Hiện nay, ngoại trừ bia lon thì sản phẩm bia Hà Nội là loại sản phẩm có sức 
cạnh tranh rất lớn trên thị trường bia bình dân ở Miền Bắc, sản lượng bia của 
Công ty sản xuất ra luôn không đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường. Mặc dù, so 
với các đối thủ cạnh tranh việc áp dụng các hoạt động Marketing nhằm tăng khả 
năng tiêu thụ cho sản phẩm của Công ty kém hơn hẳn, nhưng sản phẩm của Công 
ty vẫn được người tiêu dùng biết đến và rất ưa chuộng. Việc sản xuất không đủ 
cung cấp cho thị trường chứng tỏ sản phẩm của Công ty đang có uy tín và ưu thế 
cạnh tranh rất lớn, Công ty không phải tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm 
mà tự khách hàng tìm đến với Công ty.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 40 trang
40 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2753 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quá trình bán hàng của đối thủ so với Công Ty Bia Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tạo cho sản phẩm 
của Công ty có được chất lượng đảm bảo và luôn ổn định. 
17 
Bảng 1 : Các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm của Công ty Bia Hà Nội. 
chỉ tiêu Bia chai Bia hơi Bia lon 
1.Chỉ tiêu hoá học: 
+ Độ đường (0S) 
+ Hàm lượng cồn (%V) 
+ Hàm lượng CO2 (g/l) 
+ Độ chua (g/l) 
+ Độ mầu (EBC) 
+ Điaxely (mg/l) 
10,5 +/- 0,2 
3,3 +/- 0,2 
> 4,8 
< 1,35 
6,5 - 8 
< 0,130 
10 +/- 0,2 
3 +/- 0,2 
2,8 
< 1,44 
6 - 7 
< 0,150 
12 +/- 0,2 
3,7 +/- 0,2 
> 4,9 
< 1,35 
7 - 8 
< 0,135 
2.Chỉ tiêu vi sinh vật: 
+ Vi khuẩn hiếm khí 
+ Vi khuẩn kỵ khí 
+ Ecoli 
+ Vi sinh gây đục 
+ Vi khuẩn gây bệnh 
100kh.lac/1mb 
không có 
không có 
không có 
không có 
100kh.lac/1mb 
không có 
không có 
không có 
không có 
100kh.lac/1mb 
không có 
không có 
không có 
không có 
3.Chỉ tiêu cảm quan: 
Mùi 
Vị 
Mầu sắc và độ trong 
Bọt 
 - Có mùi thơm 
đặc trưng của bia 
Hà Nội được sản 
xuất từ đại mạch 
và hoa Houblon. 
 - Vị đặc trưng, 
đậm có hậu vị và 
không có mùi lạ. 
 - Có mầu vàng 
sáng tự nhiên, 
trong suốt và 
không có cặn. 
 - Bọt mầu trắng, 
mịn, bám cốc và 
lâu tan. Khi rót 
ra cốc có độ cao 
ít nhất 3 cm, thời 
gian tan hết bọt 
ít nhất 3 phút. 
- Có mùi thơm đặc 
trưng của bia Hà 
Nội được sản xuất 
từ đại mạch và hoa 
Houblon. 
 - Vị đặc trưng, 
đậm có hậu vị và 
không có mùi lạ. 
 - Có mầu vàng 
sáng tự nhiên, 
trong suốt và 
không có cặn. 
 - Bọt mầu 
trắng,mịn, bám cốc 
và lâu tan. Khi rót 
ra cốc có độ cao ít 
nhất 3 cm, thời 
gian tan hết bọt ít 
nhất 3 phút. 
- Có mùi thơm 
đặc trưng của bia 
Hà Nội được sản 
xuất từ đại mạch 
và hoa Houblon. 
 - Vị đặc trưng, 
đậm có hậu vị và 
không có mùi lạ. 
 - Có mầu vàng 
sáng tự nhiên, 
trong suốt và 
không có cặn. 
 - Bọt mầu trắng, 
mịn, bám cốc và 
lâu tan. Khi rót ra 
cốc có độ cao ít 
nhất 3 cm, thời 
gian tan hết bọt ít 
nhất 3 phút. 
Qua những chỉ tiêu về chất lượng sản phẩm của Công ty Bia Hà Nội được 
trình bầy ở trên có thể thấy rằng chất lượng sản phẩm của Công ty hoàn toàn đáp 
ứng được yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm về chất lượng 
và uy tín của sản phẩm trên thị trường, thì một yếu điểm của sản phẩm mà Công 
ty cần phải quan tâm đến là kiểu dáng mẫu mã, bao bì của sản phẩm, bởi vì cho 
đến thời điểm hiện nay mẫu mã bao bì sản phẩm của Công ty còn rất đơn điệu. 
 Đặc điểm của mẫu mã bao bì sản phẩm mà Công ty Bia Hà Nội đang 
sử dụng hiện nay. 
18 
Bia hơi: Sản phẩm bia hơi của Công ty được đựng trong thùng nhôm có 
khả năng bảo vệ bia rất tốt trong khoảng thời gian quy định, thùng có mầu sáng 
trắng đảm bảo vệ sinh cho sản phẩm đồng thời có khả năng giữ nhiệt rất tốt cho 
bia đựng bên trong, nắp thùng được thiết kế van một chiều để đảm bảo người sử 
dụng không thể cho loại bia khác vào nhằm chống hàng giả. Trước đây bia hơi 
được chiết vào thùng có dung tích 100 lít nên gây khó khăn rất lớn trong việc vận 
chuyển do trọng lượng thùng khá nặng, mặt khác do dung tích bia chứa trong 
thùng lớn, không phù hợp với các cửa hàng bán nhỏ có sức tiêu thụ bia trong ngày 
ít. Chính những đặc điểm này đã gây không ít khó khăn trong việc tiêu thụ cũng 
như cạnh tranh của sản phẩm, đồng thời cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến khả 
năng mở rộng thị trường cho sản phẩm bia hơi của Công ty. Cuối năm 2001 Công 
ty đã đưa ra thị trường hai loại thùng đựng bia mới có kiểu dáng như loại thùng cũ 
nhưng dung tích nhỏ hơn là loại thùng 50 lít và 30 lít tạo điều kiện thuận lợi cho 
việc vận chuyển và tiêu thụ nhằm tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị trường cho 
sản phẩm. 
Bia chai: Về mầu sắc vỏ chai bia Hà Nội có mầu nâu đậm để bảo vệ bia 
đựng trong chai tránh khỏi sự tác dụng của ánh sáng làm hỏng bia nhằm tăng thời 
gian bảo quản cho sản phẩm. Về kiểu dáng, vỏ chai bia Hà Nội có kiểu dáng khá 
đơn giản, trên vỏ chai được dán nhãn có in Logo của Công ty, tên sản phẩm và 
những thông số khác như : ngày sản xuất, thời hạn sử dụng... Mặc dù hiện nay bia 
chai Hà Nội đang được người tiêu dùng rất ưa chuộng do uy tín và chất lượng của 
sản phẩm luôn được đảm bảo, đặc biệt với mức giá phù hợp với phần lớn thu nhập 
của người tiêu sản phẩm bia chai của Công ty đang có sức tiêu thụ rất mạnh trên 
thị trường. Tuy nhiên, khi mức sống của người dân được nâng cao thì ngoài việc 
phải đảm bảo chất lượng và giá cả phù hợp, Công ty cũng cần phải quan tâm đến 
kiểu dáng và mầu sắc bao bì của sản phẩm nhằm nâng cao sức cạnh tranh cho sản 
phẩm. 
Bia lon: Kiểu lon bia Hà Nội cũng giống như lon bia của các hãng bia khác 
đang bán trên thị trường, nhưng sản phẩm bia lon của Công ty hiện nay vẫn chưa 
được người tiêu dùng ưa chuộng mặc dù bia lon Hà Nội có giá rẻ hơn so với các 
loại bia lon khác trong khi chất lượng không thua kém là mấy. Điều này xẩy ra 
chủ yếu là vì bia lon là sản phẩm thuộc thị trường bia cao cấp, mà đối với khách 
hàng của đoạn thị trường này họ không quan tâm nhiều đến giá cả nhưng có 
những đòi hỏi rất cao về chất lượng cũng như mầu sắc, mẫu mã bao bì của sản 
phẩm trong khi đó mầu sắc và hình thức trình bầy của lon bia Hà Nội còn khá đơn 
giản. 
2.2. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty Bia Hà Nội trong ba năm gần 
đây. 
2.2.1. Tình hình sản xuất của Công ty Bia Hà Nội. 
19 
 Trong những năm qua Công ty Bia Hà Nội không ngừng đầu tư mua sắm 
thiết bị, công nghệ sản xuất bia hiện đại trên thế giới từng bước đồng bộ hoá dây 
chuyền sản xuất . Nhờ đó năng lực sản xuất của Công ty không ngừng tăng lên 
qua các năm, tuy nhiên do nguồn vốn đầu tư của Công ty còn nhiều hạn chế nên 
mặc dù dây chuyền công nghệ sản xuất hiện nay của Công ty chủ yếu là các thiết 
bị mới của Đức nhưng do đang trong quá trình đồng bộ hoá nên tính đến hết năm 
2001 công suất tối đa của Công ty mới đạt khoảng 50 triệu lít/năm. 
 Tình hình sản xuất của Công ty Bia Hà Nội trong những năm qua được thể 
hiện trong bảng sau. 
Bảng 2: Sản lượng bia của Công ty sản xuất qua các năm. 
Năm sản lượng sản xuất ( đơn vị 1000 lít ). 
1991 31.233 
1992 32.045 
1993 33.560 
1994 37.895 
1995 40.195 
1996 44.025 
1997 46.582 
1998 47.356 
1999 49.562 
2000 49.700 
2001 49.900 
Trích trong báo cáo kết quả hoạt động sản xuất của Công ty. 
20 
Biểu đồ 2: 
Tình hình sản xuất của Công ty Bia Hà Nội 
từ năm 1991 đến năm 2001. 
 Đơn vị 1000 lit/năm. 
0
5
10
15
20
25
30
35
40
45
50
n¨m
1991
n¨m
1992
n¨m
1993
n¨m
1994
n¨m
1995
n¨m
1996
n¨m
1997
n¨m
1998
n¨m
1999
n¨m
2000
n¨m
2001
Từ biểu đồ trên có thể thấy sản lượng bia sản xuất ra của Công ty năm sau 
luôn cao hơn năm trước, mỗi năm tăng trung bình khoảng 1,8%. Đặc biệt trong 3 
năm gần đây Công ty đã sử dụng tối đa công suất của dây chuyền nhằm cung cấp 
tối đa mức sản lượng có thể cho thị trường, điều này chứng tỏ sản phẩm của Công 
ty đang ngày càng được khách hàng ưa chuộng và năng lực sản xuất của Công ty 
hầu như không đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của thị trường. Cuối tháng 6 
năm 2002 Công ty đã đầu tư lắp đặt một dây chuyền chiết bia mới của Đức đưa 
công suất của Công ty lên 100 triệu lít/năm, nhằm làm giảm sự thiếu hụt sản phẩm 
của Công ty trên thị trường đồng thời làm tăng sức cạnh tranh và mở rộng thị 
trường tiêu thụ cho sản phẩm. 
2.2.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty. 
2.2.2.1. Tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty. 
 Cho đến thời điểm hiện nay, mặc dù Công ty đã sử dụng tối đa công suất 
của máy móc thiết bị nhưng lượng sản phẩm của Công ty sản xuất ra vẫn không 
đáp ứng được hết nhu cầu của thị trường. Nhất là vào những thời kỳ cao điểm về 
tiêu thụ, đặc biệt là vào mùa hè và các dịp lễ tết thì bia của Công ty trở lên thiếu 
hụt lớn ngay cả đối với các đại lý của mình do Công ty không có sản phẩm dự trữ. 
21 
Bảng 3: Tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty trong 3 năm qua. 
Loại sản phẩm Đơn vị Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 
Bia hơi 1000 lít 17.503 23.555 23.735 
 Bia chai Két 3.171.422 3.466.785 3.523.518 
Bia lon Thùng 241.548 252.157 255.950 
Trích trong báo cáo kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. 
Qua bảng kết quả tiêu thụ sản phẩm của Công ty ta có thể thấy, lượng tiêu 
thụ bia các loại của Công ty không ngừng tăng lên, nhưng do đã sử dụng hết công 
suất của dây chuyền sản xuất nên mức tiêu thụ sản phẩm bia các loại của Công ty 
trong 2 năm 2000 và 2001 tăng lên không đáng kể. Loại sản phẩm có sức tiêu thụ 
mạnh nhất là bia chai, sau đó là bia hơi, còn bia lon là sản phẩm có mức tiêu thụ 
thấp nhất của Công ty, do hiện nay bia lon của Công ty chưa chiếm được sự ưa 
chuộng của khách hàng. 
2.2.2.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty. 
 Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty Bia Hà Nội trong 3 năm ( từ 
năm 1999 đến năm 2001 ) được thể hiện trong bảng sau. 
Bảng 4: Doanh thu theo sản phẩm của Công ty qua các 
năm 1999, 2000, 2001. 
 Đơn vị 1000đ 
Loại sản phẩm Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 
Bia hơi 70.012.000 90.220.000 90.909.000 
 Bia chai 306.031.000 317.126.187 322.315.871 
Bia lon 27.985.760 30.258.840 30.714.000 
Tổng cộng: 404.028.760 437.605.027 443.938.871 
Trích trong báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. 
 Từ bảng kết quả doanh thu qua từng năm chứng tỏ Công ty Bia Hà Nội 
đang ngày càng phát triển, tổng doanh thu của Công ty năm sau luôn cao hơn năm 
trước, mặc dù mức tăng doanh thu của năm 2001 so với năm 2000 rất thấp vào 
khoảng 1,44% ( bằng 1/6 mức tăng doanh thu của năm 2000 so với năm 1999 ) đó 
là vì trong 2 năm 2000 và 2001 Công ty đã cung ứng cho thị trường lượng sản 
phẩm tối đa mà Công ty có thể sản xuất ra. Bia chai là sản phẩm mang lại doanh 
thu lớn nhất cho Công ty, có doanh thu trung bình hàng năm trên 70% tổng doanh 
thu, tiếp theo là bia hơi chiếm khoảng 20% tổng doanh thu. Loại sản phẩm có 
22 
doanh thu thấp nhất vẫn là bia lon, doanh thu hằng năm của loại sản phẩm này 
không vượt quá 10% tổng doanh thu của toàn Công ty, điều này cho thấy bia lon 
của Công ty đang trong thời kỳ khó khăn về tiêu thụ, nguyên nhân chính của việc 
này là do hiện nay sản phẩm bia lon của Công ty chưa chiếm lĩnh được thị trường. 
Bảng 5: Lợi nhuận theo từng loại sản phẩm. 
Đơn vị 1000
đ 
Loại sản phẩm Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 
Bia hơi 25.700.000 25.464.000 25.864.000 
 Bia chai 51.300.000 52.842.000 52.979.000 
Bia lon 4.860.000 4.909.000 4.588.000 
Tổng cộng: 81.860.000 83.215.000 83.431.000 
Trích trong báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. 
Biểu đồ 3 
Tỷ lệ lợi nhuận theo từng loại sản phẩm của Công ty. 
 Năm1999 
bia h¬i
31,4%
bia chai
62,7%
Bia lon
5,9%
Bia lon
bia chai
bia h¬i
 Năm 2000 
bia h¬i
30,6%
bia chai
63,5%
Bia lon
5,9%
Bia lon
bia chai
bia h¬i
23 
Năm 2001 
bia h¬i
31%
bia chai
63,5%
Bia lon
5,5%
Bia lon
bia chai
bia h¬i
Qua bảng 5 có thể thấy tổng lợi nhuận của Công ty trong 3 năm qua không 
ngừng tăng lên, tuy nhiên chủ yếu là do mức tăng lợi nhuận của bia chai và bia 
hơi, trái lại mức lơi nhuận của bia lon lại có xu hướng giảm sút. Trong tổng lợi 
nhuận của Công ty năm 2001, bia chai chiếm tỷ lệ cao nhất khoảng 63,5%, sau đó 
là bia hơi chiếm khoảng 31%, cuối cùng là bia lon chỉ chiếm 5,5% tổng lợi nhuận. 
Mặc dù lợi nhuận hàng năm của Công ty vẫn tăng lên, nhưng mức tăng lợi nhuận 
của năm 2001 so với năm 2000 là 0,26% trong khi đó tỷ lệ tăng lợi nhuận của 
năm 2000 so với năm 1999 là 1,65%, nguyên nhân chính của việc này là do chi 
phí cho quá trình sản xuất tăng lên trong khi giá bán sản phẩm của Công ty lại 
không thay đổi. 
2.3. Giới thiệu hệ thống phân phối sản phẩm của Công ty Bia Hà Nội. 
2.3.1. Đặc điểm thị trường tiêu thụ sản phẩm. 
Với cơ cấu sản phẩm hiện nay, có thể thấy sản phẩm chính của Công ty bia 
Hà Nội là bia chai và bia hơi, đặc biệt bia chai được coi là loại sản phẩm mũi 
nhọn của Công ty. Do những đặc điểm này, sản phẩm bia của Công ty chủ yếu 
được tiêu thụ trên đoạn thị trường bình dân với những khách hàng có mức thu 
nhập trung bình, còn trên đoạn thị trường cao cấp thì rất hạn chế. Xét theo khu 
vực địa lý thì thị trường tiêu thụ sản phẩm chính của Công ty phần lớn nằm ở các 
tỉnh phía Bắc, còn thị trường Miền Trung và Miền Nam thì hầu như chưa xâm 
nhập được. Thị trường tiêu thụ chính của bia hơi là Hà Nội và các tỉnh lân cận 
như Hải Dương, Quảng Ninh , Nam Định, Bắc Ninh, Thanh Hoá...Bia chai có thị 
trường tiêu thụ rộng hơn, rải khắp 26 tỉnh thành Miền Bắc nhưng thị trường tiêu 
thụ chính cũng là Hà Nội. Còn bia lon là loại sản phẩm mới được Công ty đưa ra 
thị trường cuối năm 1996 chủ yếu được tiêu thụ trên đoạn thị trường cao cấp 
nhưng mức tiêu thụ còn rất thấp do chưa chiếm lĩnh được thị trường. 
24 
2.3.2. Chính sách phân phối sản phẩm. 
Hiện nay, việc phân phối sản phẩm của Công ty chủ yếu thông qua các 
kênh tiêu thụ gián tiếp là các đại lý của Công ty và các khách hàng mua theo hợp 
đồng mua bán ( HĐMB ). Mục đích của việc sử dụng hệ thống phân phối này 
nhằm giúp cho Công ty có khả năng tiêu thụ được một lượng hàng lớn trong thời 
gian ngắn và có thể phân bổ sản phẩm của mình trên một khu vực thị trường rộng, 
đồng thời tiết kiệm được chi phí bảo quản sản phẩm tạo điều kiện cho Công ty tập 
trung vào vấn đề sản xuất. Việc bán hàng được thực hiện ngay tại Công ty, các 
khách hàng và các đại lý có nhu cầu về sản phẩm phải đến tận Công ty để mua và 
phải thanh toán trước khi nhận hàng, khách hàng có thể thanh toán bằng séc, ngân 
phiếu, chuyển khoản hoặc trực tiếp bằng tiền mặt... Đối với những khách hàng và 
các đại lý thường xuyên mua với số lượng lớn Công ty có hình thức cho các 
khách hàng hoặc đại lý này được quyền ký quỹ với Công ty, số tiền gửi của khách 
hàng được Công ty trả lãi theo như lãi suất của ngân hàng và được trừ dần sau 
mỗi lần khách đến lấy hàng. Điều này giúp cho Công ty có khả năng quản lý tốt 
các đại lý của mình đồng thời nó cũng giúp cho Công ty có thể nhận được những 
thông tin nhanh nhất thông qua các đại lý mỗi khi có một sự thay đổi nào đó của 
thị trường. Ưu điểm của hình thức phân phối này là giúp cho Công ty có thể thu 
hồi vốn nhanh, không phải chịu những rủi ro trong quá trình vận chuyển hàng hoá 
đi tiêu thụ, nhưng lại gây rất nhiều khó khăn cho các khách hàng do bia là loại 
sản phẩm tiêu dùng trực tiếp và do năng lực sản xuất hiện thời của Công ty chưa 
đáp ứng được nhu cầu của thị trường, nên vào những thời kỳ cao điểm về tiêu thụ 
sản phẩm đặc biệt là mùa hè hoặc các mùa lễ hội có rất nhiều khách hàng tập 
trung ở Công ty để đợi lấy hàng làm Công ty trở lên nhốn nháo và mất trật tự. 
Một đặc điểm nữa cần quan tâm trong chính sách phân phối sản phẩm của Công 
ty đó là việc Công ty quy định phân phối số lượng hàng bán cho mỗi đại lý và 
khách hàng, điều này nhiều khi cũng làm nẩy sinh mâu thuẫn giữa các đại lý của 
Công ty nhất là vào những khi sản phẩm của Công ty không đủ cung ứng cho thị 
trường, đây có thể coi là nhược điểm lớn nhất trong chính sách phân phối sản 
phẩm hiện nay của Công ty. Ngoài những đại lý và các khách hàng mua theo hợp 
đồng, Công ty cũng có một số cửa hàng bán lẻ, bán hàng trực tiếp cho người tiêu 
dùng nhưng rất ít chủ yếu là những cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Công ty. 
2.3.3. Hệ thống phân phối sản phẩm. 
Do chính sách phân phối sản phẩm của Công ty đang sử dụng hiện nay nên 
việc bán hàng chủ yếu thông qua các kênh tiêu thụ gián tiếp là các đại lý và các 
khách hàng mua theo HĐMB rồi từ đó sản phẩm mới được chuyển đến người bán 
lẻ và người tiêu dùng. Ưu điểm của hệ thống phân phối này là giúp cho Công ty 
dễ dàng quản lý được các kênh tiêu thụ sản phẩm của mình nhưng có hạn chế là 
Công ty không tiếp xúc được với những khách hàng cuối cùng tiêu thụ sản phẩm 
25 
nên khó có thể thu thập một cách chính xác những thông tin phản hồi từ khách 
hàng. Mặc dù cũng có một số cửa hàng bán sản phẩm trực tiếp cho nguời tiêu 
dùng nhưng rất ít và tập trung toàn bộ ở Hà Nội. Theo số liệu của phòng Kế hoạch 
- tiêu thụ của Công ty thì hiện nay Công ty Bia Hà Nội có khoảng 600 - 700 
khách hàng lớn nhỏ thường xuyên, trong đó có 193 đại lý và 154 khách hàng mua 
theo HĐMB rải khắp 26 tỉnh thành phía Bắc từ Hà Tĩnh trở ra. Mạng lưới phân 
phối sản phẩm của Công ty có thể mô tả theo sơ đồ sau. 
Sơ đồ 4: Sơ đồ mạng lưới phân phối sản phẩm của 
Công ty Bia Hà Nội. 
Mạng lưới tiêu thụ của Công ty Bia Hà Nội khá khác biệt so với các Công 
ty bia khác ở chỗ Công ty không có đội ngũ nhân viên tiếp thị nên mọi việc bán 
hàng cũng như việc thực hiện các kế hoạch Marketing, nghiên cứu thị trường đều 
do phòng kế hoạch tiêu thụ đảm nhận. Đặc biệt Công ty không kiểm soát toàn bộ 
hệ thống kênh tiêu thụ, việc điều tiết bán hàng hoàn toàn do các đại lý của Công 
ty và các đại lý mua bán thực hiện. Việc quản lý các đại lý do phòng Kế hoạch - 
tiêu thụ chịu trách nhiệm, mỗi nhân viên của phòng được phân công quản lý các 
đại lý nằm trong một khu vực địa lý nhất định, hàng quý Công ty cử những nhân 
viên này tới các đại lý thuộc quyền quản lý của mình để kiểm tra tình hình tiêu 
thụ sản phẩm và thu thập những thông tin cần thiết về thị trường. 
Cũng theo số liệu của phòng Kế hoạch - tiêu thụ, năm 2000 tổng số đại lý 
của Công ty là 319 đại lý trong đó số đại lý của Công ty có 180 đại lý. Đến hết 
năm 2001 tổng số đại lý là 347 đại lý trong đó số đại lý của Công ty tăng lên là 
Công ty bia 
Hà N i 
  i lý c a 
Công ty 
Các nhà 
bán buôn 
Nh ng 
ng  i 
bán l  
Ng  i 
tiêu 
dùng 
26 
193 đại lý. Sự phân bố các đại lý của Công ty theo khu vực địa lý được thể hiện 
trong bảng sau. 
Bảng 6: Sự phân bố các đại lý tại các tỉnh của Công ty Bia Hà Nội. 
STT Khu vực 
Năm 2000 Năm 2001 
Số đại 
lý của 
Công ty 
Số đại 
lý theo 
HĐMB 
Tổng 
số đại 
lý 
Số đại 
lý của 
Công ty 
Số đại 
lý theo 
HĐMB 
Tổng số 
đại lý 
1 Hà Nội 70 58 128 77 54 131 
2 Hải Dương 10 9 19 10 10 20 
3 Hải Phòng 3 2 5 5 3 8 
4 Quảng Ninh 13 1 14 15 1 16 
5 Hà Bắc 9 4 13 10 5 15 
6 Hà Tây 4 14 18 4 15 19 
7 Vĩnh Phú 8 7 15 9 11 20 
8 Thái Nguyên 6 3 9 6 2 8 
9 Tuyên Quang 3 2 5 3 1 4 
10 Yên Bái 2 0 2 3 0 3 
11 Nam Định 12 2 14 12 4 16 
12 Ninh Bình 6 9 15 5 8 13 
13 Thái Bình 2 2 4 1 2 3 
14 Thanh Hoá 6 1 7 3 0 3 
15 Nghệ Tĩnh 2 0 2 4 1 5 
16 Hoà Bình 1 0 1 1 1 2 
17 Hà Giang 3 1 4 3 1 4 
18 Lạng Sơn 3 0 3 2 0 2 
19 Cao Bằng 0 1 0 1 2 3 
20 S.La+L.Châu 1 1 2 1 5 6 
21 Lào Cai 1 1 2 1 2 3 
22 Hưng Yên 4 2 6 4 4 8 
23 Bắc Ninh 3 7 10 4 8 12 
24 Vĩnh Phúc 3 5 8 4 6 10 
25 Bắc Cạn 0 3 3 0 3 3 
26 Hà Nam 5 4 9 5 5 10 
Tổng số : 180 139 319 193 154 347 
Theo báo cáo năm 2000 và 2001 của phòng Kế hoạch tiêu thụ. 
Theo bảng trên có thể thấy, khu vực tiêu thụ sản phẩm chính của Công ty 
chủ yếu tập trung ở Hà Nội với tổng số đại lý trong năm 2001 của Công ty lên tới 
131 đại lý, trong đó số đại lý của Công ty là 77 đại lý còn lại 54 đại lý là các đại 
27 
lý theo HĐMB, chiếm 38% tổng số đại lý hiện có của Công ty. Số đại lý còn lại 
được phân bố rải rác khắp 25 tỉnh thành của Miền Bắc, điều này chứng tỏ Công ty 
đang coi thị trường Miền Bắc là thị trường trung tâm, đặc biệt là thị trường Hà 
Nội. Còn thị trường Miền Trung và Miền Nam sẽ là vùng thị trường tiềm năng để 
Công ty phát triển trong tương lai sau khi Công ty lắp đặt xong dây chuyền sản 
xuất mới đưa công suất của Công ty lên 100 triệu lít/năm. 
2.3.4. Tình hình tiêu thụ các loại sản phẩm theo các kênh phân phối của 
Công ty trong những năm gần đây. 
 Trong thời điểm hiện nay, Công ty Bia Hà Nội đang cung cấp cả 3 loại sản 
phẩm của mình là bia chai, bia hơi và bia lon cho thị trường. Tuy nhiên, tình hình 
tiêu thụ của mỗi loại sản phẩm theo các khu vực lại có sự phân bố không giống 
nhau. Bia hơi được tiêu thụ chủ yếu ở Hà Nội và một số ít các tỉnh lân cận, còn lại 
toàn bộ các đại lý hiện có của Công ty là đại lý bia chai. Đối với sản phẩm bia 
lon, một phần do số lượng ít nhưng chủ yếu là vì sản phẩm mới chưa chiếm lĩnh 
được thị trường, mặc dù được bán trên toàn thị trường Miền Bắc nhưng hiện nay 
vẫn chưa có một đại lý chính thức nào nên sự phân phối sản phẩm trên thị trường 
chủ yếu thông qua các đại lý bia chai của Công ty. 
Bảng 7: Sự phân bố các đại lý bia hơi và tình hình tiêu thụ 
bia hơi của Công ty trong những năm qua. 
STT Khu vực 
Tổng số 
đại lý 
Sản lượng tiêu thụ ( 1000 lít/năm ) 
Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 
1 Hà Nội 35 16.816 22.796 22.857 
2 Hải Hưng 2 161 175 193 
3 Hải Phòng 1 93 110 125 
4 Hà Bắc 3 274 285 336 
5 Hà Tây 2 127 146 175 
6 Nam Hà 1 32 43 49 
Tổng: 44 17.503 23.555 23.735 
Theo báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của phòng Kế hoạch - tiêu thụ. 
Trong tổng số 44 đại lý bia hơi thì có đến 35 đại lý ở Hà Nội, điều này cho 
thấy Hà Nội là thị trường tiêu thụ chính của sản phẩm, hầu hết lượng bia hơi sản 
xuất ra của Công ty được bán ngay tại thị trường này chiếm khoảng trên 90% tổng 
lượng bia hơi được tiêu thụ trong năm. Chỉ có một phần rất nhỏ còn lại ( không 
vượt quá 10% ) được đưa đi tiêu thụ ở các tỉnh khác. Nguyên nhân làm cho bia 
hơi của Công ty có thị trường tiêu thụ hẹp như vậy là vì đặc điểm của bia hơi chỉ 
28 
bảo quản được trong khoảng 24 giờ và bị phụ thuộc rất lớn vào điều kiện của thời 
tiết nên không thể đưa đi xa được. Mặc dù có thị trường tiêu thụ hẹp nhưng do có 
chất lượng tốt và giá cả hợp lý nên hiện nay sản phẩm bia hơi của Công ty đang 
có sức tiêu thụ rất lớn trên thị trường, với năng lực sản xuất hiên tại lượng cung 
của Công ty luôn không đáp ứng đủ nhu cầu của người tiêu dùng. 
Bảng 8: Tình hình tiêu thụ bia chai theo từng khu vực 
của Công ty trong những năm qua. 
STT Khu vực Sản lượng tiêu thụ ( lít/năm ). 
Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 
1 Hà Nội 17.051.170 21.154.100 21.495.506 
2 Hải Dương 1.093.850 1.054.460 1.061.149 
3 Hải Phòng 392.460 375.562 380.520 
4 Quảng Ninh 2.709.190 2.451.252 2.481.127 
5 Hà Bắc 995.070 110.462 112.752 
6 Hà Tây 1.049.470 988.475 1.004.203 
7 Vĩnh Phú 1.133.820 1.054.210 1.067.149 
8 Thái Nguyên 769.990 778.100 789.268 
9 Tuyên Quang 297.250 216.450 215.458 
10 Yên Bái 241.500 245.000 250.170 
11 Nam Định 1.447.460 1.565.470 1.592.130 
12 Ninh Bình 882.320 895.500 909.068 
13 Thái Bình 227.550 301.450 306.546 
14 Thanh Hoá 401.150 472.256 479.198 
15 Nghệ Tĩnh 152.150 156.740 158.508 
16 Hoà Bình 109.790 124.460 126.847 
17 Hà Giang 124.330 98.560 98.660 
18 Lạng Sơn 186.360 190.256 191.794 
19 Cao Bằng 84.390 110.247 112.752 
20 S.La+L.Châu 217.970 256.300 258.740 
21 Lào Cai 184.180 210.450 214.934 
22 Hưng Yên 338.010 312.450 317.117 
23 Bắc Ninh 513.460 576.100 585.000 
24 Vĩnh Phúc 530.600 492.700 497.340 
25 Bắc Cạn 89.660 79.250 81.041 
26 Hà Nam 441.030 397.560 448.203 
Tổng: 31.714.220 34.667.850 35.235.180 
Trích trong báo cáo kết quả kinh doanh của phòng Kế hoạch - tiêu thụ. 
Có thể thấy trong tổng số 347 đại lý hiện có của Công ty, chỉ có 44 đại lý 
bia hơi còn lại toàn bộ các đại lý của Công ty là đại lý bia chai. Điều này cho thấy 
29 
sản phẩm bia chai đang là loại sản phẩm chính và có sức tiêu thụ rất mạnh của 
Công ty. Nhưng cũng giống như sản phẩm bia hơi thị trường tiêu thụ chính của 
bia chai cũng là khu vực Hà Nội với lượng tiêu thụ hàng năm trung bình chiếm 
khoảng 60% tổng số lượng sản phẩm bia chai của Công ty được bán ra, 40% còn 
lại được phân phối cho các đại lý ở các tỉnh, trong đó có rất ít khu vực có sức tiêu 
thụ trên 1 triệu lít/năm. Mặc dù ở thời điểm hiện nay Công ty không phải quan 
tâm đến việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm do lượng cung của Công 
ty luôn thiếu hụt so với nhu cầu của thị trường. Nhưng trong tương lai việc mở 
rộng thị trường tiêu thụ cho các loại sản phẩm của Công ty là điều rất cần thiết vì 
khi đó năng lực sản xuất của Công ty là rất lớn, lúc này sản phẩm của Công ty 
không chỉ được tiêu thụ ở thị trường phía Bắc mà còn phải mở rộng vào thị 
trường Miền Trung và Miền Nam. 
2.4. Chính sách giá của Công ty Bia Hà Nội. 
 Do đặc điểm của chính sách phân phối sản phẩm hiện đang được Công ty 
sử dụng nên trong chính sách giá cả của Công ty cũng có những khác biệt, đó là 
Công ty không trực tiếp quy định mức giá bán lẻ của sản phẩm mà chỉ quy định 
mức giá bán buôn cho các đại lý và các khách hàng mua theo HĐMB, còn mức 
giá bán lẻ trên thị trường hoàn toàn do các đại lý và các khách hàng mua theo 
HĐMB của Công ty quy định. Việc này làm cho mức giá bán lẻ sản phẩm của 
Công ty không ổn định và phụ thuộc vào nhu cầu của thị trường, đồng thời tạo ra 
những khu vực giá cả khác nhau làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm, đây là 
nhược điểm lớn nhất của Công ty hiện nay. Điều này xảy ra do hai nguyên nhân, 
thứ nhất là do Công ty không trực tiếp điều tiết việc tiêu thụ sản phẩm trên thị 
trường mà việc tiêu thụ chủ yếu thông qua các kênh phân phối sản phẩm của 
mình, thứ hai là do chính sách phân phối sản phẩm của Công ty nên mọi chi phí 
cũng như phương tiện vận chuyển hàng hoá đều do các đại lý chịu trách nhiệm. 
Do đó, mặc dù mức giá bán của Công ty thường thấp hơn so với đối thủ cạnh 
tranh và luôn ổn định, nhưng giá bán lẻ sản phẩm của Công ty trên thị trường luôn 
cao hơn giá bán của Công ty. Tuy nhiên, phương pháp định giá này giúp cho 
Công ty có được uy tín rất tốt đối với các đại lý của mình, tạo điều kiện thuận lợi 
cho việc mở rộng thị trường trong tương lai của Công ty. Ngoài ra, khi xây dựng 
chính sách giá Công ty đã sử dụng mức giá tối thiểu có thể mang lại lợi nhuận cho 
Công ty nhằm phù hợp với đoạn thị trường mục tiêu hiện nay của Công ty. Để 
khuyến khích và tăng cường sự trung thành của các đại lý cũng như các khách 
hàng, Công ty còn áp dụng chính sách giá phân biệt đối với các đối tượng khách 
hàng. Những khách hàng là đại lý của Công ty hoặc những khách hàng mua theo 
HĐMB thường xuyên tiêu thụ sản phẩm cho Công ty với số lượng ổn định thì 
được ưu đãi hơn so với các đối tượng khách hàng khác. Mức giá bán tực tiếp các 
loại sản phẩm của Công ty cho các đại lý và khách hàng mua theo HĐMB trong 
năm 2001 là: 
30 
 Bia lon 330 ml: 120.000 đ/két/24 lon. 
 Bia chai 500 ml: 100.000 đ/két/20 chai. 
 Bia hơi : 4.000 đ/lít. 
2.5. Hoạt động Marketing của Công ty Bia Hà Nội . 
 Trong thời điểm hiện nay, ngoại trừ bia lon thì sản phẩm bia chai và bia hơi 
của Công ty đang rất được khách hàng ưa chuộng. Trong khi nhu cầu của hai loại 
sản phẩm này trên thị trường ngày càng tăng cao thì năng lực sản xuất của Công 
ty luôn không đáp ứng được sự thiếu hụt đó. Do vậy, Công ty đang có ưu thế rất 
lớn trong việc tiêu thụ sản phẩm, bằng chứng là Công ty không cần phải tìm kiếm 
thị trường tiêu thụ cho sản phẩm mà tự khách hàng tìm đến với Công ty. Điều này 
làm cho hoạt động Marketing của Công ty có nhiều điểm khác biệt so với các đối 
thủ cạnh tranh. 
 Về sản phẩm: Nhìn chung các loại sản phẩm hiện nay của Công ty có chất 
lượng tốt và khá ổn định, do đó được người tiêu dùng rất ưa chuộng, ngoại trừ bia 
lon là loại sản phẩm mới được Công ty đưa ra thị trường nên sức tiêu thụ còn rất 
thấp. Tuy đang được thị trường ưa chuộng nhưng sản phẩm của Công ty không 
phải không có nhược điểm. Trong suốt một thời gian dài Công ty không có một sự 
đầu tư đổi mới gì về mẫu mã, bao bì cho các sản phẩm mà chỉ quan tâm đến vấn 
đề nâng cao chất lượng cho sản phẩm. Cho đến cuối năm 2001 Công ty mới bắt 
đầu có sự quan tâm đến việc đổi mới hình thức bao bì cho các loại sản phẩm 
nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, do trong thời điểm hiện nay sự cạnh 
tranh trên thị trường bia đang diễn ra rất gay gắt và chất lượng không còn là yếu 
tố chính quyết định đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm. 
Bia hơi: Đến cuối năm 2001, Công ty đã bỏ loại thùng dung tích 100 lit 
thay vào đó là loại thùng có dung tích 50 lít và 30 lít nhằm đa dạng hoá hình thức 
mẫu mã cho sản phẩm đồng thời tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng thị trường 
tiêu thụ cho sản phẩm. 
Bia chai: Cho đến thời điểm hiện nay, loại vỏ chai bia của Công ty đang 
lưu hành trên thị trường vẫn là loại vỏ chai truyền thống với kiểu dáng và mầu sắc 
đơn giản nên chưa đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của người tiêu 
dùng. Từ tháng 6 năm 2002 Công ty đã tiến hành lắp đặt dây chuyền sản xuất bia 
mới của Đức đưa năng lực sản xuất của Công ty lên 100 triệu lít/năm, mặc dù 
theo dự kiến đến cuối năm 2002 dây chuyền này mới đi vào hoạt động nhưng để 
chuẩn bị cho vấn đề tiêu thụ một lượng sản phẩm lớn trong tương lai Công ty đã 
thực hiện chiến dịch đổi mới hình thức, mẫu mã của vỏ chai (thay đổi về kiểu 
31 
dáng và giảm dung tích của chai xuống còn 450ml) nhằm tăng sức cạnh tranh và 
mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm. 
Bia lon: Hiện đang chiếm tỷ trọng rất thấp trong cơ cấu sản phẩm của Công 
ty, mặt khác đây là loại sản phẩm chủ yếu phục vụ cho đoạn thị trường cao cấp 
trong thời điển hiện nay chưa phải là thị trường mục tiêu của Công ty. Một mặt do 
sản phẩm khó có thể cạnh tranh được với các loại bia lon khác như Tiger hay 
Heniken có hình thức, mẫu mã bao bì cũng như chất lượng hơn hẳn đang bán trên 
thị trường, mặt khác có thể do khách hàng không hợp gu với sản phẩm. Vì vậy 
Công ty vẫn chưa có một chính sách rõ rệt nào đối với sản phẩm. 
 Về giá cả: Mặc dù so với các đối thủ cạnh tranh giá bán buôn của Công ty 
luôn rẻ hơn và tương đối ổn định, nhưng do chính sách phân phối sản phẩm của 
Công ty nên khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng thường có giá cao hơn rất 
nhiều so với giá bán của Công ty và mức giá này thường biến động theo nhu cầu 
của thị trường, đặc biệt là khi lượng cung của Công ty không đáp ứng đủ nhu cầu 
của thị trường. Ngoài ra, giá bán lẻ sản phẩm của Công ty trên thị trường còn phụ 
thuộc vào khu vực địa lý do các đại lý phải chịu chi phí vận chuyển sản phẩm từ 
Công ty đến nơi tiêu thụ. Những điều này dễ làm cho người tiêu dùng thiếu tin 
tưởng vào sản phẩm của Công ty do đó có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh 
tranh của sản phẩm. Đây là nhược điểm lớn nhất của Công ty hiện nay, trong 
tương lai Công ty cần phải có những chính sách ổn định giá cả nhằm giúp cho sản 
phẩm có thể thâm nhập và mở rộng thị trường. 
 Về phân phối sản phẩm: Hệ thống và chính sách phân phối sản phẩm 
đang được Công ty sử dụng hiện nay chủ yếu dựa trên ưu thế về tiêu thụ sản 
phẩm, có nghĩa là Công ty không cần phải tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho sản 
phẩm mà khách hàng tự tìm đến Công ty. Khi có nhu cầu về sản phẩm khách hàng 
phải đến tận Công ty để mua, mặc dù đã đơn giản hoá đến mức tối thiểu các trung 
gian trong giao dịch để quá trình mua của khách hàng được thuận tiện nhưng với 
hình thức phân phối này gây cho khách hàng rất nhiều phiền hà, nhất là đối với 
các khách hàng ở các tỉnh xa. Do trong thời điểm hiện nay năng lực sản xuất của 
Công ty vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường nên Công ty chưa có một 
tổng đại lý nào, tuy vậy sản phẩm của Công ty (chủ yếu là bia chai) vẫn được 
phân phối rộng khắp trên vùng thị trường chính của Công ty do hệ thống đại lý và 
khách hàng mua theo HĐMB của Công ty được phân bố tương đối đồng đều trong 
khu vực 25 tỉnh thành Miền Bắc ( ngoại trừ khu vực Hà Nội ). Trong thời gian tới, 
khi công suất sản xuất của Công ty được nâng lên thì Công ty cần thiết lập một số 
tổng đại lý nhằm mở rộng thị trường và ổn định mức giá bán lẻ tạo điều kiện 
thuận lợi cho việc tiêu thụ và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. 
 Về hình thức xúc tiến bán hàng: Trong những năm gần đây dù tình hình 
cạnh tranh trên thị trường bia của Việt Nam trở lên rất gay gắt, nhưng do sản 
phẩm có mức giá thấp cùng với chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng lên 
đang là lợi thế quan trọng tăng cường khả năng cạnh tranh cho Công ty, sản phẩm 
32 
của Công ty ngày càng có uy tín cao và chiếm lĩnh được thị trường. Đặc biệt trong 
ba năm trở lại đây năng lực sản xuất của Công ty luôn không đáp ứng được nhu 
cầu ngày càng tăng của thị trường. Chính vì vậy Công ty hầu như không có các 
hoạt động hỗ trợ tiêu thụ và kích thích bán hàng như các Công ty bia khác. 
Quảng cáo : Công ty đã tiến hành một số đợt quảng cáo thông qua các 
phương tiện thông tin đại chúng nhằm mục đích giới thiệu sản phẩm nhưng thực 
sự không đáng kể so với những Công ty bia khác. Các hình thức quảng cáo đã 
được Công ty sử dụng là tham gia các hội chợ, triển lãm, đặt panô, áp phích, 
ngoài ra các đại lý và các cửa hàng giới thiệu sản phẩm đều được trang bị biểu 
tượng của Công ty. Nhưng nhìn chung hoạt động quảng cáo nhằm giới thiệu sản 
phẩm của Công ty rất ít và không rầm rộ như các Công ty bia khác, đặc biệt trong 
hai năm trở lại đây Công ty gần như không tiến hành một chương trình quảng cáo 
nào thông qua các phương tiện thông tin đại chúng nhằm giới thiệu sản phẩm 
nhưng sản lượng tiêu thụ của Công ty vẫn không ngừng tăng lên. Điều này cho 
thấy sản phẩm của Công ty trên thị trường đang có uy tín rất cao và được rộng rãi 
khách hàng biết đến, một lý do khác nữa là hiện tại lượng cung của Công ty đang 
không đáp ứng được nhu cầu của thị trường nên công tác quảng cáo nhằm giới 
thiệu sản phẩm chưa thật cần thiết. Tuy nhiên trong thời gian tới Công ty cần phải 
chú ý tới các hoạt động quảng cáo nhằm tạo điều kiện cho việc mở rộng thị 
trường và tăng sản lượng tiêu thụ của sản phẩm vì khi đó năng lực sản xuất của 
Công ty là rất lớn. 
Các hoạt động hỗ trợ tiêu thụ: Nhằm thu thập những ý kiến đóng góp của 
khách hàng để có những giải pháp hợp lý cho việc tiêu thụ và phát triển sản phẩm 
Công ty đã mở các hội nghị khách hàng, mặc dù hoạt động này không được tổ 
chức một cách thường xuyên nhưng cũng giúp Công ty có được phương hướng 
trong khi đưa ra những chính sách về sản phẩm. Đôi khi Công ty cũng tổ chức 
một số đợt khuyến mại nhân dịp các ngày lễ hoặc vào các mùa lễ hội nhằm kích 
thích khả năng tiêu thụ cho sản phẩm bia lon, nhưng hầu như không đáng kể và 
chủ yếu mang tính chất giới thiệu sản phẩm. Còn đối với sản phẩm bia chai do 
đang có sức tiêu thụ rất mạnh trên thị trường nên Công ty không cần sử dụng hình 
thức xúc tiến bán hàng nào. 
Hoạt động nghiên cứu thị trường : Do hiện nay Công ty chưa có phòng 
Marketing riêng biệt nên hoạt động nghiên cứu thị trường được coi là một chức 
năng của phòng Kế hoạch - tiêu thụ. Nhiệm vụ chính của hoạt động này là tìm 
kiếm thị trường, xác định và dự báo về nhu cầu tiêu dùng bia trên thị trường trong 
ngắn hạn cũng như trong dài hạn. Mỗi nhân viên của phòng Kế hoạch - tiêu thụ 
được phân công theo dõi một số tỉnh trong 26 tỉnh thành có sự xuất hiện của bia 
Hà Nội. Hàng tháng hoặc hàng quý các nhân viên này đi xuống địa bàn mình phụ 
trách để theo dõi và thu thập các thông tin về nhu cầu, tình hình tiêu thụ và tốc độ 
33 
tiêu thụ của sản phẩm từ đó đưa ra những phân tích tổng hợp về tình hình của thị 
trường. Ngoài mạng lưới đại lý, Công ty cũng tổ chức một số cửa hàng bán lẻ và 
đội ngũ nhân viên bán hàng với mục đích thu thập được nhiều thông tin trực tiếp 
từ khách hàng nhằm mục đích nắm bắt chính xác nhu cầu thị trường và những 
thông tin về đối thủ cạnh tranh để từ đó giúp Công ty có thể đưa ra những quyết 
định sản xuất kinh doanh hợp lý nhất. 
2.6. Vài nét về đối thủ cạnh tranh chính của Công ty. 
2.6.1.Tổng quan về thị trường tiêu thụ sản phẩm. 
 Trước đây, tổng sản lượng bia cung cấp ra thị trường chủ yếu do hai nhà 
máy lớn là Nhà máy bia Hà Nội và Nhà máy bia Sài Gòn. Trong vài năm trở lại 
đây, do nhu cầu tiêu dùng về bia không ngừng tăng lên dẫn đến sự ra đời của hàng 
loạt các nhà máy và các cơ sở sản xuất bia ở các tỉnh thành, hàng năm cung cấp ra 
thị trường hàng trăm triệu lít bia với đủ các loại nhãn hiệu, chủng loại sản phẩm 
và phục vụ cho mọi tầng lớp tiêu dùng của xã hội. Điều này làm cho cường độ 
cạnh tranh trên thị trường bia ngày càng lên cao. 
Bảng 9: Thị trường tiêu thụ chính của một số loại bia hiện nay. 
Thị trường tiêu thụ Các loại bia chủ yếu 
Thị trường cao cấp Heineken... 
Thị trường trung - cao cấp Tiger, Carlsberg, Sanmiguel, 333, Halida ( lon )... 
Thị trường bình dân Hà Nội, Halida ( chai ), BGI, Huda, Kaiser... 
 So với các loại bia như Heineken hay Tiger của Công ty bia Việt Nam thì 
bia Hà Nội chưa thể sánh ngang được, nhưng những loại bia này chủ yếu phục vụ 
cho những đối tượng có mức thu nhập cao. Tuy nhiên, sản phẩm bia Hà Nội 
không thua kém bất kỳ loại bia nào đang được ưa chuộng trên thị trường hiện nay 
như bia Halida, bia 333 hay bia Carlsberg...Trong số những hãng bia hiện đang 
khai thác trên đoạn thị trường bình dân như Công ty bia BGI, Nhà máy bia Đông 
Nam á ... Thì đối thủ đáng gờm nhất của Công ty Bia Hà Nội là Nhà máy bia 
Đông Nam á do sản phẩm của họ cũng tập trung chủ yếu trên đoạn thị trường bình 
dân và trung - cao cấp. Mặt khác, địa điểm của Nhà máy bia Đông Nam á cũng 
34 
nằm ngay trên địa bàn Hà Nội nên giữa hai đối thủ có sự cạnh tranh nhau gay gắt 
để giành giật thị trường. 
 2.6.2. Công ty bia Đông Nam á. 
2.6.1.2. Cơ cấu sản phẩm. 
 Hiện nay, Nhà máy bia Đông Nam á sản xuất hai loại bia mang nhãn hiệu 
khác nhau là bia Halida và bia Carlsberg. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào việc hai loại 
bia này được đóng trong các cỡ chai, lon khác nhau nên danh mục sản phẩm của 
Nhà máy rất đa dạng bao gồm: 
 Bia lon Halida 330 ml. 
 Bia chai Halida 330 ml. 
 Bia chai Halida 500 ml. 
 Bia lon Carlsberg 330 ml. 
 Bia chai Carlsberg 330 ml. 
 Bia chai Carlsberg 640 ml. 
 Trong cơ cấu sản phẩm của Nhà máy bia Đông Nam á các chủng loại bia 
Halida chiếm tới 70%, trong đó mặt hàng bia lon chiếm khoảng 50% - 52% tổng 
lượng bia Halida. Bia Carlsberg chỉ chiếm khoảng 30% trong đó lượng bia lon 
chiếm 30% - 32% tổng lượng bia Carlsberg của Nhà máy. 
2.6.2.2. Thị trường tiêu thụ chính của Nhà máy bia Đông Nam á. 
 Do sự đa dạng hoá sản phẩm cả về chủng loại cũng như hình thức mẫu mã, 
nên sản phẩm của Nhà máy bia Đông Nam á có thị trường tiêu thụ rộng khắp trên 
toàn quốc. Đặc biệt Nhà máy còn tiến hành phân chia thị trường cho từng loại sản 
phẩm nhằm đa dạng hoá thị trường tiêu thụ đồng thời tăng khả năng cạnh tranh 
cho sản phẩm, đảm bảo cho Nhà máy có sự phát triển ổn định. Tuỳ thuộc vào các 
yếu tố như thị hiếu của khách hàng, các loại sản phẩm cạnh tranh chính trên thị 
trường, Nhà máy đã xác định được thị trường tiêu thụ cho từng loại bia như sau: 
 Bia Halida được tiêu thụ chủ yếu ở thị trường Miền Bắc và Miền Trung. 
 Bia Carlsberg có thị trường tiêu thụ chính là thị trường Miền Nam. 
 Như vậy, so với Công ty Bia Hà Nội thì Nhà máy bia Đông Nam á có cơ 
cấu sản phẩm đa dạng hơn, thị trường tiêu thụ rộng hơn. Điều này giúp cho Nhà 
máy có thể giảm đến mức tối đa những rủi ro trong quá trình tiêu thụ cũng như 
trong vấn đề mở rộng thị trường cho sản phẩm. Tuy nhiên, với một thị trường 
rộng và nhiều loại sản phẩm như vậy Nhà máy rất khó có thể tập trung vào một 
35 
loại sản phẩm hay một khu vực thị trường nào đó, vì vậy làm ảnh hưởng không 
nhỏ đến khả năng cạnh tranh của sản phẩm, trong khi đó Công ty Bia Hà Nội mặc 
dù có cơ cấu sản phẩm đơn giản hơn nhưng lại nhưng lại tập trung trong một đoạn 
thị trường nhất định do đó sức cạnh tranh của sản phẩm được nâng cao hơn. 
2.6.3. Hệ thống phân phối của Nhà máy bia Đông Nam á. 
 Hiện nay, sản phẩm bia của Nhà máy bia Đông Nam á được tiêu thụ ở 44 
tỉnh thành trong cả nước. Để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng Nhà máy sử 
dụng hệ thống các kênh phân phối dài, từ các đại lý cấp 1 sản phẩm bia của nhà 
máy sẽ được cung cấp tới các đại lý cấp 2, các cửa hàng lớn và các điểm tiêu thụ 
sau đó sản phẩm mới đến tay người tiêu dùng. Các đại lý cấp 1 được Nhà máy lựa 
chọn và ký hợp đồng làm đại lý, ngoài việc tham gia trực tiếp vào việc tiêu thụ 
sản phẩm, các đại lý cấp 1 còn tham gia vào thực hiện các chính sách giá cả, triển 
khai các hoạt động Marketing của Nhà máy. Các đại lý cấp 2, các cưa hàng lớn và 
các điểm tiêu thụ là những khách hàng phân phối sản phẩm liên hệ trực tiếp với 
các đại lý cấp 1. Như vậy với hệ thống phân phối được chia thành nhiều cấp giúp 
cho Nhà máy đơn giản hoá quá trình phân phối tạo điều kiện thuận lợi cho việc 
tiêu thụ sản phẩm trên một khu vực thị trường rộng lớn. So với hệ thống phân 
phối của Công ty Bia Hà Nội thì hệ thống phân phối của Nhà máy bia Đông Nam 
á phức tạp hơn nhưng lại rất thuận tiện trong tiêu thụ sản phẩm do quá trình phân 
phối được đơn giản hoá. Mạng lưới phân phối sản phẩm của Nhà máy bia Đông 
Nam á được biểu diễn theo sơ đồ sau. 
Sơ đồ 5: Mạng lưới phân phối sản phẩm 
của Nhà máy bia Đông Nam á. 
Nhà máy bia 
 ông Nam á 
C a hàng l n   i lý c p 2 
  i lý c p 1 
C a hàng nh  
Ng  i tiêu 
dùng 
 i m tiêu th  
Ng  i tiêu 
dùng 
36 
Bảng 10: Sự phân bố đại lý cấp 1 củaNhà máy bia Đông Nam á. 
TT Khu vực 
Số 
đại 
lý 
TT Khu vực 
Số 
đại 
lý 
TT Khu vực 
Số 
đại 
lý 
1 Hà Nội 9 16 Cao Bằng 1 31 TP.Hồ Chí Minh 8 
2 Hải Phòng 3 17 Bắc Thái 1 32 Sông Bé 3 
3 Hải Dương 2 18 Lai Châu 1 33 Bà Rịa, V.T 3 
4 Vĩnh Phúc 2 19 Thái Bình 2 34 An Giang 2 
5 Nam Hà 2 20 Thanh hoá 2 35 Đồng Nai 3 
6 Ninh Bình 1 21 Nghệ An 2 36 Đồng Tháp 2 
7 Hà Tây 2 22 Quảng Bình 2 37 Tiền Giang 3 
8 Hoà Bình 1 23 Quảng Trị 2 38 Trà Vinh 2 
9 Bắc Ninh 2 24 Thừa Thiên 
Huế 
2 39 Vĩnh Long 2 
10 Yên Bái 2 25 Đà Nẵng 2 40 Long An 2 
11 Lào Cai 2 26 Nha Trang, 
K.H 
2 41 Bình Thuận 2 
12 Quảng Ninh 3 27 Phú Yên 1 42 Minh Hải 2 
13 Tuyên 
Quang 
2 28 Bình Định 1 43 Kiên Giang 2 
14 Hà Giang 1 29 Lâm Đồng, 
Đ.L 
2 44 Ninh Thuận 2 
15 Lạng Sơn 1 30 Buôn MêThuật 2 45 Các khu vực khác 23 
Tính đến thời điểm hiện nay, Nhà máy bia Đông Nam á có 121 đại lý cấp 1 
được phân bố rộng khắp trên toàn quốc. Riêng thị trường Miền Bắc chiếm gần 
một nửa tổng số đại lý trong đó khu vực Hà Nội có tới 9 đại lý độc quyền của Nhà 
máy. Như vậy có thể thấy số đại lý cấp 1 phân bố ở các tỉnh không nhiều như của 
Công ty Bia Hà Nội và cũng mới chỉ có bia Carlsberg vào được thị trường Miền 
Trung và Miền Nam. Còn bia Halida thì hầu như không vào được. 
2.6.2.4. Chính sách giá cả của Nhà máy bia Đông Nam á. 
 Việc định giá bán của Nhà máy bia Đông Nam á dựa trên cơ sở của chi phí. 
Mức giá đưa ra nhằm đảm bảo bù đắp được chi phí ( cho sản xuất, phân phối và 
tiêu thụ sản phẩm ) và có được một mức lợi nhuận xác định. Với chính sách này 
kàm cho giá bán sản phẩm của Nhà máy có tính chất linh hoạt và phụ thuộc vào 
yếu tố thị trường, đặc biệt là yếu tố cạnh tranh. Do áp dụng một mức giá thống 
nhất nên giá bán lẻ sản phẩm của Nhà máy tương đối đồng đều. 
Bảng 11: Giá bán các loại sản phẩm hiện nay của Nhà máy. 
37 
Loại sản phẩm Đơn vị Giá bán ( đồng ) 
Halida lon 330 ml Thùng (24 lon) 150.000 
Halida lon 330 ml Thùng (18 lon) 120.000 
Halida chai 330 ml Két (24 chai) 97.000 
Halida chai 330 ml Két (20 chai) 87.000 
Halida chai 500 ml Két (24 chai) 105.000 
Carlsberg lon 330 ml Thùng (24 lon) 170.000 
Carlsberg chai 330 ml Két (24 chai) 145.000 
2.6.5. Các hình thức xúc tiến bán hàng của Nhà máy bia Đông Nam á. 
 Các chương trình quảng cáo: Do là một Nhà máy liên doanh với nước 
ngoài nên hoạt động quảng cáo của Nhà máy được tiến hành rất nhiều và rầm rộ. 
Từ khi mới đưa sản phẩm bia Halida và Carlsberg vào thị trường, Nhà máy đã 
liên tục thực hiện các chương trình quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại 
chúng, đặc biệt Nhà máy thường xuyên tài trợ cho các cuộc thi hoa hậu và các 
chương trình thể thao trong nước cũng như trên thế giới nhằm giới thiệu sản phẩm 
của mình một cách rộng rãi cho người tiêu dùng. Ngoài ra, Nhà máy còn cho đặt 
rất nhiều các panô áp phích nhằm quảng cáo cho hai loại sản phẩm Halida và 
Carlsberg ở những địa điểm nhiều người qua lại và ở các nhà hàng. Về mặt này 
Nhà máy bia Đông Nam á hơn hẳn so với Công ty Bia Hà Nội . 
 Các hình thức hỗ trợ bán hàng : Nhà máy áp dụng một cách triệt để các 
hình thức xúc tiến bán hàng như các chương trình bật nắp lon trúng thưởng hay 
các hình thức khuyến mại cho khách hàng khi mua sản phẩm của Nhà máy nhằm 
tăng khả năng tiêu thụ và tạo cho khách hàng có được hình ảnh về sản phẩm của 
Nhà máy. 
2.7. Đánh giá chung về tình hình tiêu thụ của Công ty Bia Hà Nội. 
 Hiện nay, ngoại trừ bia lon thì sản phẩm bia Hà Nội là loại sản phẩm có sức 
cạnh tranh rất lớn trên thị trường bia bình dân ở Miền Bắc, sản lượng bia của 
Công ty sản xuất ra luôn không đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường. Mặc dù, so 
với các đối thủ cạnh tranh việc áp dụng các hoạt động Marketing nhằm tăng khả 
năng tiêu thụ cho sản phẩm của Công ty kém hơn hẳn, nhưng sản phẩm của Công 
ty vẫn được người tiêu dùng biết đến và rất ưa chuộng. Việc sản xuất không đủ 
cung cấp cho thị trường chứng tỏ sản phẩm của Công ty đang có uy tín và ưu thế 
cạnh tranh rất lớn, Công ty không phải tìm kiếm thị trường tiêu thụ cho sản phẩm 
mà tự khách hàng tìm đến với Công ty. Điều này chứng tỏ Công ty đang rất phát 
38 
triển, tuy nhiên cũng còn những mặt tồn tại đòi hỏi Công ty phải có những chính 
sách kịp thời nhằm đảm bảo cho Công ty có thể phát triển lâu dài và ổn định. 
 Thứ nhất: Hiện nay, Công ty vẫn chỉ khai thác trên đoạn thị trường bình 
dân và khu vực tiêu thụ sản phẩm chính là ở Miền Bắc nhưng chủ yếu tập trung ở 
khu vực Hà Nội. Mặc dù, hiện tại lượng cung của Công ty không đáp ứng đủ nhu 
cầu của thị trường nhưng trong tương lai khi năng lực sản xuất của Công ty được 
nâng cao thì với một thị trường hẹp như vậy sẽ gây cho Công ty rất nhiều khó 
khăn trong vấn đề tiêu thụ sản phẩm. 
 Thứ hai: Thị phần của Công ty trong những năm qua đang có xu hướng 
giảm sút (từ 9,45% năm 1999 xuống còn 8,67% năm 2000 cho đến năm 2001 thị 
phần của Công ty chỉ còn 8,02%) nguyên nhân chủ yếu là do sản lượng của Công 
ty không theo kịp được với tốc độ tăng trưởng của ngành bia nhưng điều này cũng 
cho thấy sản phẩm của Công ty đang bị cạnh tranh rất mạnh mẽ. 
 Thứ ba: Do chính sách phân phối sản phẩm đang sử dụng hiện nay nên 
Công ty chưa kiểm soát giá cả của sản phẩm một cách chặt chẽ do đó vào những 
thời điểm khan hiếm bia các đại lý tự do nâng giá lên cao gây ảnh hưởng lớn đến 
uy tín và làm giảm sức cạnh tranh của Công ty trên thị trường. 
 Thứ tư: Hệ thống và chính sách phân phối của Công ty hiện nay còn nhiều 
yếu kém đã gây rất nhiều phiền hà cho các đại lý nhất là các đại lý ở xa. Điều này 
sẽ làm ảnh hưởng lớn tới việc mở rộng thị trường tiêu thụ cho sản phẩm trong 
tương lai của Công ty. 
 Thứ năm: Mặc dù trong thời gian qua Công ty đã không ngừng đầu tư, đổi 
mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như cải tiến hình thức 
mẫu mã, bao bì sản phẩm nhưng sản phẩm của Công ty vẫn còn khá đơn điệu, 
không đủ sức cạnh tranh với các loại bia khác trên thị trường như Tiger, 
Heineken... Thêm vào đó là cơ cấu sản phẩm của Công ty hiện nay chỉ có ba loại 
sản phẩm trong đó sản phẩm chính là bia chai, sau đó là bia hơi, bia lon mặc dù là 
loại sản phẩm có mức lơi nhuận cao nhất trong ba loại sản phẩm trên nhưng lại có 
tỷ trọng rất thấp trong cơ cấu sản phẩm của Công ty. Trong tương lai Công ty cần 
có những chính sách hợp lý nhằm đa dạng hoá về mẫu mã, bao bì cũng như đa 
dạng hoá về sản phẩm để tăng sức cạnh tranh và giảm thiểu mức độ rủi ro trong 
hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Đồng thời Công ty cũng cần quan 
tâm đến việc phát triển loại sản phẩm bia lon do loại sản phẩm có tỷ suất lợi 
nhuận rất cao. 
 Thứ sáu: Hiện tại do quy mô sản xuất của Công ty chưa đáp ứng đủ nhu 
cầu của thị trường, sản phẩm sản xuất ra đến đâu được tiêu thụ ngay đến đó nên 
39 
các hoạt động quảng cáo tiếp thị cũng như công tác nghiên cứu thị trường của 
Công ty chưa cần thiết, nhưng trong thời gian tới đòi hỏi Công ty cần quan tâm 
nhiều đến vấn đề này do mức độ cạnh tranh trên thị trường bia ngày một trở lên 
gay gắt. 
40 
Kết luận 
 Qua thời gian thực tập tại Công Ty bia Hà Nội với những quan sát từ thực 
tế hoạt động sản xuất kinh doanh của một công ty thực tế trên thị trường và với 
những kiến thức được học ở nhà trường em có một số nhận xét như sau về tình 
hình tiêu thụ sản phẩm chung của bất kỳ công ty nào trong nền kinh tế thị tường 
và một số nhận định mang tính cá nhân về hoạt động thực tế về hoạt động tiêu thụ 
sản phẩm của Công Ty Bia Hà Nội như sau. 
 Hoạt động tiêu thụ sản phẩm luôn là vấn đề sống còn đối với các doanh 
nghiệp, đặc biệt là trong cơ chế thị trường hiện nay, tất cả các doanh nghiệp suy 
cho cùng đều hướng tới mục tiêu bán được nhiều hàng hoá, tăng doanh thu nhằm 
tìm kiếm mức lợi nhuận cao, doanh nghiệp nào nắm bắt được nhu cầu của thị 
trường một cách nhanh nhậy và kịp thời doanh nghiệp đó sẽ thành công. 
 Trong bối cảnh hiện nay, nền kinh tế Việt Nam đang đạt được nhịp độ tăng 
trưởng cao, đời sống người dân đang ngày càng được cải thiện đồi hỏi các doanh 
nghiệp sản xuất kinh doanhphải luôn luôn có sự đầu tư, đổi mới không ngừng để 
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. 
 Công ty Bia Hà Nội là một doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường 
cạnh tranh, do đó Công ty cần phải thường xuyên nghiên cứu nhằm phát triển và 
đa dạng hoá sản phẩm để có thể đáp ứng tối đa nhu cầucủa thị trường, từng bước 
khẳng định vị trí của mình trên thị trường để có thể đạt được mức tăng trưởng cao 
cả về quy mô và chất lượng, tạo niềm tin yêu của khách hàng. Song để đạt được 
những thành tựu đó trong cơ chế thị trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay, Công 
ty cần phải lựa chọn cho mình một con đường đi hết sức hợp lý, mà một trong 
những yếu tố quan trọng dẫn đến sự thành công đó chính là nhờ việc tổ chức khoa 
học các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đặc biệt là các hoạt động 
Marketing. Mặc dù hiện nay Công ty chưa thực sự quan tâm đến các vấn đề này 
nhưng trong tương lai để đảm bảo cho Công ty có được sự phát triển ổn định và 
lâu dài, đồng thời nâng cao dần uy tín cũng như vị thế của Công ty trên thị trường 
thì Công ty không thể không quan tâm đến các lĩnh vực hoạt động Marketing. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Luận văn- Quá trình bán hàng của đối thủ so với Công Ty Bia Hà Nội.pdf Luận văn- Quá trình bán hàng của đối thủ so với Công Ty Bia Hà Nội.pdf