Luận văn Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội

Hà Nội được đánh giá là một trong những thành phố có tiềm năng để phát triển công nghiệp phần mềm nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước cũng như để xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu phần mềm của Hà Nội có nhiều thuận lợi như được sự hỗ trợ mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước, nằm trong khu vực rất năng động về Công nghệ thông tin, lại có sự ổn định cao về an ninh chính trị giá nhân công và chi phí thấp và có nhiều chuyên gia đang làm trong các công ty phần mềm lớn cũng mong muốn quay về làm việc hoặc đầu tư sản xuất. Tuy nhiên thành phố cũng có nhiều điểm yếu ảnh hưởng đến khả năng gia công xuất khẩu phần mềm.

pdf53 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2429 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ao. Mới đây tập đoàn Dữ liệu quốc tế (IDG) đã lập quỹ đầu tư mạo hiểm 100 triệu USD để đầu tư vào các doanh nghiệp phần mềm và dịch vụ của Hà Nội. Tỷ phú Bill Gates – Chủ tịch tập đoàn Microsoft cũng đã đến Hà Nội, chỉ tính riêng Tập đoàn FPT cũng đã có tới 400 người làm cho Microsoft. Ngoài ra các công ty hàng đầu của Nhật như là Hitachi, NEC, Fujitsu… cũng đã đặt hợp đồng gia công phần mềm hoặc đầu tư trực tiếp mở cơ sở sản xuất phần mềm tại Hà Nội. Những năm gần đây, các doanh nghiệp phần mềm của Hà Nội đã phát triển rất nhanh về số lượng và chất lượng. Toàn thành phố có trên 100 Doanh nghiêp lớn nhỏ hoạt động trong lĩnh vực phần mềm và dịch vụ. Trước đó năm 2006 con số này mới chỉ là gần 40 doanh nghiệp và không có doanh nghiệp nào cóc số lao động vượt qua 100 người. Tính đến nay số lượng nhân lực làm trong ngành công nghiệp phần mềm của Hà Nội đã đạt đến con số 8500 người. Tập đoàn FPT lập kỷ lục đứng số 1 Đông Nam á vì sở hữu 2000 lập trình viên. Nhiều công ty khác cũng đã đạt con số trên dưới 500 lập trình viên, đặc biệt có 2 doanh nghiệp đạt chứng chỉ quốc tế cao nhất về quản lý chất lượng phần mềm và gần 20 doanh nghiệp khác đạt chứng chỉ ISO và CMM3, CMM4,… Hiện nay Nhật Bản là thị trường chính của các doanh nghiệp phần mềm Hà Nội, doanh số gia công xuất khẩu phần mềm sang Nhật tăng nhanh trên 100%/năm. Hiệu quả lao động trong gia công xuất khẩu phần mềm cho Nhật đạt giá trị rất cao, trung bình đạt trên 20.000USD/người/năm. Sau giai đoạn chập chững của ngành phần mềm Hà Nội đến nay một số doanh nghiệp phần mềm Hà Nội không những hoạt động tốt mà còn trở thành đối tác của những hãng và tập đoàn lớn của nước ngoài. Tuy nhiên hiện nay Hà Nội đang thiếu hụt nghiêm trọng nguồn nhân lực trong ngành phần mềm nhất là nhân lực sản xuất gia công phần mềm cho Nhật. Các cơ sở đào tạo của Hà Nội hiện chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo về cả số lượng lẫn chất lượng. Hơn thế, sự khuyến khích phát triển công nghiệp phần mềm vẫn còn dừng lại ở chủ trương, chưa có chính sách đột phá, chưa có quy hoạch phát triển, thiếu các dự án, chương trình đầu tư của Thành phố để tạo nền tảng phát triển bền vững. Ngoài ra việc đầu tư của thành phố cho công nghệ thông tin vẫn thiên về ứng dụng, mua sắm thiết bị chứ không chú trọng đến đầu tư cho phát triển công nghiệp phần mềm (không quá 10%). Hoạt động thâm nhập thị trường quốc tế của các doanh nghiệp phần mềm lại cần có sự giúp đỡ của Thành phố và các Hiệp hội. Ngành công nghiệp phần mềm còn rất nhiều các doanh nghiệp tầm cỡ và các khu tập trung công nghiệp phần mềm. Do đó rất khó xây dựng một hình ảnh uy tín và sức mạnh chung. Hà Nội hiện cũng đang rất thiếu những cơ sở nghiên cứu thử nghiệm và làm nhiệm vụ chuyển giao công nghệ quốc gia. Vì vậy chưa thu hút được các nhà đầu tư nước ngoài lớn . Rất nhiều các doanh nghiệp hiện nay vẫn chưa chịu đầu tư chi phí cho xây dựng thương hiệu và Marketing, tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm tại Việt Nam cũng như tại Hà Nội thuộc loại cao nhất thế giới. Để ngành công nghiệp phần mềm Hà Nội có thể phát triển và chỗ đứng trên thị trường quốc tế thì cần phải có tầm nhìn toàn cầu, đặt sự phát triển của ngành phần mềm Hà Nội trong phần mềm thế giới, coi nhân lực phần mềm là một sản phẩm đặc biệt mà Hà Nội có lợi thế cạnh tranh, có khả năng cung cấp với một số lượng lớn và chiếm vị trí cao. Ngoài ra cũng cần quốc tế hoá các chương trình và quy trình đào tạo. Các doanh nghiệp trong ngành phần mềm chính là nhân tố quan trọng quyết định sự thành công của ngành này. Vì vậy doanh nghiệp nên đầu tư để nâng cao quy trình quản lý chất lượng theo chuẩn quốc tế , nâng cao quy mô và trình độ nhân lực, tăng cường liên kết hợp tác nước ngoài, đầu tư mạnh cho công tác Marketing và xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu, đồng thời nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp. Đó chính là con đường ngắn nhất và nhanh nhất để chúng ta có những sản phẩm dịch vụ phần mềm tốt nhất, chất lượng nhất cho xuất khẩu mang thương hiệu riêng cho mỗi doanh nghiệp. 2.1.3: Lợi thế và hạn chế của các doanh nghiệp sản xuất phần mềm của Hà Nội *Lợi thế: + Sự ổn định về an ninh chính trị: Thành phố Hà Nội là một trong những nơI có độ ổn định cao về chính trị và ít có các nguy cơ khủng bố. Ưu thế này cùng với địa lý là thủ đô của Việt Nam, nằm trong khu vực Châu á, một khu vực hiện đang được đánh giá là năng động nhất trong lĩnh vực Công nghệ thông tin, Hà Nội sẽ là một điểm đến hấp dẫn các tập đoàn đa quốc gia và các công ty nước ngoài đầu tư mở các chi nhánh và công ty sản xuất gia công phần mềm xuât khẩu. + Nhân công rẻ, ham học hỏi, cầu tiến: Với khoảng 34% dân số ở độ tuổi 15 – 34 đảm bảo cho Việt Nam có một lực lượng lao động trẻ. Khả năng về Logic và Toán học của sinh viên rất tốt là một điều kiện thuận lợi trong việc phát triển Công nghệ thông tin. So với nhiều nơi trên thế giới giá nhân công ở Hà Nội rẻ hơn từ 25 – 40%. Lao động Công nghệ thông tin có khả năng nâng cao trình độ nhanh và dễ thích nghi với điều kiện làm việc với cường độ cao. + Sự hỗ trợ của Thành Phố: Thành phố rất chú trọng việc phát triển công nghệ phần mềm. Có rất nhiều chính sách ưu đãi phát triển công nghệ phần mềm, như các chính sách ưu đãi về thuế, các chính sách ưu đãI về thuế đất, thuê có sở hạ tầng, các chính sách hỗ trợ về vốn, chính sách đào tạo phát triển nguồn nhân lực phần mềm… *Hạn chế: + Chưa thu hút được các tập đoàn đa quốc gia và các công ty lớn nước ngoài đầu tư vào việc gia công phát triển phần mềm ở Hà Nội: Mặc dù Hà Nội đã có nhiều chính sách ưu đãi nhằm thu hút đầu tư vào lĩnh vực sản xuất phần mềm xuất khẩu, nhưng các chính sách này chưa hoàn toàn hoàn thiện, bên cạnh đó việc triển khai các chính sách này nhiều khi còn khó khăn, cơ sở hạ tầng xây dựng còn yếu kém, giao thông không thuận tiện. Các chính sách ưu đãi về thuế, ưu đãi về giá thuế đất v.v… cũng thường gặp những cản trở khi thực thi. Những khó khăn trên là những trở ngại làm giảm sút đáng kể sức hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Hà Nội trong lĩnh vực công nghệ phần mềm. + Trình độ lực lượng lao động phần mềm còn thấp: Lực lượng lao động phần mềm trong mấy năm qua có gia tăng về số lượng nhưng chất lượng thì còn quá thấp so với yêu cầu của thị trường nhất là đối với thị trường xuất khẩu. Các lập trình viên của Hà Nội nói chung thiếu kinh nghiệm thực tế, yếu về các kỹ năng giao tiếp, khả năng làm việc nhóm, đặc biệt rất yếu về ngoại ngữ là một yêu cầu thiết yếu trong việc làm gia công phần mềm xuất khẩu. Chúng ta cũng đặc biệt thiếu các lao động phần mềm cao cấp như các chuyên gia phân tích hệ thống, người thiết kế giải pháp thống kê, các quản trị viên dự án, giám đốc dự án. Sự kém chất lượng của lực lượng lao động là một trong những nguyên nhân khiến Hà Nội chưa giành được nhiều dự án gia công phần mềm với các công ty nước ngoài. + Môi trường phát triển doanh nghiệp: Một trong những hạn chế lớn của Hà Nội là vấn đề bản quyền phần mềm. Hà Nội là một trong những thành phố được xếp đứng đầu danh sách vi phạm bản quyền (BSA, 2008). Vị trí này tạo ra một hình ảnh rất không tốt cho công nghiệp phần mềm Hà Nội trong con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra còn có mốt số điều kiện môi trưòng không thuận lợi khác cũng làm ảnh hưởng đến việc phát triển công nghệ phần mềm theo hướng xuất khẩu như hệ thống luật về các nguyên tắc, thực thi hợp đồng của Hà Nội chưa chặt chẽ và tường minh; thiếu những tiêu chí cần thiết để phát triển thương mại điện tử như hệ thống thẻ tín dụng để mua bản quyên phần mềm và các dịch vụ khác. + Năng lực của các doanh nghiệp phần mềm còn yếu: Các doanh nghiệp phần mềm Hà Nội nói chung đều có quy mô nhỏ, thiếu kinh nghiệm, yếu cả về khả năng quản lý, quy trình sản xuất lẫn tiếp thị bán hàng. Hầu hết các doanh nghiệp đều chưa có các chiến lược phát triển sản phẩm, chiến lược thị trường. Các doanh nghiệp lại thiếu sự liên kết nhằm tạo ra khả năng cạnh tranh, ít có sự hỗ trợ nhau trong hoạt động, thị trường sản phẩm chồng chéo. Những yếu điểm này cùng với chất lượng nguồn nhân lực thấp làm cho khả năng cạnh tranh của các doanh nghiêp phần mềm Hà Nội trên thị trường thế giới thấp. + Cơ sở hạ tầng viễn thông Internet: Mặc dù đã có nhiều cố gắng để tăng băng thông rộng và giảm cước dịch vụ viên thông và Internet tuy nhiên chất lượng dịch vụ và tốc độ Internet Hà Nội vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển phần mềm, đặc biệt là đối với các dự án gia công cho nước ngoài. Giá thuê kênh dùng riêng nói chung vẫn cao, đặc biệt quá cao đối với các doanh nghiệp phần mềm nhỏ. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến công nghiệp phần mềm Hà Nội khó chiếm được các hợp đồng gia công với nước ngoài. + Khả năng quảng cáo, tiếp thị, phát triển thị trường: Công nghiệp phần mềm hà Nội hiện đang rất yêu về khả năng quảng bá, tiếp thị và tìm kiếm mở rộng các thị trường mới. Hầu hết các doanh nghiệp phần mềm đều chưa đủ khả năng và cũng chưa đầu tư thích đáng cho việc tiếp thị, quảng bá thương hiệu cũng như sản phẩm của mình. Thành phố cũng chưa đầu tư nhiều cho việc xúc tiến thương mại, tìm kiếm thị trường, quảng bá, Marketing để tạo một vị trí cho công nghiệp phần mềm Hà Nội trên thị trường gia công phần mềm thế giới. Trong tổng số ngân sách vốn đã rất khiêm tốn dành cho phần mềm của Hà Nội thì chi phí cho tiếp thị, tìm kiếm thị trường, tham gia các buổi hội chợ, hội nghị lại chiếm một tỷ trọng rất nhỏ (khoảng 20%). Cụ thể Hà Nội có rất ít buổi thuyết trình về công nghiệp phần mềm; thiếu những tờ rơi, quảng bá hoặc các trang Web về cách thức xuất khẩu và các đơn vị xuất khẩu phần mềm Hà Nội; không có các chương trình nghiên cứu cho từng thị trường xuất khẩu cụ thể; khả năng tiếp thị và thuyết trình quảng cáo về sản phẩm rất thấp, nhất là khả năng quảng cáo ở thị trường quốc tế. Chính khả năng tiếp thị kém, không am hiểu thị trường là một trong những yếu điểm chủ yếu dẫn đến tình trạng doanh số xuất khẩu của Hà Nội chỉ nằm ở một con số khiêm tốn. 2.2: Phân tích thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 2.2.1: Kim ngạch xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội Sản phẩm phần mềm của Hà Nội trong nhiều năm qua chiếm một vị thế quan trọng trong đóng góp cho xuất khẩu phần mềm và nâng cao giá trị phần mềm của ngành công nghiệp phần mềm Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu tăng vọt kể từ khi các công ty phần mềm trên thế giới đầu tư vào Hà Nội, điều đó đánh dấu sự tiến bộ vượt bậc cả về số lượng chất lượng và thị trường của sản phẩm phần mềm trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu được thể hiện qua các bảng chỉ tiêu sau: TT Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2006 2007 2008 1 Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 56,2 75,4 102,1 2 Tốc độ tăng trưởng % 7 8,7 10.5 Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu phần mềm của Hà Nội (Nguồn: Qua bảng trên ta thấy kim ngạch xuất khẩu phần mềm có xu hướng tăng dần theo các năm. Cụ thể, năm 2006 xuất khẩu phẩn mềm toàn Hà Nội đạt 56,2 triệu USD tăng 7% so với năm 2005; năm 2007 đạt 75,4 triệu USD tăng 8,7% so với năm 2006 và năm 2008 đạt 102,1 triệu USD tăng 10,5%. Mục tiêu phấn đấu năm 2009 là tăng kim ngạch 29% đạt 1120 triệu USD. TT Chỉ tiêu Năm 2006 2007 2008 1 Trực tiếp 13.2 22 30,7 2 Uỷ thác 43 53,4 71,4 Bảng 2: Phương thức xuất khẩu của Hà Nội (Nguồn: Qua bảng số liệu trên ta thấy phương thức xuất khẩu trực tiếp chiếm 20%, Uỷ thác chiếm 80% xuất khẩu của Hà Nội. Trong những năm qua các doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm của Hà Nội thực hiện kinh doanh đã đạt được một số kết quả đáng mừng, khách hàng có xu hướng tăng lên. Các hình thức xuất khẩu của Hà Nội chủ yếu là xuất khẩu trực tiệp, liên doanh với các đơn vị để sản xuất và đẩy mạnh công tác tìm kiếm thị trường, các nhóm mặt hàng chủ yếu là phần mềm về y tế, giáo dục… Trong cơ cấu hàng xuất khẩu trên thì có xu hướng tăng lên nhiều vì các công ty độc quyền về phần mềm. Bằng sự tranh thủ mọi nguồn vốn và sự hỗ trợ của các đối tác trong lĩnh vực phần mềm, các doanh nghiệp Hà Nội không ngừng đổi mới trang thiết bị công nghệ, thay thế các thiết bị cũ lac hậu và lắp đặt các thiết bị hiện đại. Chính vì vậy mà chất lượng các phần mềm được nâng cao, từng bước đáp ứng chung về nhu cầu thị trường. 2.2.2: Thị trường xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội Trong nhiều năm qua hoạt động gia công xuất khẩu phần mềm của Hà Nội đã tăng đều đặn hàng năm. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp phần mềm tham gia vào hoạt động này, trong đo có nhiều doanh nghiệp chuyển hẳn toàn bộ hoạt động sang gia công xuất khẩu phần mềm. Doanh thu trong năm 2007 đạt mức 75,4 triệu USD, một bước tăng trưởng ấn tượng khi năm 2003 con số này mới chỉ là 25,4 triệu USD. Thị trường của các doanh nghiệp gia công cũng đã được mở rộng nhanh chóng, có những thị trường ma Hà Nội đã phát triển trở thành nhà cung cấp số một như Nhật Bản. Dù có rất nhiều khó khăn và thách thức trong sự khủng hoảng của nền kinh tế toàn cầu nhưng Hà Nội vẫn mạnh dạn đặt mục tiêu trở thành Thành phố xuất khẩu phần mềm lớn nhất cả nước. Bắc Mỹ cũng là thị trường truyền thống của các doanh nghiệp phần mềm Hà Nội, nhưng Nhật Bản đang nổi lên là thị trường lớn nhất và tăng trưởng nhất của Hà Nội. Bên cạnh đó, cơ hội thâm nhập vào thị trường Châu Âu đang mở ra cho nhưng năm tới, với sự khuyến khích và hỗ trợ đến từ chính sách của các nước Bắc Âu. Nhưnng việc định hướng về chiến lược phát triển trong thời gian tới là phải tập trung đột phá cho được bài toán nhân lực và nâng cao đẳng cấp chất xám trong hoạt động xuất khẩu phần mềm, đồng thời áp dụng chiến lược về thị trường là “khai phá Châu Âu, khoan sâu Mỹ – Nhật” Tại hội thảo Phát triển công nghiệp Nội dung thông tin số, đã có các nhận định công nghiệp nội dung số (DCI) đã bùng nổ và đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới trong vòng 5 năm trở lại đây. Trong lĩnh vực DCI, công nghiệp game – nhất là game online là lĩnh vực đem lại doanh số lớn. Doanh thu ngành game online của thế giới năm 2008 là 4 tỷ USD và dự kiến đạt 9 tỷ USD vào năm 2010. Hà Nội có khoảng 25 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và cung cấp trò chơI điện tử. tính đến nay có khoảng 25 game online được tung ra trên thị trường và có khoảng 12 triệu người chơI game. Thị trường game ở Hà Nội là rất sôi động, nhưng các game được ưa chuộng ở Hà Nội chủ yếu vẫn là của Trung Quốc và Hàn Quốc. Ngoài game, các lĩnh vực khác của ngành nội dung số cũng bắt đầu phát triển mạnh ở hà Nội, chủ yếu là các dịch vụ gia tăng trên Internet và qua mạng thông tin di động. Đối tác gia công phần mềm chủ yếu của Nhật Bản cho đến nay là Trung Quốc và ấn Độ, tuy nhiên các công ty của Nhật hiện đang tìm cách chuyển hướng sang các nước khác như Viêt Nam, Thái Lan, Philippine… Dặc biệt trong số đó thì Hà Nội là lựa chọn số 1 đối với thị trường gia công phần mềm xuất khẩu. Nguyên nhân vì Hà Nội là trung tâm kinh tế của Việt Nam, sự ổn định về chinh trị, nhân công rẻ – nhiều chính sách hỗ trợ hợp tác… Nhậ cũng là thị trường xuất khẩu chinh của phần mềm Hà Nội, là đối tác chuyển giao công nghệvà giúp nâng cao năng lực của các doanh nghiệp phần mềm Hà Nội. Một số doanh nghiệp phần mềm Hà Nội đã thâm nhập thành công vào thị trường Nhật, đạt tốc độ tăng trưởng doanh thu gia công phần mềm cho Nhật trên 100%. 2.2.3: Khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội Chất lượng Ngày nay , khi nhu cầu về phương tiện truyền thông càng cao thì một trong những yếu tố hàng đầu trong dịch vụ truyền thông được chú ý là chất lượng. Đây là nhân tố quan trọng để duy trì và phát triển thị trường xuất khẩu của doanh nghiệp kinh doanh mặt hàng xuất khẩu. Nhận định được điều này, các doanh nghiệp xuất khẩu luôn phấn đấu nâng cao chất lượng cao hơn ở trong nước cũng như xuất khẩu ra nước ngoài. Chất lượng sản phẩm không chỉ là thể hiện ở chất lượng của phần mềm mà còn ở trong tiện ích cho người sử dụng . Nhờ những việc làm này mà số lượng các phần mềm của các doanh nghiệp ngày càng tăng. Tuy nhiên để đáp ứng những đòi hỏi khắt khe của thị trường thì các doanh nghiệp còn cần cố gắng nhiều, vì so với những nước xuất khẩu khác trên thế giới thì chất lượng của VIệt Nam mới chỉ đạt mức trung bình. Giá cả Giá cả là một trong những công cụ quan trọng để cạnh tranh trên thị trường . Thực tế hiện nay cho thấy, ngành công nghiệp phần mềm của VIệt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong khâu tìm kiếm các thiết bị phục vụ cho phần mềm. Thiết bị chủ yếu của các doanh nghiệp chủ yếu của các doanh ngiệp phải nhập từ bên ngoài , đặc biệt là các linh kiện thiết bị, do trong nước không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. Do đó đã đẩy giá thành các sản phẩm của các doanh nghiệp lên rất cao, điều này khiến công ty khó có khă năng cạnh tranh về giá. Vì vậy , để cho có một mức giá đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp có thể phát triển, các doanh ngiệp đã nghiên cứu kỹ lưỡng về giá mua hàng hóa, chi phí vận chuyển, lưu kho , chi phí bán hàng… và đã cố gắng giảm thiều tới mức thấp nhất các chi phí đó. Trên cơ sở hạ giá thành sản phẩm thiết bị và đưa ra một mức giá bán thích hợp. Tính đa dạng của sản phẩm Ngày nay , kiểu dáng, mẫu mã sản phẩm rất được coi trọng đặc biệt là trong lĩnh vực phần mềm và nó cũng là một trong những tiêu chuẩn đầu tiên của khác hàng khi quyết định sử dụng phần mềm. Về cơ bản các loai sản phẩm phần mềm của các doanh nghiệp mới chỉ có khả năng đáp ứng những nhu cầu bình thường nên giá trị xuất khẩu chưa cao, sản phẩm xuất khẩu còn đơn điệu, chủ yếu là những sản phẩm được thuê gia công cho nước ngoài và có yêu cầu kỹ thuật trung bình, thấp. Mặt khác , trong hoạt động xuất khẩu , chúng ta và những người nhập khẩu có những phong tục tập quán khác nhau …Các doanh nghiệp sẽ đưa ra các sản phẩm và thăm dò ý kiến của họ. Ngoài ra khách hàng sẽ đưa sẵn cho doanh nghiệp và từ đó doanh nghiệp sẽ đặt hàng theo đúng mẫu mã khách hàng sẽ yêu cầu và đã có nhiều cố gắng để sản phẩm xuất khẩu đạt được yêu cầu cao nhất của khách hàng cả về chất lượng và mẫu mã Dịch vụ , phương pháp phục vụ khách hàng Có một phần mềm tốt, giá cả hợp lý chưa chắc đã thu hút được khách hàng nếu như các dịch vụ , phương pháp phục vụ khác hàng không được quan tâm. Tạo lập được uy tín , niềm tin với khách hàng là cả một quá trình lâu dài đòi hỏi có sự kết hợp nhiều yếu tố. Khi đã có được nó chúng ta cần biết giữ gìn và phát huy để khẳng định thêm lòng tin cho khách hàng. Trong việc kinh doanh xuất khẩu, các doanh nghiệp luôn cố gắng tạo được sự thuận tiện trong thanh toán , trong quá trình vận chuyển giao nhận hàng hóa, hoàn thành đúng thời hạn giao hàng, đúng số lượng, chất lượng hàng hóa trong hợp đồng. Khi công cuộc cạnh tranh ngày càng khó khăn thì vấn đề này càng được các doanh nghiệp coi trọng, vì số lượng nhà cung cấp rất nhiều, nếu chúng ta làm mất niềm tin của khách hàng thì cơ hội làm lại là rất hiếm vì khách hàng có rất nhiều lựa chọn khác nhau. Nghệ thuật bán hàng của các doanh nghiệp đã rất tiến bộ so với những năm trước đây. Các doanh nghiệp đang từng bước xây dựng đội ngũ bán hàng và tiếp thị có kỹ năng cao và thiết lập kênh phân phối hàng trên cả nước . Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong những năm qua song yếu tố ”nghệ thuật bán hàng” vẫn còn yếu so với các nước trong khu vực . Đội ngũ xúc tiến thương mại , tiếp thị, hệ thống nhân viên bán hàng còn yếu về chất lượng và thiếu về số lượng. Các doanh nghiệp chưa thiết lập được mạng lưới trao đổi thông tin , đại diện thương mại trong khu vực và ở các nước . Hạn chế này đã làm ảnh hưởng rất lớn tới khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp , đến khả năng phản ứng nhanh , khả năng xoay chiều nhanh tình thễ của doanh nghiệp. Chính vì thế các doanh nghiệp cần giải quyết vấn đề này sao cho phù hợp và nhanh chóng. Các vấn đề khác Bên cạnh các vấn đề trên, các doanh nghiệp cũng quan tâm tới việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức và công tác vận chuyển hàng hóa. Các doanh nghiệp luôn chấn chỉnh trong công tác quản lý nhằm tạo ra bộ máy tổ chức gọn nhẹ, hợp lý nên đã giảm được những chi phí quản lý không cần thiết. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng luôn nhanh chóng, kịp thời trong công tác vận chuyển , tránh rủi ro trong quá trình luân chuyển , đảm bảo giao hàng đúng thời gian. 2.2.4: Cơ chế, chính sách của Thành phố Hà Nội trong thúc đẩy xuất khẩu phần mềm Cơ chế: * Cơ chế quản lý xuất nhập khẩu phần mềm + Trình tự thực hiện xuất khẩu phần mềm: - Thành lập công ty theo luật Công ty. - Đăng ký mở tài khoản thường xuyên (Permanent Account Number – PAN) tại cơ quan thuế (The Income Tax Department). - Đăng ký là Đơn vị sản xuất. -Đăng ký mã Xuất nhập khẩu (Import Export Code) sau khi nhận được Tài khoản thường xuyên (PAN). - Đăng ký với Cơ quan hải quan. - Thực hiện sản xuất và xuất khẩu. + Cơ chế nhập khẩu phần mềm: Cho phép nhập khẩu hàng cũ (Import Of Second hand Capital Goods Also Permitted). * Thủ tục xuất nhập khẩu Bất cứ nhà xuất khẩu hàng hoá hoặc phần mềm dưới dạng hữu hình hoặc thông qua bất cứ hình thức nào kể cả trực tiếp hoặc gián tiếp ra khỏi Hà Nội phải cung cấp cho các cơ quan quản lý bản kê khai hàng hoá với đầy đủ các chi tiết một cách đúng đắn và trung thực bao gồm giá trị toàn bộ hàng hoá hoặc phần mềm xuất khẩu. * Phương thức thanh toán và lập hoá đơn Với các hợp đồng dài hạn giao hàng nhiều lần qua việc truyền mạng, người xuất khẩu phải định kỳ lập chứng từ yêu cầu khách hàng nước ngoài thanh toán. Ví dụ: ít nhất trong vòng 1 tháng hoặc sau một thời hạn nào đó được ghi trong hợp đồng… Với hợp đồng một lần phải lập hoá đơn đòi tiền trong vòng 15 ngày kể từ ngày truyền mạng. Đơn vị xuất khẩu phải trình Form SOFTEX cho cơ quan chức chính phủ để định giá/ xác nhận chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày của hoá đơn trước đây. * Quy định về việc thanh toán Tổng giá trị phần mềm xuất khẩu như được nêu trong Form SOFTEX hoặc được chứng thực bởi Quan chức chính phủ phải được thanh toán đúng hạn hoặc trong vong 180 ngày kể từ ngày ghi trên hoá đơn nhưng sẽ lấy ngày nào đến trước. * Việc xuất nhập khẩu phần mềm: + Phải theo Form SOXTEX (như hình thức giấy phép xuất khẩu). + Các đơn vị sản xuất phần mềm nên được miễn thuế xuất khẩu. + Phải đóng thuế VAT khi nhập khẩu. * Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng Quy định một số chính sách và biện pháp khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong Thành phố thuộc mọi thành phần kinh tế, người định cư ở nước ngoài và các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư sản xuất sản phẩm và làm dịch vụ phần mềm tại Hà Nội (gọi tắt là doanh nghiệp phần mềm). Khuyến khích và ưu đãi cho các doanh nghiệp hoạt động sản xuất sản phẩm và dịch vụ phần mềm. Chính sách: * Thuế suất và thuế thu nhập doanh nghiệp Doanh nghiệp phần mềm Hà Nội và doanh nghiệp phần mềm nước ngoài hoạt động trên địa bàn Thành phố không thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài ở Việt Nam cũng như của Thành phố. Được hưởng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp với các mức sau: + Thuế suất 25%. + Thuế suất 20% đối với doanh nghiệp đầu tư ở địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội khó khăn. + Thuế suất 15% đối với doanh nghiệp đầu tư ở địa bàn có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn. Doanh nghiệp phần mềm thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được hưởng thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp 10%. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về Hà Nội trong lĩnh vực công nghiệp phần mềm theo Luật Đầu tư nước ngoài, nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp phần mềm được hưởng thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài đối với thu nhập từ các hoạt động sản xuất và dịch vụ phần mềm. * Miễn thuế thu nhập doanh nghiệp Doanh nghiệp phần mềm được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian bốn năm kể từ khi có thu nhập chịu thuế và không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp bổ sung đối với thu nhập do hoạt động sản xuất và dịch vụ phần mềm. * Thuế thu nhập với người có thu nhập cao Người lao động chuyên nghiệp là người Việt Nam trực tiếp tham gia các hoạt động sản xuất và dịch vụ phần mềm được áp dụng mức khởi điểm chịu thuế và mức luỹ tiến như quy định đối với người nước ngoài. * Thuế giá trị gia tăng Sản phẩm và dịch vụ phần mềm được hưởng ưu đãi cao nhất về thuế giá trị gia tăng. * Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu Miễn thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu phục vụ trực tiếp cho hoạt động sản xuất sản phẩm phần mềm mà Hà Nội chưa sản xuất được. Ban Khoa hoc, Công nghệ và môi trường ban hành danh mục nguyên vật liệu phục vụ cho sanr xuất sản phẩm phần mềm mà Hà Nội đã sản xuất được để làm cơ sở cho việc xác định ưu đãi về thuế nhập khẩu. Danh mục này được điều chỉnh định kỳ hàng năm. * Bảo hộ quyền tác giả đối với phần mềm Rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành để ban hành theo thẩm quyền hoặc trình cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến việc bảo hộ quyền tác giả đối với sản phẩm phần mềm; tăng cường khả năng hiệu quả hạt động của các cơ quan quản lý và thực thi quyền tác giả đối với phần mềm. * Đào tạo phát triển nguồn nhân lực Các tổ chức cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập các cơ sở đào tạo về công nghệ thông tin, các cơ sở này được hưởng các ưu đãi đối với các hoạt động đào tạo công nghệ thông tin như đối với doanh nghiệp phần mềm. Bộ giáo dục và đào tạo chủ trì phối hợp với bộ khoa học công nghệ và môi trường. Tổng cục Bưu điện và các Bộ ngành có liên quan ban hành các kế hoạch triển khai việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu xây dựng và phát triển công nghiệp phần mềm và dự án Internet tại các cơ sở đào tạo. * Tạo cơ sở hạ tầng viễn thông thuận lợi Ban hành các chính sách quy định cụ thể nhằm đảm bảo thúc đẩy môi trường cạnh tranh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phần mềm tham gia các hoạt động dịch vụ viễn thông và Internet cho người sử dụng với tốc độ và chất lượng cao, giá cước thập hơn hoặc tương đương so với các trong khu vực; cho phép các khu công nghiệp phần mềm tập trung được kết nối cổng Internet riêng với hệ thống Internet quốc tế để tất cả các doanh nghiệp phần mềm trong khu vực này và các doanh nghiệp phần mềm đăng ký dịch vụ Internet qua các khu này có thể sử dụng đầy đủ và dễ dàng các dịch vụ Internet theo giá cạnh tranh với các nơi trong khu vực. * Xuất bản và kiểm tra xuất, nhập khẩu phần mềm Phối hợp với các Bộ ngành có liên quan hướng dẫn, cải tiến thủ tục để việc xuất bản, xuất nhập khẩu phần mềm đặc biệt là chương trình tài liệu mô tả chương trình và tài liệu hỗ trợ được thực hiện nhan chóng không gây phiền hà, ách tắc. thiệt hại cho tổ chức cá nhân có quyền lợi ích liên quan; đồng thời phải có biện pháp toàn diện đồng bộ để ngăn chặn những hành vi lợi dụng gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia và việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. 2.3: Đánh giá thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội Trong những năm qua các doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm của Hà Nội thực hiện kinh doanh đã đạt được một số kết quả đáng mừng, khách hàng có xu hướng tăng lên. Các hình thức xuất khẩu của Hà Nội chủ yếu là xuất khẩu trực tiệp, liên doanh với các đơn vị để sản xuất và đẩy mạnh công tác tìm kiếm thị trường, các nhóm mặt hàng chủ yếu là phần mềm về y tế, giáo dục… Trong cơ cấu hàng xuất khẩu trên thì có xu hướng tăng lên nhiều vì các công ty độc quyền về phần mềm. Bằng sự tranh thủ mọi nguồn vốn và sự hỗ trợ của các đối tác trong lĩnh vực phần mềm, các doanh nghiệp Hà Nội không ngừng đổi mới trang thiết bị công nghệ, thay thế các thiết bị cũ lac hậu và lắp đặt các thiết bị hiện đại. Chính vì vậy mà chất lượng các phần mềm được nâng cao, từng bước đáp ứng chung về nhu cầu thị trường. Trong thực tế khi tiến hành hoật động kinh doanh xuất khẩu, người ta phải chú ý đến tương quan giữa tỷ giá hối đoái chính thức được công bố trên thị trường và tỷ giá hàng xuất khẩu. Tỷ giá xuất khẩu là số nội tệ phải bỏ ra để một đơn vị ngoại tệ. Khi nhà sản xuất hoàn thành thủ tục giao hàng, sẽ thực hiện thanh toán bằng ngoại tệ. Số lượng ngoại tệ thu về là giá trị của hợp đồng xuất khẩu ggọi là doanh thu của hoạt động xuất khẩu. Tỷ trọng nộp ngâns sách tổng lãi gộp qua các năm 2006, 2007, 2008 tươngg ứng là 25,2%; 28,4%; 29,7% trung bình là 27,8%. Tỷ trọng lợi nhuận sau thuế trong tổng lợi nhuận tương ứng là 87.3%; 72,5%; 73,4% trung bình là 76,4%. Những con số trên đây cho thấy mức độ nghiêm chỉnh chấp hành nghĩa vụ đối với ngân sách của Hà Nội của các doanh nghiệp. Trong thời gian vừa qua hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp tương đối ổn định, luôn đảm bảo nghĩa vụ đầy đủ với các quy định của thành phố. Chỉ tiêu Năm Tổng chi phí Lợi nhuận trước thuế Lợi nhuận sau thuế 2005 85,135 3,768 14,197 2006 165,942 6,729 16,594 2007 200,317 7,443 261,28 2008 240,827 8,497 297,41 (Nguồn: Chương 3 Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 3.1: Phương hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 3.1.1: Cơ hội và thách thức trong xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội *Cơ hội: Ngành Công nghệ thông tin của thế giới đang ở giai đoạn hồi phục và phát triển nhanh chóng. Tại các thị trường Công nghệ thông tin lớn của thế giới như Mỹ, Bắc Âu và Nhật Bản xu thế sử dụng nhân lực từ nhà cung cấp nước ngoài để gia công phần mềm đang tăng mạnh. Dự đoán đến năm 2015, nhu cầu tuyển dụng chuyên viên Công nghê thông tin trên toàn cầu sẽ là hơn 4 triệu người, trong khi các nhà cung cấp chính như ấn độ , AiLen cũng chỉ có khả năng cung cấp tối đa là 70%. Trung Quốc được coi là thị trường cạnh tranh tiềm năng nhưng thực tế thì nhu cầu nội địa của Trung Quốc rất lớn nên một số lượng lớn nhân lực giỏi của Trung Quốc sẽ bị hút vào thị trường nội địa. Thêm vào đó giá nhân lực Công nghệ thông tin tại các thị trường ấn độ , AiLen đang tăng cao trong khi giá nhân công Công nghệ thông tin ở Việt Nam rất thấp. Như vậy thị trường gia công phần mềm còn rất nhiều lớn. Nạn khủng bố và bất ổn về an ninh chính trị ở nhiều khu vực trên thế giới khiến cho các tập đoàn đa quốc gia và các công ty Công nghệ thông tin lớn ở ấn độ , AiLen, Hàn Quốc, Đài Loan, Philipine Indonexia v.v… đang cố gắng dãn bớt các trung tâm phát triển phần mềm sang những nơi có độ ổn định về chính trị để giảm bớt thiệt hại có thể xảy ra. Hà Nội được đánh giá là một trong những thành phố có tình hình an ninh và chính trị ổn định, lại là Thủ đô của Việt Nam và nằm gần gũi với các cường quốc về gia công phần mềm như ấn độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Philipine…nên sẽ là một địa điểm lý tưởng để đón nhận cơ hội này. Hà Nội là một trong các thành phố của Việt Nam có cộng đồng người Việt Kiều đang sống và làm việc tại nước ngoài, và rất nhiều người trong số họ là các chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực phát triển phần mềm. Nếu khai thác được lực lượng này thì đây sẽ là một nguồn lực rất lớn cho việc gia công xuất khẩu phần mềm Hà Nội. Thành phố có thể kêu gọi các Việt kiều tại những nước phát triển. *Thách thức: Một thách thức lớn mà công nghiệp phần mềm Hà Nội phải đương đầu là sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế, đặc biệt là với Trung Quốc. Mặc dù nền Công nghiệp phần mềm Trung Quốc được định hướng phục vụ thị trường nội địa nhưng nước này đang nổi lên như là một điểm đến quan trọng cho các nhà tìm kiếm đối tác gia công phần mềm. Hiện Trung Quốc đang có những bước tiến mạnh mẽ và nhanh chóng trong việc xây dựng công nghiệp phần mềm theo hướng gia công xuất khẩu. Trung Quốc có thể cạnh tranh với Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng cả về chất lượng lao động lẫn giá cả và chi phí thấp. Công nghiệp phần mềm là một ngành có tốc độ phát triển rất nhanh, vòng đời công nghệ ngắn, cần chi phí đầu tư lớn cho việc đào tạo cập nhật công nghệ, Marketing tìm kiếm mở rộng thị trường. Việc mở văn phòng đại diện ở một quốc gia như Mỹ, Nhật Bản là rất đắt đỏ. Trong khi đó ngành Công nghiệp phần mềm của Hà Nội lại còn rất non trẻ, yếu về nguồn lực, thiếu về kinh nghiệm. Đó là những thách thức và mạo hiểm không nhỏ cho các doanh nghiệp phần mềm Hà Nội muốn tham gia thị trường quốc tế. Một thách thức nữa cũng có thể xảy là việc các phần mềm có thể trở chuẩn hoá và sẽ chỉ còn là sản phẩm độc quyền của một số tập đoàn và công ty Công nghệ thông tin lớn trên thế giới. Trong trường hợp này việc phát Công nghệ phần mềm theo định hướng xuất khẩu sẽ gặp không ít khó khăn 3.1.2: Phương hướng phát triển sản xuất phần mềm Mục tiêu của Hà Nội là phát triển và đưa thành phố trở thành trung tâm, mũi nhọn của cả nước về xuất khẩu Công nghệ, thoả mãn ngày càng cao nhu cầu sử dụng trong nước; tạo thêm nhiều việc làm cho người dân, nâng cao khả năng cạnh tranh. Đảm bảo cho sự phát triển bền vững, hiệu quả trên cơ sở công nghệ hiện đại, quản lý hệ thống chất lượng, quản lý lao động và môi trường theo tiêu chuẩn quốc tế. Mục tiêu được các doanh nghiệp Hà Nội đề ra xuất khẩu đạt 150 tỷ đồng. Trong khi đó kết thúc 3 tháng đầu năm các doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm Hà Nội đã đạt giá trị 43,5 tỷ đồng; thu nhập bình quân của người lao động làm việc cho các doanh nghiệp phần mềm đạt 15 triệu/tháng. Trong những tháng đầu năm các doanh nghiệo phần mềm đã không ngừng đầu tư các trang thiết bị phục vụ cho ngành Công nghiệp phần mềm. Các doanh nghiệp đã mạnh dạn mở các chi nhánh của công ty ra nước ngoài và tuyển những lập trình viên có tay nghề cao vào làm việc nhằm nâng cao trình độ và tăng cường khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Phát triển theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hoá, đảm bảo tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả; phát triển tối đa thị trường nội địa đồng thời với việc mở rộng xuất khẩu, lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho xuất khẩu của các doanh nghiệp Haf Nội. Phát triển đầu tư theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hoá nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng của sản phẩm. Để vvượt qua được trở ngại này thì ngay từ bây giờ phải đẩy mạnh sản xuất đẳng cấp có hàm lượng giá trị tăng cao nhanh hơn nữa việc thâm nhập mở rộng thị trường, tạo ra nhiều việc làm cho xã hội và nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế khu vực và thế giới. Với tinh thần người dân Việt Nam “Tự lực tự cường” các Doanh nghiệp phần mềm Hà Nội ngày càng phát triển lớn mạnh. Với sự nhạy bén linh hoạt trong công tác quản lý kinh doanh và sự phát triển không ngừng của bộ máy sản xuất đã giúp các Doanh nghiệp hoà nhập với nhịp độ phát triển chung cùng đất nước. 3.1.3: Phương hướng xuất khẩu phần mềm Trong hoạt động xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội đều được ghi chép và phản ánh một cách kịp thời, đầy đủ, đúng đối tượng và theo trình tự thời gian. Các doanh nghiệp liên tục đầu tư mở rộng thị trường sản xuất, đổi mới thiết bị và dây chuyền đồng bộ để sản xuất nhưng cũng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu ngày càng cao, xuất khẩu đạt kim ngạch cao nhưng cũng chủ yếu là gia công cho các Công ty nước ngoài. Các doanh nghiệp đang phấn đấu đầu tư mở rộng sản xuất để tăng thu nhập và việc làm cho người lao động, quảng bá về thương hiệu của mình để tất cả mọi người biết đến sản phẩm của mình. Thực hiện lộ trình giảm chi phí và nâng cao chất lượng sản phẩm, ban hành định mức tiêu hao phế liệu. Quản lý chặt chẽ tiêu hao vật tư và định mức sản xuất của các doanh nghiệp. Trước những khó khăn chồng chất, cần phát huy khí thế thi đua trong các doanh nghiệp, đẩy mạnh đầu tư để có công nghệ, năng suất cao hơn. sản xuất được sắp xệp lại, bố trí các công nghệ đồng bộ để bù đắp chi phí đầu vào, tận dụng các chính sách của Nhà nước về Xuất khẩu phần mềm. 3.2: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 3.2.1: Thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) vào xuất khẩu phần mềm Sự đầu tư của các công ty nước ngoài đặc biệt là của các tập đoàn đa quốc gia, ảnh hưởng rất lớn nếu không nói là quyết định cho sự thành công của việc xuất khẩu phần mềm tại nhiều cường quốc xuất khẩu phần mềm trên thế giới. Hiện Hà Nội đang có nhiều cơ hội để thu hút các công ty nước ngoài đầu tư mở các trung tâm phát triển gia công phần mềm xuất khẩu. Sự ổn định về an ninh và chính trị là những điều kiện thuận lợi cần thiết, tuy nhiên Việt Nam cần có các chính sách đồng bộ và các biện pháp mạnh hơn nữa có thể tận dụng được cơ hội này. 3.2.2: Phát triển và nâng cao trình độ lực lượng lao động phần mềm Việc phát triển và nâng cao trình độ nguồn nhân lực là vấn đề cốt yếu nhằm thu hút đầu tư nước ngoài vào Công nghệ phần mềm cũng như để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp phần mềm cần có các biện pháp cụ thể và có quyết tâm cao của Uỷ Ban Nhân Dân thành phố và các bộ phận ngành. Về mặt đào tạo chính quy trong các trường đại học, cao đẳng của Bộ Giáo Dục cần có kế hoạch để đưa Tiếng Anh vào giảng dạy và học tập trong các khoa Công nghệ thông tin càng sớm càng tốt, trước mắt có thể thực hiện thí điểm ở một số trường trong thành phố sau đó có thể nhân rộng dần ra. Cần liên tục cập nhật, đổi mới chương trình, tăng số môn cũng như thời lượng học chuyên môn, loại bỏ các môn học lạc hậu; liên kết thuê giáo viên từ các viện nghiên cứu, từ các công ty phần mềm và cả các chuyên gia nước ngoài vào để giảng dạy; trang bị thêm cơ sở vật chất phục vụ cho thực hành (máy tính, mạng lưới, đường truyền Internet,v.v…)… Ngoài ra Thành phố cũng cần cho phép thành lập một số trường đại học chuyên về Công nghệ thông tin có chất lượng cao trực thuộc bộ ngành chuyên môn của thành phố quản lý; mở rộng cơ chế cho phép các trường đại học nước ngoài mở trường đại học Công nghệ thông tin tại Việt Nam. Đối với loại hình đào tạo phi chính quy về Công nghệ thông tin do các doanh nghiệp hoặc các trung tâm đào tạo nghề liên kết với các công ty nước ngoài để đào tạo, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích và hỗ trợ. Có thể mở thêm các trung tâm đào tạo theo mô hình trung tâm đào tạo kỹ sư Công nghệ thông tin theo chuẩn Nhật Bản. Lập quỹ đào tạo và phát triển nhân lực phần mềm trong đó 50% là ngân sách của Thành phố và 50% do các doanh nghiệp đóng góp nhằm cung cấp các khoá đào tạo nâng cao về quy trình công nghệ phần mềm của các doanh nghiệp. Hà Nội cũng cần đẩy mạnh hoạt động đưa các cán bộ phần mềm ra học tập và làm việc ở nước ngoài. Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy chính lực lượng này sẽ là những nhân tố rất quan trọng cho việc sản xuất và xuất khẩu phần mềm. Đồng thời việc đưa các lao động phần mềm ra làm việc ở nước ngoài theo tổ chức cũng có thể đem lại một nguồn thu không nhỏ. Thành phố cũng cần có các chính sách khuyến khích và hỗ trợ xuất khẩu xuất khẩu lao động phần mềm, cần có sự hợp tác của Thành phố với các quốc gia có nhu cầu nhập khẩu lao động phần mềm nhằm đơn giản hoá các thủ tục xin cấp VISA cho lao động phần mềm. Hà Nội cũng cần có các chính sách để thu hút các chuyên gia phần mềm về làm việc và mở doanh nghiệp hoạt động tại Thành phố. 3.2.3: Hoàn thiện môi trường pháp lý cho Công nghệ phần mềm Ngoài việc xây dựng hành lang pháp lý cho vịêc trao đổi thương mại tạo điều kiện cho việc xuất khẩu phần mềm, Hà Nội còn phải rất chú trọng đến việc thực thi luật bản quyền cho các sản phẩm phần mềm. Việc thực thi nghiêm chỉnh các luật về bản quyền một mặt sẽ thúc đẩy nền công nghiệp phần mềm của Hà Nội phát triển, mặt khác sẽ tạo một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào công nghiệp phần mềm Hà Nội. Các công ty nước ngoài sẽ không còn e ngại khi thuê các công ty phần mềm của Hà Nội làm gia công phần mềm. 3.2.4: Phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông Các công ty phần mềm, đặc biệt la các công ty làm gia công và sản xuất phần mềm xuất khẩu có những yêu cầu rất cao về dịch vụ Viễn thông qua Internet. Đường truyền Internet phải có băng thông rộng và độ tin cậy cao nhằm cho nhiều chuyên gia phần mềm từ nhiều quốc gia có thể đồng thời làm việc Online trên cùng một sản phẩm. Việc tải các file dữ liệu lớn từ Internet cũng là một trong những yêu cầu thường xuyên. Do vậy cần tiếp tục đầu tư và nâng cao băng thông rộng và chất lượng dịch vụ cho cơ sở hạ tầng Viễn thông Internet, đặc biệt cần có các ưu tiên về cơ sở hạ tầng thông tin cho các doanh nghiệp phần mềm. 3.2.5: Hỗ trợ tìm kiếm, nghiên cứu và phát triển thị trườnễúât khẩu phần mềm Hà Nội cần phải có một chiến lược Marketing mang tầm cỡ quốc gia cho nền công nghiệp phần mềm. Đại bộ phận các doanh nghiệp phần mềm là các doanh nghiệp phần mềm là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Công việc tìm hiểu thị trường ở một nước khác, tiếp thị và quảng bá cho sản phẩm phần mềm ở nước ngoài là quá sức đối với các doanh nghiệp này. Hà Nội cần cần đầu tư và tổ chức các chương trình nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong lĩnh vực rất khó khăn này. Có thể lập một quỹ nghiên cứu và hỗ trợ quảng bá, tiếp thị phát triển thị trường cho các doanh nghiệp trong đó Thành phố đầu tư ban đầu 50% còn 50% sẽ trích từ doanh thu của các doanh nghiệp phần mềm. Cần thiết phải tổ chức các hội thảo, hội nghị tuyên truyền trong và ngoài nước về các chính sách khuyến khích, các kế hoạch và các thành tựu của công nghiệp phần mềm Hà Nội để xây dựng một hình ảnh về Công nghiệp phần mềm Hà Nội trên thị trường quốc tế. Cần lập các uỷ ban hợp tác về Công nghệ thông tin và sản xuất phần mềm với các thị trường chiến lược như Bắc Mỹ, EU và Nhật Bản để nhận những hợp đồng phân phối lại cho doanh nghiệp. Việc phát huy vai trò của các hiệp hội phần mềm và các hội tin học là một điểm rất quan trọng. Các hiệp hội có nhiệm vụ liên kết các doanh nghiệp thành viên nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của cả khối, tổ chức giới thiệu với thế giới về Công nghiệp phần mềm Hà Nội thông qua hội thảo, hội nghị và các mối liên hệ với các hiệp hội tương ứng ở các quốc gia trên thế giới. 3.3: Kiến nghị 3.3.1: Đối với Chính phủ, Nhà nước  Nâng cao vai trò của Chính phủ trong việc định hướng và quản lý các doanh nghiệp xuất khẩu. Đưa ra những chủ trương, chính sách hỗ trợ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động.  Nên tăng ngân sách Thành phố cho hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng được hệ thống thu thập thông tin về các thị trường xuất khẩu của Hà Nội và cung cấp một cách nhanh chóng, kịp thời cho doanh nghọêp, giúp đỡ doanh nghiệp nắm bắt được cơ hội kinh doanh.  Tiếp tục ban hành các khuôn khổ pháp lý cho thương mại điện tử, có các biện pháp hỗ trợ và bảo vệ người tiêu dùng khi thực hiện giao địch điện tử.  Hoàn thiện hệ thống phấp luật nói chung và hệ thống pháp luật về hải quan nói riêng, có sự đồng bộ về hệ thống pháp luật với các quốc gia trên thế giới. áp dụng hai quan điện tử một cách rộng rãi trong cả nước cũng như toàn Hà Nội. Nhằm tiết kiệm thời gian, chi phí, hạn chế được tình trạng tham nhũng.  Tiếp tục thực hiện chế độ tự khai thuế, xây dựng hệ thống thu thuế minh bạch, đơn giản, tiếp tục thực hiện rà soát hệ thống pháp luật về thuế để hạn chế những kẽ hở có thể bị lợi dụng khi thực thi pháp luật về thuế. 3.3.2: Đối với Bộ công thương và các cơ quan có liên quan * Bộ công thương: + Cung cấp các thông tin về tình hình xuất nhập khẩu cho doanh nghiệp. Các thông tin này cần được cập nhật thường xuyên theo từng mặt hàng, từng thị trường. Đảm bảo sự công bằng, minh bạch trong việc cấp giấy phép xuất khẩu, cấp hạn ngạch. + Tạo điều kiện cho doanh nghiệp được tham gia các hội chợ, triển lãm quốc tế để tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Thông tin về các hội chợ triển lãm phải đảm bảo đến được với tất cả doanh nghiệp thông qua nhiều hình thức khác nhau (phổ biến nhất, nhanh nhất và hiệu quả nhất là thông qua Website của Bộ). *Hệ thống ngân hàng: tăng cường khả năng cung cấp tín dụng ngân hàng cho các doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm. Các doanh nghiệp thường gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn đầu tư để đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất. Bản thân các doanh nghiệp không thể huy động vốn để đầu tư mà cần có sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng giúp doanh nghiệp có thể vay vốn với lãI suất phảI chăng, tạo điều kiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hệ thống ngân hàng cũng cần hiện đại hoá công nghệ thanh toán, đẩy mạnh thực hiện các dịch vụ ngân hàng điện tử, có sự kết nối giữa các ngân hàng nhằm rút ngắn thời gian thanh toán. *Cơ quan hải quan: Xoá bỏ những quy định đã trở nên lạc hậu, đơn giản hoá hơn nữa thủ tục hải quan, giảm thiểu giấy tờ, thủ tục hành chính tring kê khai làm thủ tục xuất nhập khẩu. áp dụng hải quan điện tử rộng rãi hơn, rút ngắn thời gian từ thủ tục hải quan đến lúc có quyết định thông quan 3.3.3: Đối với Bộ khoa học và Công nghệ + Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động nghiên cứu thị trường, xây dựng hệ thống cung cấp thông tin về thị trường về các quốc gia cho các doanh nghiệp xuất khẩu. + Tạo điều kiện cho doanh nghiệp tham gia các hội chợ, triển lãm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ký kết được những hợp đồng có giá trị lớn. Các hội chợ triển lãm do Hiệp hội các doanh nghiệp Xuất khẩu phần mềm tổ chức cần được công bố rộng rãi, phổ biến tới tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu phần mềm. Các hội chợ triển lãm quốc tế tổ chức trên thế giới co liên quan đến Công nghệ thông tin cần được thông báo kịp thời cho các doanh nghiệp để doanh nghiệp có thời gian chuẩn bị tham gia, có cơ hội giới thiệu doanh nghiệp với các đối tác khác. + Các chuyến thăm và làm việc của các tập đoàn phần mềm tại Việt Nam nói chung và đối với các doanh nghiệp phần mềm Hà Nội nói riêng chứng tỏ sự quan tâm của các tập đoàn Viễn thông phần mềm thế giới tới thị trường Công nghệ của chúng ta. Vì thế, cần phải thông tin đầy đủ và kịp thời về các sự kiện này tới các doanh nghiệp được tiếp xúc, tìm hiểu và lam việc với các doanh nghiệp đó. + Tổ chức các chương trình đào tạo, học tập kinh nghiệm từ nước ngoài cho doanh nghiệp. Có chính sách khen thưởng các doanh nghiệp có thành tích xuất sắc trong xuất khẩu, có các biện pháp khuyến khích doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động của mình. Kết luận Hà Nội được đánh giá là một trong những thành phố có tiềm năng để phát triển công nghiệp phần mềm nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường trong nước cũng như để xuất khẩu. Hoạt động xuất khẩu phần mềm của Hà Nội có nhiều thuận lợi như được sự hỗ trợ mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước, nằm trong khu vực rất năng động về Công nghệ thông tin, lại có sự ổn định cao về an ninh chính trị giá nhân công và chi phí thấp và có nhiều chuyên gia đang làm trong các công ty phần mềm lớn cũng mong muốn quay về làm việc hoặc đầu tư sản xuất. Tuy nhiên thành phố cũng có nhiều điểm yếu ảnh hưởng đến khả năng gia công xuất khẩu phần mềm. Đó là khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào còn yếu, chất lượng nguồn nhân lực phần mềm thấp, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kém, cơ sở hạ tầng viễn thông Internet còn hạn chế, chưa có khả năng tiếp thị quảng bá mở rộng thị trường quốc tế và nạn vi phạm bản quyền rất cao. Hà Nội còn có nguy cơ bị cạnh tranh rất gay gắt từ các nước trong khu vực và đặc biệt là từ Trung Quốc. Hiện nay Thành phố Hà Nội đang có nhiều cơ hội để có thể đẩy mạnh việc phát triển công nghiệp phần mềm nói chung và hoạt động xuất khẩu phần mềm nói riêng. Tuy nhiên để có thể chớp được thời cơ này Thành Phố cần phải có sự nỗ lực phấn đấu đồng bộ của cả Chính phủ, các cơ quan quản lý, các doanh nghiệp và các hiệp hội. Tài liệu tham khảo 1: Vietnam Competitiveness Intiative (VNCI), 2003, Software/ICT Cluster Strategy, Báo cáo, Vietnam 2: Trần Quốc Hùng; Hội thảo HT2009 Nền kinh tế mới toàn cầu hoá và thử thách đối với các nước đang phát triển 3: Thị trường lớn – khả năng nhỏ, Báo Lao Động – Việt Nam 4:: 5: Giáo trình Marketing thương mại - Trường Đại Học Kinh tế Quốc Dân Mục lục Lời mở đầu:…………………………………………………………………. Chương 1: Lý luận chung về xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp 1.1: Đặc điểm sản phẩm phần mềm 1.1.1: Khái niệm và phân loại sản phẩm phần mềm 1.1.2: Quá trình sản xuất sản phẩm phần mềm 1.1.3: Đặc trưng sản phẩm phần mềm 1.2: Một số lý thuyết áp dụng trong xuất khẩu phần mềm 1.2.1: Lý thuyết lợi thế so sánh 1.2.2: Lý thuyết lợi thế cạnh tranh 1.2.3: Lý thuyết về chuỗi giá trị toàn cầu 1.3: Đặc điểm một số thị trường nhập khẩu phần mềm của Việt Nam Chương 2: Thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 2.1: Tổng quan về các doanh nghiệp sản xuất phần mềm của Hà Nội 2.1.1: Thực trạng trình độ và nguồn lực sản xuất phần mềm 2.1.2: Thực trạng nguồn lực cho sản xuất phần mềm 2.1.3: Lợi thế và hạn chế của các doanh nghiệp sản xuất phần mềm của Hà Nội 2.2: Phân tích thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 2.2.1: Kim ngạch xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 2.2.2: Thị trường xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 2.2.3: Khả năng cạnh tranh trong xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 2.2.4: Cơ chế, chính sách của Thành phố Hà Nội trong thúc đẩy xuất khẩu phần mềm 2.3: Đánh giá thực trạng xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội Chương 3: Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 3.1: Phương hướng phát triển sản xuất và xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 3.1.1: Cơ hội và thách thức trong xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 3.1.2: Phương hướng phát triển sản xuất phần mềm 3.1.3: Phương hướng xuất khẩu phần mềm 3.2: Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu phần mềm của các doanh nghiệp Hà Nội 3.3: Kiến nghị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf110668_4718.pdf