Luận văn Quá trình Reforming xúc tác
Sau khi đi ra khỏi thiết bị, chất xúc tác bị stripping bởi hơi nước được phun
vào ở phần dưới lò phản ứng chất xúc tác tự chuyển dần theo đường ống vào lò tái
sinh thứ nhất, vì sau khi tham gia phản ứng trong ống nâng Riser nó đã bị ngộ độc,
từ màu trắng đục đã trở thành màu đen. Hơi nước có tác dụng loại hydrocacbon
còn lẫn trong lớp bột xúc tác. Vì lý do đó vùng chất xúc tác ở phần dưới lò phản
ứng có tên là vùng stripping. Sự di chuyển của chất xúc tác trong những đường
ống nối đáy lò phản ứng với đáy lò tái sinh xảy ra được nhờ ba tác động: ống nối
nằm nghiêng khá dốc, bột chất xúc tác rất mịn và dòng hơi nước được phun vào
liên tục tại những vị trí cần thiết của đường ống. Kết quả là dòng bột chất xúc tác
bay trong đường ống. Tốc độ di chuyển của chất xúc tác được điều chỉnh nhờ van
đặt trên đường ống sao cho lớp chất xúc tác trong vùng stripping có độ dày ổn
định.
15 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3730 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Luận văn Quá trình Reforming xúc tác, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Luận văn
Quá trình Reforming xúc tác
Nguyên nhân gây ngộ độc xúc tác:
Thay đổi tính chất của xúc tác khi làm việc:
Sự thay đổi xúc tác trong quá trình reforming xúc tác thường là các tính chất vật lý
cùng với sự tiếp xúc với các độc tố ở nhiệt độ cao. Sự thay đổi được phân ra hai
loại sau:
Thay đổi tính chất tạm thời: do sự tạo cốc hay do ngộ độc thuận nghịch bởi
các hợp chất của O, N, S.
Thay đổi tính chất vĩnh viễn: là những thay đổi không có khả năng tái sinh
được nữa.
Những thay đổi trên sẽ làm lão hóa và giảm tuổi thọ của xúc tác.
Sự gây ngộ độc bởi các độc tố:
Các hợp chất hữu cơ chứa S, N, O và các kim loại nặng là những chất độc
đối với xúc tác reforming.
Gây ngộ độc bởi các hợp chất lưu huỳnh:
Các hợp chất lưu huỳnh trong nguyên liệu làm giảm hoạt tính của xúc tác
Pt, ảnh hưởng xấu đến chức năng dehydro và dehydro vòng hóa.
Pt + H2S =PtS + H2
Từ đó, chức năng quan trọng nhất của xúc tác là dehydro, dehydro đóng
vòng hóa đã bị đầu độc. H2S có tính axit nên còn gây ăn mòn thiết bị.
Ngoài ra còn làm biến đổi Al2O3 tạo thành kết tủa sunfat nhôm Al2(SO4)3.
Mercaphtan > sunfit > thiophen > H2S > S nguyên tố.
Khi hàm lượng lưu huỳnh trong nguyên liệu tăng thì hiệu suất và chất lượng xăng
sẽ giảm khi đó cần phải nâng tỷ lệ H2/RH.
Yêu cầu hàm lượng lưu huỳnh trong nguyên liệu tuỳ thuộc vào loại xúc tác
sử dụng:
Đối với xúc tác monométallique: hàm lượng lưu huỳnh phải nhỏ hơn 10
15 ppm.
Đối với xúc tác bimétallique: hàm lượng lưu huỳnh phải nhỏ hơn 1 ppm.
Gây ngộ độc bởi các hợp chất nitơ:
Trong điều kiện reforming:
Các hợp chất nitơ hữu cơ
NH3 + Cl2 = NH4Cl
Làm giảm chức năng axit của chất xúc tác
NH4Cl lại dễ bay hơi trong vùng phản ứng làm tăng nhiệt độ thiết bị.
NH4Cl dễ kết tinh ở những phần lạnh hơn của hệ thống, gây hư hỏng thiết
bị:
Hàm lượng nitơ cho phép trong nguyên liệu phải bằng hoặc nhỏ hơn 1 ppm.
Ảnh hưởng của nước:
Sự có mặt của nước trong nguyên liệu sẽ làm giảm tính acid của xúc tác và
gây ăn mòn thiết bị ở điều kiện vận hành.
Hàm lượng nước trong nguyên liệu <4 ppm.
Ảnh hưởng của các hợp chất kim loại nặng:
Các kim loại nặng ở đây là Cu, As, Hg, Pb, Si...sẽ là những chất gây ngộ
độc xúc tác vĩnh viễn, không có khả năng tái sinh được.
Hàm lượng các kim loại này trong nguyên liệu <1 ppb.
Ảnh hưởng của hàm lượng olefin và cốc:
Olefin dễ bị oxy hoá tạo nhựa và thúc đẩy nhanh quá trình tạo cốc, che phủ
các tâm acid làm giảm hoạt tính xúc tác.
Hàm lượng <2 ppm.
Phương pháp tái sinh xúc tác:
- Phương pháp oxy hóa (phương pháp đốt): Cốc lắng đọng trên bề mặt chất
xúc tác được loại bỏ bằng cách đốt cháy trong dòng không khí pha loãng với Nitơ
ở nhiệt độ 350 – 500oC. cần chú ý để tránh hiện tượng quá nhiệt cục bộ làm giảm
bề mặt, giảm độ bền cơ học của chất mang hoặc làm tăng quá trình thiêu kết làm
giảm độ phân tán kim loại.
Chu kỳ tái sinh xúc tác phụ thuộc vào điều kiện vận hành hệ thống, nhưng thường
khoảng 6 tháng một lần. Sau mỗi lần tái sinh, hoạt tính xúc tác trở về trạng thái
ban đầu, nhưng sau nhiều chu kỳ tái sinh xúc tác sẽ già hóa và giảm khả năng xúc
tác. Việc tái sinh xúc tác sẽ trở nên thường xuyên hơn., cho đến khi cần phải thay
thế xúc tác mới. Thời gian tồn tại của xúc tác reforming thường khoảng vài năm.
Quá trình đốt cốc được biểu diễn bằng phưong trình sau : CnHm + O2 →
CO2 + H2O + Q
Đây là quá trình tỏa nhiệt, nhưng để khỏi ảnh hưởng đến chất lượng xúc tác cần
giảm thiểu lượng nhiệt tỏa ra ( ∆T→ 0oC ). Điều này cần thiết vì nhiệt độ cao
làm giảm diện tích bề mặt và có thể làm thay đổi pha của oxyt nhôm Al2O3, nhiệt
độ cao cũng làm xảy ra quá trình thiêu kết làm giảm độ phân tán của Pt.
Trong công nghệ CCR (tái sinh xúc tác liên tục) quá trình oxy hóa được thực hiện
trong vùng đốt (Burn Zone).
- Phương pháp khử: Thực tế cho thấy, các hợp chất lưu huỳnh không được
loại bỏ hoàn toàn bằng quá trình oxy hóa, còn tồn tại chủ yếu các hợp chất dạng
sunfat. Phương pháp khử được tiến hành nhằm loại bỏ triệt để các dạng hợp chất
này và.các kim loại tạp có hại trong xúc tác, quan trọng hơn cả
là để khử Pt oxyt về dạng Pt đơn chất.
Trong công nghệ CCR, quá trình khử xảy ra tại vùng khử
(Reduction Zone).
- Phương pháp clo hóa: Trong quá trình làm việc độ axit của xúc tác
giảm, một phần do cốc lắng đọng che phủ bề mặt oxit nhôm, một phần do lượng
clo trong xúc tác giảm do ảnh hưởng của H2O trong nguyên liệu và trong khí tuần
hoàn. Clo cũng có thể mất do cuốn theo sản phẩm phản ứng.
Do đó cần phải bổ sung axit cho hệ xúc tác bằng cách bơm thêm một lượng nhỏ Cl
hữu cơ. Lượng Cl trên xúc tác được giữ ở mức 1% khối lượng.
Qui trình tái sinh xúc tác
Qui trình tái sinh hoàn chỉnh chất xúc tác gồm các bước sau:
Tráng rửa hệ thống: Dùng dòng nitơ thổi sạch các hydrocacbon còn sót lại sau
phản ứng .
Đốt cốc: Đốt bằng dòng không khí pha loãng với N2 (có kiểm soát hàm lượng
oxy trong khí) và nâng dần nhiệt độ đốt theo chương trình:
- Nhiệt độ : từ 370oC đến 480oC
- Oxy : từ 0,5 đến 2,0 % thể tích
Oxy-clo hóa: Bơm các tác nhân chứa Cl vào hệ nhằm giữ ổn định lượng Cl cần
thiết cho xúc tác (1% trọng lượng ).
- Nhiệt độ: 510oC
- Oxy: 5% thể tích
Quá trình nung: Mục đích làm khô xúc tác và phân tán lại platin
- Nhiệt độ: 510oC
- Lượng oxy : 8% thể tích
- Thời gian: 4 giờ
Quá trình khử: Mục đích nhằm chuyển Pt từ dạng bị oxit hóa về dạng khử
(dạng hoạt động). Loại oxy bằng cách tráng với nitơ. Sau đó đưa hydro vào hệ.
- Nhiệt độ: 480oC
- Hàm lượng H2 tối thiểu 50% thể tích
- Thời gian: 4 giờ
Một số công nghệ tái sinh xúc tác trong Reforming xúc tác:
Công nghệ CCR:
Công nghệ tái sinh liên tục (CCR):
Đặc điểm :
− Lớp xúc tác được chuyển động nhẹ nhàng, liên tục trong hệ thống thiết bị
phản ứng với vận tốc vừa phải (trong khoảng 3- 10 ngày).
− Toàn bộ hệ thống được vận hành liên tục.
− Lớp xúc tác sau khi ra khỏi hệ thống phản ứng được đưa ra ngoài để tái
sinh trong một hệ thóng tái sinh riêng. Sau đó được quay trở lại hệ thống
phản ứng.
Cấu tạo một lò phản ứng dạng ống thẳng với lớp xúc tác chuyển động dùng trong
công nghệ CCR được mô tả trên hình sau:
Cấu tạo theo mặt cắt dọc lò phản ứng reforming xúc tác
Kích thước lò phản ứng thay đổi trong khoảng: Đường kính 1,5 – 3,5m, Chiều cao
4 – 12m, Thể tích lớp xúc tác 6 – 80 m3.
Chi tiết hơn chúng ta thấy cụm hệ thống thiết bị phản ứng bao gồm 3 - 4 lò phản
ứng có kích thước, điều kiện vận hành, lượng xúc tác nạp vào không giống nhau,
từ đó phân bố thành phần sản phẩm ra từ mỗi lò cũng không giống nhau.
Hệ thống cấu tạo từ nhiều lò phản ứng giúp cho dòng hỗn hợp nguyên liệu và khí
giàu hidro (khí tuần hoàn) đạt được nhiệt độ phản ứng và bù trừ nhiệt năng từ các
phản ứng hóa học xảy ra trong quá trình reforming. Nhiệt độ giảm nhanh trong lò
thứ nhất do sự xuất hiện của các phản ứng thu nhiệt quan trọng (chủ yếu là phản
ứng dehydro hóa naphten), lượng xúc tác tiêu thụ cho giai đoạn này chiếm 10-15%
trọng lượng. Ở lò phản ứng thứ 2 nhiệt độ giảm ít hơn, lượng xúc tác tiêu thụ
chiếm 20-30%. Tại lò phản ứng cuối cùng, nhiệt độ gần như ổn định do có sự bù
trừ nhiệt giữa các phản ứng thu nhiệt nhẹ với các phản ứng tỏa nhiệt kiểu như
hydrocracking…
a. Sơ đồ công nghệ PLATFORMING của UOP: Thiết bị phản ứng được xếp chồng
lên nhau . Xúc tác đi từ trên xuống qua hệ thống thiết bị phản ứng, sau đó tập
trung lại và được nâng lên thiết bị tái sinh nhờ khí nâng. Sau khi tái sinh, chất xúc
tác được đưa trở lại thiết bị phản ứng thứ nhất. Nhờ được lấy ra từng phần và tái
sinh liên tục mà hoạt tính xúc tác ổn định cao hơn so với trong trường hợp lớp xúc
tác cố định (công nghệ bán tái sinh). Công nghệ này hiện nay được sử dụng phổ
biến hơn cả (chiếm 70% thị phần công nghệ CCR trên thế giới). Tuy nhiên cũng
có nhược điểm là vận hành khó khăn do chiều cao hệ thống thiết bị phản ứng.
b. Sơ đồ công nghệ OCTANIZING của IFP (Pháp): Hệ thống thiết bị phản ứng
được sắp xếp theo hàng ngang.Tuy khắc phục được nhược điểm về chiều cao
nhưng lại tốn diện tích xây dựng và đường ống dẫn lớn dẫn đến tăng giá thành xây
dựng và chi phí vận hành cao.
Ngoài ra có thể kể đến công nghệ tái sinh liên tục POWERFORMING (Anh) và
công nghệ hỗn hợp DUALFORMING (Pháp), trong đó kết hợp 2 hệ thống bán tái
sinh và tái sinh liên tục với 2 loại xúc tác khác nhau.
Phân xưởng reforming xúc tác của nhà máy lọc dầu số 1 Dung quất Việt nam được
lắp đặt theo công nghệ Platforming của UOP (Mỹ). Phân xưởng này có nhiệm vụ
cung cấp hợp phần pha xăng (reformat) chất lượng cao và đáp ứng một phần
nguyên liệu (BTX) cho hóa dầu.
Công nghệ tái sinh bán liên tục:
Công nghệ bán tái sinh
Một số đặc điểm cơ bản là:
− Xúc tác cố định.
− Hệ thống dòng nguyên liệu được chuyển động từ thiết bị phản ứng này sang
thiết bị phản ứng khác.
− Ngưng hoạt động toàn bộ hệ thống để tái sinh chất xúc tác tại chỗ, ngay trong
thiết bị phản ứng, khi lượng cốc trên lớp xúc tác chiếm 15-20% trọng lượng.
Thường thì chu kỳ làm việc của xúc tác trong khoảng 6 tháng đến 1 năm. Thời
gian tái sinh xúc tác mất khoảng 2 tuần lễ. Trong một số công nghệ bán tái sinh
người ta sử dụng các thiết bị phản ứng (reactor) có các van đóng mở độc lập, hoặc
lắp thêm một thiết bị phản ứng dự trữ, cho phép tái sinh xúc tác ở từng thiết bị
riêng biệt mà không cần dừng toàn bộ hệ thống. Tuy nhiên vận hành công nghệ
cũng trở nên phức tạp hơn.
Công nghệ bán tái sinh tương đối lâu đời (công nghệ truyền thống), các cải
tiến chủ yếu chỉ tập trung vào xúc tác. Từ những năm 1949-1950 chất xúc tác trên
cơ sở Pt (xúc tác đơn kim loại) đã được đưa vào sử dụng cho xúc tác tầng cố định.
Loại xúc tác này tuy cho hoạt tính xúc tác cao, nhưng có nhược điểm là rất dễ bị
cốc hóa nên phải vận hành trong điều kiện áp suất hidro khá cao (xấp xỉ 40 atm).
Khoảng những năm 60, một số kim loại phụ gia được đưa thêm vào hệ xúc tác Pt
(xúc tác lưỡng kim), khắc phục tình trạng giảm nhanh hoạt tình xúc tác. Chất xúc
tác trở nên bền hơn với quá trình cốc hóa, giúp quá trình công nghệ được vận hành
ở áp suất thấp hơn (khoảng từ 15 đến 30 atm).
Sơ đồ đơn giản của công nghệ bán tái sinh được trình bày trên hình 19. Mô
tả hoạt động của sơ đồ:
Nguyên liệu (phân đoạn naphta nặng ) đã được làm sạch từ quá trình hydro
hóa, được trộn với khí hydro từ máy nén, sau khi qua các thiết bị trao đổi nhiệt
được dẫn lần lượt vào các lò phản ứng (có thể từ 3-4 lò) có chứa lớp xúc tác cố
định . Các sản phẩm được tạo thành sau khi ra khỏi hệ thống phản ứng , qua thiết
bị trao đổi nhiệt, thiết bị đốt nóng và thiết bị làm lạnh. Qua thiết bị ngưng tụ, sản
phẩm lỏng giữ lại, khí không ngưng được sẽ đưa vào thiết bị tách khí . Phần lớn
khí được nén lại nhờ máy nén khí và tuần hoàn trở lại lò phản ứng. Phần khí còn
lại được dẫn sang bộ phận tách khí. Hydro được tách ra từ đây có thể được sử
dụng cho các quá trình làm sạch dùng hydro. Phần lỏng tách ra được đưa vào tháp
ổn định, thực chất là một tháp chưng cất với mục đích tách phần nhẹ (LPG) nhằm
tăng độ ổn định của xăng và giảm áp suất hơi bão hòa. LPG tách ra được đưa vào
thiết bị ngưng tụ.
Xăng sản phẩm ra ở đáy tháp, một phần được đun nóng và hồi lưu trở lại tháp ổn
định, phần lớn được làm lạnh và đưa vào bể chứa.
Quá trình Cracking xúc tác
Nguyên nhân gây đầu độc xúc tác:
Có hai loại mô hình được thừa nhận phổ biến nhất là:
- Mô hình suy giảm hoạt tính chất xúc tác do sự hình thành cốc.
- Mô hình suy giảm hoạt tính chất xúc tác theo thời gian phản ứng trong
dòng.
Nguyên nhân suy giảm hoạt tính xúc tác
Sự suy giảm hoạt tính xúc tác có thể chia thành hai loại: nguyên nhân hóa
học và nguyên nhân vật lý.
Nguyên nhân vật lý: do sự tụ hợp các tâm axit xúc tác, sự bịt tắc các mao
quản, tổn thất bề mặt riêng…
Nguyên nhân hóa học:
Ngộ độc thuận nghịch: do sự hấp phụ cạnh tranh của các tạp chất trong
nguyên liệu. Vì sự hấp phụ có tính chất thuận nghịch nên sự suy giảm hoạt
tính do nguyên nhân nay cũng có tính thuận nghịch. Nghĩa là có thể khôi
phục tính chất xúc tác bằng cách khử hấp phụ chất ngộ độc như thổi khí
nito, xử lý nhiệt…
Ngộ độc không thuận nghịch: bởi các tạp chất trong nguyên liệu. Ngộ độc
bới các kim loại trong cracking xúc tác là một ví dụ điển hình vè ngộ độc
không thuận nghịch. Sự suy giảm hoạt tính của chất xúc tác do ngộ độc bất
thuận nghịch không thể phục hồi bằng xử lý vật lý hoặc hóa học.
Tự ngộ độc: là sự suy giảm hoạt tính xúc tác do các phản ứng mong muốn
xảy ra. Đây là nguyên nhân chính của sự suy giảm hoạt tính của chất xúc
tác cracking và do đó cũng là lý do phát triển các dạng thiết kế khác nhau
về reacto và thiết bị hoàn nguyên chất xúc tác cracking.
Hiện tượng ngộ độc chất xúc tác cracking xảy ra do sự che phủ một lớp vật
liệu cacbon hóa trên bề mặt và bên trong các mao quản chất xúc tác. Người
ta phân biệt sự tạo thành cốc theo các cơ chế khác nhau:
1. Cốc do cặn: được tạo ra do dehydro hóa các phần cặn không bay hơi
của nguyên liệu.
2. Cốc do tạp chất kim loại: loại này được tạo ra do các tạp chất kim
loại trong nguyên liệu bám vào bề mặt chất xúc tác, rồi trở thành các
tâm tạo cốc.
3. Cốc xúc tác: được hình thành do các quá trình xúc tác tạo ra một số
sản phẩm vì một lý do nào đó( kích thước hình học, khả năng
khuếch tán…) phải nằm lại trên bề mặt xúc tác.
4. Cốc do nguyên liệu: một số nguyên liệu không kịp cracking đọng lại
trong các mao quản chất xúc tác.
Nguyên tắc – quy trình tái sinh xúc tác:
Sau khi đi ra khỏi thiết bị, chất xúc tác bị stripping bởi hơi nước được phun
vào ở phần dưới lò phản ứng chất xúc tác tự chuyển dần theo đường ống vào lò tái
sinh thứ nhất, vì sau khi tham gia phản ứng trong ống nâng Riser nó đã bị ngộ độc,
từ màu trắng đục đã trở thành màu đen. Hơi nước có tác dụng loại hydrocacbon
còn lẫn trong lớp bột xúc tác. Vì lý do đó vùng chất xúc tác ở phần dưới lò phản
ứng có tên là vùng stripping. Sự di chuyển của chất xúc tác trong những đường
ống nối đáy lò phản ứng với đáy lò tái sinh xảy ra được nhờ ba tác động: ống nối
nằm nghiêng khá dốc, bột chất xúc tác rất mịn và dòng hơi nước được phun vào
liên tục tại những vị trí cần thiết của đường ống. Kết quả là dòng bột chất xúc tác
bay trong đường ống. Tốc độ di chuyển của chất xúc tác được điều chỉnh nhờ van
đặt trên đường ống sao cho lớp chất xúc tác trong vùng stripping có độ dày ổn
định.
Máy nén thổi dòng không khí nóng vào khoảng 220 oC vào hai lò tái sinh
xúc tác thông qua thiết bị phân phối khí ở phần dưới lò tái sinh. Trước hết chất xúc
tác mang nhiều cốc được đốt ở lò tái sinh thứ nhất trong chế độ thiếu không khí,
cốc cháy chưa hết nhưng hydrocacbon kéo theo đã cháy hết, nước tạo thành và
nước stripping không tàn phá quá mạnh chất xúc tác vì nhiệt độ ở đó chỉ lên đến
khoảng 600 ÷ 700 oC. Sau đó chất xúc tác sẽ được không khí nóng thổi lên lò tái
sinh thứ hai. Ở đây tất cả cốc còn lại cháy hết trong dòng không khí dư ở nhiệt độ
cao hơn, khoảng
800 oC nhưng chất xúc tác không bị hỏng nhiều vì không còn hơi nước. Bột chất
xúc tác cũng bay trong lò tái sinh nên cần có hệ thống cyclon trong lò để tránh
chất xúc tác bay ra theo khí lò. Chất xúc tác đã được tái sinh lại theo đường ống
quay về đáy ống nâng để bắt đầu lại quá trình.
Một số sơ đồ công nghệ:
Sơ đồ tái sinh hai cấp:
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bgh_9722.pdf