Giữa thế kỉ XX, hay nói cụ thể hơn là lấy năm 1945 làm mốc, các quốc gia
Đông Nam Á lần lượt giành lại được nền độc lập dân tộc. Đây là kỉ nguyên mới cho
văn hóa Đông Nam Á phát triển. Sau bốn thế kỉ tiếp xúc, giao lưu văn minh với thế
giới phương Tây, các dân tộc Đông Nam Á đã gạn lọc, tiếp thu được nhiều yếu tố
mới tiến bộ để đưa vào cùng với di sản văn hóa truyền thống của mình. Từ đây, Đông
Nam Á bước vào thời kì phát triển mới đầy thuận lợi và, trên thực tế, bước đầu đã
giành được những thành tựu đáng kể.
Tất nhiên trong quá trình tiếp xúc, giao lưu với văn minh phương Tây, Đông
Nam Á không chỉ có “nhận”. Phương Tây, như chính các học giả phương Tây thừa
nhận, cũng tiếp thu được không ít những yếu tố văn hóa mới từ Đông Nam Á.
176 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 3678 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quá trình thâm nhập của văn minh phương Tây vào Đông Nam Á từ thế kỉ XVI đến năm 1945, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ước chân đám rước.
Ngoài các ngày lễ Công giáo ở Philippines có tính quốc gia kể trên, hầu như
tháng nào cũng có những ngày lễ kính các vị thánh, nhưng đó chỉ là ngày lễ có tính
nghi thức theo giáo luật. Ở các bản làng (barangay) của Philippines đều có lễ hội kính
các thánh bổn mạng nhưng chủ yếu cũng chỉ do cha xứ và các chức sắc lo liệu, chỉ có
ở thủ đô Manila ngày lễ hội Nazarene thuộc quận Quiapo là được tổ chức trọng thể
vào tháng 1, có ảnh hưởng đến nếp sống văn hóa của cả thành phố. Tượng thánh
được đặt trong một cỗ xe do các nam tín đồ kéo dọc đường phố. Người đi lễ hội đông
như nêm cối. Dân chúng liên tục chen chúc, xô đẩy để được đến gần kiệu thánh. Họ
vẫy nước hoa thơm vào tượng và vào kiệu. Những chiếc khăn nhỏ để lau tượng thánh
hoặc buộc trang trí trên xe kiệu bị giáo dân cướp, xé lấy mảnh vải nhỏ để lau khắp
người mình cầu bình an, hạnh phúc.
Về những vùng ven sông như thị trấn Gumaca ở Quezon, Naga ở Bicol, lễ
hội vị thánh bổn mạng đã kết hợp và nâng cấp các lễ hội dân gian cổ truyền thành lễ
hội tôn giáo. Tượng một vị thánh cụ thể được giáo xứ đặt ở vị trí cao trên bề nổi hoặc
con thuyền nhỏ, có trang trí rực rỡ. Giáo dân cử người khiêng, đẩy thuyền trên mặt
nước. Tục té nước của cư dân nông nghiệp Đông Nam Á được tái hiện làm tượng
thánh thấm màu. Ở hai bờ sông, dọc theo tuyến đi của bè tượng thánh, dân chúng reo
hò, vẫy cành lá xanh chào đón.
Cư dân miền núi Kalibo ở tỉnh Aklan có lễ hội Atiatihan cũng gắn với hình ảnh
Chúa Hài đồng, nhưng những nghi thức Saman giáo cổ xưa vẫn còn đọng lại. Đến
ngày lễ hội (tháng 5 dương lịch), quanh ngôi nhà hội được kết hoa đủ màu sắc. Hàng
trăm chiếc mũ lá dừa làm lễ vật dâng thánh bản mệnh Isidro Labrador cũng được treo
dán kín vách tường phía ngoài.
Sinh nở thường là một dịp vui mừng được mọi người chờ đợi. Người ta bàn tán
râm ran về đứa trẻ là trai hay gái, tên nó là gì và ai sẽ là người đỡ đầu trong nghi lễ
Rửa tội tại nhà thờ cho nó. Đây rõ ràng là những tập tục được du nhập từ Tây Ban
Nha vào Philippines. Tại nhiều văn phòng, người ta còn đánh cá với nhau về đứa con
trong bụng của vợ người đồng nghiệp là trai hay gái và đó cũng là cái cớ cho nhiều
trò vui nhộn.
Nghi lễ tôn giáo đầu tiên dành cho một người Philippines nói chung lúc mới
chào đời là lễ Rửa tội để trở thành một tín đồ Công giáo. Nhân dịp này, theo phong
tục Công giáo nói chung và Tây Ban Nha nói riêng, cha mẹ nó thường mời các vị bảo
trợ làm cha mẹ đỡ đầu cho đứa trẻ. Nhiệm vụ của cha mẹ đỡ đầu là nuôi nấng đứa trẻ
khi cha mẹ của nó không còn khả năng và trông nom chỉ bảo cho đứa con đỡ đầu
cách đương đầu với nghịch cảnh. Hệ thống này được gọi là compadrazgo sẽ bảo đảm
cho đứa trẻ một tương lai xã hội và tài chính sau này. Đó là về mặt trần thế, còn về
mặt tâm linh, cha mẹ đứa trẻ cũng khấn xin các vị thánh bổn mạng phù hộ cho con
cái họ, khi đặt tên thánh cho đứa trẻ trong ngày nó được Rửa tội tại nhà thờ. Chính
tính cách hết sức sùng đạo của người Philippines được thừa hưởng từ Tây Ban Nha
mà có những đứa trẻ được đặt cho rất nhiều tên thánh, với hy vọng con trẻ sẽ nhận
được sự giúp sức chở che của các thánh.
Lối tìm hiểu nhau truyền thống của Philippines phản ánh ảnh hưởng của Tây
Ban Nha về cách thức cũng như về chuẩn mực đạo đức. Chàng trai trẻ đến nhà cô
thiếu nữ để tỏ tình phải chiến đấu thật chật vật với hàng loạt những câu hỏi của người
nhà cô ta. Nếu chàng trai mời cô gái đi chơi, cô ta sẽ phải mang theo bảo mẫu đi cùng
với mình, đây là những quy định được kế thừa từ Tây Ban Nha. Có thể không cần
đến bảo mẫu nếu là đi chơi cùng với một nhóm, nhưng phải có giờ giấc. Chàng trai
có thể tặng người trong mộng của mình hoa và kẹo, và cô nàng có thể tỏ ra không
quan tâm lắm để phù hợp với cách cư xử của một thiếu nữ có giáo dục. Thoạt đầu cô
ta có thể làm bộ lạnh lùng để thử tính kiên trì và sự thật tâm của chàng trai. Ở thôn
quê, chàng trai có thể hát cho cô gái nghe một bản dạ khúc để bày tỏ nỗi lòng, tất
nhiên với chiếc đàn guitar – Tây Bán Cầm truyền thống. Được bạn bè hộ tống, anh ta
sẽ đến hát dưới cửa sổ nhà nàng vào một đêm trăng thơ mộng.
Ở Philippines, hôn nhân là do đương sự lựa chọn nhưng vẫn phải hỏi ý kiến
của gia đình. Người đàn ông sẽ phải thể hiện ý muốn với người phụ nữ bằng cách
chính thức xin hỏi cưới cô ta. Tục lệ gọi là pamanhikan bắt đầu từ một người làm
mai, người này là thân thuộc hoặc quen biết với cả hai gia đình. Ý nguyện của hai
nhân vật chính có được tính đến hay không là tùy theo sự độ lượng của hai bên cha
mẹ. Theo tục lệ từ thời Tây Ban Nha, gia đình chú rễ phải chịu tiền cưới xin. Trong
buổi lễ pamanhikan, người ta sẽ ấn định ngày giờ, nhà thờ, người đỡ đầu, các người
làm chứng cũng như vị Linh mục chứng hôn, buổi tiệc tiếp tân.
Lễ cưới, dù lớn hay nhỏ, đều được tổ chức ở nhà thờ. Có những nhà thờ được
rất nhiều đôi tân hôn chọn làm lễ cưới vì sự nổi tiếng, nét đẹp của nó như nhà thờ San
Augustin, nhà thờ Chính Tòa Manila Khi đến mùa cưới, người ta không khỏi ngạc
nhiên khi chứng kiến rất nhiều cặp tân hôn xếp hàng chờ đến lượt mình bước vào nhà
thờ làm lễ cưới. Đối với người Philippines, thật là vinh dự lớn lao nếu trong lễ cưới
của họ được các vị chức sắc cấp cao của Giáo hội chủ lễ. Chẳng hạn, ở thủ đô
Manila, các đôi tân hôn luôn tìm cách xin được Đức Hồng Y Tổng Giám mục Manila
chủ lễ và chứng hôn để nghi lễ thêm thập phần long trọng. Lễ cưới nhiều khi trở
thành một đám rước của những người hộ tống cô dâu chú rể và các cô phụ dâu ôm
hoa, các em bé rải thảm hoa trên đường đi.
Cũng như việc sinh nở, cái chết chẳng bao giờ là gánh nặng hay sự mất mát
của riêng một cá nhân. Phần lớn người Philippines theo Công giáo và được chôn cất
theo nghi lễ Công giáo tại các nghĩa trang. Vào ngày lễ Các Thánh kéo dài cho đến lễ
cầu cho các linh hồn (ngày 1 và 2 tháng 11 hàng năm), người Philippines kéo đến
nghĩa trang để làm lễ cầu nguyện cho những người thân đã mất. Ngay khi ai tín được
báo ra, họ hàng và bạn bè của người vừa qua đời sẽ đến gia đình của người ấy để
thương khóc cùng với tang gia. Họ được đón tiếp nồng hậu và được kể về tình hình
của người đã khuất trong khi đang cùng nhau ăn uống. Cho dù những ý nghĩa mất
mát tràn ngập trong lễ thức canh quan tài thì cũng không ai bị buộc phải tỏ ra quá bi
thương. Việc thức canh thường biến thành buổi họp mặt của những người thân thuộc
và bạn hữu đã lâu không gặp mặt, thế nên nó cũng giống như một ngày hội vậy.
Những người ruột thịt trực hệ của chết đang sống ở nước ngoài có bổn phận phải về
nhà chịu tang, và như thế nỗi buồn lại hóa niềm vui.
Thức canh về đêm là điều bắt buộc, họ hàng thân thuộc và bạn bè đến lượt
mình sẽ ở bên cạnh làm bạn với gia đình người chết. Ở thôn quê, người ta đối thơ với
nhau và đánh bài để khỏi ngủ gật. Sự vui vẻ này không phải là thiếu tôn trọng hay
nhẫn tâm, mà cốt chỉ là để giúp gia đình quên đi nỗi buồn trong giây phút. Ở
Philippines người chết luôn luôn được tưởng nhớ. Một lễ Novena kéo dài chín ngày
sau khi chôn cất và mỗi năm cứ đến ngày giỗ người ta lại tổ chức thánh lễ cầu nguyện
tại nhà thờ và ra nghĩa trang viếng mộ theo các nghi lễ Công giáo.
Không có một phong tục truyền thống nào mang đậm chất Philippines hơn là lễ
Các Thánh Nam Nữ (All Saints day: 1-11 hàng năm). Đó là sự ca ngợi việc kết ước
giữa vị thánh đỡ đầu với dân chúng, trong đó dân chúng biết ơn vị thánh đã bảo vệ
họ. Đó cũng là khoảng thời gian để người ta làm lễ rửa tội, lễ cưới và đoàn tụ gia
đình. Các ngôi nhà đều mở rộng cửa để chào đón mọi người, kể cả những người
khách lạ. Đây là dịp để người Philippines bày tỏ lòng hiếu khách. Đây cũng là thời
gian để vui chơi, hội hè, và tổ chức những cuộc thi sắc đẹp - một sự giải thoát những
năng lượng bị ức chế mà người ta đã phải kiềm chế trong suốt một năm vất vả cực
khổ. Lễ Các Thánh cần phải được chuẩn bị kĩ càng, theo những quy ước từ thời Tây
Ban Nha. Người ta phải trang hoàng nhà cửa theo bản tính quan tâm đến bề ngoài của
người Philippines. Những món ăn đặc biệt được chuẩn bị, vì ăn uống là một cách
thức giao tiếp ở xứ này. Thậm chí người ta còn chuẩn bị cả rượu nữa.
Trước ngày lễ các Thánh, một đợt hát thánh ca novena kéo dài chín ngày (Tuần
Cửu Nhật) được tổ chức để tiếp ngay sau đó là Thánh lễ tổ chức vào chính ngày lễ,
mà phải do chính Đức Giám mục địa phận cử hành. Việc chuẩn bị đạt đến mức sôi
sục khi ngày lễ đến gần kề, bầu không khí như được tích điện với sự mong đợi, hồi
hộp. Vào chính ngày lễ, dân chúng mặc những bộ đồ đẹp nhất của mình. Những vị
khách được khuyến cáo chỉ nên ăn nhẹ một chút thức ăn ở nhà đầu tiên mà họ đến
viếng thăm. Bởi vì sau đó họ sẽ còn phải ăn ở những gia đình tiếp theo. Rượu và
những lời chúc tụng cứ tuôn ra như suối. Ngày hôm sau, cuộc sống trở lại bình
thường và những người nghèo thường tự nhủ không biết phải làm sao mới trả được
món tiền mà họ đã vay mượn để mua đồ ăn thức uống tiếp đãi khách khứa ê hề như
thế.
Các lễ hội : Có năm sự kiện tôn giáo quan trọng trên đất nước Philippines Công giáo
này. Các sự kiện này được tổ chức trên khắp đất nước. Đó là những lễ hội:
- Ngày Thứ Năm Thiêng liêng, ngày thứ Sáu Phúc lành và lễ Phục sinh (Tam Nhật
Vượt qua) thường được tổ chức vào cuối tháng Ba đầu tháng Tư.
- Lễ Các Thánh Nam Nữ vào ngày mùng 1 tháng 11.
- Lễ Giáng sinh tổ chức vào tháng 12.
Mùa Chay là một sự kiện tôn giáo lớn nhất trên đất nước này. Mùa Chay là dịp
để mọi người tưởng niệm đến cái chết và sự phục sinh của Chúa. Mặc dù cái chết là
chủ đề của sự kiện này, nhưng màu sắc và các vở kịch lại được chiếu rọi bởi một
không khí chẳng chút buồn rầu. Tràn ngập trong những nghi lễ dân gian và niềm tin
Công giáo, mùa Chay bắt đầu với Thứ Tư Lễ Tro khi Linh mục xức tro dấu thánh giá
trên trán các tín đồ Công giáo với lời nhắn nhủ: “Hãy ăn năn sám hối và tin tưởng và
Phúc Âm” trong lúc ca đoàn hát những bài thánh ca “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi
tro, một mai người sẽ trở về bụi tro”.
Cực điểm của mùa lễ hội là vào Tuần Thánh, tuần lễ tưởng niệm cái chết của
Chúa và sự phục sinh của Ngài. Lễ Lá được tổ chức vào ngày Chủ nhật của Tuần
thánh. Để tái tạo lại đường đến Jerusalem của Chúa, người ta làm những chiếc tán
bằng lá dừa với đủ hình dạng khác nhau và được vị Linh mục ban phúc lành. Những
cái tán lá dừa được ban phúc này sau đó được dùng tín đồ cung kính mang về nhà.
Trong suốt Tuần Thánh, người Philippines hát các bài thánh ca về cuộc đời và giáo lý
của Chúa theo một nghi lễ gọi là pabasa. Những người sám hối dùng dây da có gai
nhọn tự đánh vào tấm lưng trần của mình. Đó không phải là một màn hành xác kiểu
thống khoái mà là để thực hiện một lời nguyện rằng họ sẽ chịu sự đau đớn và nhục
nhã này (penitencia) nếu như những ước nguyện của họ được đáp ứng hay việc làm
sai trái của họ được Chúa tha thứ. Một số người thậm chí của tự buộc mình hay tự
đóng đinh mình lên thánh giá vào ngày thứ Sáu Tuần Thánh. Buổi chiều hôm đó, một
bầu không khí ảm đạm phủ xuống đất nước Philippines Công giáo. Vào giữa buổi
chiều, bảy lời nói cuối cùng của Chúa được tuyên đọc và truyền giảng trong các giáo
đường. Vào buổi tối, quan tài của Chúa được rước đi quanh thị trấn trong một cuộc
diễu hành. Từ rạng sáng ngày lễ Phục sinh, mọi người tập hợp lại. Hai chiếc xe chở
Đức Chúa chịu đóng đinh và Mater Dolorosa (Đức Mẹ Sầu Bi) đến khu vực phía
trước thị trấn. Đó là một sân khấu nơi mà trẻ em mặc những bộ quần áo giống như
những thiên thần đang ca hát. Chúng nâng tấm khăn trùm đầu tang tóc lên khỏi Đức
Mẹ. Sau đó, hai cỗ xe được đưa trở về nhà thờ trong tiếng chuông ngân hân hoan
chào đón [21: 142].
Lễ Giáng sinh ở Philippines bắt đầu với những bài hát mừng Giáng sinh được
phát thường xuyên trên đài truyền hình, tức là vào cuối tháng 10. Từ lúc đó, các
trường học, văn phòng, nhà cửa bắt đầu được trang trí bằng các sợi kim tuyến và các
dải ruy băng, các cây thông Noel và các dây đèn màu. Người ta là một mô hình cảnh
Giáng sinh với các mục đồng và Ba Vua. Những cái parol (đèn lồng Philippines) treo
trên cửa sổ, tỏa ra một biển các sắc màu trong hình dáng của một ngôi sao năm cánh
hay pampango. Việc chuẩn bị trở nên náo nhiệt vào buổi tối trước lễ Giáng sinh, bởi
vì gia đình sẽ họp mặt nhau lại để ăn một bữa tiệc thịnh soạn sau buổi lễ Nửa đêm ở
nhà thờ. Vào sáng ngày Giáng sinh, trẻ em thức dậy để nhận quà của ông già Noel. Ở
vùng Bulacan của Philippines, hai người đóng vai Đức Mẹ Maria và thánh Cả Giuse
sẽ tìm một nơi để diễn lại cảnh Chúa Giáng sinh gọi là panunuluyan. Họ đi từ nhà
này đến nhà kia, và cứ bị đuổi hết lần này đến lần khác. Cuối cùng họ tìm được nơi
nương náu trong nhà thờ [21:143].
Ngày lễ vị thánh bảo trợ : Hầu hết các barangay và các thị trấn của Philippines
Công giáo đều tổ chức lễ hội này, nhưng có một số lễ hội nổi tiếng hơn cả. Ở Thủ đô
Manila nổi tiếng nhất là lễ hội Nazarene, bổn mạng quận Quiapo, quận cổ nhất nằm ở
trung tâm Manila. Vào tháng Một, hàng ngàn người sùng đạo gây tắc nghẽn những
con đường chính của quận Quiapo trong một đám rước chen chúc như nêm, dẫn đầu
là những tín đồ nam giới gọi là hijo. Đó là những người kéo chiếc xe có tượng
Nuestro Padre Senor Nazarero. Bức tượng dần chuyển thành màu sẫm vì dân chúng
cứ liên tục rẩy thứ nước hoa bản xứ vào. Những người Philippines mộ đạo chen lấn
qua cả một biển người để xé lấy một mảnh vải hay mảnh khăn từ bức tượng, rồi anh
ta dùng nó để lau lên khắp người mình. [21:143].
Ngoài thủ đô Manila, lễ hội du nhập từ Công giáo Tây Ban Nha nhiều màu sắc
nhất là lễ hội tại Lucban vùng Quezon được tổ chức vào tháng Năm. Lễ hội này để
vinh danh thánh Isidro de Labradol, đây là vị thánh che chở cho những người nông
dân. Được gọi là pahiyas, lễ hội này là lễ tạ ơn vì một vụ mùa bội thu. Người
Philippines làm những cái bánh quế bằng bột gạo đầy màu sắc được gọi là kiping. Họ
treo chúng bên ngoài cửa sổ và cửa chính của nhà họ cùng với trái cây, rau củ và lúa.
Ở các vùng nằm ven sông tổ chức ngày lễ hội của Công giáo với những đám
rước trên mặt nước. Những bức tượng các vị thánh Công giáo theo phong cách Tây
Ban Nha được gắn trên những chiếc bè rước trên sông. Nổi tiếng nhất trong các lễ hội
này là ở Gumaca của Quezon và Naga của vùng Bicol.
Lễ hội Ati-Atihan của vùng Kalibo ở tỉnh Aklan là một lễ hội để vinh danh
Santo Nino, tức là Chúa Hài đồng. Những người tham gia lễ hội bôi đầy lọ nồi lên
mặt, đi quanh tượng Chúa và đánh trống, hét to “Halabria” theo nhịp điệu. Những
phụ nữ ngoan đạo thì ghì tượng Santo Nino vào ngực, cọ trán vào bức tượng với một
vẻ say sưa theo nhịp trống đập đến vỡ tim của những người thuộc bộ lạc miền núi của
Philippines này.
Tháng Năm – theo lịch Phụng vụ của Công giáo, là tháng Hoa, tháng kính Đức
Trinh Nữ Maria. Các cô gái trẻ tỏ lòng sùng kính Đức Mẹ bằng cách hàng ngày dâng
hoa cho Đức Mẹ. Sự sùng kính này lên đến tuyệt đỉnh trong lễ hội Flore de Mayo,
một đám rước gồm các cô gái xinh đẹp nhất đeo đầy nữ trang bước đi dưới những
vòm hao uốn cong giữa đèn và nến. Tuy nhiên ở các thành phố lớn, lễ hội này biến
thành một buổi trình diễn thời trang thực sự: những chiếc váy dài thiết kế cho các cô
gái mặc còn quan trọng hơn cả sự sùng kính. Một lễ hội khác của Philippines được du
nhập từ đạo Công giáo thời Tây Ban Nha là Santacruzan. Lễ hội này tái hiện lại việc
Thái hậu Helena đi tìm cây Thánh giá thực của Chúa. Thực chất đó là đám rước của
các nhân vật trong Thánh Kinh, các phụ nữ xinh đẹp vẫn giữ vai trò chủ yếu trong lễ
hội này.
Người Công giáo sống rải rác thành từng nhóm ở vào nơi thuộc miền Tây
Sumatra, trên đảo Flores và Timor, phía bắc đảo Sulawesi, Maluku và vài nơi trên
đảo Kalimantan. Công giáo đã hòa trộn với những tín ngưỡng địa phương, tạo ra
những tập quán rất thú vị như đám rước Phục sinh đi chân không lúc nửa đêm ở đảo
Flores, hay như lễ hiến tế bò trong cộng đồng người Torajan theo Công giáo. [18:
102].
Lễ Phục sinh là lễ hội theo truyền thống của người Công giáo Indonesia, nhưng
người miền Đông ở đảo Flores lại kỉ niệm theo một cách khác thường. Mặc y phục
đen kịt, đội mũ trùm ba góc màu trắng gợi lại tập quán của người Bồ Đào Nha thế kỉ
XVI, tín đồ Công giáo đi chân không diễu hành qua các con đường của Flores vào lúc
nửa đêm. Một bức tượng Đức Mẹ mà theo truyền thuyết đã giạt vào bờ biển nhiều
năm trước và một chiếc quan tài đen tượng trưng cho Chúa Giêsu được rước đi theo
nhịp trống bị bịt lại. Những người diễu hành mang theo đèn nến và vẫy những cánh
hoa cúc trong không trung, cuộc diễu hành thật kì lạ nhưng dù vậy rất mê hoặc và rất
đáng xem. [18 : 149].
Ở Philippines, văn hóa được thể hiện bằng ba từ tiếng Anh đều bắt đầu bởi chữ
C: Creed (niềm tin), Code (luật lệ) và Cult (thờ phụng). Qua ba chữ C trên, rõ ràng ta
có thể thấy văn hóa Philippines ảnh hưởng từ văn minh phương Tây mà cụ thể là từ
nó thiên về tôn giáo (Kitô giáo) như thế nào. Theo Elena L. Samonte ở Đại học
Philippines, trong bài Những giá trị của người Fillipino ở ngưỡng cửa của thiên niên
kỉ mới, người Philippines có 11 giá trị được xếp loại vô cùng quan trọng, đó là:
1. Lòng tin vào Thiên Chúa : 78,9%
2. Cầu nguyện và suy ngẫm : 74,7%
3. Trường thọ : 68,4%
4. Làm điều tốt cho người khác : 68,2%
5. Thực hiện các công việc của Giáo hội Công giáo : 67,3%
6. Có đời sống hôn nhân tốt : 66,7%
7. Được vợ hay chồng yêu thương : 66,1%
8. Được con cái thương yêu : 65,2%
9. Ăn uống đều đặn : 61,5%
10. Có một ngôi nhà : 60,9%
11. Sống với con cái : 60,4%
(Nguồn: Dẫn theo [12: 228])
Qua những số liệu trên ta thấy, lòng tin vào Chúa, cầu nguyện, thực hiện các
công việc của Giáo hội luôn được xếp vào những giá trị vô cùng quan trọng, đứng thứ
nhất là lòng tin, rồi đến việc cầu nguyện, là các công việc của người có đức tin. Đây
rõ ràng là ảnh hưởng của Kitô giáo đã rất sâu đậm trong đời sống người Philippines,
đến nỗi các thang giá trị của cuộc sống của họ cũng đều đặt ra trên nền tảng các quan
niệm của Giáo hội Công giáo. Mà đức tin, tổ chức Giáo hội, các quan niệm của Giáo
hội Công giáo ở Philippines có được chính là từ quá trình thâm nhập của văn minh
phương Tây vào nước này.
Một đặc điểm của văn minh tinh thần mà người Philippines còn chịu ảnh hưởng
từ văn minh phương Tây mà ở đây cụ thể là từ Tây Ban Nha, chính là “Amor
Propio”. “Amor Propio” là một từ Tây Ban Nha có nghĩa là lòng tự trọng, giúp người
Philippines không đánh mất danh dự của mình. Đây là thái độ sống được hình thành
qua quá trình tiếp xúc, ảnh hưởng từ văn minh phương Tây. Nó chỉ đạo mọi cách ứng
xử của người Philippines. Chẳng hạn, một người vợ bị chồng ruồng bỏ dù khó khăn
đến đâu cũng sẽ từ chối nhờ vả người chồng đã bỏ mình giúp đỡ tiền nong. Một
người con đã bị tước quyền thừa kế cũng vậy, sẽ từ chối sự hòa giải với gia đình ngay
cả khi gia đình bày tỏ ý định tha thứ cho nó. Đó là sự tự vệ bản thân, nhân phẩm, là
sự tự trọng. [82:75-77].
Leonardo N. Mercado, trong tác phẩm Working with Indigenous People, đã nêu
lên quan niệm văn hóa bản địa Philippines bằng cách so sánh với văn hóa phương
Tây, từ đó, ông cho thấy văn minh phương Tây đã ảnh hưởng đến Philippines như thế
nào. Điều này được ghi trong bảng Sự va chạm của văn hóa (The clash of Culture)
SỰ VA CHẠM CỦA VĂN HÓA (THE CLASH OF CULTURE)
Văn hóa bản địa Philippines
Văn hóa Philippines chịu sự ảnh
hưởng từ văn minh phương Tây
- Đất đai: Con người có một mối liên
hệ chặt chẽ gắn bó với môi trường
mình sống.
- Đất đai: Như một loại hàng hóa.
- Nền kinh tế: Nhân nhượng, đùm bọc
giúp đỡ lẫn nhau.
- Nền kinh tế: Bị chi phối bởi lợi
nhuận và kĩ thuật.
- Giáo dục: Được xem như mối quan
hệ, sự giải thoát, sự hòa hợp.
- Giáo dục: Như làm một sự chuyển
nhượng có tính kĩ thuật, lý lẽ.
- Sức khỏe: Là kết quả của một tổng
thể hài hòa (mối tương quan giữa thân
thể, trí tuệ và tinh thần).
- Sức khỏe: Được phân biệt theo lối
nhị nguyên của phương Tây (phân
biệt giữa tinh thần và thể xác).
- Tinh thần: Nguyên khởi có tính cách
nội tại.
- Tinh thần: Có tính siêu việt.
(Nguồn: 88: 62).
Qua bảng đối chiếu trên, ta thấy Philippines là nước Đông Nam Á chịu ảnh
hưởng của văn minh phương Tây rất nhiều. Lịch sử cho thấy, Philippines là nước
chịu ảnh hưởng của văn minh phương Tây rất sớm. Ta thấy được ở Philippines, một
nền văn hóa bản địa hướng về mối liên hệ hài hòa, nhân nhượng, đùm bọc; đã chuyển
sang một nền văn hóa hướng về phân tích, cách biệt, bị chi phối bởi lợi nhuận và kĩ
thuật là những giá trị được thâm nhập từ văn minh phương Tây.
Các nước Đông Nam Á trong cả năm có nhiều lễ hội gần giống với tôn giáo cổ
truyền và nhiều tôn giáo hiện đại. Từ khi có mặt Công giáo, lại có thêm những lễ hội
mới tạo ra một dáng vẻ riêng, góp thêm vào sự phong phú đa dạng của văn hóa các
nước này. Bây giờ hầu như mọi người, mọi quốc gia ở đây đều vui vẻ đón lễ Giáng
Sinh 25-12, lễ Thánh Valetine 14-2, mặc dù họ không phải là tín đồ Công giáo. Tiếng
chuông nhà thờ trở thành thân quen với người dân trong vùng và cũng là hình ảnh
đẹp đi vào lòng người, đi vào nhiều bài thơ, nhạc phẩm. Công giáo cũng đóng góp
vào các ngành văn hóa, nghệ thuật, báo chí, xuất bản của nhiều quốc gia Đông Nam
Á dù mức độ ít nhiều khác nhau.
Nhiều câu ca dao tục ngữ xuất phát từ Công giáo đã đi vào cuộc sống của cả
cộng đồng dân tộc. Chẳng hạn là kinh nghiệm trồng trọt :
Lễ Rosa (7-10) thì tra hạt bí
Lễ Các Thánh (1-11) thì đánh bí ra
Lễ Các Thánh (1-11) gánh mạ đi gieo
Lễ Sinh Nhật (25-12) giật mạ đi cấy
Chỉ về thời tiết:
Lễ Ba Vua (6-1) chết cua chết cá
Lễ Nến (2-2) Tết đến sau lưng
Ca ngợi lòng thủy chung
Mẫu đơn nở cạnh nhà thờ
Đôi ta trinh tiết đợi chờ lấy nhau
Phê phán thói đạo đức giả
Đạo đức là đạo Chúa mèo
Tay cầm tràng hạt tay khèo cá rô
***
Rõ ràng, Công giáo đã hội nhập với văn hóa địa phương, đã đem vào những
đóng góp để làm phong phú thêm văn hóa bản địa và bản thân Công giáo cũng được
làm phong phú bởi nền văn hóa đa dạng của địa phương. Để khép lại vấn đề này, xin
mượn lời Giáo sư Phan Huy Lê đã nhận xét:
Trong hàng ngũ giáo sĩ có những người chỉ hoạt động vì Đức Tin và cũng góp
phần truyền bá một số thành tựu kĩ thuật phương Tây vào Đông Nam Á. Nhà toán
học và thiên văn học Jean Baptist Sebastien Pices (Bồ Đào Nha), Francois de Lima
(Bồ Đào Nha), Joseph Neugebeaur (Đức), nhà y học Jean Sibert (Tiệp), Jean de
Luererio (Bồ) là những giáo sĩ đã có thời gian hoạt động ở Đông Nam Á.
Alexandre de Rhodes cùng các giáo sĩ Francisco de Pina, Christoforo Borri, Gaspar
de Amaral, Antonio de Basbosa đã đưa hệ thống chữ cái Latinh vào Việt Nam góp
phần sáng tạo ra chữ quốc ngữ, Latinh hóa chữ Việt. [39:19-20].
CHƯƠNG 3
NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VỀ QUÁ TRÌNH THÂM NHẬP CỦA VĂN
MINH PHƯƠNG TÂY VÀO ĐÔNG NAM Á
Chính sách thống trị và bóc lột của các nước thực dân ở Đông Nam Á, trên các
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội đã để lại những hệ quả to lớn đối với các
thuộc địa, xét trên cả hai phương diện : tích cực và tiêu cực. Hệ quả tiêu cực của
chính sách cai trị của các nước thực dân để lại cho các thuộc địa là rất lớn và chủ yếu.
Tuy nhiên, những hệ quả tích cực cũng đã xuất hiện và nằm ngoài ý muốn của chính
quyền thực dân.
3.3.1. Tiêu cực
Trước hết, cùng với nền văn minh phương Tây, sự xâm nhập của chủ nghĩa
thực dân phương Tây đã làm cho toàn bộ trật tự xã hội truyền thống của các nước
Đông Nam Á bị phá vỡ. Một nền thống trị xã hội mới thấm đậm màu sắc của sự kì thị
chủng tộc được áp đặt. Người ta gọi dân bản xứ Đông Nam Á là “Culi” – Culi thầy
thuốc, Culi luật sư
Sự xâm nhập của văn minh phương Tây vào xã hội Đông Nam Á dẫn tới sự
sụp đổ của nền kinh tế làng xã cổ truyền, phá vỡ các thiết chế cũ của xã hội truyền
thống (phong kiến, tiền phong kiến, thị tộc, bộ lạc) mặc dù những kiểu xã hội đó là
bảo thủ, trì trệ. Nhưng sự phá vỡ đó không mang tính cách mạng, mà mang tính nửa
vời, mang tính cưỡng ép, áp đặt và nó chỉ dẫn tới làm cho xã hội Đông Nam Á phụ
thuộc vào thực dân. Sự xâm lược và thống trị của thực dân châu Âu ở Đông Nam Á
làm cho tính chất xã hội ở đây thay đổi và thường được gọi là xã hội thuộc địa nửa
phong kiến hay xã hội nửa phong kiến, nửa thuộc địa. Điều đó cho thấy những tàn
tích của xã hội cũ còn được bảo lưu trong xã hội mới.
Quá trình thâm nhập của văn minh phương Tây vào Đông Nam Á cũng đồng
nghĩa với sự áp đặt những giá trị văn minh mới – văn minh phương Tây vào vùng đất
này. Sự áp đặt ấy làm xói mòn những giá trị truyền thống của các nước Đông Nam Á,
trước hết là “giá trị châu Á”. Chính có “giá trị châu Á” mà mới có “con rồng châu Á”
mà Singapore là con rồng nổi trội. Chính sự phá hoại đó của chủ nghĩa thực dân đã
dẫn tới sự xung đột của các nền văn minh – văn minh phương Đông và văn minh
phương Tây. Sự xung đột ấy không chỉ để lại vết thương trong những thế kỉ trước mà
hậy quả của nó còn kéo dài cho đến tận ngày nay. Tất cả những vấn đề nổi cộm hiện
nay ở khu vực (xung đột tôn giáo ở Philippines, Indonesia, Thái Lan, ); xung đột
chủng tộc (ở Malaysia, ở Singapore trong những thập niên 60, 70 của thế kỉ XX) đều
có nguồn gốc từ sự xung đột văn minh, sự áp đặt những giá trị của văn minh phương
Tây đối với Đông Nam Á.
Dưới chế độ thực dân, ở các nước thuộc địa Đông Nam Á, nền giáo dục, y tế
thấp kém. Tình trạng dân trí thấp là nét phổ biến. Chỉ số mù chữ đều trên 90%. Chính
sách ‘ngu dân’ là một trong những đặc trnwg của chế độ cai trị thực dân. Các trường
học được xây dựng rất ít, số trường học được mở không nhằm mở mang, đào tạo
ngành nghề, nghiệp vụ chuyên môn mà chủ yếu chỉ đào tạo lớp người phiên dịch, hay
tầng lớp công chức phục vụ cho chính quyền cai trị. Trong thời thuộc địa, bệnh dịch,
nạn tử vong cao là nỗi ám ảnh người dân. Tất cả thực trạng của xã hội thuộc địa Đông
Nam Á là gánh nặng của các nước trong khu vực sau khi giành độc lập.
Một hệ quả rất lớn khác mà quá trình thâm nhập của văn minh phương Tây vào
Đông Nam Á để lại là sự phân hóa xã hội. Sự phân hóa đó diễn ra ngày càng sâu sắc.
Do chính sách của các nước thực dân, các giai cấp cũ vẫn tồn tại nhưng bị phân hóa,
những giai cấp và tầng lớp mới xuất hiện như công nhân, tư sản và tầng lớp trí thức,
tiểu tư sản Lấy sự phân hóa xã hội ở Miến Điện làm ví dụ. Sau khi chiếm được
Miến Điện, chế độ chiếm hữu ruộng đất phong kiến ở Thượng Miến vẫn được người
Anh bảo lưu, còn ở Hạ Miến thì người Anh đem chia ruộng đất cho các thương nhân,
những người cho vay nặng lãi. Thế là ở đây xuất hiện chế độ chiếm hữu ruộng đất rất
lớn. Đó là tiền đề của sự ra đời tầng lớp địa chủ mới, có thế lực gắn bó với thực dân
Anh.
Sự ra đời và phát triển của một loạt ngành kinh tế mới ở các nước Đông Nam
Á từ khi tiếp xúc với văn minh phương Tây đã là cơ sở hình thành những giai cấp
mới của một xã hội hiện đại: tư sản dân tộc và vô sản cùng tầng lớp trí thức mới. Đây
là biến đổi tích cực. Sự biến đổi này diễn ra cùng một khoảng thời gian (những năm
cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX) ở tất cả các nước Đông Nam Á. Giai cấp tư sản dân
tộc, giai cấp vô sản cùng tầng lớp trí thức mới là những người châm ngòi và là động
lực của những cuộc đấu tranh chống thực dân. Họ là những người đóng vai trò quyết
định trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Chính giai cấp tư sản dân tộc đã tiếp
thu kĩ thuật, ý thức công nghiệp, kinh nghiệm, làm quen với thị trường. Điều đó đã
tạo ra cơ hội cho nền kinh tế các nước Đông Nam Á hội nhập vào quá trình phát triển
chung của thế giới.
3.3.2. Tích cực
Như vậy, mặc dù sự thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây đã để lại
những hậu quả vô cùng nặng nền cho các dân tộc thuộc địa, song xét về góc độ khách
quan, chúng ta vẫn thấy những yếu tố tích cực mà tư bản phương Tây đem đến cho
thuộc địa, hay rõ ràng không thể phủ nhận những yếu tố mới tiến bộ, tích cực mà quá
trình thâm nhập của văn minh phương Tây đem đến cho Đông Nam Á.
Trước hết là hệ thống cơ sở hạ tầng, tuy có sự khác nhau giữa các nước. Ví dụ
như Anh, Mĩ là những nước đầu tư vào cơ sở hạ tầng nhiều hơn và lâu dài hơn Pháp,
Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Hà Lan. Vì thế, người ta thường gọi Anh, Mĩ là tư bản
khai khẩn và đầu tư. Thực dân Anh đã đầu tư vốn, kĩ thuật, hạ tầng khá lớn vào
Malaysia, Singapore ngay từ buổi đầu thời cận đại. Mĩ cũng để lại cho Philippines
những cơ sở không nhỏ. Sự đầu tư này đã dẫn đến những hải cảng được mở rộng, hệ
thống đường sắt được xây dựng, đường bộ được mở mang, hệ thống thông tin liên lạc
được thiết lập, nhiều nhà máy mọc lên Ngay cả thực dân Pháp, được xem là đế
quốc cho vay lãi, ít quan tâm đầu tư vào thuộc địa để khai thác lâu dài như thực dân
Anh, nhưng cũng có những đóng góp cho sự phát triển của kinh tế thuộc địa. Vì thế,
sau khi giành độc lập, các nước vốn là thuộc địa, trước hết là thuộc địa của Anh, đã
có cơ sở hạ tầng tương đối khá.
Chính quá trình thâm nhập của văn minh phương Tây, ở khía cạnh nào đó, đã
phá vỡ xã hội cổ truyền, các làng xã đóng kín ở Đông Nam Á, đưa chủ nghĩa tư bản
còn xa lạ vào xã hội này. Với sự phá vỡ những ngành sản xuất cũ, phát triển những
ngành công nghiệp mới, văn minh phương Tây đã thực sự bắt đầu lôi cuốn các quốc
gia Đông Nam Á vào quá trình hội nhập với thế giới.
Sự thống trị của chủ nghĩa thực dân cùng với quá trình thâm nhập của văn
minh phương Tây đã xóa bỏ đi tính địa phương cát cứ và sự chia rẽ mang tính địa lí
từ rất lâu đời, tạo ra một sự thống nhất dân tộc. Điều này không mâu thuẫn với chính
sách chia để trị của chủ nghĩa thực dân. Lịch sử đã ghi nhận ở bán đảo Mã Lai, ở
quần đảo Indonesia luôn luôn biến động về mặt chính trị, địa lí về sự cát cứ, chia
rẽ của các tiểu quốc. Chế độ thống trị của chủ nghĩa thực dân mặc dù vẫn duy trì các
tiểu quốc như ở Mã Lai nhưng đã thống nhất được về mặt chính trị và hành chính.
Sau này các chính phủ dân tộc đã kế thừa di sản này.
Sự thống trị của chủ nghĩa thực dân đã tạo ra một quá trình tiếp thu chính thể
dân chủ đại nghị từ phương Tây, vốn là trung tâm của các cuộc cách mạng dân chủ tư
sản. Chính quyền ở các nước thuộc địa Đông Nam Á trước và sau khi giành độc lập
đa số các nước trong khu vực đều thiết lập theo chế độ tam quyền phân lập. Chế độ
này trước thời kì thâm nhập của văn minh phương Tây, hoàn toàn xa lạ. Điển hình là
ở các nước Miến Điện, Philippines, Indonesia Sau khi giành độc lập, hầu hết các
nước Đông Nam Á hoạt động theo cơ chế này. Đây là yếu tố đảm bảo cho các hoạt
động dân chủ trong xã hội và so với chế độ phong kiến, nó tiến bộ hơn rất nhiều.
Hệ thống luật pháp và những cải cách xã hội mà Đông Nam Á tiếp thu được từ
quá trình thâm nhập của văn minh phương Tây là một yếu tố tích cực so với trước đó.
Các triều đại phong kiến trước đó thường sử dụng hệ thống luật pháp đẳng cấp.
Chính luật pháp phong kiến đã tạo ra sự bất bình đẳng giữa các giai cấp, tôn giáo, các
tầng lớp nhân dân ở các nước Đông Nam Á. Sự áp dụng luật pháp tư sản đã tạo ra
được nền tảng mới của luật pháp các nước Đông Nam Á thuộc địa. Thực dân nào
thống trị thuộc địa nào thì dấu ấn luật pháp sẽ mang hình ảnh của nước thực dân đó.
Ví dụ, luật pháp của Malaysia sẽ mang hình ảnh luật pháp của Anh, luật pháp của
Philippines sẽ mang dấu ấn luật pháp của Mĩ
Với hệ thống luật pháp tư sản được đưa vào thuộc địa, nó đã góp phần phá vỡ
những hủ tục truyền thống phong kiến của xã hội cổ truyền, từng bước đưa các nước
này bước vào thời đại văn minh.
Những hệ quả tích cực nói trên đã tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất định
cho các nước Đông Nam Á khi giành được độc lập để sớm có thể phát triển và hội
nhập với thế giới hiện đại, mặc dù trình độ phát triển và mức độ hội nhập cao thấp
khác nhau. D.G.E.Hall nói hơi quá, nhưng đọc kĩ ta sẽ có thể chấp nhận được phần
nào ý kiến của ông:
Các thế lực đế quốc đã cung cấp một khuynh hướngối lượng lớn vốn và kĩ
năng công nghệ mà nếu không có chúng thì sẽ không bao giờ có được sự phát triển
đến mức quan trọng về kinh tế như hiện nay của các lãnh thổ thuộc địa. Chúng còn
cách mạng hóa tình hình y tế và giúp đại đa số nhân dân thoát khỏi mối đe dọa bị
chết hàng loạt hoặc bị đau yếu do các chứng bệnh đáng sợ. Việc họ nghiên cứu về
nền nông nghiệp nhiệt đới và điều rta về những vấn đề có tầm quan trọng cơ bản
khác đã tạo ra nền móng vững chắc để có thể xây dựng sự thịnh vượng và các tiêu
chuẩn sống cao hơn”. [14 : 1145].
KẾT LUẬN
Trên chặng đường hình thành, tồn tại và phát triển, Đông Nam Á đã trở thành
một khu vực đặc sắc. Quá trình hình thành và phát triển văn minh Đông Nam Á cũng
là quá trình các cộng đồng dân cư liên tục sáng tạo, cùng với quá trình liên tục sáng
tạo là quá trình tiếp thu những thành tựu văn minh từ hai nền văn minh lớn lâu đời
bậc nhất châu Á và thế giới đó là văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Hoa, sau nữa
là văn minh phương Tây.
Các quốc gia Đông Nam Á có khác nhau về, dân tộc, ngôn ngữ, quá trình xác
lập nhà nước và chế độ xã hội nhưng đều hình thành và phát triển trên nền tảng của
nền nông nghiệp lúa nước, có điều kiện địa lí cảnh quan khí hậu thời tiết tương đồng
và những thăng trầm lịch sử đã gắn kết tự nhiên các quốc gia.
Đến đầu thế kỉ XVI, cùng với quân đội, bộ máy cai trị và phương tiện máy
móc, văn minh phương Tây đã du nhập ồ ạt vào Đông Nam Á, kể cả nước không bị
quân đội phương Tây xâm chiếm là Thái Lan. Đây là thời kì bản lề của lịch sử Đông
Nam Á hiện đại. Những biến động lớn lao, sâu xa đã đột nhiên lôi tuột Đông Nam Á
vào guồng máy thế giới hiện đại, trong khi nó vẫn còn mơ màng ở cuối thời kì trung
đại. Lần đầu tiên nó tiếp xúc với những sức mạnh vật chất của sắt thép và những nền
văn hóa xa lạ. Bỡ ngỡ, bị động, rồi chấp nhận, trước tiên vì sức ép quá mạnh. Cuộc
ép duyên Đông – Tây này, ở đây muốn nói cuộc ép duyên văn hóa, xét ra cũng là một
tất yếu lịch sử. Đông Nam Á đứng trước một vấn đề dân tộc mới mẻ, không chỉ bảo
vệ mà còn phải cải tạo và đổi mới để không bị đánh mất chính mình. Không thể nào
bảo vệ được dân tộc nếu chỉ dựa vào vốn liếng của quá khứ mà thôi. Chính vận mệnh
dân tộc lại đòi hỏi Đông Nam Á phải nhanh chóng chiếm lĩnh lấy những điểm cao
của thế giới, đặc biệt là văn hóa – khoa học – kĩ thuật của nền văn minh phương Tây,
mới mong bảo tồn được dân tộc.
Đây là thời kì đột biến văn hóa lần thứ hai ở Đông Nam Á. Mối giao lưu văn
hóa ở thời kì này chính là giữa Đông Nam Á với văn minh phương Tây. Xét riêng về
văn minh – văn hóa, cái trường quan hệ giao lưu đã mở rộng hơn trước, cả về không
gian lẫn nội dung. Trong thời kì trước, sự giao lưu văn hóa mới chỉ diễn ra giữa các
nước phương Đông – châu Á mà thôi. Nay sự giao lưu văn hóa đã mở rộng ra đến
phương Tây. Có thể nói là nó đã mở ra cả thế giới, tuy ở mức độ thấp, có giới hạn và
mang tính lệ thuộc. Còn về nội dung, nếu như thời kì trước đa số chỉ giới hạn ở tôn
giáo, thì nay đã mở rộng ra hầu hết các lĩnh vực của văn hóa.
Bước vào thời kì cận hiện đại, các quốc gia Đông Nam Á đứng trước hai thử
thách to lớn: sự ngưng trệ của xã hội tiểu nông với nền kinh tế tự cấp tự túc và sự
thống trị của thực dân phương Tây. Trước tình thế đó, các dân tộc Đông Nam Á vừa
phải tiến hành đấu tranh giành độc lập dân tộc vừa phải tiếp nhận nền văn minh
phương Tây để hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình tiếp xúc và giao lưu với văn
minh phương Tây, diện mạo của các nền văn hóa dân tộc Đông Nam Á đã có sự biến
đổi nhiều trên các mặt :
Thứ nhất, sự ra đời của những nhân tố văn hóa mới: nhà trường tân học, chữ
Latinh, báo chí, xuất bản, các ngành văn hóa nghệ thuật châu Âu hiện đại: hội họa,
kiến trúc, điêu khắc, điện ảnh, âm nhạc, sân khấu, và những nhân tố xã hội mới có
quan hệ chặt chẽ với văn hóa. Đó là tầng lớp tân học, thị dân, cộng đồng Thiên Chúa
giáo,
Thứ hai, quá trình tiếp biến văn hóa diễn ra theo quy trình từ sao phỏng, mô
phỏng cho đến bản địa hóa và được quy định bởi cách ứng xử, sự chọn lựa của mỗi
dân tộc, mỗi quốc gia Đông Nam Á.
Thứ ba, sự đổi mới văn hóa, nhất là nửa đầu thế kỉ XX, đã tạo mọi tiền đề cho
sự phát triển nền văn hóa mới khi các dân tộc ở đây giành được độc lập. Có một tình
hình đáng chú ý là nếu như trong thời kì còn bị thực dân thống trị, các dân tộc Đông
Nam Á thường có khuynh hướng bài trừ, chống đối văn minh phương Tây thì sau khi
giành được độc lập, các quốc gia Đông Nam Á đã tiếp nhận toàn bộ gia sản của chính
quyền thực dân để xây dựng một quốc gia độc lập theo hướng hiện đại. Trong hoàn
cảnh đó, không còn con đường nào khác, họ buộc phải học theo mô hình văn minh
phương Tây mà trước hết là mô hình của những nước trước kia đã thống trị họ. Do
đó, văn minh phương Tây lại được tiếp nhận với thái độ tự chủ hơn. [10:124].
Sự biến đổi diện mạo văn hóa Đông Nam Á ở giai đoạn này “không phải là
một sự bắt chước mà thực tế là một sự cấu trúc lại toàn bộ nền văn hóa” [10:125].
Giữa thế kỉ XX, hay nói cụ thể hơn là lấy năm 1945 làm mốc, các quốc gia
Đông Nam Á lần lượt giành lại được nền độc lập dân tộc. Đây là kỉ nguyên mới cho
văn hóa Đông Nam Á phát triển. Sau bốn thế kỉ tiếp xúc, giao lưu văn minh với thế
giới phương Tây, các dân tộc Đông Nam Á đã gạn lọc, tiếp thu được nhiều yếu tố
mới tiến bộ để đưa vào cùng với di sản văn hóa truyền thống của mình. Từ đây, Đông
Nam Á bước vào thời kì phát triển mới đầy thuận lợi và, trên thực tế, bước đầu đã
giành được những thành tựu đáng kể.
Tất nhiên trong quá trình tiếp xúc, giao lưu với văn minh phương Tây, Đông
Nam Á không chỉ có “nhận”. Phương Tây, như chính các học giả phương Tây thừa
nhận, cũng tiếp thu được không ít những yếu tố văn hóa mới từ Đông Nam Á.
PHỤ LỤC
Tượng Chúa vác thánh giá – Nhà thờ Chính Tòa Manila, Philippines
Ảnh: Linh mục Nguyễn Văn Tài, Philippines - 2009
Tượng Đức Mẹ bồng Chúa Hài đồng – Nhà thờ Chính Tòa Manila
Ảnh: Linh mục Nguyễn Văn Tài, Philippines - 2009
Nhà thờ Chính Tòa Manila
Ảnh: Linh mục Nguyễn Văn Tài, Philippines - 2009
Nhà thờ Chính Tòa Đà Lạt
Ảnh: Võ Thành Tâm, 2010
Nhà thờ Chính Tòa Nha Trang
Ảnh: Võ Thành Tâm, 2010
Nhà thờ Chính Tòa Phát Diệm
Ảnh: Võ Thành Tâm, 2009
Cung thánh Nhà thờ Chính Tòa Phát Diệm
Ảnh: Võ Thành Tâm, 2009
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt:
1. Crane Brinton, John B. Christopher, Robert Lee Worlff (1994), Văn minh
phương Tây, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
2. Trương Bá Cần (2000), Lịch sử phát triển Công giáo ở Việt Nam, Tập I,
Nguyệt san Công giáo và Dân tộc, số 70, trang 112.
3. Đào Quang Chính (1972), Lịch sử chữ quốc ngữ (1620 – 1659), Tủ sách Ra
khơi, Sài Gòn
4. Đỗ Quang Chính (2004), Sống đạo theo cung cách Việt Nam, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội
5. Mai Ngọc Chừ (1998), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
6. G.Coedes (2008), Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa ở Viễn Đông, Nxb Thế giới,
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội.
7. Ngô Văn Doanh - Cao Xuân Phổ - Trần Thị Lý (2000), Nghệ thuật Đông Nam
Á, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Nxb Lao động, Hà Nội.
8. Ngô Văn Doanh - Nguyễn Huy Hồng - Nguyễn Đức Ninh - Phạm Thị Vinh
(1987), Tìm hiểu văn hóa Indonesia, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
9. W. Durant (1991), Nguồn gốc văn minh, Nguyễn Hiến Lê dịch, Nxb Thuận
Hóa, Huế
10. Phạm Đức Dương – Trần Thị Thu Lương (2007), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb
Giáo dục, Hà Nội
11. Nguyễn Hồng Dương (chủ biên, 2010), Nếp sống đạo của người Công giáo
Việt Nam, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu tôn giáo, Nxb
Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
12. Nguyễn Tấn Đắc (2005), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Đại học quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh.
13. F.Engels (1971), Phép biện chứng của tự nhiên, Nxb Sự thật, Hà Nội
14. D.G.E. Hall (1997), Lịch sử Đông Nam Á, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Nguyễn Quang Hưng (2007), Công giáo Việt Nam thời kì triều Nguyễn (1802-
1883), Nxb Tôn giáo, Hà Nội
16. Nguyễn Hạnh (2006), Nhà thờ Chính Tòa Phát Diệm, Bộ sách Di tích Văn hoá
- Danh thắng, Nhà xuất bản Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
17. Đỗ Quang Hưng (1991), Một số vấn đề lịch sử Thiên Chúa giáo Việt Nam, Nhà
xuất bản Đại học Tổng hợp Hà Nội, Hà Nội.
18. Trịnh Duy Hóa (2001), Indonesia – Đối thoại với các nền văn hóa, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
19. Trịnh Duy Hóa (2002), Malaysia – Đối thoại với các nền văn hóa, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
20. Trịnh Duy Hóa (2002), Myanmar – Đối thoại với các nền văn hóa, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
21. Trịnh Duy Hóa (2003), Philippines – Đối thoại với các nền văn hóa, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
22. Trịnh Duy Hóa (2003), Lào – Đối thoại với các nền văn hóa, Nxb Trẻ, Thành
phố Hồ Chí Minh.
23. Lê Phụng Hoàng (chủ biên, 1998), Các công trình kiến trúc nổi tiếng trong lịch
sử thế giới cổ trung đại, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
24. Lê Phụng Hoàng (chủ biên, 2000), Lịch sử văn minh thế giới, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
25. Lê Phụng Hoàng (2001), Lịch sử Campuchia, Khoa Lịch sử, Trường Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
26. Lê Phụng Hoàng (2002), Lịch sử Lào, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm
thành phố Hồ Chí Minh.
27. Lê Phụng Hoàng (2003), Lịch sử Philippines, Khoa Lịch sử, Trường Đại học
Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
28. Lê Phụng Hoàng (2003), Lịch sử Indonesia, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư
phạm thành phố Hồ Chí Minh.
29. Lê Phụng Hoàng (2003), Lịch sử Indonesia từ thế kỉ XV – XVI đến thập niên
1980, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
30. Lê Phụng Hoàng (2003), Lịch sử Thái Lan từ thế kỉ XIII đến thập niên 1980,
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
31. Lê Phụng Hoàng (2004), Lịch sử Miến Điện Cận – Hiện đại, Khoa Lịch sử,
Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
32. Lê Phụng Hoàng (2005), Lịch sử Malaysia, Singapore và Brunei từ thế kỉ XVI
đến thập niên 1980, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí
Minh.
33. Lê Phụng Hoàng (2009), Các bài giảng về chủ nghĩa thực dân, Khoa Lịch sử,
Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
34. Trương Sĩ Hùng (2010), Tôn giáo trong đời sống văn hóa Đông Nam Á, Nxb
Văn hóa Thông tin, Viện Văn hóa, Hà Nội.
35. Trương Sĩ Hùng (chủ biên, 2003) – Cao Xuân Phổ - Huy Thông – Phạm Thị
Vinh, Mấy tín ngưỡng tôn giáo Đông Nam Á, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
36. Nguyễn Văn Kiệm (2001), Sự du nhập của đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam
từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XIX, Viện Nghiên cứu tôn giáo Hội Khoa học Lịch sử
Việt Nam, Trung tâm UNESCO Bảo tồn và Phát triển Văn hoá Dân tộc Việt
Nam, Hà Nội.
37. Nguyễn Văn Kiệm (1993), “Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế
kỉ XIX”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 271 (6), trang 21 – 31.
38. Đinh Trung Kiên (2006), Văn minh Đông Nam Á, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà
Nội.
39. Phan Huy Lê (1988), Vấn đề phong Thánh và lịch sử dân tộc Việt Nam, Ủy ban
Khoa học Xã hội và Ban Tôn giáo Chính phủ xuất bản, Hà Nội
40. K. Marx, F.Engels (1980), Tuyển tập, Tập I, Nxb Sự thật, Hà Nội.
41. K. Marx, F.Engels (1984), Tuyển tập, Tập VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
42. G. Moussay (1971), Dictionaire Cam – Vietnamien – Français, Trung tâm văn
hóa Chàm, Phan Rang.
43. Hồ Chí Minh (1980), Toàn tập, Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội, trang 430
44. Hội đồng Giám mục Việt Nam (2007), Bộ Giáo luật năm 1983, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội
45. Vũ Dương Ninh (chủ biên, 1997), Lịch sử văn minh nhân loại, Nhà xuất bản
Giáo dục, Hà Nội.
46. Đức Ninh (1996), Tìm hiểu lịch sử - văn hóa Philippines, Tập 1, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội, trang 145
47. Lương Ninh (chủ biên, 1999), Lịch sử văn hóa thế giới cổ trung đại, Nhà xuất
bản Giáo dục, Hà Nội.
48. Lương Ninh – Đỗ Thanh Bình – Trần Thị Vinh (2005), Lịch sử Đông Nam Á,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
49. Nhiều tác giả (2000), Đông Nam Á những vấn đề văn hóa xã hội, Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn, Trung tâm nghiên cứu Việt Nam – Đông Nam Á, Nxb Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.
50. Nhiều tác giả (2004), Nhà thờ Công giáo ở Việt Nam – Kiến trúc và lịch sử
(Catholic Churches in Vietnam - Architecture and history), Nhà xuất bản Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
51. Nhiều tác giả (2004), Sài Gòn – 3 thế kỉ phát triển và xây dựng (Trois Sciècles
de dévelop perment urbain), Nhà xuất bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
52. Ngô Minh Oanh (2008), Tiếp xúc và giao lưu văn minh nhân loại, Khoa Lịch
sử, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh.
53. Cao Xuân Phổ (2000), “Các giai đoạn nghệ thuật ở Đông Nam Á”, Nghệ thuật
Đông Nam Á, Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Nxb Lao động, Hà Nội
54. Phủ Quốc vụ khanh Tòa thánh Vatican (2004), Annuario Pontificio 2004 (Niên
giám Tòa thánh), Vatican
55. Đoàn Văn Phúc (1997), “Sự hình thành và phát triển chữ viết của các dân tộc ở
Đông Nam Á”, Các ngôn ngữ Đông Nam Á trong giao lưu và phát triển, Trung
tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Thông tin Khoa học xã hội,
Thông tin Khoa học Xã hội Chuyên đề, Hà Nội
56. Vương Hồng Sển (2004), Sài Gòn năm xưa, Nhà xuất bản Tổng hợp Đồng Nai.
57. Bùi Đức Sinh (1972), Lịch sử Giáo hội Công giáo, Nhà xuất bản Chân lý, Sài
Gòn.
58. Lê Sơn (2010), “Cộng đồng Công giáo Việt Nam ngày càng gắn bó với dân tộc
và xứng đáng làm người tiên phong trong sự nghiệp phát triển nước ta thành
rồng”, Nếp sống đạo của người Công giáo Việt Nam, Viện Khoa học Xã hội
Việt Nam, Viện Nghiên cứu tôn giáo, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà Nội.
59. Lưu Kiếm Thanh (1993), Thủ đô các nước Đông Nam Á, Nxb Văn hóa, Hà
Nội, trang 46
60. Tòa Giám mục Nha Trang (2007), Kỷ yếu Giáo phận Nha Trang 1957 – 2007,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội, trang 58
61. Toà Giám mục Phát Diệm (2003), Nhà thờ Lớn Phát Diệm, Nhà xuất bản Tôn
giáo, Hà Nội.
62. Toà Tổng Giám mục thành phố Hồ Chí Minh, Nhóm Phiên dịch các giờ kinh
Phụng vụ (2005), Kinh thánh Tân ước, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
63. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh.
64. Vũ Duy Thống (2005), Kỉ niệm 125 năm Nhà thờ Chính Tòa Sài Gòn, Một
năm của niềm vui, Tuần báo Công giáo và Dân tộc, số 1506, tháng 5.2005,
Thành phố Hồ Chí Minh.
65. Nguyễn Thế Thuấn (1976), Kinh Thánh, Tòa Tổng Giám mục Thành phố Hồ
Chí Minh, trang 5.
66. Nguyễn Văn Trinh (1996), Phụng vụ Chư Thánh, Tập 2, Đại Chủng viện thánh
Giuse, Tòa Tổng Giám mục thành phố Hồ Chí Minh
67. UNESCO (1989), Người đưa tin UNESCO, tháng 11-1989, trang 5.
68. Ủy ban Phụng Tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam (2005), “Kinh
Tiền Tụng Chúa nhật Thường niên V”, Sách lễ Roma Nghi thức Thánh lễ, Nxb
Tôn giáo, Hà Nội, trang 45].
69. Ủy ban Phụng Tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam (2008), Nghi thức
Hôn phối, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
70. Nguyễn Thành Văn (2003), “Bước đầu so sánh chế độ thuộc địa của Anh ở
Malaysia và của Pháp ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, 4-2003,
trang 76-79
71. Văn phòng Tổng Thư ký Hội đồng Giám mục Việt Nam (2004), Giáo hội
Công giáo Việt Nam - Niên giám 2004, Nhà xuất bản Tôn giáo, Hà Nội.
72. Phạm Thị Vinh (1996), “Tôn giáo và những phong tục tập quán của các dân
tộc Philippines”, Tìm hiểu lịch sử - văn hóa Philippines, Tập 1, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội
73. Trần Quốc Vượng (1980), “Suy nghĩ đôi điều về văn hóa Việt Nam”, Dân tộc
học, số 1-1980, trang 12-18].
74. Trần Quốc Vượng (chủ biên, 1997), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội
75. Viện Thông tin Khoa học Xã hội (1997), Tôn giáo và đời sống hiện đại, Hà
Nội
76. Viện Thông tin Khoa học Xã hội (1997), Tôn giáo và đời sống hiện đại, Hà
Nội
77. Colin Wilson (2003), Các Thánh địa trên thế giới, (Trần Văn Huân dịch), Nhà
xuất bản Mỹ thuật, Hà Nội.
78. O.W.Wolters (1995), “Đặc trưng văn hóa Đông Nam Á”, Tạp chí Tiến tới kỉ
nguyên châu Á – Thái Bình Dương, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh,
số 4, tháng 3-1995, trang 17-29
79. Mai Hữu Xuân (1999), Quần thể Nhà thờ Lớn Phát Diệm, Luận văn Thạc sĩ
Kiến trúc Quy hoạch, Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội.
80. Phan Huy Xu, Mai Phú Thanh (2003), Địa lí Đông Nam Á – Những vấn đề
kinh tế - xã hội, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
81. Bùi Thị Hải Yến (chủ biên), Phạm Thị Ngọc Diệp, Nguyễn Yến Ngọc (2009),
Địa lý kinh tế - xã hội châu Á, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
Tiếng Anh:
82. Tomas D. Anders (1987), Understanding the Filipino, Philippines
83. Barbara Watson Andaya, A History of Malaysia, Palgrave Macmillan
Publicsher, 1984
84. Harry Benda (1972), “The struture of Southeast Asian history: Some
preliminary observations”, Continuity and Change in Southeast Asia, Collected
Journal Articles of Harry Benda, Yale University, Southeast Asia Studies
Monograph Series No.18, New Heaven, trang 132
85. Barrau J. (1974), L’Asie du Sud-Est, berceau culturel, Etudes Rurales, trang 17
86. Donald G. Mc Cloud (1986), System and Process in Southest Asia: The
Evolution of a Region , London.
87. G.W.F.Hegel (1995), “Grunlinien der Philosophie des Rechts”, Hauptwerke in
secs Baenden, Band 5, Felix Meiner Verlag Hamburg.
88. Leonardo N. Mercado (1994), Working with Indigenous People, A Philippines
Source Book, Manila.
89. Vincent Prapanzano - Renato Rosaldo – R.Ron McGee – Richard L.Warms
(1972), Anth.Theory, Manila Seminary, Philippines.
90. Anthony Reid, Southest Asia in the age of commerce 1450-1680, Yale
University Press, 1990
91. Renato Rosaldo – R.Ron McGee – Richard L.Warms (1969), Anth.Theory,
Manila Seminary, Philippines.
92. Nicholas Tarling (2008), History of Southeast Asia – Part Two: From C.1500
to C.1800 CE, Cambridge University Press.
Các website:
93.
of-philippines
94.
the-philippines.htm
95.
96.
malaga-en-directo-live.html
97.
near-toba-lake-ina-ina231.htm
98.
inal/47881965.jpg?redirect_counter=1
99.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- qua_trinh_tham_nhap_cua_van_minh_phuong_tay_vao_dong_nam_a_tu_the_ki_xvi_den_nam_1945_918.pdf