Ngôn ngữ văn học dân gian Nam Bộ mang đậm màu sắc địa phương. Nói như
thế không có nghĩa là ngôn ngữ trong văn học dân gian Nam Bộ không nằm trong sự
phát triển của ngôn ngữ dân tộc. Ngôn ngữ văn học dân gian Nam Bộ vừa kế thừa và
phát huy những đặc điểm của ngôn ngữ văn học dân gian dân tộc, vừa thể hiện và
làm phong phú thêm vốn từ ngữ mang sắc thái địa phương. Từ đó, nó góp phần làm
phong phú thêm kho từ vựng của tiếng Việt, góp phần đáp ứng kịp thời nhu cầu về sử
dụng ngôn ngữ trong quá trình diễn đạt của người dân. Có thể nói đây là một đóng
góp của ngôn ngữ văn học dân gian Nam Bộ đối với tiếng nói dân tộc. Do vậy, cần có
sự quan tâm thích đáng đối với việc nghiên cứu, tìm hiểu văn học dân gian Nam Bộ.
Dưới góc độ một giáo viên giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường phổ thông, người
viết nhận thấy văn học dân gian Nam Bộ hầu như vắng mặt ở chương trình học cấp
trung học phổ thông. Chúng tôi nghĩ chương trình Ngữ Văn ở cấp THPT cần có một
số câu ca dao Nam Bộ, đặc biệt là những câu ca dao than thân đậm đà màu sắc địa
phương Nam Bộ. Điều này góp phần làm cho tiếng nói người Nam Bộ trở nên gần
gũi, quen thuộc hơn với người dân các vùng khác. Từ đó, mọi người thêm yêu vẻ đẹp
của văn học dân gian Nam Bộ nói riêng và văn học dân gian dân tộc nói chung.
122 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 3917 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Phương ngữ Nam Bộ trong văn học dân gian, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghe
xong lời tâm sự, ta không khỏi mỉm cười, cười vì hiểu được tấm chân tình mộc mạc
được thổ lộ một cách vô cùng tự nhiên của chàng trai ấy.
Sự phóng đại ở đây không phải sự lộng ngôn. Nó là cách để nhân vật trữ tình
bộc lộ tình cảm của mình, đó là thứ tình cảm vô cùng thắm thiết, nồng nàn mà những
cách diễn đạt thông thường khó mà lột tả được hết.
Để diễn tả cho kì được tấm chân tình của mình, tác giả dân gian Nam Bộ còn
dùng chính những bộ phận của cơ thể mình để biểu đạt.
Thương đứt ruột:
Đũa vàng dộng xuống mâm son
Anh thương em đứt ruột vội từ hôn sao đành
84
Thương đứt ruột, đứt gan:
Gió năm non thổi lòn hang chuột
Thấy em bơi xuồng anh đứt ruột đứt gan
Thương chết nửa thân mình:
Anh bước xuống xuồng nhỏ
Anh gõ nhẹ một cái cộc
Anh lượm được cục ngọc thủy tinh
Anh thương em chết nửa thân mình
Mà em ngơ ngẩn như mình thương ai
Thương đến mức muốn cắt ruột cho người tình:
Một tiếng than đôi ba tiếng vãn, năm bảy tiếng tình
Thiếu điều anh cắt ruột bỏ qua mình, anh về không.
Đối với người Việt, ruột, gan thường được dùng để biểu đạt ý chí, tình cảm
của con người. Từ ruột được người Việt dùng để chỉ huyết thống, đặc biệt là quan hệ
huyết thống trực tiếp. Quan hệ huyết thống là cơ sở quan trọng để tạo ra tình cảm
giữa những người trong gia đình, dòng tộc. Ngoài ra, ý nghĩa biểu trưng của ruột còn
được mở rộng để chỉ lí trí và tâm trạng con người. Tác giả dân gian Nam Bộ không
dùng ruột để chỉ tâm trạng hạnh phúc, thỏa mãn mà thường dùng để chỉ tâm trạng
đau khổ.
Ruột thắt chín tầng:
Chiều chiều chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ bạn chín chiều ruột đau
Ruột thắt gan đau vì nghèo mới xa cô bạn
Ruột thắt chín tầng đành đoạn héo hon
Ruột bầm như dưa:
Anh đi không lẽ em cầm
Chấp tay đưa bạn ruột bầm như dưa
Gan trong cách nói của người Việt biểu trưng cho tinh thần, ý chí, cho tính
cách con người. Trong ca dao, dân ca Nam Bộ, gan thường biểu trưng cho tâm trạng
85
buồn khổ. Khi biểu đạt tâm trạng buồn khổ, gan thường đi liền với ruột trong một
cụm từ có tính thành ngữ.
Ruột gan thắt thẻo:
- Ai mà lạc lối thuyền tình
Nào khi thề thốt đinh ninh
Theo dòng nước chảy một mình quạnh hiu
- Nghe em than, ruột gan thắt thẻo
Lòng anh không bạc bẽo sao em khéo rầy rà
Anh nguyền trọn dạ đến già chẳng phai
Ruột gan héo bầm:
Bây giờ giấy trắng, mực đen
Em xin viết giấy làm tờ cam đoan
Em đứng giữa trời em chẳng nói gian
Em xa người nghĩa mà ruột gan héo bầm.
Ruột héo gan rầu:
Ngó lên Châu Đốc, ngó xuống Vàm Lau
Thấy buồm bạn chạy sóng bủa theo sau
Anh thương em ruột héo gan rầu
Biết em thương lại được chút nào hay không.
Ruột thắt gan bào:
Ngó lên trời thấy mây vần vũ
Ngó xuống âm phủ thấy đủ mặt bá quan
Ngó về Nam Vang thấy bốn chữ phết vàng
Ngó thấu Ngọc Hoàng thấy hàng chữ đỏ
Ngó về biển nhỏ thấy sóng bủa lao xao
Anh thương em ruột thắt gan bào
Biết em có thương lại chút nào hay không?
Đôi khi ruột, gan được tách thành hai vế đối xứng nhằm nhấn mạnh nỗi niềm:
86
Thương em đất lở tự trầm
Gan thâm từng lá, ruột bầm từng cơn
Ngoài ra, gan còn được dùng để biểu đạt trạng thái tức giận:
Ngọn dền tía, ngọn bần cũng tía
Ngọn lang giâm, ngọn nứa cũng giâm
Thấy em tốt mã anh lầm
Bây giờ so lại giận bầm lá gan.
Hay tâm trạng bồi hồi, tương tư:
Chim trên rừng nó kêu dội suối
Gà dưới núi nó gáy chày đôi
Đêm năm canh thức dậy em ngồi
Lòng thương quân tử bồi hồi lá gan.
Như vậy, ruột, gan trong ca dao, dân ca Nam Bộ gắn với khuynh hướng biểu
đạt tâm trạng đau buồn, mang sắc thái biểu cảm âm tính. Điều này, có lẽ xuất phát từ
nguyên tắc sống hết mình của người dân Nam Bộ. Vì sống hết mình nên trong tình
yêu bao giờ người Nam Bộ cũng muốn nói tận đáy lòng, nói cho đối tượng hiểu được
bụng dạ của mình, phơi bày cả ruột gan mình ra. Đây cũng là một nét đặc sắc trong
văn học dân gian Nam Bộ nói chung và ca dao, dân ca Nam Bộ nói riêng.
Người Nam Bộ tính vốn thẳng thắn, bộc trực, không bị gò ép bởi lễ giáo phong
kiến. Vì vậy, ngay cả phụ nữ trong tình yêu cũng táo bạo và dí dỏm không kém nam
giới:
Thương anh vô giá quá chừng
Trèo tường quên mệt, ngậm gừng quên cay
Nhác trông thấy bóng anh đây
Ăn chín lạng ớt ngọt ngay như đường.
Khó có thể tin được tình yêu sẽ làm vị giác của con người bị lẫn lộn giữa vị
cay và vị ngọt. Thế nhưng, lời cô gái vẫn nhận được sự đồng cảm từ những tâm hồn
đang yêu bởi vì họ hiểu cách nói đó cũng là một trong nhiều cách biểu đạt tình yêu
vậy.
Nếu không lấy đặng cô này
87
Tui thề chèo ghe ra biển cả, nước lớn đầy tui chèo vô.
Câu tôm, câu vớt, câu vợt, câu cần
Câu doi, câu vịnh, câu lần tới em.
Cách nói khoa trương, phóng đại cũng góp phần tạo nên phong cách diễn đạt dí
dỏm, hài hước của người Nam Bộ. Dù thiên nhiên có phần ưu đãi, điều kiện tự nhiên
thuận lợi cho việc trồng trọt, chăn nuôi, phát triển kinh tế nhưng người Nam Bộ cũng
gặp không ít khó khăn, thử thách, nhất là trong buổi đầu khai phá vùng đất này. Họ
đã phải chế ngự những nỗi buồn len lỏi trong tâm tư của những người xa quê, nỗi
buồn lúc mất mùa, bệnh tật. Họ lấy tiếng cười làm phương thuốc để tự động viên
mình, động viên người bên cạnh. Trong lời ăn tiếng nói của người Nam Bộ thường có
những ý tứ gây cười. Trong những lúc vất vả, khó khăn nhất, tiếng cười lại xuất hiện
càng nhiều.
Khi miêu tả thiên nhiên hoang sơ, người Nam Bộ có câu ca dao nổi tiếng:
Xứ nào bằng xứ Cạnh Đền
Muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lền tợ bánh canh
Có thể thấy, các tính chất, trạng thái được miêu tả phóng đại giúp người nói đi
sâu vào mô tả bản chất sự vật. Đồng thời, người nghe cũng hình dung được sự vật
một cách cụ thể hơn. Câu ca dao miêu tả một hoàn cảnh sống không thuận lợi thậm
chí là có phần khắc nghiệt, vậy mà ta không tìm thấy ở đó sự than thở hay trách móc.
Câu ca dao còn có phần dí dỏm nhờ vào các hình ảnh so sánh: muỗi kêu – sáo thổi,
đĩa – bánh canh. Từ đó, toát lên tinh thần lạc quan, yêu đời đáng quý của người Nam
Bộ.
Ngay cả trong tình yêu - lĩnh vực mà ai cũng nghĩ cần phải nghiêm túc - thì
người Nam Bộ cũng có thể bông đùa được:
Anh có tiền dư cho em một đồng
Em về mua gan công mật cóc thuốc chồng rồi theo anh
Thế nhưng, sự bông đùa ấy vẫn ẩn chứa tình cảm chân thành, mộc mạc. Chính
vì vậy, những câu ca dao như thế mới giữ được sức sống lâu dài.
88
Nỗi lo cơm áo gạo tiền luôn là gánh nặng của con người. Thế nhưng, sự đối lập
giàu nghèo trong cách nói của người Nam Bộ trở nên rất nhẹ nhàng:
Người ta giàu người ta nấu đầy nồi
Mình nghèo nấu ít, ăn rồi mình nấu thêm
Người ta giàu người ta ngủ thẳng đêm
Mình nghèo ngủ ít, ngủ thêm ban ngày
Có thể nói, lạc quan yêu đời và dí dỏm, hài hước là các đặc điểm hay đi liền
với nhau. Trong môi trường có phần khó khăn, khắc nghiệt thì tiếng cười cũng là một
vũ khí để chiến thắng thiên nhiên, chiến thắng bản thân mình.
Trong những câu chuyện cười, đặc biệt là câu chuyện về Bác Ba Phi, lối nói
phóng đại đạt đến đỉnh cao. Các sự vật được kể trong chuyện Bác Ba Phi đều được
cường điệu về độ phong phú của số lượng. Đây là câu chuyện bác Ba Phi đi bắt rùa:
“Ngồi trên ghe, bác thấy con nào lớn thì bắt bỏ lên ghe, nhỏ thì hất xuống sông. Đầy
ghe bác nhổ sào ra về. Không ngờ, những chú rùa con bị hất xuống, bám theo hai
bên ghe đông nghịt. Bọn chúng một tay bám, một tay bơi nên bác Ba không phải chèo
xuồng mà chỉ việc ngồi kèm lái. Những con rùa bám hai bên ghe càng sợ rơi càng
bơi dữ khiến chiếc ghe của bác chạy nhanh như bo bo”.
Có những câu chuyện tác giả dân gian phóng đại độ lớn của loài vật: “Một lần,
bác Ba Phi kể rằng, nhà bác có nuôi một con vịt xiêm, nó lớn rất nhanh và cao to. Có
người đi qua chuồng làm náo động khiến con vịt cất cánh bay tung lên làm sập mười
căn nhà ở xung quanh. Người ta bắt bác phải bồi thường thiệt hại. Bác liền gọi thằng
nhỏ đi bắt cá bán để lấy tiền đền cho người ta. Cá ở ao nhà bác rất to, thằng nhỏ
không dám lội xuống bắt vì sợ nó ăn thịt. Nó dùng cần câu, cá cắn câu mà không thể
kéo lên bờ được còn bị nó lôi xuống ao. Bỗng nhiên, cá quẫy đuôi một cái, nó lại bị
bắn lên bờ, văng ra xa hơn mười công đất”.
Không khó để tìm những cách phóng đại như trên trong truyện cười Nam Bộ.
Qua lối diễn đạt cường điệu, phóng đại, người Nam Bộ thể hiện tình yêu, sự gắn bó
và niềm tự hào đối với quê hương. Việc dùng nhiều lối nói phóng đại còn thể hiện lối
sống lạc quan pha chút lãng mạn vô tư của người lao động.
89
Tính dí dỏm, hài hước ở Nam Bộ thường nhằm mục đích vui cười hả hê, giải
trí chứ không sâu sắc, thâm thúy như tiếng cười trong văn học dân gian ở các vùng
khác. Sự khác biệt này không thể hiện sự khác biệt về khả năng tư duy mà thuộc về
tính cách con người được thể hiện qua lối tư duy. Nó xuất phát từ lối tư duy lạc
quan,yêu đời, yêu cuộc sống của người Nam Bộ.
3.2.Cách biểu đạt bằng lối so sánh
So sánh là biện pháp được hình thành dựa trên việc liên tưởng đến nét tương
đồng giữa hai đối tượng khác nhau, trong đó hai đối tượng đều được nêu ra một cách
công khai. Trong văn học dân gian, tác giả dân gian thường so sánh đối chiếu đời
sống tình cảm, tâm trạng con người và hình ảnh thiên nhiên; tức là thông qua hình
ảnh thiên nhiên, tác giả dân gian muốn nói lên số phận, tâm tư, tình cảm của con
người. “Hình ảnh thiên nhiên và trạng thái con người tình cảm của con người được
đối chiếu với nhau trong những mối liên hệ trực tiếp và gián tiếp, cái này gợi ý về cái
kia, và đích miêu tả cuối cùng là trạng thái tình cảm của con người” [49]. Với biện
pháp so sánh, cách nói sẽ hình ảnh hơn, sinh động hơn, tạo được cảm xúc thẩm mỹ
trong nhận thức của người tiếp nhận.
Để chỉ những người hay ăn mà lại lười biếng làm việc, ở Nam Bộ có thành
ngữ:
Ăn như xáng múc, làm như lục bình trôi
Hay:
Ăn như xáng thổi, làm như chổi cùn
Đối tượng được đem ra so sánh bao giờ cũng là những sự vật, hiện tượng quen
thuộc.
Sự giàu có về sản vật (như tôm, cá, các loại trái cây) của vùng đất Nam Bộ
chính là cơ sở hình thành những hình ảnh để đem so sánh trong ca dao dân ca. Người
Nam Bộ đã lựa chọn những hình ảnh về các loại sản vật để nói lên thân phận, phẩm
chất của con người Nam Bộ:
Sen mọc giữa đồng lòng sen trong trắng
Sen Tháp Mười mưa nắng vẫn tươi
Bông sen như nết con người
90
Đẹp như con gái Tháp Mười quê ta
Nói đến cảnh sum họp của đôi lứa, ca dao Nam Bộ có câu:
Đôi ta như cá ở đìa
Ngày ăn tản lạc tối dìa đủ đông
Cá ở đìa là một hiện thực rất gần gũi với người dân vùng sông nước, vì thế khi
liên tưởng đến hoàn cảnh của con người hình ảnh cá ở đìa đã đi vào ca dao một cách
rất tự nhiên, không hề gượng ép.
Hoàn cảnh người con gái có chồng được tác giả dân gian Nam Bộ so sánh với
một hình ảnh đặc trưng của vùng đất này:
Bậu có chồng như cá vô lờ
Tương tư nhớ bậu dật dờ năm canh.
Nỗi vui mừng của cô gái khi gặp người yêu cũng mang đậm chất Nam Bộ,
không lẫn vào đâu được:
Gặp anh đây mừng đã quá mừng
Giả như bông lúa trổ mà nửa chừng mắc mưa.
Người Nam Bộ sống rất mạnh mẽ nên những hình ảnh họ đem ra so sánh
thường cụ thể, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Cách nói, cách sử dụng những
hình ảnh mạnh mẽ đã tạo cho ca dao, dân ca Nam Bộ một âm hưởng riêng:
Kẻ trắng như bông lòng anh không chuộng
Đen như cục than hầm, làm ruộng anh lại thương.
Những hình ảnh so sánh vừa dứt khoát, không mập mờ, trung tính lại vừa có
tính gợi hình, biểu cảm: trắng thì phải trắng như bông, đen thì phải đen như cục than
hầm. Thế mới là cực độ của trắng và đen. Thế mới thấy được tấm chân tình thiết tha
của chàng trai trong câu ca.
Ngoài ra, ca dao, dân ca Nam Bộ còn có những hình ảnh so sánh mang tính dí
dỏm. Điều này xuất phát từ tính cách vui vẻ, lạc quan của người Nam Bộ.
Gái chưa chồng trong lòng hớn hở
Trai chưa vợ ruột thắt tợ trái chanh
Hay:
Em tròn như quả quýt,
91
Em ngọt như trái cam sành
Tình thương em không chia sớt, em để dành cho ai.
Những hình ảnh về thiên nhiên, về sinh hoạt lao động, về sản vật của quê
hương đã trở thành những hình ảnh so sánh quen thuộc trong ca dao, dân ca; qua đó
nói lên tâm trạng, tình cảm, thân phận con người.
Khi nói đến thân phận người phụ nữ, ca dao dân ca Nam Bộ có những hình ảnh
riêng: trái bần trôi, hạt gạo, cái chuông vàng, cái sạp vàng, đóa sen, cá rô mề, trái
chanh, trái mãng cầu, chiếc thuyền be. Tất cả những hình ảnh trên đều là những sự
vật quen thuộc, gần gũi trong đời sống hằng ngày của người nông dân Nam Bộ.
Chúng vừa có giá trị gợi hình, biểu cảm vừa mang đậm màu sắc địa phương.
Thân em như trái bần trôi
Gió dập sóng dồi biết tấp vào đâu
Thân em hạt gạo trắng ngần
Đã vo nước đục lại vần lửa rơm
Thà rằng chẳng biết cho xong
Biết rồi như xúc,, như đong lấy sầu.
Thân em như tấm lụa đào
Kẻ ưa người chuộng biết vào tay ai
Thân em như tấm lụa điều
Đã đông nơi chuộng lại nhiều nơi thương
Thân em như cái chuông vàng
Ở trong thành nội có ngàn lính canh
Thân em như cái sạp vàng
Anh như chiếu rách bên đàng bỏ quên
92
Thân em như thể đóa sen
Anh như bèo bọt chẳng chen được vào
Thân em như trái xoài trên cây
Gió đông, gió nam, gió tây, gió bắc
Nó đánh lúc la lúc trên cành.
Thân em như cá rô mề
Kẻ nom người xúc biết về tay ai.
Em như bông cải tháng mười
Rần rần nở rộ người người đón đưa.
Thân em như trái mãng cầu
Ở trên bàn án hạc chầu lọng che
Thân em như thể trái chanh
Lắc lẻo trên cành nhiều kẻ ước mơ.
Thân em như chiếc thuyền be
Sợ e sóng trước lại dè sóng sau.
3.3.Cách biểu đạt bằng những hình ảnh biểu trưng quen thuộc
Hình ảnh biểu trưng thường được tạo nên nhờ biện pháp ẩn dụ. Ẩn dụ là biện
pháp mượn đối tượng này để nói đến đối tượng khác dựa trên nét tương đồng giữa hai
đối tượng, trong đó có một đối tượng không được nêu ra mà ẩn đi để người đọc tự
suy ra đối tượng kia. Đây là biện pháp được sử dụng rất phổ biến trong ca dao dân ca.
Tùy vào cách liên tưởng, cách lựa chọn hình ảnh của tác giả mà người tiếp nhận suy
ra ý nghĩa hàm ẩn, ý nghĩa tiềm tàng trong câu ca dao. Để có được cách hiểu đúng,
người tiếp nhận phải có một vốn hiểu biết nhất định về điều kiện tự nhiên, văn hóa,
93
con người của nơi hình thành nên câu ca dao đó. Như vậy, các hình ảnh biểu trưng
cũng mang đậm dấu ấn địa phương - nơi sản sinh ra nó.
Những hình ảnh biểu trưng trong ca dao dân ca Nam Bộ đều xuất phát từ
những yếu tố liên quan đến vùng đất và con người Nam Bộ. Khi nói về người con
gái, người Nam Bộ sử dụng các hình ảnh như : lê, lựu, mãng cầu, cây bần, bông
trang, trái xoài, cá rô mề Điểm qua danh sách các hình ảnh, ta dễ dàng nhận thấy
màu sắc địa phương Nam Bộ trong những hình ảnh ấy. Tùy vào tính chất, đặc điểm
của những hình ảnh được sử dụng mà tác giả có thể liên tưởng đến phẩm chất , tính
tình, hoặc nêu lên những suy nghĩ của mình về người con gái:
Cây bần ơi hỡi cây bần
Lá xanh bông trắng lại gần không thơm
Hình ảnh cây bần với lá xanh bông trắng nhưng “không thơm” gợi cho ta cách
nghĩ: người con gái trong câu ca dao chỉ có vẻ đẹp bên ngoài mà thiếu mất vẻ đẹp
tâm hồn bên trong.
Trong chủ đề tình yêu đôi lứa, những hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng đã thể
hiện được tâm trạng, thái độ, tình cảm của đôi lứa yêu nhau một cách sâu sắc. Tác giả
dân gian Nam Bộ đã nói lên quan niệm lựa chọn người yêu như sau:
Quýt rụng bờ ao ngọt ngào anh chuộng
Trái cam hồng đào rụng cuống anh chê
Khế rụng bờ ao thanh tao anh lượm
Ngọt như cam sành úng cuống anh chê.
Chàng trai sẵn sàng chọn cô gái tuy nhan sắc không đẹp (quýt rụng bờ ao)
nhưng phẩm chất tốt đẹp (ngọt ngào), chứ không bằng lòng chọn cô gái có nhan sắc
(trái cam hồng đào) nhưng lại không có đức hạnh (rụng cuống).
Trang ca dao, dân ca Nam Bộ có nhiều hình ảnh biểu trưng cho cuộc sống khó
khăn, vất vả: chiếu lác, áo ngắn, vải bô. Đồng thời cũng có những hình ảnh biểu trưng
cho sự giàu có, sung túc: chăn gấm, áo dài, lãnh. Các hình ảnh này thường xuất hiện
sóng đôi trong cùng một câu ca dao, nhằm nói lên quan điểm sống của người dân
Nam Bộ:
94
Thà rằng chiếu lác có đôi
Còn hơn chăn gấm lẻ loi một mình.
Áo dài chớ tưởng là sang
Bởi không áo ngắn phải mang áo dài.
Áo dài chớ nệ quần thưa
Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm
Người Nam Bộ dùng hình ảnh hoa sen, cá rô đồng, bông lài để biểu trưng cho
những phẩm chất đáng quý của con người:
Đừng chê bông quế mà phế bông lài
Mai sau quế lụi bông lài còn thơm.
- Tuy anh với đó không quen
Nhưng anh thương xót cánh sen vùi bùn
- Vùi bùn sen vẫn là sen
Lục bình rau má khó chen được vào.
Buổi chợ đang đông con cá rô đồng anh chê lạt
Buổi chợ tan rồi con tép bạc anh khen ngon.
Có những từ ngữ mang ý nghĩa biểu trưng đặc trưng cho ca dao, dân ca Nam
Bộ. Chúng cho phép người đọc nhận rõ xuất xứ của câu ca dao ấy:
Bậu chê qua ở rẫy ăn còng
Bậu về ở chợ ăn ròng mắm nêm
Muốn hiểu nội dung câu ca dao này, người đọc phải biết hiểu những cách nói
rất Nam Bộ như : “ở rẫy” là chỉ những người làm ruộng, ở thôn quê, “ở chợ” là
những người sống bằng nghề buôn bán, ở thành thị. Người con gái đã chọn người ở
thành thị. Nhưng cô đã sai lầm vì cuộc sống của người ở chợ cũng kham khổ chẳng
kém gì cuộc sống của người ở rẫy. Câu ca dao như một lời trách cứ nhẹ nhàng có
phần tiếc nuối của người con trai trước sự lựa chọn của cô gái.
95
Về nội dung tư tưởng, hai câu ca dao trên nằm trong sự thống nhất với ca dao
dân ca của dân tộc, tức là cũng đồng quan điểm “tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Tuy nhiên,
xét về cách nói thì có thể thấy, các hình ảnh được sử dụng đều là những sản vật riêng
có ở Nam Bộ, là các loại địa hình đặc trưng của Nam Bộ. Vì vậy, muốn hiểu được
dụng ý của các câu ca dao ấy, người tiếp nhận phải liên hệ đến phong tục tập quán và
cuộc sống của con người ở vùng đất Nam Bộ. Từ đó, người tiếp nhận sẽ nhận thức
được màu sắc địa phương Nam Bộ trong những câu ca dao ấy.
Ngoài ra, trong ca dao, dân ca Nam Bộ ta còn thấy xuất hiện một số điển tích,
điển cố mang tính chất biểu trưng. Trong đó có nhiều điển tích, điển cố có nguồn gốc
từ thi liệu, văn học Trung Quốc.
Ai xui kẻ Hán người Hồ
Đêm thương ngày nhớ, khó gần được nhau.
Câu ca dao gợi đến điển cố nàng Chiêu Quân cống Hồ. Khi vua Hán nhận ra vẻ
đẹp của nàng Chiêu Quân thì cũng chính là lúc nàng rời Hán sang Hồ dâng mình cho
vua Hung Nô để giữ tình hòa hiếu. Bài ca dao đã lấy ý của điền cố nhưng hoàn toàn
có thể tồn tại một cách độc lập. Người đọc có thể không hiểu nghĩa của điển cố
nhưng có thể hiểu được trọn vẹn ý nghĩa của bài ca dao nhờ vào cách vận dụng thể
đăng đối “kẻ Hán người Hồ” đã tạo nên trường nghĩa về nỗi đau li biệt.
Theo thần thoại Trung Quốc, chim quạ (ô), chim khách (thước) khuân đá lấp
sông Ngân Hà tạo nên cầu Ô Thước để Chức Nữ sang gặp Ngưu Lang trong tiết thất
tịch (mùng 7 tháng 7). Từ đó, cầu Ô Thước biểu trưng cho sự gặp gỡ, nối kết đôi lứa:
Bậu đừng dứt nghĩa cầu Ô
Bởi qua đây không phụ Hớn, chuộng Hồ như ai
Biểu đừng nghi bảy nghi ba
Không tin bậu cứ hỏi kẻ xa người gần.
Cầu Ô Thước trăm năm giữ vẹn
Sông Ngân Hà giữ trọn đừng phai
Sợ anh ham chốn tiền tài
Dứt tình nhơn nghĩa mà đành quên em.
96
Bước xuống cầu, cầu quằn cầu quặt
Bước xuống ghe, ghe lắc ghe nghiêng
Lữ Phụng Tiên sánh với Điêu Thuyền
Kiếp này không đặng xin nguyền kiếp sau.
Lữ Phụng Tiên tức Lữ Bố là con trai của Đổng Trác. Đây là hai nhân vật trong
“Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung. Lữ Bố và Đổng Trác cùng tranh giành
một cô gái là Điêu Thuyền. Trong câu ca dao trên, tác giả dân gian mượn điển tích
này để nói lên tình cảnh éo le, ngang trái.
“Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung là tác phẩm mà người dân Nam Bộ
vô cùng yêu thích. Đặc biệt, nhân vật Trương Phi với tính tình cương nghị, thẳng thắn
có phần nào tương đồng với tính cách người Nam Bộ. Chính vì vậy, nhân vật này đã
gây được thiện cảm với người dân nơi đây.
Chừng nào ông vua Trụ ăn ở hiền lành
Ông Trương Phi mà nguội tánh, anh mới đành xa em.
Câu chuyện về Tiết Đinh San và Phàn Lê Huê trong truyện cổ Trung Quốc
cũng được người Nam Bộ ghi nhớ và đưa vào ca dao một cách hóm hỉnh:
Trăng hỡi còn khuya đường về thăm thẳm
Đôi ta xứng lắm gặp em đây như kép gặp đào
Như Lê Huê gặp giặc lẽ nào anh tha.
Trong số các điển tích điển cố có nguồn gốc từ thi liệu văn học Trung Quốc,
hình ảnh ông Tơ, bà Nguyệt xuất hiện với tần số cao nhất. Trong văn học Trung
Quốc, điển Nguyệt Lão gắn với câu chuyện của một người tên Vi Cố đời Đường.
Nguyệt Lão là một cụ già chuyên lo xe kết lương duyên bằng sợi chỉ đỏ (tơ hồng, chỉ
hồng). Tuy nhiên, khi đi vào ca dao Nam Bộ hình ảnh này lại được cải biến khá thú
vị: Nguyệt Lão thành ông Tơ – bà Nguyệt, thậm chí đôi khi chỉ còn là bà Nguyệt:
Tìm nhà bà Nguyệt gạn thiệt cho rành
Vì đâu hoa nọ bỏ cành,
Nợ duyên sao sớm dứt tình hỡi em!
97
Ông tơ – bà Nguyệt còn là đối tượng để đôi lứa yêu nhau trách móc, oán than
khi tình duyên không trọn vẹn:
Quất ông Tơ một cái chót
Ông nhảy thót lên đọt bần
Trách ông xe quanh xe quất
Cái tuổi Tuất với tuổi Dần ông không xe
Bắt ông Tơ đánh sơ vài chục
Duyên nợ sờ sờ ông ngủ gục quên xe
Bên cạnh đó, trong ca dao, dân ca Nam Bộ còn có những điển cố có nguồn gốc
từ thi liệu và văn học Việt Nam.
Truyện Kiều của Nguyễn Du mặc dù là một truyện thơ bác học nhưng vẫn
được nhân dân yêu mến. Trong đó, tác giả dân gian chú ý nhiều nhất đến mối tình sâu
sắc của Thúy Kiều và Kim Trọng:
Sông Tiền Đường cá lội tới lui
Kiều thương Kim Trọng như tui thương mình.
Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là truyện Nôm được lưu truyền
rộng rãi ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Một số chi tiết, nhân vật trong truyện đã
đi vào ca dao:
Người nào là vợ Vân Tiên
Nói cho tui biết tui chào liền chị dâu
Tấm lòng son sắt thủy chung của Nguyệt Nga đối với Vân Tiên đã trở thành
một kiểu mẫu mà người con gái Nam Bộ hướng tới:
Bông sen hết nhụy bông tàn
Em đâu giữ tiết như nàng Nguyệt Nga
Người Nam Bộ không có thói quen dùng nhiều điển cố, điển tích trong diễn
đạt. Điều này xuất phát từ tính cách giản dị, ưa sự đơn giản, mộc mạc của người nông
dân Nam Bộ. Vì vậy, nếu có dùng điển tích tác giả dân gian cũng chỉ dùng những
điển quen thuộc. Khi dùng điển, tác giả dân gian có những cách dùng riêng nhằm làm
98
cho điển tích trở nên gần gũi với người tiếp nhận. Điều này bổ sung thêm một nét đặc
sắc cho văn học dân gian Nam Bộ.
3.4. Cách biểu đạt bằng các biểu thức ngôn ngữ đặc trưng trong ca dao, dân ca
Nam Bộ
Ca dao, dân ca có nhiều yếu tố trùng lặp do truyền miệng. Vì vậy, khi tiếp xúc
với ca dao – dân ca, chúng ta thường có cảm giác là câu ca dao rất quen, dường như
đã đọc nhiều lần. Những yếu tố trùng lặp đó được gọi là những biểu thức ngôn ngữ.
Biểu thức ngôn ngữ là những đơn vị ngôn ngữ quen thuộc được hình thành do
việc sử dụng lặp đi lặp lại nhiều lần, phản ánh tính truyền miệng, tính tập thể của văn
học dân gian. Biểu thức ngôn ngữ xuất hiện trong những câu ca dao khác nhau vẫn
giữ nguyên nội dung, ý nghĩa của nó. Chúng mang một ý nghĩa chung nhất mà dường
như các tác giả dân gian đã thống nhất ngầm với nhau. Khi muốn diễn đạt một ý
tưởng nào đó, họ chỉ cần sử dụng các biểu thức ngôn ngữ sẵn có là có thể diễn đạt
được điều muốn nói. Biểu thức ngôn ngữ có thể là một từ, một nhóm từ hay cả một
dòng thơ. Để trở thành công thức từ ngữ, đơn vị ngôn ngữ phải hội đủ những điều
kiện: phải được lặp đi lặp lại, phải có ý nghĩa tiêu biểu và điển hình, có khả năng tháo
- lắp.
Văn học dân gian Nam Bộ nói chung và ca dao dân ca Nam Bộ nói riêng mang
đậm đà màu sắc địa phương. Ta không chỉ bắt gặp màu sắc địa phương Nam Bộ trong
từ, cụm từ mà còn cả trong các biểu thức ngôn ngữ. Bên cạnh những biểu thức thức
quen thuộc, có tính chất chung của ca dao dân ca Việt Nam, ca dao, dân ca Nam Bộ
còn có những biểu thức riêng, đặc trưng cho vùng đất Nam Bộ. Đó là những biểu
thức có ý nghĩa phản ánh hiện thực khách quan, phản ánh văn hóa, phản ánh tính
cách của vùng đất, của con người Nam Bộ. Vì thế, các biểu thức ngôn ngữ không
phải chỉ đơn thuần là sự tập hợp các từ ngữ được sử dụng nhiều lần trong các câu ca
dao mà nó còn là sự mã hóa các hiện tượng của cuộc sống vào trong các biểu thức.
Ca dao, dân ca Nam Bộ vốn nằm trong sự thống nhất của ca dao dân ca dân tộc
nên ca dao dân ca Nam Bộ đã kế thừa những biểu thức ngôn ngữ của ca dao, dân ca
các địa phương khác. Chẳng hạn, khi nói về thân phận người phụ nữ, ca dao, dân ca
Nam Bộ vẫn sử dụng kiểu mở đầu quen thuộc “thân em như”; khi muốn nói về sự
99
nhớ nhung, sự cô đơn trông ngóng về quê nhà thì dùng nhóm chữ mở đầu là “chiều
chiều”; khi nói về tình yêu quê hương đất nước thường mở đầu bằng “ai về”, “ai
vô”, “ai lên”, “ai đi”.
Bên cạnh việc sử dụng các biểu thức ngôn ngữ quen thuộc như trên, ca dao dân
ca Nam Bộ còn có một hệ thống biểu thức ngôn ngữ riêng nảy sinh từ cách nói, tính
cách, văn hóacủa người dân Nam Bộ.
Khi nói về sự giàu có, trù phú của quê hương, về lòng tự hào đối với một miền
quê giàu đẹp, ngoài cách sử dụng công thức mở đầu quen thuộc như đã kể trên, người
Nam Bộ còn có cách nói: “thiếu gì”, “mặc sức”, “có nhiều”, “mặc tình”:
Ruộng đồng mặc sức chim bay
Biển hồ lai láng mặc tình cá đua
Chim quyên hút mật bông quỳ
Nam Kì lục tỉnh thiếu gì cá tôm
Cách nói ngắn gọn, mạnh mẽ, dứt khoát phần nào đã nói lên được tính cách
thẳng thắn, bộc trực của người Nam Bộ. Đồng thời, còn thể hiện sự tự tin vào tính
chất trù phú của vùng đất Nam Bộ. Điều này không thể tìm thấy ở ca dao, dân ca các
vùng khác, nhất là những vùng có điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt.
Người Nam Bộ thường lấy những hình ảnh quen thuộc ở địa phương mình và
đưa vào trong ca dao một cách rất tự nhiên, mộc mạc. Hình ảnh con quạ, con diều
hâu xuất hiện nhiều trong ca dao Nam Bộ và đã trở thành hình ảnh phổ biến. Vì vậy,
chỉ cần thay đổi địa danh là có thể trở thành tiếng hát về quê hương của nhiều vùng
khác nhau. Từ đó, công thức từ ngữ “ba phen quạ nói với diều”, “chiều chiều quạ nói
với diều” đã trở thành một biểu thức quen thuộc trong mảng ca dao, dân ca về chủ đề
quê hương đất nước ở Nam Bộ:
Ba phen quạ nói với diều
Cù lao ông Chưởng có nhiều cá tôm
Chiều chiều quạ nói với diều
Cù lao ông Chưởng có nhiều cá tôm
100
Chiều chiều quạ nói với diều
Ngã ba Kinh Chuối có nhiều cá tôm
Kiểu mở đầu câu ca dao bằng biểu thức ngôn ngữ “chiều chiều quạ nói với
diều”, “bao phen quạ nói với diều” thường đi kèm nhóm chữ “có nhiều” để khẳng
định sự giàu có về sản vật của vùng đất Nam Bộ; đồng thời nó đã tạo nên một sắc thái
riêng không thể lẫn lộn với các vùng khác.
Cách mở đầu bằng biểu thức ngôn ngữ “tiếng đồn” được người dân Nam Bộ
dùng để ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của con người ở địa phương:
Tiếng đồn con gái Thủ Biên
Bạc Liêu đi cưới một thiên cá mòi
Ngoài ra, cụm từ này còn được dùng để nói lên tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của
con người một cách dí dỏm, bộc trực:
Tiếng đồn cha mẹ anh giàu
Sao anh ăn mặc như tàu chuối te
Cũng như ca dao dân ca của các vùng khác, trong ca dao dân ca Nam Bộ, chủ
đề tình yêu được thể hiện khá tập trung. Vì vậy, những biểu thức ngôn ngữ ở mảng đề
tài này cũng vô cùng phong phú. Sống giữa môi trường sông nước, sông ngòi kênh
rạch chằng chịt, những hiện tượng nảy sinh từ môi trường sống đó đã được con người
ghi nhận, lựa chọn và đưa vào ca dao để bày tỏ tâm trạng, tình cảm của đôi lứa yêu
nhau.
Người dân Nam Bộ mượn hình ảnh ghe thuyền, sông nước để nói lên sự cách
trở, khó khăn trong tình yêu đôi lứa. Những câu cao dao có nội dung này thường mở
đầu bằng “biển cạn láng khô ghe vô không được” hoặc “biển cạn láng khô thuyền vô
không đặng”:
Biển cạn láng khô ghe vô không được
Phải trở lộn về đi ngược lòng em
Biển cạn láng khô bớ cô chèo lái
101
Phải được ở gần anh trai gái với cô.
Hình ảnh cây cầu là hình ảnh quen thuộc đối với người dân Nam Bộ. Trong
đời sống sinh hoạt, cầu là phương tiện giao thông quan trọng của người dân. Trong ca
dao dân ca Nam Bộ, kiểu mở đầu bằng “cầu cao ván yếu gió rung”, “bước xuống cầu
cầu quằn cầu quại” thường nói đến những trắc trở trong tình yêu, trong đó những
người yêu nhau vẫn luôn động viên, khuyên nhủ nhau phải vững lòng tin chờ đợi.
Cầu cao ván yếu gió rung
Em đi chẳng đặng cậy cùng có anh
Bước lên cầu cầu quằn cầu quại
Bước xuống tàu tàu chạy tàu ngiêng
Em ơi ở lại đừng phiền
Anh đi làm mướn kiếm tiền cưới em
Bước xuống cầu, cầu quằn cầu quại
Bước xuống đò, đò lắc, đò nghiêng
Hai đứa mình duyên nợ không yên
Phải sao chịu vậy đừng phiền mẹ cha.
Kiểu mở đầu bằng “sông sâu sóng bủa láng cò”, “sông dài cá lội biệt
tăm”là cách người Nam Bộ bộc lộ tâm tư tình cảm, suy nghĩ của mình. Hiện thực
khách quan đã tác động tới sự liên tưởng của con người. Dưới cái nhìn của người
Nam Bộ, những sự vật vô tri lại trở nên có ý nghĩa, nó có điểm gì đó tương đồng với
tâm trạng con người. Chính cách nói, cách liên tưởng này đã làm cho những câu ca
dao Nam Bộ giàu hình ảnh, sinh động; giúp người đọc có thể dễ dàng liên tưởng,
nhìn nhận vấn đề một cách cặn kẽ, thấu đáo hơn điều tác giả muốn nói.
Sông dài cá lội biệt tăm
Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ
Sông dài cá lội biệt tăm
Thấy anh người nghĩa mấy năm em cũng chờ
102
Sông sâu sóng bủa láng cò
Thương em vì bởi câu hò có duyên
Các bài ca dao có nhóm từ ngữ chỉ con nước chảy cũng trở thành công thức từ
ngữ quen thuộc trong ca da dân ca Nam Bộ. Sử dụng nhóm từ mở đầu này, tác giả
dân gian muốn thể hiện tâm trạng, cảm xúc của mình trước thực tại cuộc sống; hoặc
nói lên mơ ước của đôi lứa yêu nhau; hoặc là lời than trách cho sự chia lìa, tan rã:
Nước chảy xuôi, con cá buôi lội ngược
Con cá vược lội theo
Anh than với em rằng phận anh nghèo
Có đâu dưới thấp mà trèo lên cao
Nước ròng chảy thấu Nam Vang
Mù u chín rụng sao chàng bặt tin
Nước ròng bỏ bãi xà cừ
Gặp em hỏi thử sao từ ngãi nhân?
Ngôn ngữ ca dao Nam Bộ vốn rất phong phú và có mức độ đặc tả cao. Ngôn
ngữ đã phát huy một cách tài tình tác dụng của nó bằng cách: miêu tả một cách tỉ mỉ,
cụ thể và có hiệu quả những hình ảnh, âm thanh của tự nhiên. Kiểu câu mở đầu bằng
việc miêu tả âm thanh của gió, của nước với những từ láy gợi cảm xuất hiện nhiều
trong ca dao dân ca Nam Bộ. Những câu ca dao ấy, chủ yếu nói lên tâm trạng, suy
nghĩ, sự quan tâm, lo lắng cho nhau của các chàng trai, cô gái:
Gió hiu hiu chín chiều ruột thắt
Nhìn sao bên bắc nước chảy bên đông
Ai xui chi những vợ vợ chồng chồng
Không biết đây với đó dây tơ hồng có se?
Gió lao xao tàu cau ngã liệt
103
Anh xa em rồi rũ riệt tay chân
Gió thổi hiu hiu, lục bình trôi riu ríu
Anh đừng bận bịu bớ điệu chung tình
Nhạn bay cao khó bắn, cá ở ao huỳnh khó câu
Hình ảnh con nước chảy kết hợp với cách sử dụng từ láy đã diễn tả thành công
nỗi lòng, tâm trạng của con người. Hình ảnh con nước êm ả, với những chuyển động
chậm rãi phù hợp để diễn tả nỗi buồn của con người.
Nước chảy bon bon, cõng mẹ bồng con lên non hái trái
Anh cảm thương nàng phận gái mồ côi
Nước chảy liu riu lục bình trôi liu ríu
Anh ở một mình ươn yếu ai nuôi
Nước chảy re re, con cá he nó xòe đuôi phụng
Em có chồng rồi trong bụng anh vẫn còn thương
Ca dao Nam Bộ có nhiều câu mở đầu bằng nhóm từ xưng hô. Đó thường là
những câu ca dao nói về tình yêu đôi lứa hay tình cảm gia đình. Nhóm chữ mở đầu
“hai đứa mình” thường được dùng để diễn tả những nỗi niềm xung quanh sự gắn bó
của đôi lứa:
Hai đứa mình ăn một trái cau
Giấu cha giấu mẹ ăn sau bóng đèn
Cụm từ mở đầu “má ơi” dùng để nói lên tình cảm của con cái đối với mẹ:
Má ơi đừng gả con xa
Chim kêu vượn hú biết nhà má đâu
Má ơi đừng đánh con đau
Để con hát bội làm đào má coi
Người Nam Bộ sống giàu tình cảm, họ đối xử với nhau tràn đầy tình yêu
thương, luôn giúp đỡ, đùm bọc nhau trong những lúc khó khăn. Vì vậy, ca dao Nam
104
Bộ có nhiều câu xuất hiện nhóm cụm từ “cảm thương”, “cảm thương người”. Công
thức từ ngữ này thể hiện sự quan tâm, đồng cảm giữa người và người:
Đêm trăng sáng chạnh lòng nhớ bạn
Cảm thương người hoạn nạn xiết bao
Gió đẩy đưa rau dừa quặn quịu
Anh mảng thương nàng lịu địu xuống lên
Ngoài công thức từ ngữ mở đầu và nhóm câu mở đầu, kết cấu của các câu ca
dao cũng góp phần làm nên màu sắc Nam Bộ. Ca dao dân ca Nam Bộ có những
khung kết cấu có sẵn trong đó được lồng những hình ảnh có sẵn. Chẳng hạn:
Ngó lên đường Sài Gòn cây cao bóng mát
Ngó xuống đường Sa Đéc lắm cát dễ đi
Gái Tân Uyên nhiều đứa nhu mì
Đố trai Cao Lãnh bỏ thuốc gì cho nó mê
Cầu Cần Thơ ăn no nghỉ mát
Cầu Xẻo Mác đổ cát dễ đi
Gái Xẻo Mác rực rỡ như hoa quỳ
Đố trai tứ xứ bỏ thuốc gì cho gái Xẻo Mác mê
Có thể kể thêm một số kết cấu thường gặp trong ca dao dân ca Nam Bộ như:
Nha Mân đi dễ khó về
Trai đi có vợ, gái về có con
Nam Vang đi dễ khó về
Trai đi có vợ, gái về có con
Bạc Liêu đi dễ khó về
Trai đi có vợ, gái về có con
105
Hay:
Gà nào bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Nha Mân
Gà nào bằng gà Vĩnh Thạnh
Gái nào bảnh bằng gái Vĩnh Hòa
Những kết cấu trên mang đậm màu sắc địa phương Nam Bộ, vì nó được hình
thành dựa trên những yếu tố điều kiện tự nhiên, văn hóa, tính cách của con người
Nam Bộ và vùng đất Nam Bộ.
106
TIỂU KẾT
Bên cạnh những từ ngữ địa phương thì những cách diễn đạt mang màu sắc địa
phương cũng góp phần làm nên đặc sắc của văn học dân gian Nam Bộ.
+ Văn học dân gian Nam Bộ chuộng cách nói mộc mạc có phần dí dỏm, hài hước. Vì
mộc mạc nên văn học dân gian Nam Bộ sử dụng từ ngữ, các cách diễn đạt chỉ cố làm
sao diễn tả được cái tình của người nói, chứ không gò ép vào khuôn mẫu hay không
chủ ý nêu lên những triết lí sâu sắc. Tính hài hước, dí dỏm được tác giả tạo nên nhờ
những liên tưởng độc đáo, gắn với hiện thực cuộc sống và lối tư duy của người Nam
Bộ. Ngoài ra, cách nói phóng đại cũng góp phần làm nên đặc sắc của văn học dân
gian Nam Bộ.
+ Cách diễn đạt bằng lối so sánh và các hình ảnh biểu trưng không phải là đặc điểm
chỉ riêng có ở văn học dân gian Nam Bộ. Tuy nhiên, cách sử dụng các hình ảnh so
sánh và hình ảnh biểu trưng của tác giả dân gian lại mang đậm chất Nam Bộ. Đó là
những hình ảnh đặc trưng cho một vùng đất nông nghiệp trù phú, sông ngòi chằng
chịt, nhiều sản vật, tôm cáTất cả những đặc điểm ấy đi vào ca dao một cách tự
nhiên, mang giá trị gợi hình, biểu cảm cao.
+ Các biểu thức ngôn ngữ quen thuộc được sử dụng nhiều lần trong ca dao của một
vùng đất nào đó cũng góp phần tạo nên nét đặc sắc của ca dao địa phương ấy. Ngoài
việc sử dụng những biểu thức ngôn ngữ quen thuộc của ca dao, dân ca Việt Nam, ca
dao, dân ca Nam Bộ còn có những biểu thức ngôn ngữ riêng, đặc trưng của vùng như:
cầu cao ván yếu gió rung, bước xuống cầu cầu quằn cầu quại, nước chảy bon bon,
nước chảy liu riu, nước ròngNhững biểu thức ngôn ngữ này vừa phản ánh điều
kiện tự nhiên của vùng đất Nam Bộ vừa gửi gắm tâm tình của người Nam Bộ.
107
KẾT LUẬN
Nam Bộ là vùng đất mới, nằm ở phía Nam Tổ quốc. Văn học dân gian Nam Bộ
ra đời và phát triển gắn liền với lịch sử khai phá và xây dựng mảnh đất này. Do đó,
các yếu tố như: điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội, con ngườiđã chi phối
đến sự hình thành ngôn ngữ. Điều này không chỉ làm cho ngôn ngữ ở Nam Bộ đa
dạng, phong phú mà còn làm nên nét đặc sắc khó lẫn lộn của ngôn ngữ trong văn học
dân gian Nam Bộ. Màu sắc địa phương trong văn học dân gian Nam Bộ được thể hiện
rõ nhất ở cấp độ từ ngữ, sau đó là các cách thức biểu đạt.
Ở cấp độ từ ngữ, chúng tôi nhận thấy ngôn ngữ của người Nam Bộ có sự pha
trộn, vay mượn ngôn ngữ của cá dân tộc khác. Nhiều từ ngữ chỉ địa danh, từ ngữ chỉ
địa hình, một số từ ngữ chỉ phương tiện sinh hoạt và công cụ lao động ra đời trên cơ
sở đó. Ngoài ra, do điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóangười Nam Bộ đã sáng tạo
ra một lớp từ ngữ mới đáp ứng nhu cầu gọi tên sự vật, hiện tượng ở vùng đất mới.
Lớp từ ngữ liên quan đến sông nước, từ ngữ chỉ động thực vật, từ ngữ chỉ phương
tiện sinh hoạt, công cụ lao động được hình thành theo kiểu này là những từ ngữ mang
đậm màu sắc Nam Bộ. Thêm vào đó, tính cách của người Nam Bộ cũng là một trong
những yếu tố làm cho ngôn ngữ Nam Bộ giàu sắ thái địa phương.
Những từ ngữ địa phương khi xuất hiện trong văn học dân gian Nam Bộ gợi
được cái hồn của phong cảnh thiên nhiên Nam Bộ, gợi được nếp sống và nếp nghĩ
của người dân nơi đây. Gắn với mỗi địa danh xuất hiện trong văn học dân gian Nam
Bộ là đặc điểm của một vùng đất, là đặc sản của địa phương, là niềm tự hào, là niềm
thương nỗi nhớ được gửi gắm. Gắn với hình ảnh con sông, con nước, chiếc ghe, chiếc
xuồng là những nỗi lo toan vất vả của người dân Nam Bộ. Đồng thời, đó cũng là
những hình ảnh chuyên chở tâm tình của đôi lứa đang yêu. Gắn với những từ ngữ
xưng hô mộc mạc rất riêng của người Nam Bộ là tấm chân tình giữa người và người,
không câu nệ hình thức, vai vế, thành phần xã hội Tất cả tạo nên màu sắc rất riêng
của văn học dân gian Nam Bộ.
Màu sắc địa phương Nam Bộ còn được biểu hiện ở những cách diễn đạt riêng.
Đó là cách diễn đạt ngắn gọn, mộc mạc, chất phác, mang chút hóm hỉnh, hài hước.
108
Sự mộc mạc thể hiện trong cách lựa chọn, sử dụng từ ngữ; trong cách lựa chọn các
hình ảnh so sánh gần gũi, thân thiết với người dân Nam Bộ. Sự hài hước thể hiện ở
cách nói khoa trương, phóng đại rất tự nhiên; thể hiện ở những liên tưởng, so sánh
độc đáo, bất ngờ. Điều này xuất phát từ tính cách bộc trực, thẳng thắn, phóng khoáng,
lạc quan, yêu đời của người Nam Bộ.
Trong ca dao, dân ca Nam Bộ còn có hàng loạt những biểu thức từ ngữ đặc
trưng cho ca dao, dân ca vùng đất này. Những biểu thức từ ngữ như: “cầu cao ván
yếu gió rung”, “bước xuống cầu, cầu quằn cầu quại; bước xuống ghe, ghe ngả ghe
nghiêng”, “bìm bịp kêu nước lớn”, “nước chảy liu riu, lục bình trôi líu ríu”
đều là những biểu thức riêng có ở văn học dân gian Nam Bộ. Những biểu thức từ ngữ
đó kết hợp với các hình ảnh quen thuộc của vùng đất Nam Bộ tạo cho câu ca dao một
ý nghĩa biểu trưng mới, làm nên đặc sắc của ca dao, dân ca Nam Bộ.
Ngôn ngữ văn học dân gian Nam Bộ mang đậm màu sắc địa phương. Nói như
thế không có nghĩa là ngôn ngữ trong văn học dân gian Nam Bộ không nằm trong sự
phát triển của ngôn ngữ dân tộc. Ngôn ngữ văn học dân gian Nam Bộ vừa kế thừa và
phát huy những đặc điểm của ngôn ngữ văn học dân gian dân tộc, vừa thể hiện và
làm phong phú thêm vốn từ ngữ mang sắc thái địa phương. Từ đó, nó góp phần làm
phong phú thêm kho từ vựng của tiếng Việt, góp phần đáp ứng kịp thời nhu cầu về sử
dụng ngôn ngữ trong quá trình diễn đạt của người dân. Có thể nói đây là một đóng
góp của ngôn ngữ văn học dân gian Nam Bộ đối với tiếng nói dân tộc. Do vậy, cần có
sự quan tâm thích đáng đối với việc nghiên cứu, tìm hiểu văn học dân gian Nam Bộ.
Dưới góc độ một giáo viên giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường phổ thông, người
viết nhận thấy văn học dân gian Nam Bộ hầu như vắng mặt ở chương trình học cấp
trung học phổ thông. Chúng tôi nghĩ chương trình Ngữ Văn ở cấp THPT cần có một
số câu ca dao Nam Bộ, đặc biệt là những câu ca dao than thân đậm đà màu sắc địa
phương Nam Bộ. Điều này góp phần làm cho tiếng nói người Nam Bộ trở nên gần
gũi, quen thuộc hơn với người dân các vùng khác. Từ đó, mọi người thêm yêu vẻ đẹp
của văn học dân gian Nam Bộ nói riêng và văn học dân gian dân tộc nói chung.
109
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Ái (chủ biên) (1994), Từ điển phương ngữ Nam Bộ, NXB
TPHCM, TP HCM.
2. Lâm Tiên Ba (2003), “Từ chỉ quan hệ thân tộc trong tiếng Tiều được sử
dụng trong tiếng Việt ở địa phương cực Tây Nam Bộ”, Ngôn ngữ & đời sống, số
8.
3. Lê Uyên Bá (2005), “Từ “ênh” trong phương ngữ Tây Nam Bộ có
nguồn gốc Khmer”, Ngôn ngữ & đời sống, số 5.
4. Lê Xuân Bột (2003), “Từ Hán Việt trong ca dao về tình yêu đôi lứa ở
Nam Bộ”, Ngôn ngữ & đời sống, số 4.
5. Thái Văn Chải (1986), “Một số đặc điểm về tiếng Khmer Đồng bằng
sông Cửu Long”, Ngôn ngữ, số 2.
6. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB GD, HN.
7. Đỗ Hữu Châu (2000), Tìm hiểu văn hóa qua ngôn ngữ, Ngôn ngữ, số
10.
8. Hoàng Thị Châu (1989), Tiếng Việt trên các miền đất nước, NXB
KHXH, HN.
9. Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, NXB ĐHQG HN,
HN.
10. Nguyễn Văn Chiến (1991), “Sắc thái địa phương của các danh từ thân
tộc trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 2.
11. Mai Ngọc Chừ (1991), “Ngôn ngữ ca dao Việt Nam”, Văn học, số 2.
12. Nguyễn Đức Dân (1998), “Từ láy đôi trong phương ngữ Nam Bộ-
sắc thái nghĩa và biến thể”, Ngôn ngữ & đời sống, số 9.
13. Hải Dân (1982), “Yếu tố cà trong phương ngữ Nam Bộ”, Ngôn
ngữ, số 1.
14. Trần Phỏng Diều (2008), “Sự giao lưu về ngôn ngữ giữa các dân
tộc ở Nam Bộ”, Ngôn ngữ, số 2.
110
15. Hoàng Dũng (1997), “Quả với lại trái, tại sao?”, Ngôn ngữ & đời
sống, số 12.
16. Nguyễn Đức Dương (1974), “Về hiện tượng kiểu “ổng”, “chỉ”,
“ngoải” ”, Ngôn ngữ, số 1.
17. Trần Bạch Đằng (1986), Đồng bằng sông Cửu Long 40 năm, NXB
TPHCM.
18. Nguyễn Thiện Giáp (1998), Từ vựng học tiếng Việt, NXB GD, HN.
19. Nguyễn Thiện Giáp (2009), Các phương pháp nghiên cứu ngôn
ngữ, NXB GD, HN.
20. Nguyễn Thị Hai (1997), “Một vài tên gọi trong tiếng Bạc Liêu”,
Ngôn ngữ & đời sống, số 12.
21. Nguyễn Thị Hai (1998), “Giồng Trôm và Bến Vượt”, Ngôn ngữ &
đời sống, số 3.
22. Hoàng Văn Hành (1985), Từ láy trong tiếng Việt, NXB KHXH,
HN.
23. Cao Xuân Hạo (1988), “Hai vấn đề âm vị học trong phương ngữ
Nam bộ”, Ngôn ngữ, số 1.
24. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp,
ngữ nghĩa, NXB GD, HN.
25. Phạm Văn Hảo – Trần Thị Thìn (1994), “Mấy vấn đề về từ ngữ địa
phương trong việc sưu tầm, giới thiệu vốn tục ngữ, ca dao”, Văn hóa dân gian,
số 3.
26. Lê Trung Hoa (2002), Tìm hiểu nguồn gốc địa danh Nam Bộ và
tiếng Việt văn học, NXB KHXH, HN.
27. Lê Trung Hoa (2003), Địa danh Khmer và gốc Khmer ở Nam Bộ,
Kỉ yếu khoa học ĐH KHXHNV, NXB TPHCM.
28. Lê Trung Hoa (2004), “Những nét đặc thù của địa danh hành chính
Nam Bộ”, Ngôn ngữ, số 12.
111
29. Nguyễn Thị Huyền (2007), “Về việc tạo nghĩa mới trong quá trình
thâm nhập của từ địa phương vào vốn từ vựng toàn dân”, Ngôn ngữ & đời
sống, số 5.
30. Nguyễn Thúy Khanh (2004), “Sự thâm nhập của từ ngữ địa phương
vào ngôn ngữ toàn dân”, Ngôn ngữ, số 7.
31. Trần Thị Ngọc Lang (1991), “Về các yếu tố chỉ mức độ của tính từ
trong phương ngữ Nam Bộ”, Khoa học xã hội, số 10.
32. Trần Thị Ngọc Lang (1992), “Từ láy tư trong phương ngữ Nam
Bộ”, Ngôn ngữ, số 3.
33. Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ (những khác biệt
về từ vựng ngữ nghĩa giữa phương ngữ Nam Bộ và phương ngữ Bắc Bộ), NXB
KHXH, HN.
34. Trần Thị Ngọc Lang (2002), “Vài điểm khác biệt về ngữ pháp của
phương ngữ Nam Bộ so với phương ngữ Bắc Bộ”, Ngôn ngữ, số 2.
35. Trần Thị Ngọc Lang (2002), “Sự khác biệt về ngữ nghĩa của một số
kiểu từ địa phương Nam Bộ so với từ toàn dân”, Ngôn ngữ, số 2.
36. Trần Thị Ngọc Lang (2009), “Chức năng văn hóa xã hội của tiếng
Việt ở Nam Bộ”, Ngôn ngữ, số 5.
37. Phạm Hải Lê (2007), “Ý tứ của câu ca dao ở ba miền đất nước”,
Ngôn ngữ & đời sống, số 8.
38. Hồ Lê (1992), Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, NXB
KHXH, HN.
39. Bình Nguyên Lộc (1958 – 1859), “Tiếng địa phương”, Tạp chí
Bách khoa, số 37, 39, 40, 41,43,45,51,57.
40. Nguyễn Thanh Lợi (2005), “ Địa danh ở Bến Tre”, Ngôn ngữ, số 6.
41. Đặng Văn Lung (1979), “Về việc nghiên cứu và sưu tầm dân ca
Nam Bộ”, Văn học, số 6.
42. Đoàn Xuân Mỹ (1997), “Ca dao Nam Bộ - một cái nhìn gần”, Văn
học, số 4.
112
43. Trần Văn Nam (2004), “Từ “cá hóa rồng” đến hiện tượng “cù dậy”
trong tâm thức người Nam Bộ”, Ngôn ngữ & đời sống, số 1+2.
44. Trần Văn Nam (2004), “Lia thia quen chậu”, Ngôn ngữ & đời
sống, số 5.
45. Trần Văn Nam (2004), “Thành ngữ “ruột thắt gan bào” trong ca dao
Nam Bộ”, Ngôn ngữ & đời sống, số 11.
46. Lại Cao Nguyên (2004), “Tính chất ba vùng của đại từ tiếng Việt” ,
Ngôn ngữ, số 1.
47. Nguyễn Hoài Nguyên (2002), “Đặc trưng ngữ âm phần vần của
phương ngữ Nam Bộ”, Ngôn ngữ, số 7.
48. Nguyễn Thanh Nhàn (2006), “Những địa danh thuần Việt phản ánh
địa hình đặc thù của tỉnh Long An”, Ngôn ngữ & đời sống, số 9.
49. Bùi Mạnh Nhị (1984), “Một số đặc điểm ngôn ngữ của ca dao dân
ca Nam Bộ”, Ngôn ngữ , số 1.
50. Nhiều tác giả (1999), Nam Bộ xưa và nay, NXB TPHCM, TPHCM.
51. Nguyễn Văn Nở (2000), “Hình ảnh “thân em...” trong ca dao trữ
tình Đồng bằng sông Cửu Long”, Ngôn ngữ & đời sống, số 9.
52. Nguyễn Văn Nở (2004), “Về nguồn gốc của thành ngữ “công tử
bột””, Ngôn ngữ & đời sống, số 1+2.
53. Nguyễn Văn Nở (2004), “Từ “xài” trong phương ngữ Nam Bộ”,
Ngôn ngữ & đời sống, số 3.
54. Nguyễn Văn Nở (2005), “Môi trường tự nhiên, văn hóa và con
người trong thành ngữ, tục ngữ Nam Bộ”, Ngôn ngữ & đời sống, số 9.
55. Vũ Ngọc Phan (1960), “Sưu tầm, nghiên cứu văn học dân gian là
một vấn đề cấp thiết”, Văn học, số 2.
56. Vũ Ngọc Phan (1963), “Đọc dân ca miền Nam Trung Bộ”, Văn học,
số 2.
57. Hoàng Phê (1973), “Ý kiến về một vấn đề nhỏ: ưu hay iu?”, Ngôn
ngữ, số 4.
113
58. Hoàng Phê (chủ biên) (2003), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm từ điển
học – NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.
59. Tôn Diễn Phong (1999), “Vài nét về nghiên cứu ngôn ngữ qua văn
hóa”, Ngôn ngữ & đời sống, số 4.
60. Thạch Phương (1981), “Mấy suy nghĩ về ca dao của vùng đất mới”,
Văn học, số 6.
61. Hoàng Xuân Phương (1996), “Đi tìm nguồn gốc các từ cổ, kẻ, cà,
cái trong địa danh” , Ngôn ngữ & đời sống, số 3.
62. Nguyễn Thị Thanh Phượng (1997), “Từ ngữ sông và nước trong
tiếng Việt”, Ngôn ngữ & đời sống, số 12.
63. Nguyễn Quang (1971), “Việc lựa chọn và giải thích từ ngữ miền
Nam trong một quyển từ điển loại phổ thông”, Ngôn ngữ, số 4.
64. Phan Quang (1985), Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Mũi Cà
Mau..
65. Nguyễn Hồng Quân (2006), “Địa danh gắn với nhân vật ở Cần
Thơ”, Ngôn ngữ & đời sống, số 11.
66. Trịnh Sâm (1986), “Phương ngữ và ca dao – dân ca địa phương”,
Văn học, số 5.
67. Trịnh Sâm (2003), Đi tìm bản sắc tiếng Việt, NXB Trẻ, TP HCM.
68. Huỳnh Công Tín (1996), “Hiện tượng biến âm trong phương ngữ
Nam Bộ”, Ngôn ngữ & đời sống, số 2.
69. Huỳnh Công Tín (1998), “Vài nét về sự hình thành phương ngữ Sài
Gòn”, Ngôn ngữ & đời sống, số 6.
70. Huỳnh Công Tín (2002), “Tiếng cười dân gian Nam Bộ”, Ngôn ngữ
& đời sống, số 1+2.
71. Huỳnh Công Tín (2006), “Đặc điểm của phương ngữ Nam Bộ trong
phong cách diễn đạt”, Ngôn ngữ & đời sống, số 1+2.
72. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam Bộ, NXB KHXH,
HN.
114
73. Nguyễn Tài Thái-Phạm Văn Hảo (2004),“Sự thâm nhập của từ ngữ
địa phương miền Nam vào tiếng Việt toàn dân giai đoạn 1945 -1975”, Ngôn
ngữ & đời sống, số 4.
74. Cái Văn Thái (1998), “Những tiếng đệm phụ trong ca từ một số
điệu lí ở Đồng Tháp”, Ngôn ngữ & đời sống, số 6.
75. Đào Thản (2001), “Phương ngữ Nam Bộ - tiếng nói của quê hương
ở vùng cực nam của Tổ quốc”, Ngôn ngữ & đời sống, số 1+2.
76. Nguyễn Kim Thản (1964), “Thử bàn về một vài đặc điểm của
phương ngôn Nam Bộ”, Văn học, số 8.
77. Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Trọng Báu, Nguyễn Văn Tu (1982),
Tiếng Việt trên đường phát triển, NXB KHXH, HN.
78. Mai Thanh Thắng (2005), “ “Kia”, “kìa”, “kỉa”, “kịa” trong cách
nói của người Nam Bộ” , Ngôn ngữ & đời sống, số 9.
79. Mai Thanh Thắng (2005), “ “Bân”, “trân”, “trất”- những tiếng
riêng của phương ngữ Nam Bộ”, Ngôn ngữ & đời sống, số 10.
80. Lí Toàn Thắng (2002), Mấy vấn đề Việt ngữ học và ngôn ngữ học
đề cương, NXB KHXH, HN.
81. Hồ Bá Thâm (2003), Văn hóa Nam Bộ vấn đề và phát triển, NXB
VHTT, TPHCM.
82. Bùi Khánh Thế (chủ nhiệm) và nhóm tác giả (2001), Mấy vấn đề
tiếng Việt hiện đại, ĐHQG TPHCM, TPHCM.
83. Trần Ngọc Thêm (2000), Cơ sở văn hóa Việt Nam, NXB GD, HN.
84. Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB
TPHCM, TPHCM.
85. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của
ngôn ngữ và tư duy ở người Việt (trong sự so sánh với những dân tộc khác),
NXB ĐHQG HN, HN.
86. Đoàn Thiện Thuật (1980), Ngữ âm tiếng Việt, NXB ĐH &THCN,
HN.
115
87. Lê Văn Trường (1982), “Nhân dịp kỉ niệm Nguyễn Đình Chiểu, bàn
về vai trò văn hóa – xã hội của tiếng địa phương”, Ngôn ngữ, số 2.
88. Nguyễn Thế Truyền (1999), “Ngôn ngữ của người Nam Bộ trong ca
dao dân ca”, Ngôn ngữ & đời sống, số 6.
89. Nguyễn Thế Truyền (1999), “Cách xưng hô của người Nam Bộ”,
Ngôn ngữ & đời sống, số 10.
90. Nguyễn Thế Truyền (2002), “Người Nam Bộ xài từ” , Ngôn ngữ &
đời sống, số 12.
91. Cù Đình Tú (2002), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt,
NXB GD, HN.
92. Hoàng Tuệ (1982), “Bàn về vai trò văn hóa – xã hội của tiếng địa
phương”, Ngôn ngữ, số 2.
93. Nguyễn Bạt Tụy (1961), “Ngữ Việt trên đất Việt”, Văn hóa nguyệt
san, số 64.
94. Hồ Xuân Tuyên (2001), “Về một số từ ngữ trong trường học ở Nam
Bộ”, Ngôn ngữ & đời sống, số 3.
95. Hồ Xuân Tuyên (2004), “ Ngôn ngữ vùng sông nước qua một cuốn
sách”, Ngôn ngữ & đời sống, số 3.
96. Hồ Xuân Tuyên (2004), “ Đơn vị cân, đo , đong, đếm trong phương
ngữ Nam Bộ”, Ngôn ngữ & đời sống, số 8.
97. Hồ Xuân Tuyên (2007), “ Định danh thời gian trong phương ngữ
Nam Bộ”, Ngôn ngữ & đời sống, số 1+2.
98. Hồ Xuân Tuyên (2008), “Một số phương thức định danh trong
phương ngữ Nam Bộ”, Ngôn ngữ, số 8.
99. Hoàng Vũ (1995), “Góp thêm tư liệu về các ngữ vị tình cảm và gợi
tả trong phương ngữ Nam Bộ”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 3.
100. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ
ngôn ngữ học, NXB GD, HN.
116
NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT
1. Chu Xuân Diên (chủ biên) (2002), Văn học dân gian Sóc Trăng,
NXB Văn nghệ TPHCM, TPHCM.
2. Chu Xuân Diên (chủ biên) (2005), Văn học dân gian Bạc Liêu,
NXB Văn nghệ TPHCM, TPHCM.
3. Văn học dân gian An Giang (2010), Tài liệu điền dã lưu hành nội
bộ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phuong_ngu_nam_bo_trong_van_hoc_dan_gian_7406.pdf