàn bạc với các hộ dân cư và bắt buộc những cơ sở sản xuất tại nhà không đủ điều kiện mặt bằng và gây ô nhiễm cho cộng đồng dân cư chuyển sang các khu sản xuất tập trung mới, một mặt phải có sự ưu đãi đối với các DN này như trợ giúp phí tổn di chuyển, giảm giá thuê đất. - Về chính sách vốn - tín dụng. Vốn là tiền đề cho đầu tư phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ, đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động và chủ DN... Song qua phần thực trạng chúng ta đều thấy quy mô vốn của các DNVVN ở địa bàn Quảng Ngãi là quá thấp. Chính vì lẽ đó mà sự hoạt động của các DNVVN hiện nay còn vướng phải nhiều khó khăn. Vì thế, đổi mới chính sách vốn - tín dụng nhằm tạo lập một môi trường thuận lợi giúp cho các DNVVN có thể tiếp cận các nguồn vốn thuận lợi là vấn đề cần thiết và cấp bách. Các giải pháp cụ thể cần được tỉnh quan tâm và thực hiện là: Một là, cần phải tạo ra một sân chơi bình đẳng về tín dụng đối với các DN thuộc các thành phần kinh tế, để tất cả các DN đều tuân thủ những thể lệ tín dụng như nhau, được hưởng những ưu đãi và điều kiện tín dụng của Nhà nước như nhau. Đối với Ngân hàng vấn đề quan trọng phải là sự tin cậy về khả năng trả nợ của người đi vay chứ không phải là quyền sở hữu hoặc "địa vị pháp lý" của người đi vay. Muốn vậy cần phải có giải pháp từ cả ba phía: + Về phía các DNVVN: Các DN cần xây dựng được các phương án SXKD mang tính khả thi làm cơ sở vay vốn. + Về phía các Ngân hàng: Để tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng thuận lợi cũng như trợ giúp cho các DN đang gặp khó khăn vượt lên phát triển sản xuất, bằng cách xem xét từng trường hợp cụ thể của DN. Cải tiến hơn nữa để đơn giản các thủ tục vay vốn cho phù hợp với từng loại hình DN, tăng số lượng tiền vay và thời hạn vay cho phù hợp với yêu cầu SXKD của từng loại DN, nghiên cứu giảm lãi suất ngân hàng xuống mức cần thiết cho từng loại hình DN, giúp DN làm ăn hiệu quả. Ngân hàng cần tham gia tích cực hơn trong việc hỗ trợ tư vấn, lập dự án, thẩm định dự án khả thi để cho vay đối với các DNVVN. Hình thành hệ thống tín dụng thương mại rộng khắp đến các vùng kinh tế của tỉnh. + Về phía UBND tỉnh: Sớm thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN của tỉnh theo tinh thần hướng dẫn tại Nghị định 90/2001/NĐ-CP để bảo lãnh cho các DN này khi họ không đủ tài sản thế chấp, cầm cố vay vốn của các tổ chức tín dụng, tháo gỡ một phần khó khăn của DNVVN về thiếu vốn kinh doanh. Phối hợp với các cấp chính quyền, các cơ quan hữu quan mở các lớp bồi dưỡng chủ DN để nâng cao năng lực sử dụng vốn, tăng khả năng lập dự án, nhằm tăng hiệu quả và giảm thiểu mức rủi ro trong việc vay vốn. Hai là, phải có các biện pháp cụ thể để xử lý nợ nần dây dưa giữa các DN nhằm lành mạnh hóa môi trường tài chính, phải có những biện pháp cụ thể trong việc xử lý thế chấp và giải thể,... tạo điều kiện cho các Ngân hàng thu hồi vốn. Ba là, nên thành lập "Quỹ hỗ trợ và phát triển DNVVN" ở cấp tỉnh, huyện, để giúp cho DNVVN vượt qua khó khăn về vốn. Quỹ này có thể sử dụng theo những mục tiêu khác như cho vay, hỗ trợ về lãi suất hoặc bảo lãnh. Ngoài chức năng tài chính quỹ này còn có thể hỗ trợ cho các nhà cung cấp dịch vụ trong việc tổ chức các khóa đào tạo, tư vấn... Bốn là, thúc đẩy sự liên kết, hợp tác giữa các DN, đặc biệt là trong các làng nghề, khắc phục tình trạng có DN thừa vốn, nhưng bên cạnh có các DN trong cùng làng nghề lại thiếu vốn. Mở rộng hình thức tổ chức tiết kiệm và cho vay vốn ở nông thôn để giúp nhau tạo lập cơ sở sản xuất, mở rộng phát triển kinh tế. - Về chính sách công nghệ và môi trường. Công nghệ là một trong những yếu tố then chốt, quyết định sự thành bại của mỗi DN trong cạnh tranh trên thị trường. Hiện nay, một trong những vấn đề lớn đối với các DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi là trình độ công nghệ thấp dẫn đến chất lượng thấp, khả năng cạnh tranh kém. Vì vậy đổi mới công nghệ ở các DNVVN và các làng nghề truyền thống của tỉnh Quảng Ngãi là vấn đề cấp bách nhưng cũng vô cùng khó khăn. Để có thể đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế vừa đảm bảo được các mục tiêu xã hội khi giải bài toán "công nghệ" này chúng ta cần có những giải pháp mang tính tổng thể, đồng bộ từ chiến lược phát triển DNVVN. Đối với DNVVN, điều quan trọng trong việc thay đổi công nghệ là lựa chọn và ứng dụng công nghệ thích hợp, không nhất thiết cứ phải là công nghệ hiện đại, mà cần tìm loại công nghệ thích hợp với khả năng về vốn, trình độ công nhân cũng như trình độ quản lý của chủ DN nhưng cũng phải phù hợp với xu thế hiện đại. Tỉnh cần phải có các giải pháp cụ thể để hỗ trợ các DNVVN trong việc thay đổi công nghệ: + Tạo môi trường thuận lợi cho DNVVN đổi mới công nghệ.  Phổ biến và hỗ trợ thông tin để các DN nắm bắt kịp thời về công nghệ mới, giúp DN lựa chọn đánh giá công nghệ.  Tạo điều kiện để các DNVVN nhập cuộc thị trường, qua đó sẽ làm tăng sự cạnh tranh và tạo ra động lực thúc đẩy đổi mới công nghệ.  UBND tỉnh và các ngành chức năng trợ giúp tác động tạo áp lực ở mức cần thiết để các DN phải sớm thay đổi công nghệ tiên tiến - thiết bị hiện đại thông qua các văn bản pháp quy của tỉnh như quy định về thời gian, thời hiệu đình chỉ hoạt động đối với các DNVVN sử dụng công nghệ cần thay thế, loại bỏ công nghệ tạo mức độ ô nhiễm môi trường môi sinh lớn.  Cho phép các DNVVN đầu tư máy móc thiết bị mới được tiến hành trích khấu hao nhanh. Theo kinh nghiệm của một số nước, đây là một trong những biện pháp ưu đãi thuế thành công nhất được sử dụng để khuyến khích các DN đầu tư thiết bị và máy móc mới [3, tr. 137]. + Khuyến khích DNVVN chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ thông qua nguồn vốn vay các dự án đổi mới công nghệ với lãi suất ưu đãi. + Khuyến khích các hợp đồng thuê tài chính, bán trả góp để các DNVVN có thể đổi mới hoặc nâng cấp MMTB mới một cách tốt hơn. + Mở rộng các hoạt động cho thuê MMTB. Đây là giải pháp phù hợp với thực trạng không đủ tài sản thế chấp và năng lực lập dự án của DNVVN. + Tăng cường quản lý nhà nước về chất lượng các dự án đầu tư đổi mới công nghệ. Hầu hết DNVVN hạn chế về khả năng này nên UBND tỉnh và các ngành chức năng giúp DN làm tốt khâu phân tích môi trường kinh doanh và công nghệ, phân tích thực trạng công nghệ của DN..., xác định cho DN mục tiêu đổi mới công nghệ để thẩm định và lựa chọn dự án đầu tư đổi mới DN phù hợp, hiệu quả. + Phải có chính sách ưu đãi thỏa đáng như bố trí việc làm, ưu đãi về nhà ở, giảm giá tiền đất xây dựng nhà ở... quan tâm tạo điều kiện làm việc ở tỉnh cũng như tự nguyện về làm việc tại tỉnh Quảng Ngãi, nuôi dưỡng và từng bước hình thành đội ngũ cán bộ khoa học đầu đàn của tỉnh. + Phải có chiến lược, kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, công nhân kỹ thuật đồng bộ, tương ứng với chiến lược, kế hoạch đổi mới công nghệ để có thể vận hành và phát huy ngay hiệu quả của công nghệ mới, của MMTB hiện đại. Về môi trường, với đa số công nghệ cũ, thiết bị lạc hậu của các DN và với nhận thức chưa đầy đủ, đúng đắn của các nhà quản lý sản xuất, người sử dụng lao động nên hầu hết các cơ sở sản xuất trong tỉnh đều không đảm bảo được các quy định về bảo vệ môi trường, làm cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng, nhất là các cơ sở chế biến thủy sản, hóa chất, sản xuất gạch ngói... đã tác động rất xấu đến sức khỏe con người. Để giải quyết vấn đề này cần phải: + Trước hết cần tuyên truyền, giáo dục cho các cơ sở sản xuất nhận thức đầy đủ, đúng đắn về tính cấp thiết của vấn đề xử lý chất thải, bảo vệ môi trường. Từ đó, yêu cầu các đơn vị phải thực hiện đúng luật môi trường. + Xây dựng các khu công nghiệp, di dời các DN gây ô nhiễm môi trường nặng để tập trung xử lý môi trường. + Tăng cường công tác thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, cấp giấy chứng nhận kiểm soát ô nhiễm, giấy phép về môi trường, đồng thời đẩy mạnh hoạt động thanh tra môi trường. - Về chính sách thuế. Đây là một chính sách quan trọng và được áp dụng phổ biến trên thế giới trong việc hỗ trợ các DNVVN. Để vừa đảm bảo nguồn thu cho ngân sách vừa góp phần thúc đẩy phát triển các DNVVN, ngoài việc kiến nghị Trung ương tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách thuế như đơn giản hóa hệ thống thuế theo hướng giảm bớt thuế suất, đảm bảo tính ổn định tương đối cử chính sách thuế (ít nhất từ 3-5 năm), đảm bảo tính công bằng trong chính sách thuế, đổi mới tư duy thu thuế, chuyển từ ý tưởng "tận thu" sang ý tưởng "nuôi dưỡng nguồn thu"… thì địa phương cần đổi mới trong khâu triển khai thực hiện tốt chính sách thuế trên địa bàn tỉnh. Cụ thể: + Tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền pháp luật và chính sách thuế để các DNVVN, nhất là các hộ kinh doanh cá thể nắm được đầy đủ các thông tin về thuế và các ưu đãi về thuế. Các ưu đãi về thuế cần được hướng dẫn kịp thời, rõ ràng và triển khai đồng bộ, tránh tình trạng mỗi ngành hiểu một cách nên triển khai thực hiện không thống nhất. + Tăng cường công tác quản lý thu thuế nhằm đảm bảo tính công bằng về nghĩa vụ thuế giữa các chủ thể kinh doanh. Đây là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm khuyến khích xu hướng lành mạnh, tạo điều kiện cho các DN làm ăn đúng đắn, nghiêm túc. Điều cấp bách hiện nay là phải hạn chế tình trạng trốn thuế khá phổ biến trong khu vực ngoài quốc doanh, đặc biệt là các hộ kinh doanh cá thể. Để thực hiện điều đó, cần giảm dần và tiến tới xóa thuế khoán, tiến tới áp dụng hệ thống tự kê khai báo thuế. Muốn vậy các chủ thể kinh doanh thực hiện tốt các chế độ chứng từ, sổ sách kế toán, thống nhất cách thức tính thuế GTGT để tránh sự khác biệt không đáng có. Thực hiện tốt việc ĐKKD theo Luật DN và Nghị định 02/CP ngày 03/02/2000 của Chính phủ. + Cơ quan thuế phối hợp cùng các hữu quan tích cực giúp đỡ và thúc đẩy các DN thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán. Đây là khâu chủ yếu để thực hiện tốt việc tính thuế và thu thuế. Việc trợ giúp có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức: Tổ chức bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ kế toán, phát triển các dịch vụ kế toán... Đối với các DNVVN mới thành lập cần phải cam kết thực hiện chế độ kế toán như là một điều kiện để được ĐKKD. + Đối với các DNVVN chưa có điều kiện thực hiện đầy đủ, đúng đắn chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ (phải chịu hình thức thuế khoán) cần có phương thức tính và thu thuế hợp lý. Mức thuế khoán phải công khai, phù hợp với quy mô, điều kiện kinh doanh của DN trong từng thời kỳ hay chu kỳ kinh doanh. Tránh tình trạng gây khó khăn cho hoạt động SXKD của DN hoặc hiện tượng thông đồng giữa cán bộ thuế với chủ DN để trốn lậu thuế. + Cùng với việc trợ giúp cần kiên quyết xử lý nghiêm minh những hành vi vi phạm chế độ kế toán, chế độ thuế đối với tất cả các DN, với cán bộ thuế. + Thường xuyên tổ chức bồi dưỡng, tập huấn để nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ thuế, tổ chức công tác thu thuế... + Tăng thời gian ưu đãi thuế đối với các DNVVN mới thành lập nhằm giúp cho các DN có điều kiện tích lũy, ổn định sản xuất và phát triển sản xuất tới mức đứng vững trên thị trường, qua đó tạo nguồn thu ổn định, lâu dài. Đối với các hoạt động đổi mới công nghệ, đầu tư vào sản xuất sản phẩm mới, có thể miễn thuế. Đồng thời mở rộng đối tượng ưu đãi, quan tâm ưu đãi theo quy mô để tạo điều kiện cho các DNVVN vượt lên sự yếu ớt của họ và kinh doanh có hiệu quả. Ngoài ra, cần có thêm sự ưu đãi đối với các DN thu hút nhiều lao động và thu hút được nhiều vốn. - Về chính sách đào tạo nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực là một nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với việc thực hiện các mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, trên cơ sở phân tích thực trạng nguồn nhân lực hiện nay trên địa bàn Quảng Ngãi nói chung, nguồn lao động trong các DNVVN trên địa bàn nói riêng, tỉnh đã xác định đào tạo, phát triển nguồn nhân lực là một trong những nội dung quan trọng của các chương trình kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi. Yêu cầu của việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phải được đặt ra ngay từ bây giờ với hướng đào tạo là nâng cao chất lượng dân số - lao động thông qua giáo dục và dạy nghề, tạo điều kiện để áp dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất, dịch vụ và hợp tác quốc tế. Bên cạnh đó chuyển đổi cơ cấu lao động một cách hợp lý theo hướng tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, phân bố lại lao động theo lãnh thổ, thu hút lao động vào các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thủy sản, thương mại... Muốn vậy trong thời gian tới cần thực hiện một số giải pháp sau: + Tiếp tục củng cố, sắp xếp và quy hoạch các trường chuyên nghiệp, xác định cơ cấu ngành, nghề đào tạo phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đảm bảo chất lượng và hiệu quả đào tạo. Đầu tư xây dựng Trường Cao đẳng cộng đồng Quảng Ngãi để đáp ứng yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực của địa phương. Tỉnh cần dành tỷ lệ ngân sách hợp lý trong tổng thu ngân sách hàng năm để ưu tiên đầu tư cho dạy nghề và xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho dạy nghề [13, tr. 77]. + Tạo sự phối hợp chặt chẽ giữa các trường, các cơ sở đào tạo, các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề với các DN trên địa bàn để gắn lý thuyết với thực hành, đào tạo theo địa chỉ. Các cơ sở đào tạo hoàn thiện chương trình đào tạo để đáp ứng được yêu cầu đa dạng hóa ngành nghề và kết hợp tiến bộ của khoa học công nghệ. Các trường, các cơ sở đào tạo cần mở rộng quy mô đào tạo, đa dạng hóa hình thức đào tạo: tập trung, không tập trung, chính quy, tại chức, từ xa, ngắn hạn, dài hạn... để mọi đối tượng lao động có thể tham gia quá trình đào tạo, chú ý đến đào tạo nâng cao tay nghề cho người lao động làm việc trong các DN một cách thường xuyên, kịp thời. Tổ chức nghiêm túc các kỳ thi nâng ngạch, thi nâng tay nghề, đặc biệt chú ý đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn. + Mở rộng hướng nghiệp dạy nghề cho học sinh và người lao động, nâng cao chất lượng hoạt động của các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề, các trung tâm giáo dục thường xuyên và dịch vụ việc làm để hướng nghiệp, đào tạo và giới thiệu việc làm cho người lao động. Mỗi huyện ít nhất phải có một trung tâm dạy nghề. + Phải có các chính sách sử dụng hợp lý và đãi ngộ thỏa đáng, khai thác một cách có hiệu quả nhất các nguồn nhân lực để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn như chính sách thu hút nhân tài, các chính sách ưu đãi, trọng dụng đối với các nghệ nhân trong các làng nghề truyền thống để phục vụ và phát triển nghề, khuyến khích họ sáng tạo, truyền nghề cho con cháu, chính sách khuyến khích vật chất và tinh thần cho những người lao động có tay nghề cao, cán bộ quản lý giỏi có đóng góp nhiều cho DN, tạo nên phong trào thi đua rộng khắp trong các DN. + Tạo điều kiện giúp đỡ các DN rà soát, đánh giá thực trạng lao động từ đó lập kế hoạch đào tạo cụ thể, hợp lý; thực hiện việc hỗ trợ một phần vốn đào tạo và phát triển tay nghề của lực lượng lao động trong các DNVVN, nhất là ở vùng nông thôn. + Tiếp tục chỉ đạo các ngành chức năng tập huấn triển khai Luật Lao động đến DN ngoài quốc doanh nhằm giúp các DN này thực hiện đúng Luật Lao động + Quy định chế độ nâng bậc lương cho người lao động trong các DN được cổ phần hóa từ DNNN. + Khuyến khích các DN lớn: Công ty Đường, Công ty Hóa chất... liên kết giúp đỡ các DNVVN đào tạo công nhân lành nghề, truyền đạt kinh nghiệm quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý DN. + Mở các lớp đào tạo phổ cập kiến thức về kinh doanh và pháp luật cho chủ DN, các lớp đào tạo chuyên sâu cho chủ DN trong các lĩnh vực gắn liền với hoạt động SXKD của DN mà họ là chủ với các hình thức đào tạo đa dạng. Thường xuyên phổ biến các chủ trương, chính sách mới, tình hình biến động thị trường trong tỉnh, trong nước, quốc tế để họ có đủ thông tin, quyết định phương án SXKD có hiệu quả. Tổ chức đi khảo sát thực tế để học hỏi kinh nghiệm của các DN trong tỉnh, trong nước, để họ có thêm kiến thức về tổ chức sản xuất, phong cách quản lý... + Thực hiện chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm, gắn liền quyền lợi và nghĩa vụ của đội ngũ lãnh quản lý DN với kết quả hoạt động SXKD. Với giám đốc DNNN nếu điều hành DN 3 năm liền làm ăn thua lỗ cần dứt khoát thay thế. 3.2.4. Cải tiến và đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho việc gia nhập và rút khỏi thị trường của các DN đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật Trước khi có Luật DN, thủ tục ĐKKD còn nhiều hạn chế: bị hạn chế về ngành nghề kinh doanh, việc thành lập DN là của Nhà nước, cơ chế "xin cho" thể hiện rất rõ... Thực tế trên cho thấy các nhà đầu tư trong tỉnh không muốn ĐKKD theo Luật DNTN, Luật Công ty mà cố tìm cách lách luật, xin ĐKKD hộ kinh tế nhỏ, điều đó góp phần tăng thêm tình trạng kinh tế ngầm, vừa cản trở sự phát triển kinh tế của tỉnh nói chung và của từng DN nói riêng. Trong hai năm gần đây khi có Luật DN ban hành, quyền thành lập DN được giao lại cho nhà đầu tư (cá nhân), ngành nghề ĐKKD không bị hạn chế (trừ ngành nghề pháp luật cấm kinh doanh). Thực hiện cải cách hành chính, thủ tục thành lập DN và ĐKKD đơn giản hơn nhiều, từ đó đã tạo một luồng sinh khí mới vào nền kinh tế tỉnh nhà. Song để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho sự hình thành, phát triển các DNVVN thì cần phải tiếp tục cải tiến và đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho việc gia nhập và rút khỏi thị trường của các DN, đảm bảo quyền tự do kinh doanh theo pháp luật. Cụ thể: + Xác định rõ ràng các lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, xác định rõ ràng và cụ thể các điều kiện kinh doanh đảm bảo tính cần thiết, tính hợp lý, tính khả thi của các điều kiện này, tránh tình trạng các văn bản quy định quá nhiều, phân tán, không rõ ràng, chồng chéo (được quy định bởi 300 văn bản các loại). Kiên quyết hủy bỏ những giấy phép kinh doanh không còn phù hợp với Luật DN [32, tr.112]. + Xây dựng bộ máy ĐKKD có đủ năng lực để phục vụ tốt hơn cho các DN. + Cần sớm thành lập phòng ĐKKD cấp huyện trên cơ sở giao cho Phòng Kế hoạch và Đầu tư huyện, thị xã thực hiện chức năng ĐKKD, phối hợp xác minh các DN đóng trên địa bàn huyện, thị cũng như báo cáo tình hình ĐKKD của các hộ kinh doanh cá thể cho phòng ĐKKD cấp tỉnh hàng tháng, hàng quí theo quy định tại Nghị định số 02/2000/NĐ- CP. + Tiếp tục đơn giản hóa thủ tục ĐKKD để DN tham gia vào hoạt động SXKD một cách rõ ràng hơn, nhưng phải trên cơ sở quy hoạch và định hướng phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của ngành trong từng giai đoạn. Theo quy định tại Nghị định số 02/2000/NĐ- CP, chủ DN có quyền ĐKKD theo pháp luật, cơ quan ĐKKD không được hạn chế, do vậy để tránh tình trạng đăng ký tràn lan thiếu căn cứ, kém hiệu quả tỉnh cần tổ chức cơ quan tư vấn. Xây dựng hệ thống thông tin về DNVVN, cung cấp thông tin cho cơ quan nhà nước, tổ chức, cá nhân có yêu cầu theo quy định của pháp luật; hỗ trợ DN trong việc tìm kiếm thông tin về chính sách của Nhà nước, hướng dẫn các DN giải quyết các vướng mắc trong việc ĐKKD. Nhờ đó, một mặt giúp cho công chúng, những người có liên quan nắm bắt được các thông tin về các DN đã được đăng ký để qua đó kiểm soát lẫn nhau trong khi thực hiện các giao dịch, ký kết hợp đồng. Mặt khác góp phần giảm nhẹ khối lượng công việc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng giám sát và quản lý của Nhà nước đối với DN. + Yêu cầu tất cả các DN và công ty đã đăng ký phải thông báo ngay cho cơ quan ĐKKD về mọi thay đổi liên quan tới thông tin đã đăng ký và nộp các báo cáo định kỳ, hàng năm cho cơ quan ĐKKD, vì đó là công cụ quản lý nhà nước trong việc nắm thông tin về các DN đã đăng ký còn đang hoạt động. + Ngoài các giải pháp tạo điều kiện cho các DN gia nhập thị trường, cần chú ý một số giải pháp để tạo điều kiện cho các DN dễ dàng rút khỏi thị trường (bán DN, đóng cửa DN, phá sản theo luật định) để giúp cho họ có cơ hội mới trên thị trường mới, tạo sự năng động hơn trong nền kinh tế như đưa ra quy định cụ thể hướng dẫn việc mua bán DN, kiên quyết trừng trị những tổ chức, cá nhân xử lý vay nợ theo "luật rừng", nâng cao năng lực của bộ máy tòa án xử lý phá sản của DN. + Quán triệt hơn nữa quan điểm: chức năng của các cơ quan công quyền là hỗ trợ chứ không phải cản trở sự phát triển của các DNVVN mà đặc biệt là sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân. Quan điểm này chẳng những được thể hiện trong Nghị quyết của đảng, trong chính sách của Nhà nước mà quan trọng hơn là trong hành vi của từng cán bộ, công chức để từ đó đổi mới tư duy của các cơ quan công quyền theo quan điểm trên. 3.2.5. Phát triển các tổ chức đại diện, tổ chức tư vấn và tổ chức quản lý đối với các DNVVN Nhằm củng cố và thúc đẩy các DNVVN phát triển có hiệu quả, lâu dài, bền vững theo định hướng chung, thông qua nghiên cứu thực trạng của DNVVN và yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, thực tiễn đòi hỏi cần một tổ chức đầu mối với một mạng lưới hỗ trợ nhằm phát triển các DNVVN. Việc xác lập một tổ chức đầu mối đòi hỏi phải khẳng định các chức năng chủ yếu của nó là tham mưu giúp Chính phủ và chính quyền địa phương tạo môi trường thuận lợi cho phát triển DNVVN, điều phối các hoạt động giúp các DNVVN từ việc đào tạo, tiếp thị, làm cầu nối giữa DNVVN với các cơ quan quản lý của Nhà nước, các ngành, các hiệp hội, nhằm phát triển SXKD, chuyển giao công nghệ... có hiệu quả. Chính vì thế theo NĐ 90/2001 đã quy định thành lập hai tổ chức mới để xúc tiến phát triển DNVVN. Đó là: Cục phát triển DNVVN và Hội đồng khuyến khích phát triển DNVVN. Trên địa bàn tỉnh, để hỗ trợ và khuyến khích phát triển DNVVN cần: - Thành lập tổ chức xúc tiến phát triển DNVVN của tỉnh để chuyên trách theo dõi, tổng hợp, đề xuất thể chế, chính sách khuyến khích DNVVN trong từng thời kỳ cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và phối hợp với các sở, ban, ngành trong việc tổ chức thực hiện. - Tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh hơn nữa sự hoạt động của Trung tâm hỗ trợ và đầu tư phát triển HTX&DNVVN của tỉnh. - Khuyến khích thành lập các tổ chức trợ giúp DNVVN như hiệp hội, Câu lạc bộ DN (gọi tắt là hiệp hội DN). Đó là các tổ chức xã hội - nghề nghiệp nhằm khai thác mọi nguồn lực của xã hội, kể cả thu hút tài trợ từ bên ngoài, để phát triển các hoạt động trợ giúp một cách trực tiếp, có hiệu quả thiết thực cho DNVVN. Các hiệp hội DN này có thể tổ chức theo địa bàn địa phương, theo ngành nghề để cùng nhau thương thảo giải quyết vấn đề mà từng DN riêng lẻ không tự giải quyết, để hỗ trợ nhau trong kinh doanh, đồng thời làm vai trò cầu nối giữa các hội viên với cơ quan của Chính phủ, đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của DNVVN. - Tăng cường cán bộ quản lý các DNVVN trong các sở, ban, ngành cấp tỉnh, cấp huyện, đặc biệt là các bộ phận như ĐKKD của Sở Kế hoạch và Đầu tư, bộ phận quản lý DNVVN trong các Sở Công nghiệp, Sở Thương mại... - Tăng cường chức năng của bộ máy quản lý nhà nước đối với DNVVN theo hướng tăng thêm chức năng cho một số cơ quan, bộ phận hiện có như: chức năng kiểm tra sau ĐKKD cho Phòng ĐKKD, chức năng quy hoạch và định hướng phát triển cho các Sở chuyên ngành, chức năng cung cấp thông tin... Ngoài ra, cần phối hợp chặt chẽ trong việc thực hiện các chức năng được giao giữa các cơ quan hữu quan trong việc quản lý và hỗ trợ các DNVVN. - Thực hiện tốt chức năng kiểm soát đối với DN nhằm ngăn ngừa hạn chế các vi phạm, việc kiểm tra các hoạt động SXKD của DNVVN phải được thực hiện theo đúng chức năng, thẩm quyền, đúng quy định của pháp luật, tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng để tránh trùng lắp, tránh gây phiền hà không đáng có cho các DN. Kết luận Phát triển DNVVN trong nền kinh tế quốc dân có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng và mang tính lâu dài. Việc thúc đẩy sự phát triển các DNVVN sẽ góp phần rất quan trọng vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, tạo việc làm, tăng thu nhập, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo… Cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, Quảng Ngãi là một tỉnh nông nghiệp, dân số chủ yếu sống ở nông thôn và làm nghề nông. Đây là một tỉnh có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có những tiềm năng quan trọng như vị trí địa lý, có nhiều làng nghề truyền thống, có khu công nghiệp Dung Quất, có lực lượng lao động dồi dào, người dân năng động, sáng tạo, cần cù. Tuy nhiên, tỉnh cũng có không ít khó khăn trong việc phát triển kinh tế nói chung và các DNVVN nói riêng. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế - xã hội. Trong những thành công đó có sự đóng góp đáng kể của các DNVVN. Các DN này với những lợi thế của mình đã góp phần không nhỏ trong việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập dân cư, góp phần tăng trưởng kinh tế và giải quyết có hiệu quả nhiều vấn đề xã hội của tỉnh hiệu quả. Trong thời gian qua, các cấp, các ngành ở tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ tích cực cho các DNVVN trong hoạt động kinh doanh dưới nhiều hình thức, trong đó đặc biệt thông qua cơ chế, chính sách hỗ trợ. Tuy vậy, đến nay các DNVVN trên địa bàn tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn, trở ngại như thiếu vốn, trình độ tay nghề thấp, công nghệ lạc hậu, thiếu thông tin, môi trường kinh doanh chưa bình đẳng… Để hỗ trợ các DNVVN phát triển SXKD, tăng cường vai trò của các DN này trong sự nghiệp CNH, HĐH, tỉnh cần tích cực hơn nữa trong việc giúp đỡ và có các biện pháp hỗ trợ thiết thực. Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả đã đưa ra một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm góp phần phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Đồng thời, tác giả đưa ra một số kiến nghị sau đây: Một là, các địa phương muốn thúc đẩy phát triển DNVVN còn phụ thuộc rất lớn vào pháp luật, đường lối, chính sách ở Trung ương, do đó kiến nghị Trung ương tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách như chính sách đất đai, chính sách thuế, chính sách vốn - tín dụng,... để tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương triển khai thực hiện tốt hơn nhằm khuyến khích, hỗ trợ tích cực cho các DNVVN phát triển. Hai là, Trung ương cần xây dựng và thực hiện một cơ chế, một kế hoạch cung cấp các thông tin cơ bản về mọi DN đã ĐKKD để các cơ quan nhà nước cũng như công chúng có thể dễ dàng thu thập được các thông tin về một DN nào đó nhằm tạo ra sự tin tưởng, ngăn ngừa trình trạng lừa đảo trong quan hệ kinh doanh. Ba là, Quảng Ngãi là một tỉnh nghèo, việc phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh còn gặp phải nhiều khó khăn. Do đó rất mong sự quan tâm, hỗ trợ tích cực của Trung ương đối với tỉnh Quảng Ngãi, đặc biệt là sự hỗ trợ về vốn. Đánh giá đúng thực trạng và đề ra được các giải pháp hữu hiệu để phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi hiện nay là vấn đề rất phức tạp. Sự phức tạp thể hiện ở chỗ mô hình DNVVN tồn tại trong nhiều thành phần kinh tế, trong nhiều lĩnh vực kinh doanh, liên quan đến nhiều cơ quan, sở, ban, ngành trong tỉnh. Trong khi đó tỉnh vẫn chưa có sự thống nhất, chưa có quy định cụ thể về tiêu chí DNVVN (mặc dù Nghị định 90/2001/NĐ-CP đã quy định rất rõ), chưa có chính sách riêng biệt cụ thể cho loại hình DNVVN, chưa có công trình, đề án nào nghiên cứu đầy đủ về mô hình DN này (chỉ có một số báo cáo chuyên đề về kinh tế tư nhân) nên luận văn gặp rất nhiều khó khăn trong quá trình nghiên cứu, đặc biệt là vấn đề tìm hiểu và tổng hợp số liệu. Mặc dù tác giả luận văn đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn luận văn còn có sai sót, còn những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, bổ sung. Tác giả mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp, chỉ giáo quý báu của các nhà khoa học, các đồng nghiệp. Hy vọng sau khi hoàn thành, bản luận văn sẽ mang được tính khả thi, sẽ đóng góp một phần nhỏ vào sự phát triển DNVVN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi, góp phần chung vào sự phát triển Quảng Ngãi trở thành một tỉnh giàu đẹp, văn minh, hiện đại trong tương lai. Danh mục tàI liệu tham khảo 1. Vũ Đình Bách (2001), Đổi mới, tăng cường thành phần kinh tế Nhà nước - Lý luận, chính sách và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 2. Ban cán sự Đảng Chính phủ (2001), Đề án tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển DNNN, Hà Nội. 3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1999), Báo cáo nghiên cứu hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô và đổi mới các thủ tục hành chính nhằm thúc đẩy sự phát triển của các DNVVN tại Việt Nam, Hà Nội. 4. Trần Minh Châu (2000), "Hỗ trợ DNVVN trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực", Nghiên cứu lý luận, (3), tr. 29-31. 5. Nguyễn Cúc (2000), Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đến năm 2005, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 6. Cục thống kê Quảng Ngãi (2000), Quảng Ngãi: Tiềm năng và động thái kinh tế 1990 - 1999, Xí nghiệp in Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. 7. Cục thống kê Quảng Ngãi (2001), Niên giám thống kê 1996 - 2000, Công ty in Thống kê và sản xuất bao bì Huế, Huế. 8. Cục thuế Quảng Ngãi (2002), Báo cáo tổng kết công tác thu thuế năm 2001, Quảng Ngãi. 9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. 10. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. 11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 13. Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ XVI, Xí nghiệp in Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. 14. Vũ Bá Định (2001), "Từ kinh nghiệm về chính sách hỗ trợ vốn đối với DNVVN", Thương mại, (1), tr. 31-32. 15. Trịnh Quang Hạo (2002), "Kinh tế tư nhân ở Quảng Ngãi. Thực trạng và định hướng phát triển ", Báo Quảng Ngãi, (1175), tr. 1-2. 16. Hoàng Văn Hoa (2002), "Tạo điều kiện để DNVVN phát triển", Báo Nhân dân, (17.128), tr. 6 17. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2000), Báo cáo kết quả nghiên cứu dự án chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN trong nông thôn Việt Nam, Hà Nội. 18. Hội đồng Liên minh các HTX Quảng Ngãi (2001), Báo cáo tổng kết kinh tế hợp tác và HTX phi nông nghiệp tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. 19. Đỗ Mạnh Khởi (2000), "Một số kiến nghị hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô, nhằm thúc đẩy sự phát triển các DNVVN ở Việt Nam", Kinh tế và dự báo, (3), tr. 17- 18. 20. Vương Liêm (2000), Doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 21. Lương Tấn Luận (2002), "Để tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Cơ chế tài chính cần đi trước một bước", Thuế nhà nước, (8), tr. 62-63. 22. Dương Bá Phượng (1996), Phát triển DNVVN ở nông thôn trong quá trình công nghiệp hóa và chuyển sang nền kinh tế thị trường, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 23. Sở Khoa học, Công nghệ và Môi trường Quảng Ngãi (2000), Báo cáo kết quả khảo sát đánh giá thực trạng máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ sản xuất của các DNNN tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. 24. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Quảng Ngãi (2001), Thực trạng và giải pháp giải quyết lao động và việc làm ở nông thôn Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. 25. Sở Công nghiệp Quảng Ngãi (2001), Công nghiệp Quảng Ngãi thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ phát triển ngành trong giai đoạn 2001 - 2005, Quảng Ngãi. 26. Sở Thủy sản Quảng Ngãi (2001), Đề án phát triển thủy sản tỉnh Quảng Ngãi đến năm 2005 và 2010, Quảng Ngãi. 27. Sở Tài chính vật giá Quảng Ngãi (1999), Chiến lược tài chính giai đoạn 2000-2010, Quảng Ngãi. 28. Sở Tài chính vật giá Quảng Ngãi (2002), Tổng hợp báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh DNNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi năm 2001, Quảng Ngãi. 29. Sở Tài chính vật giá Quảng Ngãi (2002), Tổng hợp báo cáo tài chính DNNN trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi năm 2001, Quảng Ngãi. 30. Nguyễn Thanh Sơn (2002), "Cơ chế tài chính đối với kinh tế tư nhân: Nắm cái gì và thả cái gì?", Tài chính, (451), tr. 91-92 31. Schumacher (1994), "Nhỏ là đẹp. Về lợi thế của quy mô vừa và nhỏ trong kinh tế", Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 32. Lê Viết Thái, Trần Đình Hào, Nguyễn Đình Cung, Tô Đình Thái, Hoàng Văn Thành (2000), Báo cáo nghiên cứu DNVVN - Hiện trạng và những kiến nghị giải pháp, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội. 33. Hoàng Công Thi, Phạm Thị Hồng Vân (2000), Tạo lập môi trường tài chính bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội. 34. Phạm Ngọc Thước (1999), "DNVVN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - Thực trạng và giải pháp", Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. 35. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2001), Báo cáo kết quả khảo sát kinh tế tư nhân (loại hình DNTN, công ty TNHH, CTCP, Quảng Ngãi. 36. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2001), Thực trạng tình hình và một số giải pháp thực hiện công tác cán bộ của tỉnh trong thời gian đến, Quảng Ngãi. 37. Tỉnh ủy Quảng Ngãi (2002), Chương trình hoạt động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng khóa IX về việc tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân, Quảng Ngãi. 38. Nguyễn Mỹ Trinh (2000), "DNVVN ở nước ta. Tiềm năng và hạn chế", Phát triển kinh tế , (114), tr. 23-24. 39. Trung tâm hỗ trợ, phát triển HTX- DNVVN Quảng Ngãi (2001), Những văn bản hiện hành cần thiết dành cho cán bộ quản lý: HTX, DNVVN, Xí nghiệp in Quảng Ngãi , Quảng Ngãi. 40. Nguyễn Minh Tú (2001), Một số vấn đề cơ bản về đổi mới kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 41. Vũ Quốc Tuấn, Hoàng Thái Hòa (2001), Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm nước ngoài và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội. 42. Vũ Quốc Tuấn (2001), "Khuyến khích doanh nghiệp nhỏ và vừa", Thời báo kinh tế Việt Nam, (147), tr. 12. 43. Vũ Quốc Tuấn (2001), Doanh nghiệp doanh nhân trong kinh tế thị trường, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội. 44. Đỗ Minh Tuấn (2002), "Sử dụng chính sách tài chính hỗ trợ phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ", Tài chính, (7), tr. 24-27. 45. UBND tỉnh Quảng Ngãi (1995), Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Ngãi thời kỳ 1996-2010, Xí nghiệp in Quảng Ngãi, Quảng Ngãi. 46. UBND tỉnh Quảng Ngãi (2002), Đề án sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN tỉnh Quảng Ngãi giai đoạn 2002-2005, Quảng Ngãi. 47. UBND tỉnh Sơn La (2000), Phát triển DNVVN để thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn ở Sơn La, Sơn La. 48. Viện Chiến lược phát triển (2001), Cơ sở khoa học của một số vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phụ lục 3 khảo sát tình hình SXKD của doanh nghiệp (Số lượng: 27 DN) TT Các chỉ tiêu ĐVT Năm 2000 Tính đến tháng 6/2001 1 Tổng giá trị sản phẩm Trong đó: Giá trị sản phẩm xuất khẩu Tr. đồng Tr. USD 159.841,4 0,668 82.786,7 0,274 2 Tổng vốn kinh doanh - Tổng vốn đăng ký - Tổng vốn đăng ký đã thực hiện - Tổng vốn đầu tư kinh doanh Trong đó: Vốn vay - Tổng vốn cố định Tr. đồng Tr. đồng Tr. đồng Tr. đồng Tr. đồng 38.737 32.438 46.476,1 13.997 31.334 48.335 43.168 56.328,1 25.399 38.433 3 Số lao động Tổng số lao động Người 802 813 Trong đó: - Số có ký hợp đồng lao động - Số có bảo hiểm xã hội - Số đã qua đào tạo - Số được hưởng phúc lợi tập thể Người Người Người Người 128 57 177 14 174 94 244 24 4 Tự đánh giá trình độ trang thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp - Khá - Trung bình - Kém DN DN DN 7 19 1 9 18 0 5 Tổng số thuế nộp Tr.đồng 636,465 645,3 6 Đóng góp vào hoạt động đền ơn, đáp nghĩa, nhân đạo từ thiện Tr.đồng 18,9 13,4 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư Quảng Ngãi. Mục lục Trang Mở đầu 1 Chương 1: doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa, hiện đại hóa 6 1.1. Sự phát triển lý luận và quan điểm về doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam 6 1.2. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta 17 1.3. Kinh nghiệm về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ 26 Chương 2: thực trạng Doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 34 2.1. Những đặc điểm tự nhiên và kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ngãi 34 2.2. Tình hình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 41 Chương 3: Quan điểm và những giảI pháp chủ yếu nhằm 76 phát triển Doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng NgãI 3.1. Những quan điểm và một số chỉ tiêu chủ yếu về phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 76 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi 80 kết luận 106 danh mục tàI liệu tham khảo 109 phụ lục 113

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLUẬN VĂN- Phát triển và phát huy tiềm lực của các DNVVN trên địa bàn tỉnh Bình Định.pdf
Luận văn liên quan