Sáu khu vực này chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc .
Đứng đầu danh sách các bạn hàng buôn bán của Trung Quốc trong một thời gian
dài là Hồng Kông(khoảng 45% lượng hàng xuất khẩu của Trung Quốc năm
1994). Đây là cơ sở tái xuất khẩu cơ bản của TQ, trước hết sang Đài Loan, sau đó
là sang các thị trường : Mỹ và Châu Âu. Khoảng 60% lượng hàng xuất khẩu của
Trung Quốc sang Hồng Kông được tiêu thụ ở các nước khác.Khoảng 75% hàng
nhập từ Hồng Kông sang Trung Quốc được sản xuất ở các nước thứ ba. Hơn một
nửa hàng xuất nhập khẩu trong buôn bán Trung Quốc – Hồng Kông là liên kết
sản xuất trên cơ sở gia công- lắp ghép.
26 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2957 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quá trình mở cửa kinh tế đối ngoại của trung quôc từ năm 1978 đến nay - Thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
QUÁ TRÌNH MỞ CỬA
KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA
TRUNG QUÔC TỪ NĂM
1978 ĐẾN NAY : THỰC
TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG
2
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU
PHẦN I KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH NGOẠI THƯƠNG TRUNG QUỐC TRƯỚC KHI MỞ
CỬA
I . Tình hình hoạt động ngoại thương
II. Yêu cầu của việc mở cửa với bên ngoài
PHẦN II QUÁ TRÌNH MỞ CỬA CỦA TRUNG QUỐC TỪ NĂM 1978 ĐẾN NAY
I . Nội dung của chính sách mở cửa
II. Tác động của chính sách mở cửa đối với hoạt động kinh tế đối ngoại của
Trung Quốc
1.Tình hình ngoại thương
a.Cơ cấu xuất khẩu
b.Cơ cấu nhập khẩu
c.Thị trường xuất nhập khẩu
2.Tình hình FDI
3.Tình hình du lịch
III. Những vấn đề đặt ra trong quá trình cải cách
1.Về chính sách
2.Thực tiễn
PHẦN III BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM VÀ KẾT LUẬN
PHẦN I
KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH NGOẠI THƯƠNG
TRUNG QUỐC TRƯỚC KHI MỞ CỬA
3
I.Tình hình hoạt động ngoại thương
Ngoại thương là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân . nó đảm
đương nhiệm vụ trao đổi, giao lưu kinh tế với nước ngoài,góp phần tăng cường và
bảo đảm cơ sở vật chất kĩ thuật,tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia. Với một diện tích mênh mông ở Châu Á , có nguồn tài nguyên vô cùng
phong phú, Trung Quốc là một trong những quốc gia có tiềm năng lớn trong việc
mở rộng hoạt động trao đổi ngoại thương với các nước trên thề giới.
Sau khi nước Trung Hoa mới ra đời, Trung Quốc đã hình thành và xây dựng
một thể chế ngoại thương mới. Trước một nền kinh tế mang tình chất bán thuộc
địa sa sút, lạc hậu và phụ thuộc, cơ cấu ngoại thương cũng đang ở tình trạng phân
tán nhỏ lẻ, trình độ quản lí yếu kém và luôn chịu sự uy hiếp của chính sách “
phong toả, cấm vận” của chủ nghĩa đế quốc, nhà nước Trung Quốc không những
phải tăng cường củng cố sự lãnh đạo của nhà nước chuyên chính dân chủ nhân
dân, giải quyết những vấn đề cơ bản trong việc cải tạo xã hôị chủ nghĩa đối với
nền kinh tế, mà còn phải nhanh chong đẩy mạnh công cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế- xã hội trong nước và mở rông phạm vi trao đổi buôn bán với nước
ngoài. Trong lĩnh vực ngoại thương đã hình thành một thể chế ngoại thương quản
lí tập trung, thực hiện chính sách điều phối thống nhất và nghiêm ngặt, đồng thời
đẩy mạnh công tác cải tạo các cơ sở ngoại thương tư nhân , xây dựng một cơ cấu
hoạt động ngoại thương trực thuộc nhà nước. Từ năm 1957 đến trước năm 1978,
chính sách hoạt đông ngoại thương của Trung Quốc được điều chỉnh, bổ sung
sửa đổi nhiều lần nhằm phù hợp với từng thời kỳ, hoàn cành và điều kiện phát
triển riêng của đất nước. Trong một khoảng thời gian khá dài, thể chế và cơ cấu
ngoại thương của Trung Quốc được duy trì một cách ổn định theo phương thức
đồng bộ: Bộ máy ngoại thương trung ương lãnh đạo và quản lí hoạt động ngoại
thương trong cả nước theo phương châm chính sách và pháp quy của nhà nước.
Nhà nước thực hiện quyền hành chính thông qua các công ty ngoại thương
4
chuyên nghiệp, thực hiện kế hoạch trực tiếp và thu chi thống nhất đối với các đơn
vị, doanh nghiệp ngoại thương ttrong cả nước. Do vậy, đặc trưng cơ bản của thể
chế ngoại thương thời kỳ này là đã thích ứng với cơ sở kinh tế hiện vật và chế độ
công hữu đơn nhất trong thể chế kinh tế kế hoach hoá tập trung.
Trong bối cảch lịch sử lúc đó, thể chế này đã có tác dụng tích cực có lợi cho
việc phân phối, sử dụng các nguồn lực một cách có tập trung, điều hành việc xuất
nhập khẩu một cách thống nhât, bảo đảm cho các hoạt động kinh tế đối ngoại
thực hiện có trọng điểm, tập trung được các lực lượng đơn lẻ thành sức mạnh
tổng hợp nên đã vượt qua được nhiều thử thách trong cạnh tranh mậu dịch quốc
tế
Song cùng với sự phát triển của hoạt động ngoại thương đặc biệt vào những
năm 70, sau khi Trung Quốc đã khôi phục được chiếc ghế ở liên hợp quốc và
trước sự thay đổi mạnh của tình hình kinh tế trong nước và quốc tế, thể chế ngoại
thương trước đây đã bộc lộ những hạn chế và những nhược điểm nghiêm trọng
trong công tác ngoại thương từ lâu nay. Những hạn chế và nhược điểm đó biểu
hiện ở một số mặt sau:
Thứ nhất, trong một thời gian dài nhà nước duy trì chính sách kinh doanh độc
quyền, thống nhất chỉ thông qua các công ty ngoại thương chuyên nghiệp làm cho
tình trạng buôn bán luôn trong thế bị động , không thể phát huy được tình năng
động và sáng tạo trong kinh doanh ngoại thương. Sản xuất của các doanh nghiệp
ngoại thương bị tách hẳn với tiêu thụ tạo ra hình thức buôn bán đơn lẻ, tản mạn
thiếu các kênh tiêu thụ ra thị trường quốc tế.
Thứ hai, doanh nghiệp sản xuất ngoại nhưng không có quyền tự chủ trong sản
xuất kinh doanh, thiếu năng động trong mậu dịch quốc tế, đã gây trở ngại lớn cho
việc mở tộng khả năng và phạm vi hoạt động ngoại thương.
Thứ ba, chính sách quản lí quá nhiều quá chặt đối với công tác ngoại thương
đã hạn chế nhiều tác dụng kinh doanh của ngành ngoại thương. Hình thức can
5
thiệp hành chính, mệnh lệnh đã làm mất tác dụng điều tiết của đòn bẩy kinhtế,
làm giảm sức cạnh tranh trong việc tham gia trao đổi mậu dịch trên thế giới.
Những nhược điểm của một nền ngoại thương được điều hành bằng mệnh
lệnh hành chính, dựa trên cơ sở tự cấp tự túc bế quan tự chủ của Trung Quốc rõ
ràng không phù hợp với xu thế mở rộng quan hệ đối ngoại, hoà nhập kinh tế, tăng
cường mậu dịch và hợp tác trên đà phát triển sôi động trong các quốc gia trên thế
giới. Việc tăng cường sức sống cho toàn bộ thệ thống đối ngoại, nhanh chóng tổ
chức xuất khẩu hàng hoá và nhập khẩu vật tư cần thiết cho sản xuất, tiếp nhận kĩ
thuật và thiết bị tiên tiến trên thế giới đã trở thành vấn đề cấp thiết của Trung
Quốc buộc nước này phải tiến hành mở cửa kinh tế đối ngoại để nó có thể đảm
đương được nhiệm vụ quan trọng của mình cho sự nghiệp xây dựng nền kinh tế
hiện đại của đất nước
II YÊU CẦU CỦA VIỆC MỞ CỬA VỚI BÊN NGOÀI
Phần II Quá trình mở cửa của Trung Quốc từ 1978 đến nay
I Nội dung của chính sách mở cửa
Căn cứ vào đường lối cơ bản của Đảng Cộng Sản (ĐCS) Trung quốc trong
gia đoạn đầu của CNXH, một mặt phải lấy xây dựng kinh tế làm trọng tâm các
công việc khác đều phải phục tùng và phục vụ cho trọng tâm đó, mặt khác phải
kiên trì 4 nguyên tắc cơ bẳn: kiên trì con đường XHCN, kiên trì chuyên chính dân
chủ nhân dân, kiên trì sự lãnh đạo của ĐCS, kiên trì CN Mác-Lê nin tư tưởng
Mao Trạch Đông. Thực tế lịch sử cho thấy chỉ có CNXH mới cứu được Trung
Quốc, chỉ có CNXH mới phát triển được Trung quốc. Bản thân việc thực hiện mở
cửa đối ngoại không phải là mục đích mà chỉ là một biện pháp. Mục đích căn bản
của việc mở cửa đối ngoại là ở chỗ đẩy nhanh phát triển sức sản xuất xã hội, đẩy
nhanh việc thực hiện chiến lược hiện đại hoá, xây dựng CNXH mang màu sắc
Trung quốc một cách tốt hơn.
6
Bắt đầu từ hội nghị trung ương 3 khoá XI 1978 ĐCS Trung quốc,Trung quốc
đã xác lập đường lối lấy xây dựng kinh tế làm trọng tâm, thực hiện cải cách mở
cửa, phát triển kinh tế quốc dân, đẩy mạnh công cuộc xây dựng hiện đại hoá
XHCN và nền kinh tế Trung quốc đã dần dần chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung cao độ sang nền kinh tế thị trường XHCN từ đóng cửa nửa đóng cửa
sang mở cửa, dần dần hoàn thiện cục diệnmở cửa đối ngoại toàn phương vị nhiều
tầng nấc, mở rộng trên nhiều lĩnh vực
Nội dung mở cửa đối ngoại của Trung Quốc còn được nhấn mạnh trong các
báocáo chính trị ở các kì Đại hội tiếp theo.
Đại hội XIII 1987
Năm 1987 Đại hôi ĐCS Trung Quốc lần thứ XIII đưa ra mô hình “nhà nước điều
tiết thị trường thị trường dẫn dắt xí nghiệp” đã làm nổi bật tác dụng của thị trường
và có thể coi đó là giai đoạn quá độ từ thuyết kinh tế hàng hoá XHCN sang thuyết
kinh tế thị trường XHCN.
Do trong một thời gian dài nhà nước chưa quản lí thống nhất các hoạt động xuất
nhập khẩu trên phạm vi cả nước nên trong thời kì này Trung Quốc thực hiện việc
mở rộngcửa ra thế giới nhằm tranh thủ vốn và kĩ thuật.
Đại hội XIV 1992
Trung Quốc bắt đầu thí điểm việc thực hiện thu hút vốn vào ngành buôn bán lẻ ở
5 đặc khu kinh tế “ Thâm Quyến, Chu Hải ,Sán Đầu, Hạ Môn và Hải Nam” và 6
thành phố lớn ở Trung Quốc “Bắc Kinh , Thượng Hải, Thiên Tân,Quảng Châu,
Đại Liên, Thanh Đảo” với 14 công ty.
Trung Quốc đã ban hành chính sách nhằm mở rộng cửa hơn nữa đối với khu vực
miền Trung và miền Tây. Như năm 1996 đã công bố: Thông tư về quyền hạn phê
chuẩn các hạng mục thu hút vôn đầu tư trực tiếp của nước ngoài cho các đơn vị:
Tỉnh, khu tự trị, thành phố và các bộ hữu quan thuộc quốc vụ viện, quy định cho
7
phép các địa phương , các bộ có quyền phê chuẩn mức đầu tư vốn nước ngoài vào
hạng mục từ dưới 10 triệu USD nay nâng lên mức 30 triệu USD .
ở Trung Quốc, từ 1996 đã tiếp thu nghĩa vụ trong điều khoản thứ 8 của hiệp định
tổ chức tiền tệ quốc tế, bắt đầu thực hiện việc chuyển đổi tự do đồng nhân dân tệ
Đại hội XV 1997
Với tư thế mới Trung Quốc càng tích cực hơn nữa đi ra thế giới hoàn thiện hơn
bố cục mở của đối ngoại. Trong báo cáo ở Đại hội XV tổng bí thư Giang
Trạch Dân đã nhấn mạnh “ mở cửa đối ngoại là một quốc sách lâu dài của TQ”.
Đứng trước xu thế toàn cầu hoá về kinh tế, khoa học kĩ thuật Trung Quốc cần
phải tích cực hơn nữa để đi ra thế giới hoàn thiện cục diện đối ngoại trên phương
vị nhiều tầng nấc mở rộng nhiều lĩnh vực, phát triển kinh tế loại hình mở cửa,
tăng cường sức cạnh tranh quốc tế, thúc đẩy việc tôi ưu hoá cơ cấu kinh tế và
nâng cao tố chất kinh tế quốc dân,
Báo cáo cũng đề ra biện pháp nhằm tăng cường hơn nữa trình độ mở cửa đối
ngoại:
Cần phải nâng cao hiệu quả kinh tế làm trọng tâm, cố gắng việc mở cửa buôn bán
đối ngoại: hàng hoá và dịch vụ, tối ưu hoá cơ cấu xuất nhâpk khẩu . Kiên trì chiến
lược chiến thắng trong cạnh tranh bằng chất lượng và đa dạng hoá thị trường,
tích cực khai thác thị trường quốc tế.
Giảm hơn nữa mức thuế quan, thu hút kĩ thuật tiên tiến và thiết bị then chốt, đi
sâu vào cải cách thể chế mậu dịch đối ngoại hoàn thiện hơn nữa môi trường chính
sách, mở rộng quyền kinh doanh mậu dịch đối ngoại của xí nghiệp, hình thành sự
cạnh tranh bình đẳng...tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thông mậu
dịch nhiều bên trên phạm vi toàn cầu.
Cần phải sử dụng vốn nước ngoại hợp lí có hiệu quả. Từng bước thúc đẩy mở cửa
đối ngoại ngành dịch vụ. Đưa vào pháp luật để bảo vệ quyền lợi của xí nghiệp có
8
vốn đầu tư nước ngoài. Thực hiện đãi ngộ quốc dân, tăng cường dẫn dắt, giám
sát, quản lí.
Khuyến khích đầu tư ra nước ngoài, có thể phát huy ưu thế tương đối của Trung
Quốc. Cần sử dụng tốt hơn hai thị trường , hai nguồn vốn trong và ngoài nước.
Hoàn thiện hơn nữa và thực thi pháp luật, pháp quy liên quan tới kinh tế buôn bán
đối ngoại.
Xử lí đúng mối quan hệ giữa mở cửa đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh
sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia.
Cần phải xây dựng đặc khu kinh tế và khu mới Phố Đông Thượng Hải tôt hơn
nữa. Khuyến khích các đặc khu này cần phải phát huy tác dụng: làm mẫu, lan toả
, lôi kéo đối với cả Trung Quốc, tiếp tục phát triển hơn nữa các mặt tạo ra thể chế
mới, nâng cấp ngành nghề,mở rộng cửa...
II. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH MỞ CỬA ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG KINH TẾ ĐỐI
NGOẠI CỦA TRUNG QUỐC
1.Tình hình ngoại thương:
Tính đến cuối 1997 Trung Quốc đã có quan hệ buôn bán với 227 nước và khu
vực trên thế giới, tăng 177 nước và khu vực so với trước khi thực hiện cải cách
mở cửa. Năm 1978, tổng kim ngạch ngoại thương của Trung Quốc mới chỉ đạt
20,6 tỷUSD, đến 1984 đã vọt lên 50 tỷ USD, tăng gấp 2,5 lần so với năm 1978.
Bốn năm sau, năm 1988 tổng kim ngạch ngoại thương tăng gấp đôi năm 1984,
đạt 100 tỷ USD, năm 1994 ngoại thương Trung Quốc lại nêu kỉ lục mới, gấp đôi
năm 1988, đạt 200 tỷ USD, năm 1997, con số đạt tới 235,1 tỷ USD. Tính đến
năm đó mức tăng bình quân hàng năm của kim ngạch ngoại thương Trung Quốc
đạt 15,4 % trong thời kì mở cửa. Năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng
tài chính tiền tệ Châu á, ngoại thương Trung Quốc giảm nhẹ với mức 0.4 % so
với năm trước, tổng kim ngạch đạt 324 tỷ USD trong đó xuất khẩu đạt 283,8 tỷ
9
USD tăng 0,5 %, nhập khẩu đạt 140,2 tỷ USD giảm 1,5%. Như vậy, kim ngạch
xuất nhập khẩu của TQ đã tăng xấp xỉ gần 20 lần trong 20 năm đưa Trung Quốc
từ vị trí thứ 32 lên vị trí cường quốc ngoại thương thứ 10 trên thế giới, chỉ sau:
Mỹ, Đức, Nhât, Anh, Pháp, ý, Canada, Hồng Kông và Hà Lan,từ chỗ chỉ chiếm
0,75% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới tới chỗ chiễm tới 3,3%. Ngoại
thương mấy năm gần đây liên tục xuất siêu, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc tăng
lên nhanh chóng, năm 1979 mới chỉ có 480 triệu USD đến năm 1998 đã đạt 145
tỷ USD , đứng thứ 2 thế giới chỉ sau Nhật Bản
Trong sự phát triển chung của nền kinh tế , kinh tế đối ngoại của TQ đã đạt được
thành quả nhất định, trước hết là do kết quả sản xuất của các ngành cùng với các
chính sách nhất quán và ngày một đồng bộ bắt kịp với xu thế hội nhập với thế
giới.
Trước hết là đẩy mạnh xuất nhập khẩu; xuất nhập khẩu đều tăng nhanh, đến
năm1994 đã đưa đất nước thoát khỏi tình trạng nhập siêu sang xuất siêu và thay
đổi cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu. Thật vậy, nếu năm 1952 chỉ xuât được 0.8 tỷ
USD thì năm 1998 đã xuất được 182,4 tỷ USD, cũng thời gian này, nhập từ 1,12
tỷ USD lên 140,5 tỷ USD, cơ chế hàng công nghiệp chế biến trong giá trị xuất
khẩu từ 49% năm 1980 tăng lên trên 86% năm 1995, thị trường xuất nhập khẩu
của Trung Quốc trải khắp các quốc gia trên thế giới.
Năm 1997 hoạt động ngoại thương Trung Quốc đã đạt được kết quả rất khả quan
xuất khẩu đạt 182,7 tỷ USD xếp thứ 10 nhập khẩu 142,3 tỷ USD xếp thứ 12 thế
giới.
Nền ngoại thương của Trung Quốc còn đạt được sự cải thiện rõ rệt về cơ cấu
hàng hoá xuất nhập khẩu, từ chỗ xuất nhập khẩu hàng cấp thấp là chính chuyển
sang xuất nhập khẩu hàng thành phẩm công nghiệp là chính.
a.Cơ cấu xuất khẩu:
10
Có thể chia cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu của Trung Quốc thành 4 loại như
sau:
Các loại sản phẩm sơ cấp mà chủ yếu là nông sản và khoáng sản
Các sản phẩm công nghiệp nhẹ, bán thành phẩm sử dụng nhiều lao động
Sản phẩm công nghiệp của các ngành sử dụng vốn tập trung(công nghiệp
nặng, hoá chất ...)
Sản phẩm sử dụng kĩ thuật cao công nghệ tiên tiến (điện tử, máy vi tính...)
Trước kia hàng xuất khẩu chủ yếu của Trung Quốc là nguyên liệu khô và các
thành phẩm sử dụng nhiều lao động(nhóm các hàng truyền thống loại 1 và 2) như
: than , dầu mỏ, quần áo, đồ chơi trẻ em, hàng đệt may và thủ công mỹ nghệ. Hiện
nay, Trung Quốc đã coi trọng và bắt đầu tăng nhanh xuất khẩu các thành phẩm có
hàm lượng kĩ thuật cao hơn(nhóm 2-loại 3 và 4) như các sản phẩm hóa chất, điện
tử, máy tính...tỉ trọng các thành phẩm công nghiệp nói chung trong tổng xuất
khẩu đã tăng từ 40,5% năm 1978 lên gần 80% trong những năm đầu thập kỷ 90.
Về phương châm chiến lược, Trung Quốc chia chiến lược xuất khẩu của họ thành
3 giai đoạn:
Giai đoạn 1: chuyển từ xuất khẩu các sản phẩm thô, sơ cấp sang xuất
khẩu các sản phẩm công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động.
Giai đoạn 2: chuyển từ xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp nhẹ và
bán thành phẩm sử dụng nhiều lao động sang xuất khẩu các thành
phẩm công nghiệp cần nhiều vốn mà chủ yếu là các sản phẩm công
nghiệp nặng –hóa chất.
Giai đoạn 3: Tập trung vào coi trọng xuất khẩu các sản phẩm sử dụng
kĩ thuật cao, công nghệ tiên tiến.
Trong những năm tới cơ cấu hàng xuất khẩu của Trung Quốc vẫn là các sản phẩm
công nghiệp nhẹ , công nghiệp dệt và nguyên liệu. Tuy nhiên, xét theo khả năng
11
thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các cơ sở chế tạo máy, tỷ trọng may móc thiết
bị xuất khẩu sẽ tăng đáng kể.
Hiện nay Trung Quốc đang cố gắng điều chỉnh cơ cấu hàng hoá xuất khẩu để
chuyển từ xuất khẩu các sản phẩm dệt, công nghiệp nhẹ sử dụng vốn tập trung kết
hợp từng bước tăng xuất khẩu các sản phẩm có hàm lượng kĩ thuật cao. Thực
hiện mục tiêu này, Trung Quốc đã đề ra các biện pháp như sau:
1. Nâng cao trình độ gia công các sản phẩm sơ cấp, coi trọng xuất khẩu
những hàng hoá có độ tinh xảo cao sử dụng nhiều lao động, những sản
phẩm nông lâm nghiệp, gia tăng tỷ trọng xuất khẩu hàng hoá thành phẩm
2. Tích cực sử dụng kĩ thuật, tri thức, công nghệ mới tăng xuất khẩu những
hàng hoá là sản phẩm của ngành công nghiệp nặng – hoá chất, sử dụng kĩ
thuật cao và đổi mới thiết bị của ngành dêt, công nghiệp nhẹ, chế biến
lương thực, thực phẩm, nâng cao chất lượng và trình độ kĩ thuật của các
hàng hoá xuất khẩu truyền thống.
a. Về xuất khẩu:
Năm 1997, tỷ trọng hàng thành phẩm công nghiệp trong hàng xuất khẩu của
Trung Quốc đã tăng từ 49,7 % năm 1980 lên 86,9 % vào năm 1997, nghĩa là
tăng tới 37 điểm phần trăm. Riêng hàng cơ điện đã trị giá 59,32 tỷ USD chiếm
32,4% tổng kim ngạch xuất khẩu. Công cuộc mở cửa và giao lưu buôn bán của
Trung Quốc ngày càng có ảnh hưởng quan trọng đối với đời sông kinh tế xã
hội của Trung Quốc . Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Trung Quốc đã
tương đương với 36% giá trị tổng sản phẩm trong nước.Cơ cấu hàng xuất nhập
khẩu và cơ cấu thị trường có nhiều thay đổi rõ rệt: số lương hàng thành phẩm
công nghiệp xuất khẩu tăng nhanh nhất là những mặt hàng truyền thống như
quần áo , giày dép, dụng cụ thể thao và các loại hàng thủ công mỹ nghệ...
những mặt hàng này tỉ lệ xuất khẩu mỗi năm tăng 18,5%. Năm 1980 những
mặt hàng nêu trên chiếm 25% trong tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu. Chỉ riêng
12
mặt hàng giầy dép của Trung Quốc xuất sang thị trường tư bản chủ nghĩa( Mỹ,
Nhật, ý, Pháp) đã trị giá 160 triệu USD.
Việc xuất khẩu than và dẩu mỏ tăng nhanh chiếm 21,5% trong tổng giá trị
hàng hoá xuất khẩu. Hoạt động này thu được kết quả trên cơ sở tăng lượng khai
thác và mở rộng thị trường buôn bán. Năm 1987, Trung Quốc đã xuất 27,2 triệu
tán dầu,13,5 triệu tấn than ,trong đó 80% là sang Nhật, 20%, sang Mỹ. Bên cạnh
đó, Trung Quốc còn xuất một số loại nông phẩm sang thị trường Mỹ .úc, Pháp ...
b.Về nhập khẩu: Trong những năm đầu thực hiện mở cửa, Trung Quốc không
thực hiện tự do nhập khẩu nhưng chính sách thương mại của Trung Quốc lại là
nhằm thúc đẩy tiến bộ KHKT và phát triển kinh tế trong nước tăng khả năng xuất
khẩu, tiết kiệm ngoại tệ nên TQ phải lựa chọn những khoản mục nhập khẩu phù
hợp, từ đó duy trì sự cân bằng thương mại.
Chính sách của TQ là ưu tiên nhập khẩu những laọi máy móc và kỹ thuật tiên tiến
phục vụ công cuộc hiện đại hoá nền kinh tế đặc biệt để đáp ứng các yêu cầu phát
triển về năng lượng, giao thông vận tải và xây dựng cơ sở hạ tầng. Ngoài ra
Trung Quốc cũng coi nhập khẩu các loại nhu yếu phẩm và những loại hàng hoá
mà thị trường trong nước thiếu hụt. Bên cạnh đó các chính sách thương mại cũng
thường xuyên được điều chình để thay đổi cơ cấu nhập khẩu, làm cho cơ cấu này
trở nên hợp lý hơn.
Trong những năm 70, cùng với sự phát triển của các mối quan hệ đối ngoại và
nhu cầu phát triển kinh tế quốc dân, khối lượng nhập khầu của Trung Quốc tăng
rất nhanh, đặc biệt trong ba năm liên tiếp 1977-1979.Tổng lượng nhập khẩu của
ba năm này bằng một nửa giá trị nhập khẩu trong cả thập kỷ 70. So với thập kỷ
60, tỷ lệ nhập khẩu tư liệu sản xuất tăng từ 71,6% lên 81%. Tương ứng tỷ lệ nhập
khẩu hàng tiêu dùng giảm từ 28,4% xuống còn 19%. Trong thời gian này, ngoài
máy móc thiết bị, TQ còn nhập nhiều loại nguyên vật liệu và hàng tiêu dùng khác
13
như: thép, nhôm, đồng, cao su,hoá chất công nghiệp, gạo, bông... để phát triển
kinh tế phục vụ chương trình “ Bốn hiệ đại hoá”. Từ năm 1972 đến năm 1979,
TQ đã nhập khẩu 367 lại hang háo với tổng giá trị 13,56 tỷ USD.
Sang thập kỷ 80, cả nước TQ đắm mình trong công cuộc cải cách và xây
dựng kinh tế, với chính sách mở cửa, hoạt động ngoại thương của TQ bước vào
một thời kỳ mới đầy sôi động. Từ năm 1980 đến 1984, khối lượng nhập khẩu của
Trung Quốc tăng 30%. Trong 5 năm (1986-1990) khối lượng nhập khẩu đạt
253,82 tỷ USD, trung bình mỗi năm tăng 15%. Trrong thời gian này, Trung Quốc
rất coi trọng thu hút vốn và kỹ thuật hiện đậi , do vậy nhập khẩu từ các nước công
nghiệp phát triển như : Anh, Pháp, Mỹ,Nhật, Đức chiếm hơn 80% tổng khối
lượng nhập khẩu của Trung Quốc trong những năm 80.
Năm 1996 Trung Quốc nhập khẩu với tổng giá trị là 138,8 tỷ USD, trong đó
tỷ lệ nhập khẩu hàng sơ chế chiếm 28,3%, hàng chế tạo chiếm 81,7%. Trong
hàng chế tạo, nhập khẩu máy móc và thiết bị vận tải chiếm 48,3%.
Nhìn chung hầu hết các sản phẩm nhập khẩu của Trung Quốc trong những
năm đầu thập kỷ 90 đề liên quan đến sử dụng kĩ thuật nước ngoài. Xu hướng này
nằm trong chủ trương coi trọng nhập khẩu kỹ thuật phục vụ các ngành năng
lượng , thép, máy móc, và công nghiệp hoá chất sẽ tiếp tục được duy trì trong
những năm cuối thập kỷ 90 này.
FDI: Muốn phát triển kinh tế Trung Quốc đã thực hiện giải pháp tích cực là tăng
đầu tư. Trong nhiều năm gần đây mức độ tăng vốn đầu tư trung bình hàng năm
xấp xỉ 10%, năm 98 lên tới 15% và dự kiến năm 2000 là 13%. Từ năm 1978 với
Luật đầu tư nước ngoài và các chính sách đồng bộ(theo xếp hạng của thế giới
năm 1999 Trung Quốc đứng thư hai trên toàn thế giới về tạo cơ hội thuận lợi thu
hút vốn đầu tư nước ngoài,sau Mỹ), đã thu hút được nhiều vốn đầu tư của nước
ngoài, tính đến cuối tháng 3/1999 đã có 238.228 dự án FDI được cấp giấy phép ,
14
với tổng vốn đầu tư lên tới 581,2 tỷ USD(năm cao nhất là năm 1993 vối số vốn
FDI lên tới 111 tỷ USD).
Vai trò của FDI ngày càng quan trọng , riêng năm 1997 vốn đầu tư nước
ngoài vào TQ đã góp chiếm 15% tài sản cố định, giá trị sản xuất cỉa các cơ sở có
vốn đầu tư nước ngoài chiếm gần 19% giá trị sản xuất của ngành công nghiệp,
đống góp hơn 13% thuế thu từ các ngành công nghiệp và thương mạu giải quyết
công ăn việclàm cho 17,5 triệu người, bằng 10% lao động trong khu vực phi nông
nhgiệp. Mặc dù tỷ lệ vốn đầu tư thực hiệnkhá cao ,gần 50%; có luật và chính sách
đầu tư nhất quán nên thu hút được vốn của người Hoa ở Hồng Kông, Ma cao,Đài
Loan... lên tới 62% tổng vốn đầu tư nước ngoài và trên 64% vốn đầu tư thựchiện
trong cả thời kỳ 1979-1997. Tuy nhiên một số năm gần đây đầu tư nước ngoài
giảm sút. Năm 1998 FDI* chỉ đạt 54 tỷ USD. Theo tính toán và công bố của Bộ
ngoại thương và kinh tế đối ngoại, từ nay đến năm 2005 Trung Quốc dự tính cần
cầu đầu tư vào trong thiết bị khoảng 1000 tỷ USD để phát triển kinh tế. Đây là
một cơ hội để các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Trung Quốc .
Các nhà đầu tư quốc tế nhận xét răng, cách đây 20 năm , Trung Quốc hoàn
toàn là một “mảnh đất hoang” về đầu tư quốc tế. Song nhờ cố gắng mở rộng
đường để thu hút vốn đầu tư nước ngoài đến nay Trung Quốc đã trở thành mảnh
đất mầu mỡ cho các nhà đầu tư ChâuÁvà thế giới. Từ năm 1979 đến năm 1997,
Trung Quốc đã thu hút được một lượng đầu tư từ bên ngoài đạt 348,35 tỷ USD.
Trong đó 63% là FDI , đạt trên 220 tỷ USD từ 100 nước và khu vực vào trên 20
ngành nghề. Năm 1998, dù có chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ
ChâuÁnhưng lượng đầu tư vào Trung Quốc vẫn tăng, tuy mức tăng không lớn
như mấy năm trước. Các hợp đồng trị giá 52,1 tỷ USD tăng 2/5 so với năm 1997;
mức sử dụng thực tế là 58,9 tỷ USD , trong đó FDI là 45,6 tỷ USD tăng 0,7%.
Nhờ những cố gắng trong thu hút vốn nước ngoài từ năm 1993 Trung Quốc trở
15
thành nước đứng đầu các nước đang phát triển, đứng thứ 2 sau Mỹ và giữ được vị
thế đó trong 6 năm liền.
Sử dụng cốn đầu tư trực tiếp đã trở thành một bộ phận quan trọng, gắn liền với
nềnkinh tế quốc dân của Trung Quốc. Nhất là từ sau 1992 tới nay, lĩnh vực thu
hút FDI ở Trung Quốc không ngừng được mở rộng, quy mô không ngừng được
gia tăng,trình độ khôngngừng được nâng cao. Từ năm 1993-1997 trong 5 năm
liền Trung Quốc là nước thu hút vốn FDi nhiều nhất trong các nước đang phát
triển và thứ hai toàn cầu sau Mỹ. Tính đến cuối năm 1998 đã có 324.712 xí
nghiệp có vốn FDI vào Trung Quốc đã được phê chuẩn. Tổng số vốn FDI thu hợp
đồng là 572,52 tỷ USD, tổng số vốn doanh nghiệp hải ngoại đầu tư trực tiếp đã
được sử dụng trên thực tế là 267,45 tỷ USD. Hiện nay có 145.000 xí nghiệp do
doanh nghiệp hải ngoại đầu tư trực tiếp đã đi vào hoạt động, số người là việc là
17,5 triệu người
Bắt đầu từ năm 1995 Trung Quốc đã thựchiện chuyển đổi từ chính sách ưu
đãi sang chính sách “ đãi ngộ quốc dân” với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và còn mở rộng cửa hơn nữa cho việc thu hút vốn.
3. Du lịch:
Du lịch- ngành “công nghiệp không khói” cũng sớm trở thành ngành mũi
nhọn để thu hút ngoại tệvà giải quyết công ăn việc làm , chưa kể còn nhằm mục
đích giới thiệu cho thế giới về một đất nưcớ có nhiều danh lam thắng cảnh, một
chế độ chính trị XHCN theo kiểu Trung Quốc. Năm 1980 Trung Quốc mới có 5,7
triệu khách du lịch, trong đó khách du lịch nước ngoài là 53 vạn, Hoa kiều là 5,3
vạn, đông nhất là bà con ở Hồng Kông, Macao,Đài Loan về thăm lên tới 5,1 triệu;
17 năm sau khách du lịch đã lên tới 57,6 triệu trong đó người nước ngoài là 7,6
còn là 50 triệu bà còn ở Hồng Kông, Macao, Đài Loan... Thu nhập từ du lịch
năm 1980 mới có 617 triệu USD thì năm 1997đạt tới 12 tỷ USD.
16
Trước khi thực hiện cải cách – mở cửa, Trung Quốc là một quốc gia khép kín
về mọi mặt, không những không mở cửa giao lưu kinh tế mà còn hạn chế khách
nước ngoài đến thăm. Năm 1978 trên đất nước mênh mông đầy danh lam thắng
cảnh và các di tích lịch sử văn hoá lại là quê cha đất tổ của mấy chục triệu người
Hoa và Hoa Kiến, vậy mà chỉ đón có 1,89 triệu du khách với thu nhập vẻn vẹn
chỉ có 260 triệu USD. Nhờ phát huy tiềm năng to lớn và phong phú, ngày nay
ngành “ công nghiệp không khói” của Trung Quốc đã trở thành một trong những
ngành có nhịp độ tăng trưởng nhanh nhất. Số người đến thăm Trung Quốc năm
1997 là 57,588 triệu lượt người, tăng 31 lần so với 1978, số ngoại tệ thu đạt 12,1
tỷ USD.
Trung Quốc đã từ một nước kém cỏi về mở cửa du lịch đã trở thành một nưcớ
đứng thứ 8 trên thế giới về thu nhập do du lịch mang lại, chỉ sau các nước: Mỹ,
Ý, Tây Ban Nha, Pháp, Anh, Đức, Áo.
Ngoài ra du lịch cũng là một trong những thành tựu về mở cửa đối ngoại của
Trung Quốc với chủ trương mở cửa đón khách du lịch nước ngoài để thu ngoại tệ.
Năm 1978 mới chỉ có 1,8 triệu lượt khách nhập cảnh vào du lịch Trung Quốc
nhưng đến năm 1997 đã lên tới 57,588 triệu lượt người, tăng 31 lần vớimức tăng
bình quân hàng năm là 20%. Năm 1998 mức doanh thu ngoại tệ từ ngành này đạt
12,6 tỷ USD, tăng 45 lần so với năm 1978, mức tăng trung bình hàng năm là
22,4%. Thời gian 1978-1998 thu ngoại tệ từ du lịch của TQ đã đứng hàng thứ 7
trên thế giới.
TQ cũng mở rộng cửa cho người Trung Quốc ra nước ngoài du lịch. Năm
1997 công dân Trung Quốc xuất cảnh đạt 8,1 triệu lượt người, tăng gấp 4 lầ so
với năm 1978.
Hiện nay ngành du lịch quốc tế Trung Quốc được liệt vào danh sách những
nước du lịch lớn của thế giới.Ví như, đón tiếp khách quốc tế của TQ đã đứng thứ
17
sáu thế giới, còn mức thu ngoại tệ từ du lịch đã từ thứ 41(1978) vươn lên vị trí số
8 trên thế giới.
Đi đôi với sự phát triển của nganh du lịch, trong cả nước đã xây dựng và đưa
vào hoạt động hơn 5.200 khách sạn với hơn 700 ngàn phòng, doanh thu đat trên
80 tỷ NDT(khoảng trên 10 tỷ USD) ngoài ra hàng năm số khách du lịch trong
nước cũng lên tới hàng chục triệu lượt người.
Hai mươi năm mở cửa đối ngoại ngành du lịch Trung Quốc đã trở thành một
trong những ngành phát triển sống động nhất của nền kinh tế quốc dân, trở
thành ngành mới tạo ra ngoại tệ cho Trung Quốc.
III Những vấn đề đạt ra trong quá trình cải cách:
1.Về chính sách:
Thứnhất: Cùng với quá trình cải cách – mở cửa đã tạo nên sự phát triển
kinh tế chênh lệch giữa các vùng ở TQ do nguyên nhân về lịch sử, điều
kiện tự nhiên... Cộng thêm sự khác nhau về chính trị chính sách cải cách
mở cửa đã dẫn đến tình trạng hết sức mất cân đối về phát triển kinh tế ở
các vùng của Trung Quốc.
Theo tài liệu thống kê của Trung Quốc, trong hai chục năm qua tổng giá
trị sản xuất quốc nội ở khu vực miền Trung từ 31% hạ xuống còn 27,5%,
khu vực miền Tây từ 16,5% giảm còn 14,1% còn khu vực miền Đông thì
từ 52,2% nâng lên 58,3% so với cả nước. Nếu tính tổng giá trị sản xuất
bình quân trong nước thì sự chênh lệch giữa các vùng lại càng rõ ràng hơn.
Về phát triển buôn bán đối ngoại thì vùng ven biển phát triển nhanh hơn
ku vực miền Trung và miền Tây.
Thứ hai: Về kết cấu ngành nghề của vốn đầu tư nước ngoại tại Trung
Quốc còn chưa hợp lý. Trong tổng số vốn đầu tư của nước ngoại tại TQ thì
phần lớn đầu tư vào ngành công nghiệp(ngành nghề thứ II) còn đầu tư vào
18
nông nghiệp (ngành nghề thứ I) và ngành dịch vụ(ngành nghề thứ III) hãy
còn khá khiêm tốn.
Trong ngành nghề thứ II thì phần lớn đầu tư vào ngành tập trung nhiều lao
động còn đầu tư ít vào ngành tập trung nhiều kĩ thuật và vốn, dẫn đến tình
trạng Trung Quốc phần lớn nhập nguyên liệu để gia công lắp ráp còn ít
những hạng mục kĩ thuật cao và mới. Ngành gia công thường thường thì
tăng nhanh, ngành kĩ thuật cao thì tăng chậm.
Thứ ba: Một số ngành công nghiệp dân tộc, một số mặt hàng của Trung
Quốc ở vào thế bất lợi cạnh tranh ở trên thị trường.
Trung Quốc mở cửa đối ngoại nhằm thu hút vốn đầu tư của nước ngoài,
các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có nhiều ưu thế hơn so với các cí
nghiệp sở hữu nhà nước như về phương diện: vốn, kĩ thuật, tiêu thụ,
thông tin...Trung Quốc trước đây không đủ sức cạnh tranh với các công ty
có vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là những công ty xuyên quốc gia; có
những sản phẩm của một số xí nghiệp vốn nước ngoài hầu như lũng đoạn
thị trường Trung Quốc. Khoảng từ 20-40% thị trường của một số ngành ở
Trung Quốc đã bị các nhãn hiệu vốn đầu tư nước ngoài chiếm lĩnh, các kĩ
thuật chủ yếu cũng bị các nhà buôn nước ngoài nắm giữ.
Với tình trạng nêu trên đã gây nên một áp lực lớn đối với những xí nghiệp
sở hữu nhà nước và xí nghiệp tư nhân ở Trung Quốc .
Thứ tư: Khi mở cửa , Trung Quốc lại bị bất lợi về quản lý, chưa hoàn thiện
đầy đủ những biện pháp và chính sách hữu quan.
Thời kỳ đầu cải cách – mở cửa còn tồn tại nhiều vấn đề như nhập khẩu mù
quáng, trùng lặp, kết cấu bât hợp lý về thu hút vốn nước ngoài phiền hà
về thủ tục hành chính, trật tự buôn bán xuất nhập khẩu hỗn loạn.
19
Một số biện pháp và chính sách của Trung Quốc còn có nhiều khoảng
cách xa so với thông lệ quốc tế, chưa thích hợp với nhu cầu phát triển mở
cửa đối ngoại.
Thứ năm: Sức cạnh tranh quốc tế của Trung Quốc còn thấp . Trong quá
trình cải cách mở cửa đối ngoại, sức cạnh tranh mang tính tổng hợp quốc
tế tuy được nâng cao hơn nhưng nhìn chung còn lạc hậu, có một số lĩnh
vực chưa có gì lạc quan ví như: sức cạnh tranh về xuất khẩu của Trung
Quốc xếp hàng 33 của thế giới, xếp thứ 30 về sức cạnh tranh mặt hàng hối
đoái, xếp 42 sức cạnh tranh quốc tế về hệ thông tài chính tiền tệ, xếp thứ
31 sức cạnh tranh mở cửa quốc tế. Nhìn chung sức cạnh tranh quốc tế của
Trung Quốc còn chưa cao.
* Các chính sách cơ bản:
Trong thời gian tới TQ sẽ tăng cường các hoạt động mở mang thị trường theo
nhiều phương vị, nhiều tầng nấc, nhiều phương thức mà trọng tâm là đa dạng hoá
thị trường với trọng điểm là khu vực kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương(APEC)
và các nước lân cận. Trước mắt Trung Quốc sẽ thực hiện các chính sách cơ bản
như sau:
1) Tăng cường hợp tác theo chiến vì kinh tế thương mại với các
nước phát triển, giảm bớt sự lệ thuộc vào từng nưcớ riêng lẻ để phân
tán các yếu tố rủi ro
2) Đẩy mạnh phát triển một cách ổn định các quan hệ thương mại với
Hồng Kông,Macao, Đài Loan
3) Đẩy mạnh khai thác thị trường các nước đang phát triển
4) Mở rộng mậu dịch biên giới
5) Tiếp thu cải cách cơ chế quản lí ngoại thương, tăng cường sức cạnh
tranh của hàng Trung Quốc , đồng thời đẩy nhanh tiến trình hội nhập
với khu vực và thế giới.
20
2. Thực tiễn:
Thực tiễn 20 năm mở cửa đối ngoại của TQ đã chứngminh rằng: mở cửa đối
ngoại là con đường để Trung Quốc thoát khỏi nghèo nàn và lạc hậu để trở thành
nươớ giàu mạnh. Trung Quốc muốn giàu mạnh hơn nữa cần phỉa tiếp tục kiên trì
mở cửa đối ngoại để hoà nhập với các dân tộc trên thế giới.
Mở cửa đối ngoại không phải là sự tính toán nhất thời mà là quốc sách cơ bản lâu
dài . Vị kiến trúc sư của cải cách mở cửa ở Trung Quốc : Đặng tiểu Bình, lúc
sinh thời đã nói: nếu như chính sách mở cửa của TQ đến đầu thế kỷ tới mà không
đổi như vậy đến nửa thế kỷ sau việc giao lưu kinh tế của Trung Quốc với quốc tế
càng trở nên nhộn nhịp hơn, càng dựa vào nhau hơn.
Chính sách mở cửa đối ngoại của Trung Quốc được đề xuất từ Hội nghị
TƯIII khoá XI(12-1978) hưng qua các kỳ đại hội, đặc biệt kì đại hội gần đây
nhất, Đại hội XV(1997) vẫn tiếp tục khẳng định : Mở cửa đối ngoại là một quốc
sách cơ bản lâu dài của Trung Quốc.
Lẽ đương nhiên, người Trung Quốc cũng tỉnh táo để tự nhận thức được rằng :
Trung Quốc trong quá trình mở cửa đối ngoại bên cạnh cơ hội cần phải đón lấy,
phải đứng trước những thách thức với áp lực hết sức nặng nề đồng thời còn phat
chịu những rủi ro nhất định.
Thế giới hiện nay đang phát triển theo xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá về
kinh tế là cho mỗi quốc gia có sự phát triển đan xen phức tạp hơn giữa trong nước
và ngoài nước .
Mặt trái của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Đông Nam Á (1997) đã
mách bảo cho người Trung Quốc cần phải tăng cường phòng ngừa các loại rủi ro
từ bên ngoài đểduy trì an ninh kinh tế cho quốc gia. Xuất phất từ thực tiễn của hai
thập niên mở cửa kinh tế đối ngoại và sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế vĩ mô
của Trung Quốc để xem xét, thì TQ còn nhiều mặt chưa thích ứng với yêu cầu
phát triển của thị trường quốc tế. Cho nên Trung Quốc một mặt phải kiên trì mở
21
cửa đối ngoại, mặt khác phải tiếp tục kiên trì cải cách. Cải cách đòi hỏi phải tiếp
tục mở cửa và mở cửa cần phải tiếp tục cải cách.
Trung Quốc hoàn toàn có cơ sở để tin rằng, bước sang thế kỷ tới xu thế mở
cửa còn mở rộng hơn nữa để đi ra thế giới, hướng tới tương lai. Đây là lời kêu gọi
của thế kỷ mới- thế kỷ 21 và đây cũng là sự phát triển tất yếu của lịch sử.
KẾT LUẬN
Những thành tựu được ghi nhận của TQ trong thời kỳ cải cách – mở cửa, hiện
đại hoá đất nước đã thể hiện sức sống của CNXH, là một thực tế sinh động làm
tiêu tan ảo tưởng của những kẻ cho rằng “ chủ nghĩa cộng sản đã cáo chung” sau
thất bại của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu, bác bỏ luận điểm vũ đoán của những
người cho rằng CNXH không thể tạo ra tốc độ phát triển nhanh về kinh tế xã hội
bằng CNTB.
Tuy nhiên, xây dựng CNXH là một sự nghiệp mới mẻ, đòi hỏi sự sáng tạo
không ngừng và nỗ lực vượt bậc giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình
phát triển.
Hiện nay Trung Quốc đã hội tụ được những nhân tố phát triển ở mức chưa
từng có trong 50 năm qua.Trung Quốc đã chuẩn bị sẵn hành trang đi vào thế kỷ
21. Nhưng tuy vậy khó khăn và thách thức trên chặng đường đổi mới đối với
Trung Quốc cũng không phải là nhỏ. Một mặt phải giải quyết những vấn đề đã
nảy sinh và tồn đọng trước đây: cơ cấu kinh tế chưa hợp lý, sức cạnh tranh chưa
mạnh; khu vực kinh tế nhà nước sản xuất kinh doanh hiệu quả chưa cao; nông
nghiệp yếu kém; dân số quá đông so với tài nguyên và đất trồng, lao động dư
thừa nhiều, sức ép việc làm lớn; tình trạng tham nhũng và tệ nạn xã hội vẫn còn ở
mức nghiêm trọng; trình độ phát triển kinh tế văn hoá không cân bằng giữa các
khu vực, khoảng cách chênh lệch về mức sống vẫn còn kéo dài giữa các tầng lớp
xã hội... Mặt khác, cải cách thể chế và phát triển kinh tế ở TQ đang đi vào chiều
sâu, trong bối cảnh kinh tế thế giới trong thế kỷ 21 phát triển theo chiều hướng trí
22
tuệ hoá, toàn cầu hoá, cạnh tranh quốc tế sẽ diễn ra gay gắt , chủ yếu dựa vào
khoa học kỹ thuật. Về chính trị đối nội, những vấn đề mới về dân tộc và tôn giáo
đang nảy sinh. Về chính trị đối ngoại, sau khi CNXH sụp đổ ở Liên Xô và Đông
Âu, các thế lực thù địch chuyển mục tiêu chống phá chủ yếu sang các nước
XHCN Đông Á.
Tóm lại, nhiều vấn đề cần phải giải quyết, nhiều khó khăn cần vượt qua trên
con đường hướng tới thế kỷ mới. Nhưng chân trời đã rộng mở, Trung Quốc đã
chuẩn bị điều kiện và quyết tâm hoàn thành công cuộc hiện đại hoá XHCN trong
nửa đầu thế kỷ 21.
Xu hướng mở cửa trên thế giới đòi hỏi Trung Quốc phải tiến hành mở cửa với
bên ngoài.
Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, bất kỳ nước nào muốn phát triển
đều phải có mối liên hệ chặt chẽ về sản xuất và tiêu thụ với thị trường thế giới.
Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai(năm 1945) đến nay, xu hướng mở cửa trên thế
giới được biểu hiện ở các mặt sau đây:
Thứ nhất, do sự thách thức của cách mạng khoa kĩ thuật và sự thay đổi đột
biến của sức sản xuất làm cho nhiều nước quan tâm tới tiến trình phát triển của
lịch sử thế giới. Để tránh tình trạng phải tụt hậu nhiều nước đã coi việc tham dự
vào tiến trình của thế giới là quốc sách quan trọng của nước mình.
Thứ hai, việc quốc tế hoá về lao động và sản xuất đã thúc đẩy mối quan hệ qua lại
một cách chặt chẽ hơn giữa các nước và khu vực trên thế giới, xu hướng quốc tế
hoá và khu vực hoá kinh tế ngày càng tăng .
Thứ ba, để rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển,nhiều nước đang phát
triển đã tăng cường hợp tác, tránh xung đột lẫn nhau nhằm thúc đẩy sự phát triển
lành mạnh của quan hệ kinh tế quốc tế.
23
Thứ tư, gần đây, nhiều nước tư bản đã nới lỏng chính sách cấm vận kinh tế và
nhiều nước XHCN đã đổi mới về hợp tác quốc tế, khiến cho hợp tác quốc tế hiện
nay trở thành nhu cầu của nhiều nước.
Thứ năm, trong thời đại hiện nay, mỗi nước muốn phát triển phải dựa vào sự phát
triển của nền kinh tế thế giới, xu thế này buộc các nước phải đi vào thời kỳ mở
cửa.
Thứ sáu, cuối những năm 70 trở đi có xu hướngcải tổ và mở cửa ở nhiều nước
SHCN, nhằm chuyển đổi nền kinh tề từ tập trung sang nền kinh tế thị trường.
Thứ bảy, sau cách mạng văn hoá, Trung Quốc đã chú trọng đến mở cửa với bên
ngoài, chỉ tính riêng trong năm 1978 có tới 13 vị lãnh đạo cấp cao của Trung
Quốc với 21 lần đi thăm và khảo sát ở 51 nước trên thế giới, riêng Đặng Tiểu
Bình đã bốn lần thăm 8 nước.
Thông qua các chuyến tham quan và khảo sát đó, nhiều vị lãnh đạo Trung Quốc
đã có nhận thức mới về xu thế phát triển của thế giới như sau:
Trong thời đại hiện nay, mối quan hệ kinh tế quốc tếngày càng chặt chẽ, bất cứ
nước nào muốn phát triển đều cần phải mở cửa, xây dựng CNXH trên cơ sở còn
lạc hậu như Trung Quốc càng đòi hỏi phải chú trọng hơn nữa sự giao lưu và hợp
tác về kinh tế, kỹ thuật với bên ngoài, cố gắng thu hút thành quả văn minh của thế
giới, nhằm từng bước thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển, bế quan toả
cảng(đóng cửa) chỉ ngày càng lạc hậu hơn.
Tại Hội nghị TW 3 khoá XI(tháng 12-1978) TQ đưa ra chính sách làm cho nền
kinh tế sống động và mở cửa với bên ngoài nhằm thực hiện bốn hiện đại đất nưcớ
vào giữa thế kỷ tới,chẳng những phù hợp với đòi hỏi bức xúc ở TQ mà còn hợp
với xu thế mở cửa trên thế giới của thời đại hiện nay.
Lựa chọn thị trường:
24
Lựa chọn một cách hợp lý, đề xuất và thực thi chiến lược thị trường xuất khẩu
đúng đắn là một trong những khâu quan trọng làm tăng mức xuất khẩu của Trung
Quốc trong hai thập kỷ qua. Quá trình đẩy mạnh xuất khẩu của Trung Quốc trên
thực tế là quá trình khai thác thị trường theo hai hướng:
Tìm kiếm thị trường mới
Tăng mức xuất khẩu trên các thị trường hiện có
Trung Quốc cho rằng hiện nay họ cần tăng mức xuất khẩu bằng mọi cách, nhưng
cố gắng tránh sự tập trung quá mức vào một thị trường riêng nào đó như Mỹ hay
Nhật, tức là Trung Quốc phải đa dạng hoá thị trường xuất khẩu để đảm bảo xuất
khẩu tăng nhanh và ổ định.
Trong hoàn cảnh triển khai kinh tế thị trường hơi muộn TQ luôn phải thay đổi,
điểu chỉnh linh hoạt các chính sách để có một chiến lược thị trường có hiệu quả.
Về đại thể, có thể chia thị trường xuất khẩu của Trung Quốc ra thành bốn nhóm
nước và lãnh thổ.
1. Khu vực Hồng Kông, Macao(Trước khi hai khu vực này trở vể TQ)
2. Các nước nhóm A( Các nước phát triển)
3. Các nước nhóm C (các nước đang phát triển, trừ NICs
4. Các nước SNG và Đông Âu.
Hiện nay các nước thuộc nhóm A là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung
Quốc , chiếm khoảng 40% tổng kim ngạch xuất khẩu. Thứ hai là khu vực Hồng
Kông, Ma Cao chiếm khoảng 33%, các nước thuộc nhóm C chiếm 14% còn các
nước SNG và Đông Âu chiếm 9%.
Ngay từ khi mở cửa, TQ đã chủ trương tăng cường quan hệ buôn bán với các
nước và vùng lãnh thổ phát triển cao về công nghiệp. Năm 1980, khu vực các
nước công nghiệp phát triển chiếm khoảng 55% doanh số ngoại thương của
Trung Quốc . Tỷ lệ này đang suy giảm dần: năm 1987 còn 50%, năm 1990 còn
45,6% bù vào đó là thị trường các nước đang phát triển.
25
Về mặt địa lý thị trường, hàng xuất khẩu của Trung Quốc chủ yếu được đưa sang
6 khu vựclà:
1. Hồng Kông, Ma Cao 4. Tây âu
2. Nhật Bản 5. SNG và Đông Âu
3. Bắc Mỹ 6. Đông Nam Á
Sáu khu vực này chiếm khoảng 80% tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc .
Đứng đầu danh sách các bạn hàng buôn bán của Trung Quốc trong một thời gian
dài là Hồng Kông(khoảng 45% lượng hàng xuất khẩu của Trung Quốc năm
1994). Đây là cơ sở tái xuất khẩu cơ bản của TQ, trước hết sang Đài Loan, sau đó
là sang các thị trường : Mỹ và Châu Âu. Khoảng 60% lượng hàng xuất khẩu của
Trung Quốc sang Hồng Kông được tiêu thụ ở các nước khác.Khoảng 75% hàng
nhập từ Hồng Kông sang Trung Quốc được sản xuất ở các nước thứ ba. Hơn một
nửa hàng xuất nhập khẩu trong buôn bán Trung Quốc – Hồng Kông là liên kết
sản xuất trên cơ sở gia công- lắp ghép.
Từ năm 1993,bạn hàng lớn nhất của Trung Quốc là Nhật Bản( buôn bán hai chiều
đạt 39,34 tỷ USD). Thứ hai là Hồng Kông (32,54 tỷ USD) và tiếp theo là Hoa
Kỳ(27,65 tỷ USD). Buốn bán gián tiếp TQ- Đài Loan (14,39 tỷ USD) đứng thứ
tư.
Năm 1995, các bạn hàng lớn nhất của Tq vẫn là Nhật Bản , Hồng Kông,
Mỹ,EU,ASEAN, Đài Loan. Tổng kim ngạch thương mạu của Trung Quốc với 7
bạn hàng này lên tới 266,52 tỷ USD(1995) chiếm 94,9 % tổng kim ngạch thương
mại của Trung Quốc . Trong số này, Nhật bản là bạn hàng lớn nhất còn TQ là bạn
hàng quan trọng thứ hai của Nhật.Quan hệ thương mại Trung Quốc –Nhật lớn thứ
tư trên thế giới, sau các quan hệ Mỹ- Canada, Mỹ- Nhật,Pháp - Đức, với khối
lượng57,8 tỷ USD(năm 1995). Thứ hai sau Nhật là Hồng Kông đạt 44,55 tỷ
USD, TQ- EU :40,34 tỷ USD; TQ- ASEAN : 18,4 tỷ USD; TQ- Đài Loan: 17,88
26
tỷ USD; TQ- Hàn quốc: 16,98 tỷ USD; TQ- Mỹ la tinh: 6 tỷ USD và TQ- Châu
Phi: 4 tỷ USD.
Cho đến nay các thị tửờng Bắc Mỹ,Đông Nam á và Tây Âu vẫn được xem là 3
trung tâm mậu dịch lớn nhất của thế giới. Các thị trường này có nhiều cơ hội và
điều kiện mậu dịch rất tốt. Trung Quốc coi các thị trường này là trọng điểm cần
tiếp tcụ khai thác. Còn các thị trường cấp hai khác có tiềm lực lớn như Đông Âu,
Mỹ la tinh , Trung Đông là những trọng điểm mà TQ cần coi trọng khai thác
trong thời gian tới.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Luận văn- QUÁ TRÌNH MỞ CỬA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI CỦA TRUNG QUÔC TỪ NĂM 1978 ĐẾN NAY - THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG.pdf