Luận văn Phát triển Xuất khẩu thủy sản ở thành phố Đà Nẵng Thực trạng và giải pháp

Thành phố cần thường xuyên tổ chức hội chợ quốc tế thuỷ sản hàng năm tại Đà Nẵng để cho các doanh nghiệp thuỷ sản được tham dự và Lãnh đạo Thành phố nên đề xuất với Bộ Thuỷ sản tổ chức hội chợ quốc tế về thuỷ sản ở nước ngoài nhằm quảng bá hàng thuỷ sản Việt Nam và quảng bá thương hiệu của Doanh nghiệp Đà Nẵng. Thành lập các Văn Phòng đại diện thương mại của Ngành và các doanh nghiệp tại các thị trường xuất khẩu lớn và mạnh.

pdf116 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3350 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phát triển Xuất khẩu thủy sản ở thành phố Đà Nẵng Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trường mạnh với vai trò đối tác lớn đòi hỏi chính quyền địa phương phải chủ động kêu gọi mọi thành phần kinh tế, mọi công dân của địa phương ở các nơi trong nước và trên thế giới, là Kiều bào ở nước ngoài, là các doanh nghiệp lớn, huy động tổng các lực lượng kinh tế đang làm công tác xuất khẩu thuỷ sản hay những ngành nghề khác có vai trò hỗ trợ cho ngành thuỷ sản Đà Nẵng phát triển. Bên cạnh đó Đà Nẵng phải xây dựng hình ảnh của mình và chính quyền có những chính sách ưu đãi để các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào đầu tư cho Đà Nẵng, nhằm thay đổi, nâng cao tính hiện đại của thiết bị, mở rộng nhà máy chế biến thuỷ sản, phát huy lợi thế cạnh tranh của mình... Để sản phẩm thuỷ sản Đà Nẵng đi sâu, đứng vững và ổn định trên các thị trường thì Thành phố phải có giải pháp huy động tối đa các nguồn lực kinh tế của Đà Nẵng như: Lực lượng kinh tế Nhà nước, Lực lượng kinh tế tư nhân và một lực lượng lớn kiều bào nước ngoài, là những thương nhân, tri thức, là nhà khoa học... có nhiều kinh nghiệm kinh doanh, có tiềm năng về tài chính, hiểu biết nhiều về thị trường sở tại. Bên cạnh đó Thành phố phải cải thiện tốt môi trường đầu tư với những cơ chế chính sách đồng bộ và hấp dẫn hơn để thu hút ngày càng nhiều dự án đầu tư cho ngành thuỷ sản xuất khẩu.Phải đa dạng hoá các hoạt động xúc tiến đầu tư trên các diễn đàn trong nước và ngoài nước, bằng nhiều hình thức và các kênh khác nhau. Ưu tiên xúc tiến đầu tư cho các dự án thuỷ sản kêu gọi vốn trong giai đoạn 2001-2010. Đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá thành phố Đà Nẵng với quốc tế; vừa thu thập, cung cấp thông tin tới các doanh nghiệp, nhà đầu tư có nhu cầu và tăng khả năng hợp tác với Đà Nẵng. Đồng thời hệ thống hoá các văn bản pháp luật kinh tế của Chính quyền Trung ương và địa phương liên quan để cung cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài.Và Thành phố phải giải quyết tâm lý phân biệt chính sách giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Cơ sở hạ tầng cần được đầu tư liên tục để hỗ trợ cho các nhà đầu tư đảm bảo chi phí sản xuất ở mức thấp nhất. Trên cơ sở phân tích Thành phố phải thu hút các dự án đầu tư cho ngành thuỷ sản phải ưu tiên cho các dự án có vốn đầu tư lớn và lâu dài. Nên chăng Thành phố thành lập các chi nhánh quĩ hỗ trợ phát triển thuỷ sản,và nguồn đầu tư từ vốn vay 3.3. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG Đà Nẵng Thành phố Trung ương, trung tâm kinh tế cho khu vực Miền Trung. Để phát triển kịp như khu vực kinh tế hai đầu. Theo tinh thần của các kỳ Đại hội Đảng cần phải nhanh chóng đẩy mạnh công cuộc đổi mới góp phần thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội đề ra cho năm 2010.Khuyến khích tạo điều kiện thuận lợi và hấp dẫn để các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đang và sẽ đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh thuỷ sản trên địa bàn, với công nghệ mới, đồng bộ, hiện đại, để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao chu trình sản xuất, bảo quản nguyên liệu sản xuất xuất khẩu.Đồng thời giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống, y tế, giáo dục, văn hoá xã hội cho người lao động.Và nâng cao ý thức, trách nhiệm của mình đối với cuộc sống hiện đại. Để đáp ứng được nhu cầu hỗ trợ cho các tỉnh trong khu vực Miền trung về công nghệ mới, thiết bị hiện đại, kỹ thuật tiên tiến thì Đà Nẵng phải thành lập nhiều trung tâm đào tạo, nhiều trung tâm nghiên cứu các thiết bị công nghệ mới phải có nhiều chính sách thu hút được nhân tài về với Đà Nẵng để cùng hợp tác nghiên cứu... nhằm mở rộng tầm nhìn, bắt kịp bước đi của thời đại công nghệ thông tin, chỉ có vậy thì Đà Nẵng mới phát triển mạnh và là đầu tàu để kéo các toa tàu của khu vực Miền trung này. 3.3.1. Đổi mới các chính sách xuất khẩu thuỷ sản + Đối với Bộ Thuỷ sản: Do đặt thù của Miền Trung bảo lụt thường xuyên, nguồn nguyên liệu không bằng hai đầu đất nước và thời tiết, khí hậu, môi trường không hấp dẫn đối với các nhà đầu tư. Chính vì điều đó, để hỗ trợ cho thuỷ sản xuất khẩu các tỉnh khu vực miền Trung phát triển, Bộ phải có một đội ngũ chuyên sâu về nghiên cứu các chính sách, chủ trương đường lối của Đảng và Chính Phủ để tham mưu cho Bộ đưa ra các quyết sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Miền Trung này, trong đó có Thành phố Đà Nẵng làm sao ngày càng phát triển, đi đúng quĩ đạo, đường lối chủ trương của Nhà nước và thực hiện tốt chức năng doanh nghiệp của mình. + Chính sách chung: * Cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu thuỷ sản: Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản hoặc các nhà đầu tư thì chính sách quản lý của Nhà nước rất quan trọng và cần thiết.Vì vậy để đáp ứng điều đó Nhà nước phải sớm ban hành các chính sách, văn bản pháp quy rỏ ràng cụ thể, các luật và văn bản dưới luật có liên quan...của Việt Nam tạo nền tảng pháp lý trong việc quản lý hoạt động thuỷ sản của Viêt Nam, hoàn thiện bổ sung pháp lệnh bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản để đảm bảo nguồn lợi lâu dài phù hợp với khả năng điều kiện đánh bắt của mình. Nhà nước cần cải cách thủ tục hành chính, đơn giản các thủ tục đăng ký việc đóng mới tàu thuyền đánh bắt xa bờ và các thủ tục di chuyển ngư trường trong khai thác theo hướng khuyến ngư mở rộng ngư trường khai thác, không hạn chế địa giới hành chính. Đối với các doanh nghiệp đầu tư khai thác hải sản trên Biển Đông Nhà nước nên giảm hoặc miễn thuế và lệ phí khai thác hoặc các lệ phí khác như: trước bạ, cấp giấy phép hoạt động, phí đăng kiểm, giấy phép di chuyển ngư trường...đến mức vừa đủ chi phí cho các thủ tục trên. Mở rộng qui mô cho vay với lãi suất ưu đãi và thời hạn vay vốn được giãn ra đối với chính sách tín dụng, đầu tư hỗ trợ khai thác và đánh bắt xa bờ. Liên doanh hợp tác đầu tư với nước ngoài, tạo thuận lợi cho đối tác với các chính sách khuyến khích để hợp tác tăng cường khả năng thăm dò ngư trường ở các vùng biển xa bờ. Một số chính sách thuế được thay đổi cho phù hợp với người nuôi trồng thuỷ sản như: Tính thuế sử dụng mặt nước nuôi trồng thuỷ sản đồng hạng với đất sản xuất nông nghiệp và thời gian nộp thuế linh động theo thời gian thu hoạch sản phẩm, và người nuôi trồng được miễn giảm thuế như sản xuất nông nghiệp khi gặp thiên tai, dịch bệnh và được xoá bỏ các loại thuế môn bài, VAT.Có chính sách ưu đãi cho các phương án đầu tư nuôi trồng thuỷ sản ở những nơi khô cằn và không hiệu quả với sản xuất nông nghiệp Ban hành và áp dụng chính sách bảo hiểm rủi ro cho nuôi trồng thuỷ sản. Đối với các hộ, doanh nghiệp nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu khi ký hợp đồng với các nhà máy chế biến xuất khẩu thuộc vùng qui hoạch tập trung thì được ưu tiên cho vay vốn, và tăng mức hạng ngạch cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp nuôi trồng các loại thuỷ sản xuất khẩu chiến lược. Ban hành một số chính sách khuyến khích nhập khẩu nguyên liệu như: Trợ giá cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu cho sản xuất và miễn thuế nhập khẩu nguyên liệu thuỷ sản. Các hàng hoá thuỷ sản được sản xuất và xuất khẩu bằng nguyên liệu nhập khẩu thì được miễn giảm thuế xuất khẩu. Hỗ trợ lãi suất cho các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ theo chiều sâu để chế biến các mặt hàng có giá trị gia tăng cao phục vụ cho xuất khẩu. Nhà nước có qui định cụ thể đối với những cá nhân người nước ngoài hoặc những tổ chức muốn trực tiếp thu mua nguyên liệu hải sản phải thông qua nhà máy hoặc phải tham gia đầu tư vào việc đánh bắt nuôi trồng thuỷ sản đã tạo ra nguồn nguyên liệu đó. Trong ngành thuỷ sản, Nhà nước phải thiết lập qui định về thẩm định và công nhận việc áp dụng HACCP cho ngành, đồng thời Nhà nước phải đầu tư kinh phí nâng cao năng lực kỹ thuật cho các cơ quan có thẩm quyền để thực hiện nhiệm vụ này. Tăng cường kiểm soát vệ sinh an toàn với một số đơn vị không phải là các doanh nghiệp sản xuất chế biến như: Vùng nuôi trồng thuỷ sản, bến cá, cảng cá, chợ cá. * Chính sách hỗ trợ hoạt động xuất khẩu đối với ngành thuỷ sản: Sớm thành lập qũi hỗ trợ phát triển thuỷ sản và quĩ hỗ trợ xuất khẩu thuỷ sản nhằm bổ sung vốn cho các dự án, trợ giá hàng hoá thuỷ sản và trợ giúp cho các doanh nghiệp khi gặp rủi ro. Nhà nước có trách nhiệm hỗ trợ cho các doanh nghiệp thường xuyên, liên tục về thông tin thị trường thuỷ sản của thế giới, về tài chính, sản lượng, tỷ giá, pháp luật,... đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại để mở rộng hơn nữa mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam có khả năng phát triển sản xuất. Đồng thời, Nhà nước dự báo tình hình thị trường, để đưa ra những chiến lược vĩ mô tạo cho doanh nghiệp có những chương trình xuất khẩu phù hợp với từng thời điểm, đáp ứng nhanh chóng các nhu cầu về thông tin thị trường cho các donh nghiệp hạn chế tối đa những thua thiệt của các doanh nghiệp do chưa hoặc không hiểu biết rỏ về thị trường. Thông qua lãnh sự quán, thông qua văn phòng đại diện ở nước ngoài, thông qua hội chợ, thông qua các kênh quan hệ... Nhà nước hỗ trợ và khuyến khích và tiếp thị quảng bá hình ảnh Việt Nam và sản phẩm thuỷ sản Việt Nam.Bên cạnh đó Nhà nước tăng cường đầu tư kinh phí hỗ trợ đào tạo đội ngũ quản lý kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản và Marketing. Nhà nước tạo điều kiện cho các nhà đầu tư và các thành phần kinh tế trong và ngoài nước được tham gia xây dựng và nâng cấp các cơ sở hạ tầng nghề cá, hệ thống kênh mương thủy lợi, cơ sở hậu cần nghề cá và công nghệ mới cho ngành nhằm thu hút vốn đầu tư của các thành phần trên. Nâng cao tầm quan trọng của hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản (VASEP), thiết lập, mở rộng mối quan hệ giữa các hiệp hội nghề cá của các nước ASEAN. + Chính sách của Đà Nẵng: Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu để đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu. Tiến hành sắp xếp lại các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu trong Thành phố nhằm hạn chế mức độ cạnh tranh nguyên liệu làm giảm đi sức mạnh của ngành trong Thành phố. Tăng cường cải tạo và nâng cao xây dựng cơ sở hạ tầng như đường, điện, nước,và giải quyết khâu thoát nước trong khu công nghiệp và các đơn vị chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu tránh gây ô nhiểm môi trường trong khu vực. Xây dựng, phát triển hạ tầng và có cơ chế khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào khu công nghiệp chế biến Thọ Quang, tạo điều kiện để kinh tế tư nhân đầu tư sản xuất hàng thuỷ sản xuất khẩu như: địa điểm sản xuất, ưu đãi tiền thuê đất, vốn vay tín dụng nhằm khai thác, thu mua, tập trung chế biến nguyên liệu thuỷ sản của các tàu đánh bắt thuỷ sản của Miền Trung và Cả nứơc. Khuyến khích các thành phần kinh tế có chương trình liên doanh, liên kết với các tỉnh duyên hải Miền Trung để đầu tư vùng nguyên liệu, phối hợp cung ứng nguyên liệu phục vụ cho sản xuất và xuất khẩu. Có chính sách hỗ trợ và phát huy nội lực của các doanh nghiệp thuỷ sản nhằm đổi mới mở rộng và gia tăng đầu tư máy móc thiết bị công nghệ hiện đại để sản xuất chế biến đông lạnh thuỷ sản tinh chế tại các doanh nghiệp như: Công ty Thuỷ Sản Thương mại Thuận Phước, Công Ty Kinh doanh chế biến hàng xuất khẩu, Công ty Xuất Nhập Khẩu thuỷ sản Miền Trung.... Nghiên cứu thị hiếu tiêu dùng của một số thị trường có sức nhập khẩu lớn như: Nhật, EU, Mỹ, Trung Quốc để đa dạng hoá mặt hàng, nâng cao chất lượng, bảo vệ uy tín sản phẩm, xây dựng thương hiệu và nhãn hiệu hàng hoá để thâm nhập sâu và ổn định. Xây dựng Đà Nẵng trở thành điểm đi và đến của xuất khẩu hàng hoá, là đầu mối giao lưu trung chuyển hàng thuỷ sản của khu vực. Xây dựng trung tâm giao dịch hàng thuỷ sản, chú trọng phát triển hệ thống các doanh nghiệp thương mại làm chức năng thu gom xuất khẩu. Xây dựng chợ đầu mối, bán buôn hàng thuỷ sản thu hút hàng hoá từ các tỉnh miền Trung. Hỗ trợ và khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thành lập và mở rộng các dự án kêu gọi vốn đầu tư của nước ngoài. + Thông tin: Hiện nay sản phẩm thuỷ sản Đà Nẵng đã có mặt trên nhiều thị trường thế giới nhưng hỏi cụ thể thì người tiêu dùng không biết sản phẩm Việt Nam nói chung sản phẩm Đà Nẵng nói riêng là gì, ở đâu. Đó là điều mà doanh nghiệp Việt Nam phải suy nghĩ và đưa ra hướng giải quyết vấn đề này. Thông tin không phải là tìm thông tin thị trường, giá cả, mặt hàng, nơi tiêu thụ tốt nhất...là đủ, đó mới chỉ là một phần của thông tin, mà thông tin là truyền đi tất cả những gì ta có thể đưa ra thị trường và nhận lại tất cả những gì thị trường có và được chọn lọc.Chính điều đó các doanh nghiệp Đà Nẵng phải cần khẵng định thương hiệu sản phẩm mình, phải đảm bảo đúng chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm.Qua quảng cáo Internet, qua sách báo, qua hội chợ, qua việc sử dụng hình thức và cách đóng gói sản phẩm mình...kể cả qua khách hàng nhằm quảng bá thương hiệu của mình, chất lượng sản phẩm mình. Đồng thời, phải dựa vào chính sách của Nhà nước để nâng cao vai trò thương mại của doanh nghiệp. Hiện nay, lãnh đạo Thành phố đã hỗ trợ nhiều nhưng các doanh nghiệp Đà Nẵng chưa phát huy hết các chủ trương của Thành phố. + Xúc tiến thương mại: Lãnh đạo Thành phố đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất thuỷ sản xuất khẩu thường xuyên mở hội chợ với tầm cở quốc tế, lồng ghép với lễ hội văn hoá địa phương, quảng cáo mạnh trên Internet, dựa trên trang Web của Bộ thuỷ sản để gây ấn tượng cho khách hàng về sản phẩm của doanh nghiệp mình.Đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thường dự các hội chợ ở nước ngoài như Hội chợ thuỷ sản ở Bỉ, Boston tại Mỹ... song song với hội chợ là những hội thảo khoa học quốc tế chuyên đề về giống, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản, và tiềm lực công nghệ đồng thời quảng bá thương hiệu của các doanh nghiệp địa phương. Thành phố chỉ đạo cho sở thương mại triển khai chiến lược hằng năm và có kiểm tra, đánh giá, phối hợp với các cơ quan liên quan trong nước và quốc tế tổ chức các hội nghị, hội thảo...về từng thị trường; nhu cầu, tập quán, thị hiếu...trong công tác phát triển thị trường.Tổ chức phát triển mạnh xúc tiến thương mại nhất là thương mại điện tử, tham mưu cho Lãnh đạo Thành phố thực hiện các chính sách mới của Chính phủ,Thành phố nhằm thúc đẩy xuất khẩu đạt được mục tiêu đề ra. + Chính sách: Trên tinh thần hỗ trợ tuyệt đối với các doanh nghiệp Đà Nẵng Lãnh Đạo Thành phố đã tăng cường mối quan hệ tốt với các Bộ, Ngành Trung ương, địa phương nhằm nắm bắt kịp thời những cơ chế, chính sách ưu đãi, nguồn vốn, nguồn quĩ phát triển... cho hoạt động xuất khẩu thuỷ sản như: Nguồn quĩ hỗ trợ xuất khẩu cuả Thành phố, quĩ hỗ trợ phát triển của Chính phủ và các nguồn tín dụng khác: Chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia... Phối hợp đồng bộ giữa các ngành chức năng; thương mại, công nghiệp, kế hoạch đầu tư, hải quan, thống kê, thuế, cảnh sát kinh tế và các ngành liên quan khác nhằm quản lý tốt hoạt động xuất nhập khẩu, hướng các doanh nghiệp kinh doanh theo đúng pháp luật [28, tr.18] + Vốn : Như hiện nay, trên địa bàn Đà Nẵng có các loại hình doanh nghiệp: doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài. Các nguồn vốn của doanh nghiệp Đà Nẵng có thể huy động bằng nhiều nguồn như: Thứ nhất: Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp. Thứ hai: Vay vốn từ quĩ hỗ trợ phát triển và các ngân hàng thương mại, chính sách này các doanh nghiệp xuất khẩu của Thành phố được sự quan tâm của Lãnh đạo tạo điều kiện vay nhanh, kịp thời. Thế nhưng phải có phương án thiết thực và được thẩm định trước khi cho vay, nhằm để đảm bảo doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và chống thất thoát vốn vay của Nhà nước. Thứ ba: Cổ phần hoá sớm các doanh nghiệp Nhà nước khi đủ điều kiện để có vốn cho đầu tư. Điều này không chỉ giúp giải quyết vấn đề vốn mà còn hạn chế sự trì trệ, ỷ lại doanh nghiệp Nhà nước, nâng cao vai trò cổ đông và phát huy tính sáng tạo trong sản xuất, năng động tìm kiếm thị trường, đa dạng hoá sản phẩm. Thứ tư: kêu gọi vốn, hợp tác đầu tư cùng đối tác nước ngoài trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, và đi đúng quĩ đạo của luật pháp Việt Nam. Đây cũng là cơ hội để doanh nghiệp thu hút vốn đầu tư của nước ngoài, nâng cao công nghệ,và học hỏi thêm kinh nghiệm quản lý và nâng cao vị thế của mình trên thương trường. 3.3.2. Tạo nguồn nguyên liệu bền vững và gắn kết với các vùng nguyên liệu Muốn thúc đẩy XKTS của Ngàng thuỷ sản Việt Nam nói chung, Đà Nẵng nói riêng đòi hỏi phải có giải pháp làm giảm những yếu tố bất ổn ảnh hưởng đến việc tăng trưởng xuất khẩu thuỷ sản. Ổn định kinh doanh Xuất khẩu thuỷ sản bao gồm hai vấn đề là tạo lập, phát triển môi trường kinh doanh và ổn định, mở rộng vùng nguyên liệu đầu vào cho hoạt động chế biến xuất khẩu. Điều này được giải quyết thông qua những giải pháp cụ thể sau: Luật thuỷ sản ra đời tạo hành lan pháp lý cho hoạt động đầu tư thuỷ sản tạo cơ sở thực hiện kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh thuỷ sản và xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật có liên quan đến thuỷ sản. Để nâng cao vai trò xuất khẩu thuỷ sản của Thành phố Đà Nẵng thì Thành phố phải giải quyết khâu nguyên liệu thuỷ sản cho chế biến xuất khẩu một cách bền vững. Để làm tốt vai trò phục vụ cho xuất khẩu cần phải: Chiến lược con giống thuỷ sản: Giống là khâu then chốt trong quá trình sản xuất, nuôi trồng.Như theo quyết định số 112/2004/QĐ-TTg ngày 23 tháng 6 năm 2004 của Thủ Tướng chính Phủ phê duyệt chương trình phát triển giống thuỷ sản đến năm 2010. Qui hoạch sản xuất giống, lưu thông giống, đảm bảo giống an toàn và sạch bệnh, giá cả phù hợp và tạo mọi điều kiện hỗ trợ cho người nuôi trồng. Từng bước công nghiệp hoá các trại giống như: trại giống Non nước... nhằm tạo các giống có giá trị kinh tế cao và lưu trử gien các giống đặc trưng của khu vực, đồng thời đào tạo con người, hỗ trợ cách quản lý giống, hướng dẫn các qui trình nuôi, chọn giống và chuyển giao công nghệ sinh sản cho địa phương. Bằng nhiều hình thức quan hệ, nghiên cứu, hợp tác liên doanh liên kết với các tỉnh bạn hoặc các nước có công nghệ cao trong khu vực và trên thế giới trong lĩnh vực chọn giống, công nghệ sinh học, công nghệ di truyền... và công nghệ xử lý nước thải, phòng dịch trừ bệnh, và công nghệ chuẩn đoán... Quản lý và phát triển nguồn nguyên liệu thuỷ sản ngày càng bền vững Đối với nuôi trồng thuỷ sản: Nuôi trồng thuỷ sản có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu thuỷ sản trên địa bàn Đà Nẵng, trên cơ sở tạo nguồn nguyên liệu ổn định và phát triển, chủ động kiểm soát được chất lượng vệ sinh của nguồn nguyên liệu, chủ động lựa chọn các sản phẩm có giá trị cao có nhu cầu lớn, đào thải những sản phẩm kém hiệu quả và cũng là cơ sở làm giảm áp lực về nguyên liệu, góp phần hạn chế được đánh bắt thuỷ sản gần bờ, tạo điều kiện phục hồi nguồn lợi hải sản và giải quyết công ăn việc làm cho các ngư dân vùng ven biển nuôi trồng thuỷ sản. Thành phố liên kết với các tỉnh lân cận, qui hoạch và đầu tư hỗ trợ kỹ thuật các vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung, qui mô lớn, công nghệ tiên tiến theo mô hình sinh thái bền vững. Dựa trên tinh thần nghị quyết 09/2000/NQ- CP về chuyển đổi mục đích nông nghiệp không hiệu quả sang nuôi trồng thuỷ sản áp dụng khoa học công nghệ cao, công nghệ mới từng bước được hiện đại hoá,vươn lên trở thành ngành sản xuất có sức cạnh tranh cao, có năng xuất và hiệu quả. Cải tạo sửa chửa lại hệ thống kênh mương thuỷ lợi phục vụ cho nuôi trồng, mở rộng nuôi trồng thuỷ sản những vùng đất khô cằn không hiệu quả cho trồng trọt nông nghiệp và vùng đất và mặt nước còn hoang dã và đất cát ven biển miền Trung, đồng thời xây dựng các mô hình sản xuất hợp tác xã, các câu lạc bộ các tổ chức hợp tác nuôi trồng thuỷ sản...cùng sản xuất, cùng quản lý vùng nuôi,...Sự chuyển đổi này đã tạo nên sự tăng trưởng mạnh về diện tích nuôi và sản lượng tôm sú các tỉnh trong khu vực trong năm năm qua. Đối với khai thác thuỷ sản: Các chính sách được ban hành trong thời gian qua đã phát huy tác dụng và tạo cơ sở cho phát triển đánh bắt hải sản xa bờ. Mặc dù có những thiếu sót nhất định trong quá trình triển khai thực hiện chủ trương đúng đắn này của Chính phủ, song chính sách này đã tạo động lực thúc đẩy sự vươn khơi mạnh mẽ của ngư dân cả nứơc trong đó Đà Nẵng cũng góp phần đáng kể. Nếu chúng ta tiếp tục đầu tư hướng này một cách toàn diện từ việc thẩm định dự án, giám sát việc thực hiện dự án đóng tàu xa bờ, đến đào tạo ngư dân, nghiên cứu dự báo ngư trường, nghiên cứu chuyển giao công nghệ thích hợp công nghệ khai thác và bảo quản sau thu hoạch phù hợp cho ngư dân hoạt động tốt trên biển, đồng thời đưa các trang thiết bị hiện đại vào để hỗ trợ cho ngư dân thì chính sách này trong thời gian tới sẽ chuyển nghề cá nhân dân nhỏ sang thành nghề cá hiện đại, có thể hội nhập được với Khu vực trong thời kỳ hội nhập. Chủ trương đầu tư phát triển và mở rộng một số cảng cá lớn tại các tụ điểm nghề cá trong vùng trọng điểm như Thuận Phước (Bằng vốn ODA), khu liên hợp cảng cá, dịch vụ hậu cần, âu thuyền trú bão, khu công nghiệp Thọ Quang đã phục vụ tốt cho nghề cá trong vùng. Các cảng này đã thu hút nhiều tàu cá về cảng kể cả tàu của Đà Nẵng lẫn với các tỉnh lân cận. Lượng thuỷ sản qua cảng (thuận Phước), được đảm bảo vệ sinh từ khâu bốc dỡ, xử lý phân loại, bảo quản,... Phát huy vai trò của các chủ nậu vựa trong việc cung ứng nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu. Đây là lực lượng thuộc thành phần kinh tế tư nhân, họ đã đóng góp một phần không nhỏ vào vai trò cung ứng nguyên liệu các nhà máy ở Đà Nẵng và cấp tín dụng cho ngư dân trong việc thực hiện dịch vụ hậu cần nghề cá vì nghề cá Việt Nam nói chung Đà Nẵng nói riêng có đặc thù mang nặng tính phân tán qui mô nhỏ thiếu vốn đầu tư như hiện nay, sự tồn tại của lực lượng này là một yêu cầu mang tính khách quan. Tuy nhiên là lực lượng kinh tế này mang tính tự phát nên phát sinh ra một số hạn chế như: không đảm bảo chất lượng nguyên liệu, trong việc thoả thuận giá cả bán buôn... Để phát huy vai trò chủ nậu trong hệ thống dịch vụ cung ứng nguyên liệu thuỷ sản Cần phải: Tiến hành ký kết các hợp đồng thu mua nguyên liệu dài hạn giữa các nhà máy và chủ nậu trong đó hợp đồng phải ghi rỏ trách nhiệm đôi bên từng điều khoản về chất lượng nguyên liệu, vệ sinh an toàn thực phẩm cho nguyên liệu, giá cả theo thị trường từng thời điểm...,đồng thời nâng cao năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của các chủ nậu vựa nhỏ, hạn chế việc tranh mua tranh bán trước đây trong cung ứng nguyên liệu thuỷ sản. Thành phố mở rộng liên doanh liên kết với các nước đã phát triển việc đánh bắt hải sản xa bờ trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tác đầu tư công nghệ, kỹ thuật và vốn để hợp tác, mở rộng ngư trường đánh bắt sao cho đôi bên cùng có lợi. 3.3.3. Các giải pháp về mở rộng thị trường Để hạn chế ảnh hưởng khi những thị trường truyền thống gặp khó khăn và cũng chính điều đó mà các doanh nghiệp XKTS phải cần thực hiện tốt việc nghiên cứu thị trường, xác định cung cầu dài hạn, đánh giá đúng tiềm năng nhập khẩu, tiêu thụ thuỷ sản của Việt Nam nói chung của Đà Nẵng nói riêng đồng thời xây dựng chiến lược cạnh tranh với các đối thủ lớn trong khu vực, trong chiến lược cạnh tranh cần chú ý đến chiến lược giá cả, chất lượng. Bên cạnh việc duy trì thị trường truyền thống cần tham gia tích cực vào thị trường khu vực, tập trung mở rộng và từng bước chiếm lĩnh tốt thị trường châu Âu và Bắc Mỹ. Mặt khác, Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) cần chủ động phối hợp tốt hơn với Hiệp hội các nước xuất khẩu để đấu tranh chống lại việc áp đặt các hàng rào phi thuế quan của các nước nhập khẩu.Tăng cường sự liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra và cá Ba sa, giữa các doanh nghiệp này với các hộ nuôi cá nhằm giảm bớt sự phát triển tự phát, thống nhất giá và nâng cao chất lượng sản phẩm. Chỉ có như vậy, mới có thể tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường. Công tác xúc tiến thương mại, đăng ký thương hiệu sản phẩm trên thị trường thế giới cũng cần được chú trọng hơn nữa. Theo bà Nguyễn Thị hồng Minh (2002) đã nhận xét sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu Việt Nam chỉ tiếp cận được với các nhà nhập khẩu vừa và nhỏ. Nhiều sản phẩm của Việt Nam không có thương hiệu mà mang thương hiệu của nhà phân phối nước ngoài. Phần lớn các doanh nghiệp trông cậy vào các nhà phân phối khi tiếp cận thị trường. Tình trạng này cho thấy rằng cần có sự thay đổi lớn trong hoạt động hỗ trợ thương mại [21, tr.34]. Để xuất khẩu được tốt ta cần đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và công tác xúc tiến thương mại.Tổ chức hệ thống thông tin phản ánh kịp thời sự thay đổi thị trường, nhu cầu của người tiêu dùng. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và doang nghiệp Đà Nẵng nói riêng cần nghiên cứu khảo sát thị trường tìm kiếm bạn hàng, nghiên cứu kỹ nhu cầu tiêu dùng của từng nước để có sự am hiểu tận tường về thị trường. 3.3.4. Đổi mới cơ chế quản lý theo hướng phân định rõ trách nhiệm của Nhà nước, Hiệp hội, doanh nghiệp Nhà nước: Xây dựng hành lang pháp lý, tạo cơ chế chính sách thuận lợi trong khuôn khổ luật pháp để giúp doanh nghiệp phát triển thị trường: Tăng cường mạnh mẽ công tác thu thập và phổ biến thông tin về thị trường (Trung tâm xúc tiến thương mại), từ dự báo tình hình chung cho đến nhu cầu cung và cầu hàng hoá thuỷ sản đến doanh nghiệp bằng con đường ngắn nhất, tiết kiệm nhất, tốt nhất qua trang Website. Hỗ trợ một phần kinh phí, nguồn vốn để mở rộng thị trường, đặt chi nhánh,Văn phòng đại diện, triển lãm hội chợ, đầu tư ra nước ngoài, giới thiệu và quảng bá sản phẩm thuỷ sản. Hiệp hội: Các hiệp hội là những tổ chức, tập hợp đại diện cho những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chế biến xuất khẩu hàng thuỷ sản. Cần nâng cao vai trò hiệp hội trong lĩnh vực hợp tác Quốc tế, thống nhất tổ chức và phối hợp sản xuất chế biến và tiêu thụ sản phẩm một cách hiệu quả nhất, cùng tìm kiếm thị trường, định hướng phát triển sản xuất, chế biến và xuất khẩu. Các doanh nghiệp: Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chính doanh nghiệp là người thực hiện và đối mặt với môi trường cạnh tranh gây gắt trong và ngoài nước. Vì vậy doanh nghiệp phải chủ động xây dựng một chiến lược kinh doanh, chiến lược thị trường với tầm nhìn dài hạn, hạn chế trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước. Thu thập, xử lý, chọn lọc thông tin là hết sức quan trọng đối với quá trình phát triển của doanh nghiệp như: nắm bắt kịp thời cơ chế chính sách thay đổi của nhà nước (thuế, ưu đãi đầu tư...) và thông tin chiều sâu thị trường khu vực và quốc tế (các hàng rào thuế quan, tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm dịch...). Qua nhiều kênh để tiếp cận thị trường ngoài nước như: Hội thảo, hội nghị, triển lãm, hội chợ, đào tạo nước ngoài từ đó tiềm kiếm cơ hội hợp tác, đầu tư, chế biến xuất khẩu thuỷ sản. 3.3.5. Cải tiến, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ: nuôi trồng, đánh bắt, chế biến Hiện nay, để mở rộng ra thị trườngthế giới, đòi hỏi chất lượng sản phẩm thuỷ sản của Đà Nẵng phải áp dụng những tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng được yêu cầu qui định của HACCP. Xuất phát từ những lý do trên, vấn đề thay đổi thiết bị công nghệ, đầu tư mới và thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu đã được đặt ra. Đó là vấn đề cấp bách và bức xúc để đẩy mạnh sự phát triển của ngành công nghiệp chế biến, để tăng thị phần doanh số, uy tín trên thị trường trọng điểm cũng như trên thị trường thế giới. Khi sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt, hiệu quả giảm buộc một số doanh nghiệp phải mạnh dạn trong việc đầu tư đổi mới công nghệ và kết quả khá khả quan. Vì vậy, trong thời gian tới việc đầu tư vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ phục vụ cho việc đánh bắt xa bờ, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản tại Đà Nẵng là tất yếu và rất cần thiết. Để việc đầu tư được tiến hành thuận lợi và mang lại hiệu quả kinh tế cao đòi hỏi cần phải tuyển chọn và ứng dụng những công nghệ khai thác, nuôi trồng, chế biến tiên tiến phù hợp với điều kiện trong nước. Cần chú trọng phát triển các công nghệ sản xuất giống chất lượng tốt với các loài có giá trị kinh tế cao, công nghệ khai thác, đánh bắt Thuỷ sản xa bờ. Nhà nước cần sớm ban hành các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nhập khẩu các công nghệ hiện đại, bí quyết công nghệ, thuê chuyên gia giỏi của nước ngoài và tăng đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới, phát triển các mặt hàng mới. Một vấn đề cần được chú trọng là củng cố mở rộng hệ thống khuyến ngư tới huyện, xã nghề cá, phải đặt hệ thống này trong mối liên kết chặt chẽ với các viện nghiên cứu, các trường đại học nhằm chuyển giao trực tiếp công nghệ mới huấn luyện kỹ thuật cho người lao động nghề cá. Đẩy mạnh đổi mới công nghệ trong đánh bắt, nuôi trồng, sản xuất, chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu, thu hẹp khoảng cách về trình độ công nghệ so với các nước tiên tiến trong khu vực. Đi tắt đón đầu về công nghệ đối với những ngành mũi nhọn như ngành thuỷ sản là lựa chọn những các công nghệ thích hợp không gây ô nhiểm và khai thác được lợi thế về lao động. Chú trọng nhập khẩu những công nghệ mới, hiện đại, phù hợp với Việt Nam, tăng cường, cải tiến từng bộ phận, tiến tới tạo ra những công nghệ đặc thù Việt Nam.Hiện đại hoá công nghệ trong quản lý để giảm những chi phí không đáng có sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao. Áp dụng công nghệ hiện đại để khai thác nguồn nguyên liệu thuỷ sản tự nhiên và nguồn nguyên liệu nuôi trồng để tạo ra sản phẩm nhằm đáp ứng cho nhu cầu cuộc sống xã hội trong nước và xuất khẩu. Thay đổi công nghệ mới, ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất các đối tượng sản phẩm có thị trường tiềm năng, hoàn thiện qui trình sản xuất giống và nuôi các đối tượng thuỷ sản có hiệu quả kinh tế cao xuất khẩu được. Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ đánh bắt và bảo quản sau thu hoạch nhằm nâng cao năng suất, sản lượng và giá trị hải sản đánh bắt. Nghiên cứu các công nghệ chế biến các sản phẩm giá trị gia tăng, có thể bán trong các siêu thị như: các sản phẩm giả cua, giả tôm từ surimi, sushi, sashimi, tôm cá bao bột, cá cắt thỏi, xiên que, cá tẩm gia vị, tôm PTO, seafood mix, thực phẩm phối chế..., Nghiên cứu ứng dụng công nghệ xử lý và bảo quản cá ngừ đại dương, lưu giữ và vận chuyển tươi sống, tôm biển, cá biển và các đối tượng có giá trị kinh tế khác. Ứng dụng công nghệ bao gói mới, sử dụng mã vạch trong bao gói sản phẩm thuỷ sản. 3.3.6. Nâng cao nghiệp vụ, khả năng của các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Đối với một số doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố chưa chủ động xây dựng một chiến lược đào tạo bồi dưỡng con người cho thời kỳ công nghiệp hoá mà chỉ chắp vá, thiếu đâu bổ sung đó nên sự bất cập và lúng túng về trình độ xử lý công việc thường xảy ra trong doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp còn rất mơ hồ về kiến thức hội nhập chưa chuẩn bị chu đáo, sẵn sàng để hội nhập vì vậy sự phối hợp đào tạo giữa các trường học, viện nghiên cứu là rất cần thiết và quan trọng đối với doanh nghiệp, cần phải thường xuyên bổ sung thông tin, kiến thức theo những chuyên đề để nâng cao kiến thức mới giúp cho họ trong việc quản lý, xử lý công việc ngày càng tốt hơn. Về nghiệp vụ ngoại thương trong doanh nghiệp cần phải có tiêu chuẩn ban đầu như sau: Nói thông viết thạo ngoại ngữ và khả năng Marketing tốt mà doanh nghiệp yêu cầu, hạn chế cuộc đàm phán bị hiểu sai vấn đề vì ngoại ngữ yếu đưa đến kết quả khôn lường, phải có khả năng xử lý tốt những bất ngờ xảy ra do cụ thể tình huống thay đổi Khả năng nắm bắt thị trường, phải am hiểu, nắm vững những yếu tố ảnh hưởng đến giá cả, tình hình buôn bán thuỷ sản trên thế giới, Khu vực.Các nhà sản xuất cung cấp chính và phụ, hiểu biết về tính năng, chất lượng sản phẩm, cách chế biến,...thông hiểu luật thương mại của hai nước và luật pháp quốc tế. Về nghiệp vụ: thông hiểu nghiệp vụ xuất nhập khẩu và các nghiệp vụ hải quan, có kinh nghiệm trong đàm phán, nắm rõ kế hoạch đàm phán, thực trạng công tác chuẩn bị của doanh nghiệp. Về nghệ thuật: Có sách lược, tư duy nhạy bén có năng lực sáng tạo, sắp xếp tổ chức giỏi, đặc biệt trong giao dịch trực tiếp hoặc đàm phán đòi hỏi phải có tính kiên nhẫn, chịu đựng được sức ép của khách hàng, vì sự nhượng bộ hoặc thoả thuận thường xuất hiện vào lúc kết thúc quá trình thương lượng đàm phán. Để làm tốt chức năng này đòi hỏi doanh nghiệp phải trẻ hoá đội ngũ và có chính sách tuyển dụng, đào tạo nhằm bổ sung cho thế hệ lớn tuổi, kết hợp kinh nghiệm của người lớn tuổi với sự linh hoạt của lực lượng trẻ. Lực lượng trẻ hiện nay cần phải có tri thức về chính trị học, kinh tế học, có tính khiêm tốn, giỏi tiếp thu tri thức từ các chuyên gia, có đầu óc cởi mở, hoạt bát biết đặt câu hỏi đúng lúc, thích hợp để thu thập thông tin một cách chính xác, ngoài ra biết phân tích cử chỉ, thái độ, hành động của đối tác nó sẽ chứa ẩn ý, ngụ ý về tâm lý. Tóm lại: Để nâng cao năng lực nghiệp vụ của các doanh nghiệp trước tiên các doanh nghiệp phải tự vận động nghiên cứu các chính sách của Nhà nước đã hỗ trợ cho doanh nghiệp, nắm bắt thông tin, đào tạo và tự đào tạo lại cho cán bộ nhằm nâng cao nghiệp vụ để nắm bắt kịp thời các chính sách công tư,và thông tin thị trường, thông tin thế giới... nhằm phục vụ cho lợi ích của doang nghiệp và lợi ích quốc gia. 3.3.7. Thành lập Hiệp hội (hoặc câu lạc bộ) các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Trong kinh doanh xuất nhập khẩu, ngoài qui mô về tài chính, lực lượng lao động, thiết bị hiện đại, tiềm năng... tất cả các vấn đề đó đều quan trọng.Đó là điều kiện cần nhưng chưa đủ, trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam nói chung và của Thành phố Đà Nẵng nói riêng cần phải có một số doanh nghiệp có tầm cở qui mô quốc tế, đủ khả năng đóng vai trò đại diện cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam làm việc với các hiệp hội thuỷ sản quốc tế. Và Nhà nước cần xây dựng cơ chế phối kết hợp giữa Nhà nước và các tổ chức liên kết của các doanh nghiệp (như: hiệp hội, câu lạc bộ doanh nghiệp, hội nghề nghiệp...) để giải quyết các tranh chấp thương mại và đàm phán để khắc phục các hàng rào phi thuế quan cản trở các hoạt động thương mại nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Hỗ trợ cho các doanh nghiệp nghiên cứu khảo sát thị trường tìm kiếm bạn hàng, tham gia hội chợ triển lãm thương mại trong và ngoài nước, quảng cáo... Từ lý do đó hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam ra đời. Hiệp hội này ra đời, hỗ trợ cho các doanh nghiệp định hướng đầu tư, giúp đỡ lẫn nhau về công nghệ vốn,... từng bước tạo thế mạnh, nâng cao sức cạnh tranh trên thương trường thế giới và bình ổn, hỗ trợ thông tin thị trường trong nước, và nước ngoài.Việc tạo lập hiệp hội phải có những chủ thể doanh nghiệp mạnh có uy tín trên thị trường làm nồng cốt từ đó mở rộng uy tín cho Hội và các hoạt động sẽ phối kết hợp từ khâu chế biến, tiêu thụ sản phẩm ra nước ngoài và nhập những thiết bị hiện đại cải thiện điều kiện sản xuất cải thiện chất lượng sản phẩm giúp cho các doanh nghiệp dễ thâm nhập vào các thị trường như Bắc Mỹ, EU... Thành lập Hội là những thành viên tự nguyện, những phương hướng hoạt động của Hội đều thông qua các cuộc họp nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh và đưa ra những thông tin mới, thị trường mới, về chính sách mới của Nhà nước mà các thành viên đang quan tâm và không những một hiệp hội mà phải nhân rộng ra nhiều hiệp hội với qui mô lớn, hiện đại và từng thành viên khi lớn mạnh phải liên kết hỗ trợ lẫn nhau một cách bền vững đồng thời phối kết hợp với các hiệp hội khác có liên quan đến công việc xuất nhập khẩu thuỷ sản. 3.3.8. Phát triển nguồn nhân lực có tay nghề cao ở các khâu sản xuất, đánh bắt, chế biến, xuất khẩu Hiện nay về lực lượng lao động của các doanh nghiệp đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản vừa thừa và cũng vừa thiếu, thiếu là thiếu những kỹ thuật giỏi có tay nghề cao trong nuôi trồng, thiếu thuyền trưởng, máy trưởng, thuyền viên có tay nghề cao để giải quyết mọi vấn đề khi sự cố xảy ra trong những chuyến đánh bắt thuỷ sản xa bờ, dài ngày, trong khi đó số lực lượng tay nghề thấp, những người học việc có trình độ học vấn hạn chế thì nhiều. Vì vậy để nâng cao trình độ người lao động trong ngành nuôi, đánh bắt hải sản, tại Đà Nẵng Cần phải mở nhiều Trung tâm đào tạo dạy nghề, mở rộng hoạt động đào tạo dạy nghề ra các tỉnh lân cận, để thường xuyên bổ sung thông tin về tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nuôi trồng và đánh bắt hải sản, mở các lớp bồi dưỡng kiến thức chuyên môn định kỳ giúp cho người lao động luôn nắm bắt được những kỹ năng cơ bản thích nghi với môi trường làm việc, tạo một nguồn nhân lực có tay nghề trong đánh bắt hải sản, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Đối với doanh nghiệp phải đầu tư cơ sở vật chất tạo điều kiện cho công nhân được đào tạo và đào tạo lại, để hoàn thiện kiến thức gĩưa lý thuyết và thực hành đồng thời doanh nghiệp tiếp nhận sinh viên thực tập tại cơ sở.Trong quá trình sinh viên thực tập doanh nghiệp có thể tuyển dụng lao động, nguồn này doanh nghiệp không mất thời gian và kinh phí đào tạo. Đối với Nhà nước nói chung Đà Nẵng nói riêng phải ưu tiên có những chính sách đào tạo cho con em ngư dân cũng tương tự như đồng bào các dân tộc thiểu số về cả văn hoá và tay nghề để xây dựng nên một lực lượng lao động có trình độ đảm nhận được nhiệm vụ như: đánh bắt xa bờ, cũng như tạo nguồn nhân lực cho xuất khẩu lao động nghề cá. Tăng cường hoạt động khuyến ngư, phổ biến kiến thức, kinh nghiệm, các mô hình nuôi trồng thuỷ sản, đánh bắt hải sản có hiệu quả kinh tế cao. Dần dần tiến tới tiêu chuẩn hoá lực lượng lao động chuyên nghiệp trong nghề cá ở các lĩnh vực cơ bản, nuôi, đánh bắt và chế biến. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực cho các cơ quan quản lý: Có trình độ khoa học công nghệ, có kiến thức về xã hội và bảo vệ môi trường liên quan đến ngành nhằm bảo đảm phát triển bền vững.Và đủ năng lực thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra, giám sát trong công tác khai thác, bảo vệ nguồn lợi; vệ sinh an toàn thực phẩm thuỷ sản. Riêng Thành phố Đà Nẵng phải mở rộng cửa, có nhiều chính sách hấp dẫn về nhiều lĩnh vực tạo mọi điều kiện rất thuận lợi, khuyến khích nhằm thu hút nhân tài, cán bộ khoa học kỹ thuật, Cán bộ quản lý tập trung lại cùng với Lãnh đạo và nhân dân Thành phố quyết tâm đưa ngành thuỷ sản nói riêng và Thành phố nói chung cùng cả nước hoà nhập vào xu thế chung toàn cầu. 3.3.9. Hỗ trợ thông tin về thiên tai, xây dựng quỹ hỗ trợ rủi ro bởi thiên tai Đánh bắt xa bờ là chương trình của chính phủ rất hiệu quả bởi vừa khai thác được nguồn hải sản giá trị cao và giảm được áp lực nguồn nguyên liệu gần bờ ngày càng cạn kiệt do chúng ta đánh bắt bằng nhiều phương tiện trong đó có những hình thức đánh mà Nhà nước cấm như dùng mìn đánh cá....Khi mà hàng vạn con thuyền ra khơi mang theo hàng triệu con người cả nước ngày đêm đang lao động trên biển.Biển cả ngày càng thất thường, nguy hiểm, chúng ta không thể quên được cơn bảo Linda đã gây bao tổn thất đau khổ cho người dân vùng Cà mau vào tháng 11/1997, gần đây Bão Chơn chu (7/2006) đã cướp đi bao sinh mạng và tài sản khi họ đang cùng nhau khai thác hải sản trên biển Đông.Để đảm bảo cho công tác đánh bắt xa bờ có hiệu quả và tính mạng, tài sản của ngư dân được an toàn thì Nhà nước phải hỗ trợ cho ngư dân: Những thông tin cơ bản về báo bão và thông tin dự báo sớm một thời gian nhất định để họ tập trung lại và định hướng chạy tránh bão. Bắt buộc tất cả các tàu phải trang bị đầy đủ hệ thống đài, vô tuyến...để thường xuyên liên lạc với hệ thống thông tin trong đất liền. Trước thực trạng đáng lo ngại bởi đội tàu đánh bắt xa bờ của Việt Nam hay gặp nạn nên Nhà nước cần có một tàu đa năng hoặc "Tàu Mẹ" để: Khai thác, vận tải hải sản (như thu gom, sơ chế, cấp trữ đông lạnh, cung cấp dầu, nước, lương thực thực phẩm, dịch vụ hậu cần,...cho đội tàu đánh bắt xa bờ). Lại có khả năng tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ kịp thời, vì thường xuyên ở trong vùng biển mà các tàu nhỏ đang hoạt động. Bởi thiết nghĩ trong chương trình đánh bắt xa bờ nếu có con tàu Mẹ như vậy thì chuyện gặp nạn sẽ không xãy ra hoặc rất hy hữu, như hiện nay công tác tìm kiếm cứu nạn, cứu hộ của ta còn rất yếu trong khi cả nước còn rất nhiều ngư dân đang bám biển để khai thác hải sản. Có những con tàu mà trước kia nó chuyên dùng vận chuyển hàng đông lạnh nhưng nay không còn phù hợp với nhu cầu vận chuyển hàng rời, để không bị bán rẽ hoặc nằm chờ ở cảng. Để hạn chế chi phí khi tai nạn xảy ra và giảm chi phí nhập khẩu những con tàu Mẹ thì Nhà nước nên tận dụng những con tàu đó, cải tạo lại phục vụ công tác trên, thêm phần hỗ trợ cho chính sách hạn chế chi của nguồn ngân sách cho thiên tai và bảo vệ được tính mạng và tài sản của ngư dân và nó cũng chính là cầu nối thông tin,... giữa ngư dân đang đánh bắt xa bờ với đất liền. Bên cạnh những chính sách mà Nhà nước hỗ trợ cho ngư dân về thông tin,về bảo vệ tài sản, tính mạng của ngư dân. Nhà nước cần có một quĩ dùng để dự phòng hỗ trợ cho ngư dân khi gặp những tai nạn rủi ro mà không ai lường trước đựơc. Quĩ này được xây dựng bởi: Các nhà hảo tâm, nguồn thu phí từ các cảng cá, bến (do Nhà nước xây dựng cơ sở hạ tầng) và một số thuế mà các doanh nghiệp đánh cá phải đóng... KẾT LUẬN Cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước, Đà Nẵng cũng tự khẳng định mình với vai trò là trung tâm văn hoá, chính trị, kinh tế thương mại của miền Trung. Trong đó ngành thuỷ sản cũng đóng góp một phần đáng kể đưa Đà Nẵng lên một đĩnh cao mới trong quan hệ với các địa phương trong nước và các bạn bè làm ăn kinh tế với Việt Nam nói chung,với Đà Nẵng nói riêng, đưa hình ảnh của Đà Nẵng đến gần với các khách hàng, đối tác. Tạo uy tín lớn không chỉ trong nước mà còn ở các thị trường thế giới. Đề tài: “Phát triển hoạt động xuất khẩu Thuỷ sản của Thành phố Đà Nẵng thực trạng và giải pháp” nhằm đưa ra những giải pháp thúc đẩy hơn nữa những hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Thành phố ngày càng phát triển hơn, tạo công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống ngư dân vùng ven biển, và đóng góp một phần ngoại tệ cho Đà Nẵng và cho đất nước trong công cuộc đổi mới. Với những nội dung nghiên cứu, về lý luận và phân tích, đánh giá tình hình thực tế hoạt động xuất khẩu thuỷ sản thành phố Đà Nẵng trong thời kỳ 1995 đến 2005. luận văn đã nêu được những vấn đề cần nghiên cứu và qua đó có những đóng góp cụ thể như sau: Hệ thống hoá các cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu trong ngành thuỷ sản Việt Nam. Nghiên cứu tình hình, đặt điểm, xu hướng phát triển của thị trường thuỷ sản thế giới và những bước đột phá của thuỷ sản Việt Nam, Thành phố Đà Nẵng Thành quả kinh tế của ngành thuỷ sản Việt Nam đạt được trong thời gian qua. Những bài học kinh nghiệm, những phương pháp quản lý của một số tỉnh thành điển hình trong nước, phương hướng và giải pháp phát triển xuất khẩu thuỷ sản tại Đà Nẵng. Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản Đà Nẵng đã phát huy được thế mạnh của mình trong công cuộc vận động nhiều thành phần kinh tế tham gia nuôi trồng sản xuất, chế biến, xuất khẩu thuỷ sản và xác định được vai trò, vị trí của mình trong sự phát triển kinh tế xã hội của Thành phố Đà Nẵng. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 1. Đối với chính phủ * Nhanh chóng đưa hệ thống luật pháp liên quan đến thuỷ sản vào đời sống người dân để tạo ra một khuôn khổ pháp lý nhằm đưa hoạt động khai thác và chế biến thuỷ sản đi vào nề nếp nhằm bảo vệ lợi ích của những nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng. * Cần có những chính sách hỗ trợ các địa phương cũng như các doanh nghiệp trong công tác đào tạo và phát triển kỹ năng tổ chức thông tin thị trường, quản lý chất lượng sản phẩm và đổi mới công nghệ sản suất cũng như luật pháp quốc tế liên quan đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản. * Cần có những chính sách hỗ trợ hợp lý và tạo điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế có thể huy động vốn để đầu tư đổi mới máy móc thiết bị phục vụ cho hoạt động sản xuất – kinh doanh thuỷ sản. Bởi vì trong điều kiện hiện nay hầu như tất cả các doanh nghiệp nói chung và những doanh nghiệp trong ngành thuỷ sản nói riêng đều thiếu vốn để đầu tư cho hoạt động kinh doanh. * Tổ chức công tác nghiên cứu và xúc tiến thị trường ở tầm vĩ mô, phối hợp với Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tổ chức cung cấp miễn phí và cập nhật thông tin thường xuyên đến các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực thuỷ sản cũng như các cơ quan quản lý Nhà nứơc có liên quan. *Giảm thuế suất nhập khẩu đối với các loại nguyên liệu phục vụ cho chế biến trong nước, tạo điều kiện để sản phẩm của các đơn vị trong nước cạnh tranh với các sản phẩm nước ngoài. 2. Đối với Đà Nẵng * Thành phố cần tạo điều kiện về mặt bằng, hạ tầng kỹ thuật để thu hút các doanh nghiệp, người sản xuất bỏ vốn đầu tư phát triển ngành thuỷ sản. * Thành phố cần hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp đào tạo quản lý chất lượng theo hệ thống HACCP, xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm thuỷ sản Đà Nẵng ra thị trường nước ngoài thông qua việc thành lập các văn phòng giao dịch ở nước ngoài. * Thành phố cần chỉ đạo tổ chức lại sản xuất nguồn nguyên liệu chế biến thuỷ sản xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm theo yêu cầu của thị trường thế giới. * Tổ chức quy hoạch tổng thể và chi tiết các vùng nuôi tập trung dựa vào lợi thế từng vùng, quy hoạch xây dựng các xí nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu gắn với qui hoạch phát triển cơ sở nguyên liệu. * Thành phố cần thường xuyên tổ chức hội chợ quốc tế thuỷ sản hàng năm tại Đà Nẵng để cho các doanh nghiệp thuỷ sản được tham dự và Lãnh đạo Thành phố nên đề xuất với Bộ Thuỷ sản tổ chức hội chợ quốc tế về thuỷ sản ở nước ngoài nhằm quảng bá hàng thuỷ sản Việt Nam và quảng bá thương hiệu của Doanh nghiệp Đà Nẵng. Thành lập các Văn Phòng đại diện thương mại của Ngành và các doanh nghiệp tại các thị trường xuất khẩu lớn và mạnh. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS Đỗ Đức Bình (2002), "Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản của Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (62), tr.23-25. 2. Bộ Thuỷ Sản (1996), Nguồn lợi thuỷ sản Việt Nam, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 3. Bộ Thuỷ sản (1999), Báo cáo tình hình khái thác hải sản thời gian qua và phương hướng khai thác hải sản đến năm 2010. 4. Bộ Thủy sản - Viện Kinh tế và quy hoạch thủy sản (3/2000), Tóm tắt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội ngành thủy sản thời kỳ 2000-2010, Hà Nội. 5. Bộ Thuỷ sản (2002), "Nghề cá và thị trường thuỷ sản Mỹ", Chuyên đề Thuỷ sản, (04). 6. Bộ Thuỷ sản (2005), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 2004, phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội 2005 của ngành thuỷ sản, Hà Nội. 7. Bộ Thủy sản (2005), Về khai thác, chế biến và dịch vụ hậu cần nghề cá, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội. 8. Bộ Thủy sản (10/2005), Quy hoạch phát triển thủy sản ba vùng kinh tế trọng điểm quốc gia thời kỳ 2005-2020, Tập 2, Hà Nội. 9. Bộ Thương mại - Trung tâm Thông tin thương mại (16/12/2005), "Một số thông tin đáng lưu ý", Thông tin thương mại. 10. Bộ Thương mại - Trung tâm Thông tin thương mại (13/02/2006), "Một số thông tin đáng lưu ý", Thông tin thương mại. 11. Bộ Thương mại - Trung tâm Thông tin thương mại (10/04/2006), "Một số thông tin đáng lưu ý", Thông tin thương mại. 12. Bộ Thương mại - Trung tâm Thông tin thương mại (17/04/2006), "Một số thông tin đáng lưu ý", Thông tin thương mại. 13. Bộ Thương mại - Trung tâm Thông tin thương mại (22/05/2006), "Một số thông tin đáng lưu ý", Thông tin thương mại. 14. TS. Lâm Minh Châu (2005), "Xuất khẩu thuỷ sản miền Trung - Những lợi thế và giải pháp phát triển", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (91), tr.16-18. 15. Cục thống kê Đà Nẵng (1/2005), Thành phố Đà Nẵng 30 năm xây dựng và phát triển (1975-2005), Đà Nẵng. 16. PGS.Nguyễn Đăng Dũng - TS. Nguyễn Ngọc Đào (2002), Luật kinh doanh quốc tế, Nxb Đồng Nai 17. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 18. Nguyễn Thị Thanh Hà - Nguyễn Văn Tiền (2005), "Ngành thủy sản Việt Nam: thực trạng và thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (321). 19. Trần Thế Hoàng (2005), "Những thách thức của ngành thủy sản Việt Nam trong hội nhập kinh tế", Tạp chí Phát triển kinh tế. 20. Hoàng Thị Ngân Loan (2005), "Xuất khẩu thủy sản Việt Nam: Thực trạng và giải pháp thúc đẩy", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (3), tr.12-13. 21. Nguyễn Thị Hồng Minh (2006), "Chuyển đổi và cổ phần hoá khu vực kinh tế quốc doanh để tạo sức sống mới", Tạp chí thương mại Thuỷ sản, (02), tr.9. 22. Trần Công Sách (2002), "Thị trường tôm thế giới và thực trạng xuất khẩu tôm của Việt Nam từ năm 1997 đến nay", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, (295), tr.33-42. 23. Sở Thuỷ sản - Nông lâm thành phố Đà Nẵng, Thống kê hàng năm. 24. Sở Thuỷ sản - Nông lâm thành phố Đà Nẵng (2005), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện kế hoạch của sở Thuỷ sản nông lâm 2005. 25. Thành uỷ Đà Nẵng (7/2005), Dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ Thành phố Đà Nẵng khoá XVIII tại Đại hội Đảng bộ lần thứ XIX. 26. Trường Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (2003), Thị trường Việt Nam thời Kỳ hội nhập AFTA, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. 27. Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh (2005), Giáo trình Luật hợp đồng thương mại quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 28. Uỷ ban nhân dân thành phố Đà Nẵng (2003), Chiến lược xuất khẩu của Thành phố Đà Nẵng đến năm 2010, Đà Nẵng. 29. Văn phòng Trung ương Đảng (2002), "Hiện trạng sản xuất và xuất khẩu thủy sản trong những năm qua", Thông tin chuyên đề, (78). 30. Lê Thị Anh Vân (2003), "Về các chính sách thúc đẩy xuất khẩu thủy sản Việt Nam trong thời gian tới", Tạp chí Kinh tế và phát triển, (67), tr.17-24.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLuận văn-Phát triển Xuất khẩu thủy sản ở thành phố Đà Nẵng Thực trạng và giải pháp.pdf
Luận văn liên quan