Quan hệ kinh tế trong thập niên đầu của thế kỉ XXI đã ngày càng toàn diện
và đi vào chiều sâu. Thương mại - đầu tư Ấn Độ - ASEAN tăng khá nhanh. Ấn
Độ - ASEAN đã ký kết Hiệp định về Thương mại hàng hóa. Việc ký kết hiệp
định này đã mở đường cho việc thành lập một trong những khu vực mậu dịch tự
do lớn nhất thế giới và mang lại những cơ hội nhất định cho Ấn Độ trong quá
trình tăng cường hợp tác sâu rộng với khu vực kinh tế rộng lớn châu Á - Thái
Bình Dương. Ngoài ra, Ấn Độ cũng đã ký Hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện
song phương với Singapore; trở thành thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ hai
của Myanmar, chỉ sau Thái Lan; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Việt
Nam và ký kết Hiệp định thương mại tự do với Thái Lan. Tất cả những việc làm
đó đã tạo điều kiện cho quan hệ hợp tác kinh tế Ấn Độ - ASEAN trên cả bình
diện đa phương và song phương thu được nhiều thành quả to lớn.
144 trang |
Chia sẻ: toanphat99 | Lượt xem: 3558 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ Ấn Độ - ASEAN trong thập niên đầu của thế kỉ XXI, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ở Việt Nam,
Ấn Độ được đặt ở vị trí sau Nga, Singapore, Anh, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật
Bản, Hàn Quốc, Mỹ, pháp, Hà Lan và Canađa. Nguyên nhân vì Việt Nam và Ấn
Độ là hai nước đang phát triển và đều có nhu cầu cao về vốn và công nghệ. Phần
116
lớn khối lượng hàng xuất nhập khẩu của hai nước đều giống nhau như quần áo
may mặc sẵn, gạo, chè, cà phê... do vậy không khuyến khích được quan hệ
thương mại. Giới kinh doanh của hai nước vẫn chưa hiểu rõ thị trường của phía
bên kia do thiếu thông tin. Các xí nghiệp của Việt Nam hầu như không có khả
năng thâm nhập vào thị trường Ấn Độ còn giới kinh doanh Ấn Độ bị phụ thuộc
nặng nề vào kiểu làm việc theo kiểu cũ trong thời gian trợ cấp xuất khẩu và cũng
không có sức cạnh tranh trên thị trường. Mặc dù hai nước đã trải qua giai đoạn
đổi mới, thị trường khổng lồ Ấn Độ đã tiến hành tự do hóa mở cửa song các thủ
tục hành chính của cả hai nước vẫn còn phức tạp. Hơn nữa, các hoạt động kinh
doanh và các cuộc tiếp xúc khác giữa hai nước vẫn còn bị hạn chế bởi không có
các chuyến bay trực tiếp và đường biển.
- Trong bối cảnh hiện nay, các hoạt động hữu nghị và mối quan hệ giữa 2
dân tộc trở nên rất quan trọng. Ngày càng nhiều người dân Việt Nam đến Ấn Độ
du lịch và ngược lại. Tuy Việt Nam và Ấn Độ đã ký Hiệp định Hàng không dân
dụng từ rất lâu nhưng chưa có chuyến bay thẳng nào từ Ấn Độ đến Việt Nam
được thiết lập. Việc mở đường bay trực tiếp từ Ấn Độ sang Việt Nam sẽ là một
cú híc lớn đối với hợp tác về du lịch và kinh tế và giúp nhiều du khách Việt Nam
có nhu cầu sang Ấn Độ để tham quan di tích Phật Giáo.
3.4. Quan hệ Ấn Độ -Thái Lan
3.4.1. Sơ lược về quan hệ Ấn Độ - Thái Lan trước thế kỉ XXI
Ấn Độ và Thái Lan thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 30 Tháng 7 năm
1947 và đã trải qua những thăng trầm do ảnh hưởng của môi trường quốc tế và
những yếu tố trong nước. Sau khi Chiến tranh lạnh chấm dứt đã tạo thuận lợi cho
quan hệ song phương hai nước. Đặc biệt là từ khi Ấn Độ đề ra chính sách hướng
Đông, các quốc gia ASEAN đã phản ứng một cách tích cực với sự cải cách nền
kinh tế được thực hiện trong Ấn Độ. Sự ra đời của chính sách hướng Tây của
Thái Lan là biểu hiện trong sự thay đổi nhận thức đối với Ấn Độ. Các nhà lãnh
đạo và các nhà hoạch định chính sách của cả hai bên đã tiến hành các chuyến
thăm thường xuyên để khám phá các khả năng hợp tác mới của nhau. Chuyến
thăm đáng chú ý đầu tiên giữa Ấn Độ và Thái Lan là khi Thủ tướng Ấn Độ Rajiv
Gandhi thăm Thái Lan vào năm 1986. Chuyến thăm của ông được đáp lại bởi
117
chuyến thăm Ấn Độ của Thủ tướng Chính phủ Thái Lan Gen.Chatichai
Choonhavan vào năm 1989. Thủ tướng Narasimha Rao cũng đã có chuyến thăm
chính thức Thái Lan vào tháng 4 năm 1993. Chuyến thăm này tiếp tục kích thích
quá trình hợp tác giữa hai bên được khởi xướng bởi Thủ tướng Rajiv Gandhi.
3.4.2. Về quan hệ ngoại giao và an ninh quốc phòng
Bước vào đầu thế kỉ XXI, các chuyến thăm cấp cao được tiến hành thường
xuyên và có mục đích rõ ràng hơn. Thủ tướng Thái Lan Thaksin Shinawatra đã
tiến hành chuyến thăm cấp nhà nước đối với Ấn Độ trong tháng 11 năm 2001, và
sau đó là vào năm 2002. Trong thời gian này, hai nước quyết định thiết lập một
Nhóm làm việc chung (JWG) về các vấn đề an ninh . Sau đó, Phó Thủ tướng Ấn
Độ L K Advani đến thăm Thái Lan năm 2003 đã cung cấp một nền tảng để thảo
luận những vấn đề an ninh mà hai bên cùng quan tâm. Cả hai bên đã đồng ý thiết
lập thể chế JWG về hợp tác an ninh. Để tỏ rõ thiện chí của mình, một lần nữa
Thủ tướng Chính phủ Thaksin Shinawatra đã đến thăm và làm việc ở Ấn Độ vào
năm 2005. Trong thời gian Thủ tướng Chính phủ Thái Lan Atal Bihari Vajpayee
thăm Ấn Độ vào năm 2003, hiệp định song phương đã được ký kết. Vào năm
2004, Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã có chuyến thăm Thái Lan để tham
dự Hội nghị thượng đỉnh đầu tiên BIMSTEC tại Bangkok từ ngày 29 đến ngày
31 tháng 7. Thảo luận những vấn đề bên lề của Hội nghị thượng đỉnh, hai nước
đã thảo luận về phạm vi song phương, khu vực và các vấn đề quốc tế cùng quan
tâm. Trong năm 2007, Thủ tướng lâm thời Thái Lan Surayud Chulanont đã có
chuyến thăm Ấn Độ góp phần phá vỡ bế tắc trong các cuộc đàm phán FTA Ấn
Độ-Thái Lan. Trong chuyến thăm đó, hai nước đã đồng ý đẩy nhanh các cuộc
đàm phán về thoả thuận liên quan đến quốc phòng, an ninh. Hai Biên bản ghi nhớ
về tái tạo năng lượng và hợp tác văn hóa cũng được ký kết trong chuyến thăm
này.
Về phương diện an ninh, một phần là do Ấn Độ và Thái Lan có chung một
đường biên giới biển trong biển Andaman, nên hai nước đã tăng cường hợp tác
hải quân, bao gồm các cuộc diễn tập và tuần tra chung thường xuyên, và một
cuộc đối thoại quốc phòng mới đã được tiến hành vào năm 2011
118
3.4.3 Về quan hệ kinh tế
Năm 1997 khủng hoảng Đông Á diễn ra, trong đó có nguồn gốc ở Thái Lan,
đã tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế Thái Lan và triển vọng tăng trưởng của
nó. Một số công ty Thái Lan đã đầu tư vào Ấn Độ, đã phải tái cơ cấu hoạt động
của mình. Thương mại song phương cũng đã bị ảnh hưởng xấu mặc dù sau đó nó
có dấu hiệu phục hồi. Tuy nhiên, quan hệ hợp tác hai nước vẫn được tiến hành
thông qua tổ chức ASEAN - nơi Ấn Độ là một đối tác đối thoại - là thành viên
của Diễn đàn Đông Á và Diễn đàn hợp tác châu Á - Thái Bình Dương. Ngoài ra,
cả hai đều là thành viên sáng lập của Sáng kiến Vịnh Bengan, Hợp tác kinh tế
(BIMSTEC) và Hợp tác sông sông Hằng - Mê Kông.
Hàng hóa xuất khẩu của Ấn Độ sang Thái Lan bao gồm các mặt hàng như
đá quý, chủ yếu là kim cương và ngọc lục bảo, quặng, chất thải phế liệu kim loại,
hóa chất, sắt và thép, rau quả, máy móc và phụ tùng, thuốc và dược phẩm, sợi,
các bộ phận và các phụ kiện xe. Ấn Độ nhập khẩu từ Thái Lan chủ yếu là chất
polyme, dịch vụ phát thanh phát sóng, dịch vụ truyền hình, sản phẩm sắt và thép,
động cơ xe ô tô, phụ kiện xe hơi, máy xử lý dữ liệu tự động, sản phẩm hóa chất,
máy điều hòa không khí và các bộ phận của máy. Tổng thương mại giữa Ấn Độ
và Thái Lan tăng từ 1,05 tỷ USD trong 2001- 2002 lên 2,28 tỷ USD năm 2005-
2006 và lên mức 3,4 tỷ USD năm 2006, 4 tỷ USD vào năm 2007 [ 140 ]
Ấn Độ và Thái Lan đã ký một khuôn khổ thỏa thuận thành lập một FTA
trong năm 2003. Cả hai bên đã đồng ý rằng thuế quan của 82 mặt hàng trên một
danh sách lựa chọn sẽ được giảm 50% trong năm 2004 - 2005, giảm 75% trong
năm 2005-2006 và loại bỏ hoàn toàn sau đó để đi đến ký hiệp định thành lập
FTA vào năm 2010. Tuy nhiên, các cuộc đàm phán sau đó về FTA đã không thu
được kết quả khả quan vì hai bên không thỏa thuận được danh sách các mặt hàng
nhạy cảm. Ấn Độ có một ngàn mặt hàng nhạy cảm trong danh sách của nó trong
khi số mặt hàng nhạy cảm của Thái Lan có chứa một trăm. Phó trưởng đoàn đàm
phán Chana Kanaratanadilok Thái Lan đã phát biểu "Nếu danh sách nhạy cảm
bao gồm 1.000 trong số 5000 mặt hàng hiện đang giao dịch, làm thế nào chúng
tôi có thể gọi nó là một thỏa thuận thương mại tự do? " [ 142 ]
Trong khi đó, các nhà sản xuất trong nước ở Ấn Độ trong ba lĩnh vực: tranh
vẽ, truyền hình và máy móc tự động đang phải đối mặt với các vấn đề do giá
119
nhập khẩu rẻ hơn từ Thái Lan. Hội đồng Quốc gia về nghiên cứu kinh tế ứng
dụng (NCAER) cho biết khi FTA được ký kết, Thái Lan chỉ chiếm 1,4% tổng số
hàng hóa xuất khẩu của Ấn Độ và 0,7% của hàng hóa nhập khẩu. Cũng theo
NCAER, Ấn Độ đã có quan hệ thương mại tốt với Thái Lan trong ba năm 2000-
2003, trước khi kí Hiệp định khung FTA. Ấn Độ xuất khẩu sang Thái Lan với
mức tăng trưởng trung bình 16,6% từ 2000- 2001 đến 2002- 2003, so với 13,3%
mức xuất khẩu của Ấn Độ với phần còn lại của thế giới. Nhập khẩu từ Thái Lan
trong cùng giai đoạn tăng trưởng chỉ có 6,8%, thấp hơn hơn tốc độ tăng trưởng
7,6% trong mức nhập khẩu của Ấn Độ từ các nước khác trên thế giới. [ 142 ].
Kể từ năm 2005, quan hệ thương mại Ấn Độ - Thái Lan đã có chiều hướng
suy giảm. Xuất khẩu từ Ấn Độ sang Thái Lan đối với 82 mặt hàng đứng đầu
trong danh sách các mặt hàng nhạy cảm có giá trị 104.84 triệu USD trong tháng 4
đến tháng 12 năm 2005 so với 84,44 triệu USD trong cùng một một số lượng
hàng hóa trong năm 2003-2004. Ngược lại, xuất khẩu từ Thái Lan sang Ấn Độ
trong cùng một mặt hàng đã không thể hiện được xu hướng tương tự. Trong khi
giá trị xuất khẩu các mặt hàng này đạt 64,22 triệu USD năm 2003-2004, chỉ còn
24,54 triệu USD trong tháng 4 đến tháng 12 năm 2004-2005 [ 140 ]. Kết quả
như vậy đã dẫn đến bế tắc trong việc ký kết hiệp định FTA Ấn Độ-Thái Lan. Do
đó để tạo ra một môi trường tích cực ủng hộ cho tiến trình ký kết FTA, cần phải
giải quyết các vấn đề của các nhà sản xuất trong nước Ấn Độ có lợi ích có thể bị
tổn thương do giá sản phẩm rẻ hơn khi nhập khẩu từ Thái Lan. Tuy nhiên, trong
chuyến thăm của Tướng Cholanont đến Ấn Độ đã khởi xướng cho quá trình phá
vỡ bế tắc này. Các cuộc đàm phán đang đi đúng hướng một lần nữa dấy lên hy
vọng có thể ký kết một thỏa thuận thành lập FTA liên quan đến thương mại hàng
hóa vào năm 2010. Trong chuyến thăm hai bên đã quyết định nối lại đàm phán về
FTA hàng hoá trong tháng 7 năm 2007 và kết thúc tháng 9 năm 2007. Cả hai
cũng đã đồng ý để bắt đầu thảo luận về một FTA dịch vụ và đầu tư.
FTA Ấn Độ - ASEAN được ký kết trong cuộc họp lãnh đạo ASEAN tại
Bangkok trong năm 2009, đã cung cấp cho Thái Lan cơ hội lớn hơn trong việc
tiếp cận thị trường Ấn Độ. Các cuộc hội đàm về quan hệ thương mại hiện tại của
Thái Lan với Ấn Độ đã bàn về sự giảm thuế quan không chỉ đối với 82 mặt hàng
xuất khẩu sang Ấn Độ. Khoảng 80% thương mại trong sản xuất nông nghiệp và
120
công nghiệp sẽ dần dần được đưa xuống mức không đánh thuế quan vào năm
2010, trong khi thuế quan đối với 10% mặt hàng khác sẽ được loại bỏ vào năm
2015, 10% còn lại bao gồm các mặt hàng nhạy cảm sẽ cần phải được đàm phán
lại. Nghiên cứu này đã được đưa ra phân tích so sánh thương mại năm 2008 giữa
ASEAN và Ấn Độ của 10 thương nhân lớn nhất ASEAN và 17 thương nhân lớn
nhất của Thái Lan.
FTA Ấn Độ - Thái Lan đã tạo điều kiện cho thương mại hai nước tăng vọt
trong những năm gần đây. Thương mại hàng hóa song phương đã lên đến 7 tỷ
USD trong năm 2011 và dự kiến sẽ đạt mức 14 tỷ USD vào năm 2014. Từ thâm
hụt thương mại với Ấn Độ trung bình 200 triệu USD vào đầu những năm 2000,
Thái Lan được hưởng thặng dư thương mại ước tính khoảng 1 tỷ USD. [ 144 ]
Ấn Độ là một trong 13 nhà đầu tư lớn nhất ở Thái Lan và đầu tư rộng rãi
trong các lĩnh vực hóa chất, dược phẩm, dệt may, nylon, dây lốp xe, bất động
sản, sợi rayon, thép dây và thép thanh, bột giấy. Tuy nhiên, sản xuất và dịch vụ
công nghệ thông tin là lĩnh vực tập trung chính của Ấn Độ đầu tư vào Thái Lan.
Birla Aditya Group là công ty Ấn Độ đầu tiên đã thiết lập một liên doanh ở Thái
Lan và có 33 liên doanh Ấn Độ tham gia vào các dự án khác nhau bao gồm
Rayon Group, ngành công nghiệp Usha Martin, Ranbaxy Laboratries và hóa chất
Lupin. Đầu tư của Ấn Độ ở Thái Lan đã lên đến đỉnh cao khi tập đoàn Tata Steel
của Ấn Độ mua lại công ty Thiên niên kỷ thép từ Tập đoàn Xi măng Siam với giá
175 triệu USD. Trong khi đó, tập đoàn Tata Motors liên doanh với Nhà máy
Thonburi Automotive Assembly , với vốn khởi động đầu tư 500 triệu baht (13,8
triệu USD), sẽ sản xuất khoảng 40.000 xe tải một năm. Trong khi đó, Thái Lan
được xếp hạng là nhà đầu tư lớn thứ ba ở Ấn Độ trong khu vực ASEAN sau
Singapore và Malaysia, và đứng thứ 19 trên thế giới trong danh sách các nước về
thu hút vốn đầu tư nước ngoài kể từ tháng 8 năm 1991 đến tháng năm 2006.
Thái Lan là nước lớn thứ hai của Đông Nam Á đã thành công trong việc thu
hút FDI trị giá 7,9 tỷ USD trong năm 2006. Theo Hội nghị Liên Hiệp Quốc về
Thương mại và Phát triển (UNCTAD) nhận định, vị trí chiến lược của Thái Lan
là cửa ngõ vào Đông Nam Á, tiểu vùng sông Mekong mở rộng, và Ấn Độ đã giúp
quốc gia này trở thành trung tâm sản xuất trong khu vực ASEAN, đặc biệt trong
lĩnh vực may mặc. Theo “Báo cáo Đầu tư Thế giới năm 2011” cho biết "việc
121
dịch chuyển sản xuất hàng may mặc từ các quốc gia Đông Nam Á khác như
Malaysia đến Thái Lan có thể xảy ra do Thái Lan có nguồn nguyên vật liệu
phong phú, trình độ lao động có tay nghề cao và công nghệ hiện đại". [ 126 ]
Như vậy, quan hệ hợp tác kinh tế giữa Ấn Độ và Thái Lan trong thập niên
đầu của thế kỉ XXI đã có bước phát triển nhảy vọt. Nhưng để tận dụng cơ hội
hợp tác hơn nữa giữa hai nước, có một số lĩnh vực mà Thái Lan và Ấn Độ có thể
mở rộng hợp tác với nhau. Khi Thái Lan phát triển hoạt động kinh tế dựa trên tri
thức, hạn chế hiện tại của nó là thiếu nguồn nhân lực kỹ thuật và chuyên nghiệp,
đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Ấn Độ lại được quốc tế công nhận
như là một nước có nhiều tài năng trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Như vậy,
hai nước có thể hợp tác trong lĩnh vực này. Nếu hợp tác một cách có hệ thống, nó
sẽ tạo ra một số lượng người di cư Ấn Độ có thể mang lại một nguồn lực bổ sung
năng động trong quan hệ giữa hai nước.
Phù hợp với xu hướng quốc tế, dân số Thái Lan đang già đi nhanh chóng.
Chi phí của nó cho vấn đề chăm sóc sức khỏe dự kiến sẽ tăng đáng kể do sự lão
hóa dân số và do virut lây truyền bệnh HIV-AIDS qua đường tình dục. Thái Lan
đã thực hiện nhiều biện pháp sáng tạo để giải quyết vấn đề này, và hợp tác lớn
hơn giữa ngành công nghiệp dược phẩm của Thái Lan và Ấn Độ có thể là một
yếu tố làm giảm chi phí chăm sóc sức khỏe cho người dân.
Một lĩnh vực hợp tác tiềm năng là các lĩnh vực đá quý và đồ trang sức. Cả
hai nước Thái Lan và Ấn Độ đã phát triển mạnh lĩnh vực đá quý và ngành công
nghiệp đồ trang sức. Sự hợp tác lớn hơn giữa hai nước có thể cung cấp cho nhau
các lợi thế trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế.
122
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Sau khi phân tích mối quan hệ song phương của Ấn Độ với 4 nước trong
khối ASEAN, tôi rút ra một số nhận định sau:
- Mối quan hệ hợp tác song phương về các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn
hóa giữa Ấn Độ với bốn nước Singapore, Myanmar , Việt Nam và Thái Lan
trong thập niên đầu của thế kỉ XXI đã phát triển mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu. Có được kết quả như vậy là do nỗ lực của cả hai bên nhằm phát triển nền
kinh tế của đất nước mình cùng với sự tác động của tình hình thế giới và khu
vực.
- Cho đến thời điểm hiện nay, quan hệ Ấn Độ - Singapore vẫn đóng một vai
trò quan trọng trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ. Hiện quốc đảo này vẫn
là một trong những đối tác chiến lược đáng tin cậy nhất của Ấn Độ tại khu vực
châu Á - Thái Bình Dương. Singapore cũng là nước ủng hộ mạnh mẽ nhất những
sáng kiến địa chiến lược và sự hiện diện tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương
của Ấn Độ. Quốc đảo này cũng tạo cơ sở cho Ấn Độ hòa nhập với các nền kinh
tế Đông Á.
- Đối với Myanmar, Ấn Độ cũng đã đẩy mạnh quan hệ kinh tế - chính trị
với Myanmar sau một thời gian dài bị lãng quên. Ấn Độ đã dỡ bỏ mọi hạn chế về
việc cung cấp thiết bị quân sự, đào tạo và phần mềm, nhưng việc cung cấp luôn
diễn ra chậm chạp. Tổng kim ngạch buôn bán giữa Ấn Độ với Myanmar tăng
mạnh trong những năm gần đây, song tiềm năng thương mại qua biên giới giữa
hai nước vẫn chưa được khai thác, chủ yếu là do hai bên thiếu những cơ sở hạ
tầng cần thiết, kể cả mạng lưới đường sá. Hai nước cũng không có những thông
tin cần thiết về thị trường của nhau để cung cấp cho giới doanh nghiệp. Vì vậy,
hai nước Ấn Độ và Myanmar cần cải thiện hoạt động buôn bán mậu biên.
- Đối với Việt Nam, để thúc đẩy sự hợp tác giữa các doanh nghiệp hai nước,
Việt Nam và Ấn Độ cần trao đổi thông tin, nghiên cứu thị trường và đánh giá khả
năng hợp tác. Hai nước cần đa dạng hóa các mặt hàng xuất nhập khẩu, thực hiện
các biện pháp ưu đãi thuế quan cho nhau. Hai bên cũng cần đề ra cơ chế chính
sách cụ thể để khuyến khích giới doanh nghiệp tăng cường hợp tác trong các lĩnh
vực khác nhau và trao đổi thương mại. Đầu tư của Việt Nam cần phải được kèm
theo chuyển giao công nghệ của Ấn Độ. Ấn Độ cần thiết lập cơ chế thể chế ở cấp
123
chính phủ nhằm kết hợp chặt chẽ các khoản đầu tư tài chính, cùng nhau thăm dò
và khai thác các nguồn dầu mỏ ở ngoài khơi Việt Nam.
- Đối với Thái Lan, khi xem xét các khía cạnh quan trọng của hợp tác Ấn Độ-
Thái Lan, mức độ tăng trưởng hiện tại có vẻ thỏa đáng. Tuy nhiên, để làm cho mối
quan hệ hợp tác có hiệu quả hơn thì ngoài quan hệ song phương, cả hai phải tìm
kiếm một chân trời hợp tác mới theo khuôn khổ khu vực và tiểu khu vực. Điều
thuận lợi là, cả hai quốc gia có nhiều cơ hội hợp tác tại các tổ chức đa phương
khác nhau như ASEAN, BIMSTEC, ARF, và Tiểu vùng sông Mekong (GMS).
Tham gia tổ chức này cung cấp cho Ấn Độ và Thái Lan những cơ hội để mở rộng
sự hợp tác của họ ở những lĩnh vực mà họ đã không thể tham gia trong quan hệ
song phương. Ví dụ như việc sản xuất khí đốt trong nước của cả hai nước không
đáp ứng được nhu cầu và cả hai nước phải phụ thuộc vào nguồn khí đốt nhập
khẩu. Tuy nhiên, hợp tác song phương bị giới hạn trong lĩnh vực này. Vì vậy,
tham gia vào các nhóm tiểu khu vực như BIMSTEC cung cấp cho hai nước một cơ
hội để hợp tác trong lĩnh vực năng lượng bởi vì các thành viên khác của
BIMSTEC như Bănglađet, Mianma và Sri Lanka có đủ khả năng để liên doanh
trong lĩnh vực này. Vì vậy, để đến gần hơn và phát triển mối quan hệ một cách sâu
sắc hơn, cả Ấn Độ và Thái Lan có thể khám phá con đường hợp tác mới lẫn nhau.
Nhìn chung, trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ nhất định phải hướng
vào Singapore, Thái Lan, Việt Nam và Myanmar. Hợp tác rộng rãi với những
nước này có thể được xem như tiềm năng cho sự phát triển vùng Đông Bắc Ấn
Độ. Vì vậy, cả Ấn Độ và bốn nước ASEAN trên cần khắc phục những khó khăn
và thiếu sót như đã nêu để không ngừng nâng cao mối quan hệ song phương.
124
KẾT LUẬN
1. Ấn Độ và ASEAN có mối quan hệ hữu nghị lâu đời, đã trải qua nhiều thử
thách của lịch sử và không ngừng được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai bên
dày công vun đắp để mối quan hệ đó ngày càng phát triển tốt đẹp và đạt được
những thành tựu to lớn, nhất là những năm đầu của thế kỉ XXI trở lại đây. Những
thành tựu đó cùng với sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, những kinh nghiệm từ sự
thành công hay chưa thành công là hành trang quý báu để hai bên tiếp tục đẩy
mạnh quan hệ.
2. Từ đầu thế kỉ XXI, tình hình thế giới và khu vực có nhiều chuyển biến
nhanh chóng và phức tạp. Xu hướng toàn cầu hóa, tự do hóa ngày càng được đẩy
mạnh. Xu hướng đó vừa tạo ra thời cơ vừa tạo ra thách thức cho các nước, đặc
biệt là những nước có nền kinh tế đang phát triển như Ấn Độ và ASEAN thì
thách thức nhiều hơn là thời cơ. Cách mạng khoa học công nghệ bùng nổ làm cho
quá trình hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu phát triển nhanh và trở thành xu
thế không thể đảo ngược. Mặt khác, sự nổi lên của Trung Quốc với tốc độ kinh tế
phát triển nhanh, khoa học công nghệ có nhiều chuyển biến, ngoại giao được mở
rộng, quốc phòng được hiện đại hóa... và nhất là tham vọng vươn ra bên ngoài để
tìm không gian chiến lược cho sư phát triển của Trung Quốc đã làm cho nhiều
nước phải lo ngại. Tình hình đó khiến các nước phải liên kết lại với nhau, cùng
nhau điều chỉnh chiến lược, chính sách đối nội và đối ngoại theo chiều hướng tập
trung cho yêu cầu phát triển kinh tế, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, vừa hợp tác,
vừa đấu tranh với các đối tượng nhằm mục đích tạo cho mình có vị thế cao hơn
trên trường quốc tế.
Đứng trước sự thay đổi của thế giới và khu vực, cả Ấn Độ và ASEAN đều
có sự điều chỉnh về chính sách đối ngoại. Điều đó là phù hợp với xu thế chung
của thời đại, đóng góp tích cực vào sự phát triển của xu thế hòa bình và hợp tác
trên thế giới. Từ năm 2003, Ấn Độ đề ra chính sách ngoại giao nước lớn, đồng
thời coi trọng quan hệ với ASEAN. Ấn Độ coi ASEAN là bàn đạp để bước vào
thị trường châu Á - Thái Bình Dương. Ảnh hưởng của Ấn Độ tại khu vực này sẽ
góp phần duy trì được các mục tiêu chiến lược của Ấn Độ, kiềm chế Trung Quốc,
tạo ra sự cân bằng quyền lực mới có lợi cho Ấn Độ và cho cả ASEAN trong thế
giới đang thay đổi nhanh chóng. Vì thế, quan hệ giữa Ấn Độ và ASEAN có thể
125
mang lại cho cả hai bên cơ hội không bị phụ thuộc vào bất cứ một siêu cường
nào hay một sự áp đặt bất bình đẳng nào, mang lại lợi ích cho cả hai phía, góp
phần bảo đảm an ninh , ổn định ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Các nước thành viên của ASEAN cũng lần lượt thực hiện đổi mới chính
sách đối ngoại với tinh thần đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế.
ASEAN muốn hợp tác với Ấn Độ như một phương cách để làm tăng vị thế của
mình đối với quốc tế, đồng thời giảm phụ thuộc vào các nước lớn khác cả về an
ninh, quốc phòng và kinh tế.
Tất cả những điều đó làm cho mối quan hệ truyền thống Ấn Độ - ASEAN từ
đầu thế kỉ XXI có thêm những điều kiện thuận lợi để phát triển.
3. Quan hệ hợp tác Ấn Độ - ASEAN trong thập niên đầu của thế kỉ XXI có
nhiều tiềm năng để phát triển vì:
ASEAN là thị trường lớn về thương mại và đầu tư; có nguồn nhân lực dồi
dào và nguồn tài nguyên phong phú. Vì vậy, ASEAN là một thị trường đầy tiềm
năng và hấp dẫn đối với Ấn Độ trong hiện tại và tương lai. Trong khi đó, Ấn Độ
lại là nước có thế mạnh về khoa học kỹ thuật có thể hợp tác với ASEAN, kể cả
lĩnh vực quốc phòng. Ấn Độ có đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo, giàu
kinh nghiệm, có hệ thống viện, trường, trung tâm nghiên cứu với trang thiết bị
khá hiện đại. Nếu ASEAN là nơi có thế mạnh về phần cứng máy tính thì ngược
lại Ấn Độ là nước đứng đầu thế giới về phần mềm máy tính. ASEAN có thể hợp
tác, chuyển giao những công nghệ hiện đại của Ấn Độ, như lĩnh vực nguyên tử,
công nghệ thông tin, nông nghiệp
Thêm vào đó, cả hai bên đều có những bước phát triển nhảy vọt về kinh tế
trong những năm gần đây. Vì vậy, ASEAN đã bày tỏ thiện ý sẵn sàng hợp tác với
Ấn Độ trong các vấn đề song phương, khu vực và quốc tế. Điều này mở ra một
không gian địa chiến lược cho mối quan hệ Ấn Độ - ASEAN ngày càng tốt đẹp
hơn. Ấn Độ và ASEAN là đối tác gần gũi về mặt địa lý, có nhiều điểm tương
đồng về lịch sử, văn hóa, quan điểm trong những vấn đề quan trọng của khu vực
và thế giới như về hòa bình, an ninh, hợp tác phát triển, cùng chia sẻ về an ninh
của nước mình trước những nguy cơ từ bên ngoài. Vì vậy hai bên dễ dàng hợp
tác với nhau để giải quyết các vấn đề của khu vực và thế giới.
126
4. Quan hệ hợp tác Ấn Độ - ASEAN trong thập niên đầu của thế kỉ XXI
diễn ra trong hoàn cảnh vừa thuận lợi vừa khó khăn. Ngoài những thuận lợi, tiềm
năng phát triển nêu ở trên thì những yếu tố khách quan như xu thế hòa bình, hợp
tác ngày càng tăng cường; xu thế khu vực hóa, quốc tế hóa ngày càng phát triển,
sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học- công nghệ thế giới, sự phát triển
của nền kinh tế ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương ... cũng tạo ra những thuận
lợi đối với mối quan hệ Ấn Độ và ASEAN. Về khó khăn, thách thức , đó là cuộc
chiến chống chủ nghĩa khủng bố qua biên giới còn diễn ra khá phức tạp. Ấn Độ
đã trải qua cuộc chiến chống khủng bố kéo dài mấy thập kỉ. Vì vậy, Ấn Độ và
các nước ASEAN đã ký một Tuyên bố chung về chống khủng bố theo đó hai bên
trao đổi thông tin, hợp tác trong những vấn đề tư pháp, hợp tác trong đào tạo.
Mối đe dọa trên biển khiến Ấn Độ đang tìm kiếm khả năng bảo vệ các hoạt động
thương mại trên biển, chống lại nạn cướp biển, buôn lậu ma túy tại khu vực tam
giác Vàng. Hơn nữa, mối quan hệ ấm lên giữa Ấn Độ và các cường quốc trên thế
giới trong thời gian gần đây có thể làm giảm sự quan tâm của Ấn Độ với các
nước Đông Nam Á. Đặc biệt, sự hiện diện của Trung Quốc tại phần lớn khu vực
Nam và Đông Nam Á cũng là mối lo ngại của Ấn Độ. Các nước ASEAN đã từng
theo đuổi chính sách kiềm chế cộng hợp tác trong việc xử lí các mối quan hệ với
Trung Quốc. Không phải ngẫu nhiên mà Singapo ví châu Á giống như một con
chim có hai cánh: một cánh là Ấn Độ và cánh kia là Trung Quốc, cho phép nó
bay cao hơn tới mục tiêu phồn vinh. [ 116 ]. Bởi vậy, việc quan trọng là phải đảm
bảo an ninh cho phép tăng cường can dự ở Đông Nam Á cả với Ấn Độ và Trung
Quốc cũng như các cường quốc chủ yếu khác.
5. Quan hệ Ấn Độ - ASEAN xét cả về bình diện đa phương và song phương
trong thập niên đầu của thế kỉ XXI đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Quan
hệ chính trị ngoại giao và an ninh quốc phòng Ấn Độ - ASEAN được đẩy mạnh
trên cơ sở lợi ích của hai bên. Các cuộc tiếp xúc chính trị đang được thúc đẩy bởi
các cuộc gặp giữa các quan chức cao cấp, các nhóm công tác chuyên ngành trong
các lĩnh vực như khoa học và công nghệ, y tế, thương mại và đầu tư, giao thông
và cơ sở hạ tầng. Trước đây, các cuộc gặp gỡ chỉ mang tính hình thức thì nay nội
dung của các cuộc gặp đó đã đi vào chiều sâu. Tại những cuộc họp đó, không chỉ
có các thỏa thuận văn hóa được ký kết mà các cuộc thảo luận về kinh doanh cũng
127
được tiến hành. Ấn Độ cũng đã tiến hành các cuộc tập trận chung trên lĩnh vực
đa phương và song phương với các nước ASEAN. Với những cuộc tập trận như
vậy, sự hợp tác hàng hải hai bên đã được cải thiện và ngày càng được thúc đẩy
mạnh mẽ nhằm đảm bảo an ninh trong khu vực cũng như đảm bảo quyền lợi cho
Ấn Độ ở eo biển Malăcca.
Quan hệ kinh tế trong thập niên đầu của thế kỉ XXI đã ngày càng toàn diện
và đi vào chiều sâu. Thương mại - đầu tư Ấn Độ - ASEAN tăng khá nhanh. Ấn
Độ - ASEAN đã ký kết Hiệp định về Thương mại hàng hóa. Việc ký kết hiệp
định này đã mở đường cho việc thành lập một trong những khu vực mậu dịch tự
do lớn nhất thế giới và mang lại những cơ hội nhất định cho Ấn Độ trong quá
trình tăng cường hợp tác sâu rộng với khu vực kinh tế rộng lớn châu Á - Thái
Bình Dương. Ngoài ra, Ấn Độ cũng đã ký Hiệp định hợp tác kinh tế toàn diện
song phương với Singapore; trở thành thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ hai
của Myanmar, chỉ sau Thái Lan; thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Việt
Nam và ký kết Hiệp định thương mại tự do với Thái Lan. Tất cả những việc làm
đó đã tạo điều kiện cho quan hệ hợp tác kinh tế Ấn Độ - ASEAN trên cả bình
diện đa phương và song phương thu được nhiều thành quả to lớn.
Quan hệ văn hóa giáo dục và khoa học công nghệ của Ấn Độ và ASEAN
phát triển ngày càng phong phú, đa dạng và đạt được nhiều kết quả, nhất là trong
lĩnh vực du lịch. Những kết quả đó góp phần làm cho mối quan hệ Ấn Độ -
ASEAN thêm gắn bó và nồng ấm hơn.
Như vậy, trong thập niên đầu của thế kỉ XXI, đứng trước những thuận lợi và
khó khăn từ tình hình thế giới, khu vực và trong nước nhưng Ấn Độ và ASEAN
đã biết phát huy những thuận lợi, thời cơ để tăng cường mối quan hệ hợp tác trên
cả bình diện đa phương và song phương. Điều đó chứng tỏ cả Ấn Độ và ASEAN
đã có những nỗ lực không ngừng trong việc phát huy quan hệ hữu nghị truyền
thống của hai bên đã có từ lâu đời.
6. Mặc dù quan hệ Ấn Độ - ASEAN đã được củng cố và phát triển trong
thập niên đầu của thế kỉ XXI nhưng vẫn còn nhiều tồn tại, đó là:
- Quan hệ thương mại giữa Ấn Độ và ASEAN vẫn còn thấp. Mặc dù kinh tế
Ấn Độ tăng trưởng khá cao, song tỷ trọng của Ấn Độ trong tổng kim ngạch buôn
bán với toàn cầu của ASEAN chỉ chiếm 1%. Số liệu thống kê cho thấy, trong giai
128
đoạn 1997 - 2006, tỷ trọng thương mại Ấn Độ - ASEAN đã tăng nhẹ lên từ 1%
đến 1,6%, trong khi đó trong cùng thời kỳ thương mại Trung Quốc - ASEAN đã
tăng từ 3,7% đến 11,4% [ 143 ]. Một mối quan tâm đối với Ấn Độ là nước này
nhập khẩu từ các nước ASEAN cao hơn nhiều so với xuất khẩu vào ASEAN.
- Chính sách của Ấn Độ đối với FDI vẫn ngăn cản luồng FDI của ASEAN
vào Ấn Độ. Đầu tư từ Ấn Độ sang các nước ASEAN trong thời gian 1995-2001
là 225 triệu USD và từ các nước ASEAN đến Ấn Độ từ năm 1996-2001 là 2,1 tỷ
USD. Những con số đầu tư của Trung Quốc vào các nước ASEAN đến năm 2001
là 1,1 tỷ USD và từ ASEAN đến Trung Quốc 26,2 tỷ USD. Dòng vốn đầu tư kể
từ năm 2001 đến nay đã tăng đáng kể cả đối với Ấn Độ và Trung Quốc nhưng
tốc độ tăng trưởng của Trung Quốc là cao hơn nhiều. [ 130; tr356].
- Sự hợp tác an ninh quốc phòng giữa Ấn Độ với đa số các nước thành viên
của ASEAN vẫn chưa được phát triển. Ấn Độ đã thiết lập đối tác với Malaysia
dựa trên một loạt các cuộc họp về hợp tác quốc phòng. Tuy nhiên, hợp tác Ấn Độ
- Malaysia vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu. Ấn Độ cũng đã ký các hiệp định hợp
tác quốc phòng với Việt Nam và Lào năm 2000 và năm 2002. Ấn Độ đã giúp đào
tạo các sỹ quan quân đội của Việt Nam và giúp nâng cấp loại máy bay MIG-21
cho Việt Nam. Tháng 1/2006, Việt Nam đã yêu cầu Ấn Độ huấn luyện quân đội
Việt Nam để tham gia lực lượng giữ gìn hòa bình của Liên Hợp quốc. Ấn Độ
cũng đã cử các cố vấn quân sự tới Lào. Song sự hợp tác với hai nước này vẫn còn
bị hạn chế. Ngoài ra, sự hợp tác về mặt văn hóa, đặc biệt là trong lĩnh vực du lịch
còn có nhiều điểm hạn chế.
- Đối với các nước Đông Dương, thay vì quan hệ với từng nước riêng rẽ,
giới doanh nghiệp tư nhân và nhà nước Ấn Độ nên tìm kiếm cơ hội ở toàn khu
vực sông Mê Công. Giao thông, liên lạc, cơ sở hạ tầng cũng như dịch vụ là
những lĩnh vực then chốt cần quan tâm trước hết.
- Một khó khăn nữa là thiếu mối quan hệ giữa người dân ở cấp cơ sở của hai
bên. Nếu không có sự liên hệ mạnh mẽ của người dân ở cấp cơ sở, thì sẽ khó
khăn để phát triển ý thức cần thiết cho việc tạo ra một liên kết mạnh mẽ và bền
vững giữa ASEAN và Ấn Độ.
Tóm lại, kế thừa quan hệ truyền thống, trong thập niên đầu của thế kỉ XXI,
quan hệ Ấn Độ-ASEAN tiếp tục phát triển tốt đẹp. Sự phát triển đó không những
129
góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước của Ấn Độ và ASEAN mà
còn đóng góp thiết thực vào sự nghiệp hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển
của khu vực và trên toàn thế giới.
130
PHỤ LỤC
Một số biểu bảng, tranh ảnh minh họa
Bảng phụ lục 1. Bảng thể hiện những chỉ tiêu chọn lọc của Ấn Độ và ASEAN [131]
Ghi chú:
- Con số không có hoặc không đáng kể
a. Ngân hàng Thế giới ước tính dựa vào phương pháp Atlas của Ngân hàng Thế
giới.
b. Không bao gồm Brunei, Cam-pu-chia, Lào, và Myanmar là dữ liệu hoàn chỉnh
không có sẵn.
c. Tính trung bình đơn giản của sáu quốc gia.
Nước Dân số
(triệu người)
( 1999)
GNP ( 1999)
Tỷ USD
GNP bình quân
đầu người ( 1999)
USD
FDI
( 1998)
Tỷ USD
Nợ nước ngoài ODA
giá trị
hiện tại
PPP giá trị
hiện tại (a)
PPP Tỷ USD và % bình quân đầu người
của GDP
Ấn Độ
b) Asean
Inđônêxia
Malaysia
Philippin
Singapore
Thái Lan
Việt Nam
998.0
450.0
207.0
23.0
77.0
3.0
62.0
78.0
442.2
519.4
119.5
77.3
78.0
95.4
121.0
28.2
2,144.1
1,547.3
505.0
180.8
292.9
87.1
345.4
136.1
450.0
1,154.2
580.0
3,400.0
1,020.0
29,610.0
1,960.0
370.0
2,149.0
3,438.4
2,439.0
7,963.0
3,815.0
27,024.0
5,599.0
1,755.0
2.6
19.0
-0.4
2.3
1,7
7.2
6.9
1.2
98.2
352.0
150.9
44.8
47.8
-
86.2
22.4
2.0
8.3(c)
6.0
9.0
8.0
1.0
11.0
15.0
0.4
1.3
1.5
0.3
0.9
0.0
0.6
4.3
131
Phụ lục 2. Lược đồ Ấn Độ và các nước ASEAN
Hình phụ lục 3. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Ấn Độ lần thứ 7 năm
2008
132
Bảng phụ lục 4. Các chỉ số vĩ mô (2003) [ 134 ]
GDP tại mức giá
hiện tại.
(Triệu USD)
Tỷ lệ tăng trưởng
trong GDP (%).
GDP bình quân
đầu người ( USD).
Ấn Độ 600,658 8.2 508
ASEAN 685,981 5.0 1,266
Brunây 4,715 3,2 12,971
Cămpuchia 4,215 5,0 310
Inđônêxia 208,625 4,1 973
Lào 2,043 5,9 362
Malaysia 103,737 5,3 4,198
Myanmar 9,605 5,1 179
Philippin 79,270 4,7 973
Singapore 91,355 1,1 20,987
Thái Lan 143,303 6,8 2,291
Việt Nam 39,021 7,2 481
Bảng phụ lục 5. Ấn Độ xuất khẩu sang khu vực Đông Á, 2001- 2002 đến
2006-07 [ 136 ]. Giá trị tính bằng triệu USD
2001-
2002
2002-
2003
2003-
2004
2004-
2005
2005-
2006
2006-
2007
Ấn Độ 951.95 1,975.48 2,955.08 5,615.88 6,759.10 8,287.48
Nhật
Bản
1,510.44 1,864.03 1,709.29 2,127.91 2,481.26 2,860.47
Triều
Tiên
471.37 644.85 764.86 1,041.68 1,827.21 2,512.76
ASEAN 3,457.02 4,618.54 5,821.71 8,425.89 10,411.30 12,603.86
133
Hình phụ lục 6. Biểu đồ thể hiện thương mại của Ấn Độ và ASEAN ( 1997
- 2007) [ 144 ]
Bảng phụ lục 7. Ấn Độ nhập khẩu từ Đông Á, 2001-02 đến 2006-07 [ 136
]. Giá trị tính bằng triệu USD
2001-
2002
2002-
2003
2003-
2004
2004-
2005
2005-
2006
2006-
2007
Ấn Độ 2,036.39 2,792.04 4,053.21 7,097.98 10,868.05 17,447.01
Nhật
Bản
2,146.44 1,836.33 2,667.68 3,235.13 4,061.10 4,592.01
Triều
Tiên
1,141.37 1,522.01 2,829.17 3,508.77 4,563.85 4,802.26
ASEAN 4,387.22 5,150.17 7,433.11 9,114.66 10,883.68 18,089.64
134
Hình phụ lục 8. Lễ ký kết của AIFTA
Bảng phụ lục 9. Dòng vốn FDI vào ASEAN của nước ngoài từ 1995-2004
(Giá trị là ở Triệu USD; Bình quân %.)[ 138]
Nước 1995 2000 2001 2002 2003 2004
Giá trị Bình
quân
Giá trị Bình
quân
Giá trị Bình
quân
Giá trị Bình
quân
Bình
quân
Giá trị Bình
quân
EU 15
EU khác
Mỹ
Canada
Nhật
Triều Tiên
Hồng Công
Taiwan
Trung Quốc
Ấn Độ
ASEAN
Ôxtraylia
New Dilân
Các nước
khác
Tổng
5049.6
1171.7
4318.4
609.2
5949.3
660.2
1271.1
914
136.7
108.1
4654.4
534.9
35.4
2966.8
28079.9
18
4.2
15.4
2.2
21.2
2.4
4.5
3.6
0.5
0.4
16.6
2,0
0.1
10.6
100
13 479.6
360.6
7311.6
-397.6
455.0
-45.0
1128.8
375.9
-133.4
79.5
763.1
-302.8
43.1
-446.1
22672.2
59.5
1.6
32.2
-1.7
2.0
-0.2
5.0
1.7
-0.6
0.4
3.4
-1.3
0.2
-2.0
100
6006.5
47.1
4659.4
-555.4
1606.3
-264.8
-431.9
2524.7
147.3
32.3
2495.4
-95.1
14.7
2478.5
8 584.1
32.3
0.3
24.6
-0.3
8.6
-1.4
-2.3
13.7
0.8
0.2
13.4
-0.5
0.08
13.3
100
4235.9
851.5
357.6
-191.7
3366.2
92.4
-204.5
270.7
-80.9
96.9
3634.4
202.6
53.7
611.7
13704.7
30.9
6.2
2.6
-1.4
24.6
0.7
-1.5
2.0
-0.6
0.7
26.5
1.5
0.4
4.5
100
5230.4
1444.4
1395.3
-10.7
2317.7
642.0
100.1
826.9
188.7
81.2
2301.8
181.1
88.5
3669.6
18447.0
28.4
7.8
7.6
-0.06
12.6
3.5
0.5
4.5
1.0
0.4
12.5
1.0
0.5
20.0
100
5420.5
937.2
5051.9
92.1
2538.2
896.5
344.9
1186.6
225.9
46.3
2432.7
392.5
-1.9
2240.5
21803.9
24.9
4.3
23.2
0.4
11.6
4.1
1.6
5.4
1.0
0.2
11.2
1.8
-0.008
10.3
100
135
Bảng phụ lục 10. Cơ cấu hàng hoá của thương mại ASEAN (bao gồm Brunây,
Inđônêxia, Malaysia, Philippin, Singapore và Thái Lan) với Trung Quốc và Ấn
Độ [ 138 ]. ( Giá trị Triệu USD, bình quân %)
2001 2002 2003 2004
Giá trị Bình
quân
Giá trị Bình
quân
Giá trị Bình
quân
Giá trị Bình
quân
TQ nhập khẩu từ ASEAN
Linh kiện điện tử và các sản
phẩm
Dầu thô và sản phẩm
hỗn hợp chất béo và dầu
5412
1364
464
33.3
9.4
3.2
6535
1884
845
33.4
9.7
4.3
8921
2942
1244
33.1
10.9
4.6
14 445
3772
1542
37.5
9.8
4.0
AD nhập khẩu từ ASEAN
Linh kiện điện tử và các sản
phẩm
hỗn hợp chất béo và dầu
Dầu thô và sản phẩm
1362
826
740
23.2
14.1
12.7
3185
1179
686
39.3
14.6
9.4
1689
1558
948
21.7
20.0
12.2
2685
1522
1380
25.5
14.3
13.0
TQ xuất khẩu sang ASEAN
Linh kiện điện tử và các sản
phẩm
Dầu mỏ và sản phẩm
7334
882
43.1
5.2
10 586
998
46.4
4.4
13 057
1542
47.0
5.6
21 355
1707
50.2
4.1
AD xuất khẩu sang ASEAN
Linh kiện điện tử và các sản
phẩm
Dầu mỏ và sản phẩm
Ngọc trai và đá quý
765
120
291
89
204
370
89
204
370
2.5
5.7
10.3
79
510
390
2.0
13.0
9.9
128
1367
639
1.9
20.7
9.7
Bảng phụ lục 11. Thương mại Ấn Độ và Myanmar ( Triệu USD) [
144]
Năm Ấn Độ xuất
khẩu
Ấn Độ nhập
khẩu
Tổng Cán cân thương
mại
2006-07 139.95 781.93 921.19 (-) 641.98
2007-08 185.43 809.94 995.37 (-) 624.51
2008-09 221.64 928.97 1150.61 (-) 707.33
2009-10 207.97 1289.8 1497.77 (-) 1081.83
2010-11 194.75 876.13 1070.88 (-) 681.38
2011-12
217.65 763.32 814.6 (-) 545.67
136
Bảng phụ lục 12. Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam -Ấn Độ ( Đơn vị tính:
triệu USD) [ 122 ]
Năm 2006 2007 2008 2009 2010
Xuất khẩu của
VN
137,84 179,70 388,99 420 992
Nhập khẩu của
VN
880,28 1.356,93 2.094,40 1.635 1.762
Tổng kim
ngạch XNK
1.018,12 1.536,63 2.483,39 2.055 2.754
Cán cân
thương mại
-742,44 -1.177.23 -1.705,41 -1.215 -770
137
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tiếng Việt
1/ Sách.
1. Nguyễn Văn Dân ( 2011), Địa chính trị trong chiến lược và chính sách phát
triển quốc gia, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội
2. Hoàng Thị Điệp ( 2006), Quá trình phát triển quan hệ Việt Nam – Ấn Độ
từ năm 1986 – 2004, luận án tiến sĩ Lịch sử, Viện sử học
3. Đỗ Đức Định (chủ biên) ( 2003), Xu hướng điều chỉnh chính sách ở một số
nước châu Á trong bối cảnh toàn cầu hóa và tự do hóa, Nxb Thế giới
4. Đinh Trung Kiên (1995), Ấn Độ: Hôm qua và hôm nay, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội
5. Trần Thị Lý (chủ biên), ( 2002), Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hòa
Ấn Độ từ năm 1991 đến năm 2000, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
6. Vũ Dương Ninh (chủ biên), (1991), Các nước ASEAN, Trung tâm châu Á
– Thái Bình Dương, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
7. Vũ Dương Ninh ( chủ biên) ( 1995), Lịch sử Ấn Độ, Nxb giáo dục, Hà Nội
8. Vũ Dương Ninh ( chủ biên) ( 2007), Đông Nam Á: truyền thống và hội
nhập, Nxb Thế giới
9. Nước cộng hòa Ấn Độ ( 1983), Nhà xuất bản sự thật.
10. Cao xuân phổ, Trần Thị Lý ( Chủ biên)( 1997), Ấn Độ xưa và nay, Nxb
khoa học xã hội, Hà Nội.
11. Nguyễn Duy Quý ( 2001), Hướng tới một ASEAN hòa bình, ổn định và
phát triển bền vững, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Jim Rohwer (1997), Thời đại châu Á trỗi dậy, nhà xuất bản Thống kê.
13. Nguyễn Xuân Sơn và Thái Văn Long (1997), Quan hệ đối ngoại của các
nước ASEAN, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Trung tâm dữ kiện tư liệu – TTXVN ( 2007), Vai trò của Việt Nam trong
ASEAN, Nxb Thông Tấn Hà Nội.
15. Đinh Thị Thơm chủ biên ( 2000), Toàn cầu hóa và khu vực hóa - Cơ hội
và thách thức đối với các nước đang phát triển, Trung tâm khoa học xã hội và nhân
văn quốc gia, Viện thông tin khoa gọc xã hội, Hà Nội.
138
16. Lê Nguyễn Hương Trinh ( 2005), Chính sách ngoại thương Ấn Độ thời kì
cải cách, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội.
2/ Các bài viết trong tạp chí.
17. Ấn Độ không muốn chậm chân hội nhập với ASEAN, Tạp chí kinh tế
Việt Nam và thế giới, 14/4/2002, trang 16.
18. Ấn Độ và Thái Lan đa dạng hóa quan hệ song phương và quan hệ với
Thái Lan, Tạp chí kinh tế Việt Nam và thế giới, 9/8/2007, trang 11.
19. Trịnh Cường, Ấn Độ với mục tiêu trở thành cường quốc, Tạp chí Cộng
sản, số 4/2005
20. Tridib Chakraborti, Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam: Một tình bạn hướng
đông đã được thử thách qua thời gian, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 5 (
2003).
21. Đỗ Đức Định, 10 năm cải cách kinh tế Ấn Độ, Tạp chí Đông Nam Á, số 6
( 2001)
22. Hoàng Giáp, Hoài Anh, Vài nét về quan hệ kinh tế Ấn Độ - ASEAN hiện
nay, Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 2 ( 2000)
23. Đỗ Thu Hà, Hợp tác Việt Nam - Ấn Độ trong lĩnh vực văn hóa giáo dục
những năm gần đây, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 6 ( 2001).
24. Nguyễn Cảnh Huệ, Tìm hiểu quan điểm của nước Cộng hòa Ấn Độ trong
việc giải quyết vấn đề Cămpuchia, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 1 ( 2003).
25. Nguyễn Cảnh Huệ, Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ từ năm 1945 đến nay:
Thành tựu, kinh nghiệm và vấn đề đặt ra, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 7 ( 2007)
26. Nguyễn Cảnh Huệ, Bước phát triển mới của mối quan hệ Việt Nam-
Ấn Độ trong những năm đầu thế kỷ XXI, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Việt Nam học
lần thứ 3, Hà Nội, năm 2008.
27. Đặng Ngọc Hùng, Việt Nam và Ấn Độ: Hợp tác kinh tế, thương mại và
khoa học công nghệ, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 6 ( 2001).
28. Nguyễn Huy Hoàng, Nhìn lại 30 năm quan hệ kinh tế Việt Nam - Ấn Độ,
Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 6 ( 2001).
29. Nguyễn Thu Hương, Về vị trí của Ấn Độ trên trường quốc tế ( thời kì
1947 - 1997), Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 6 ( 1997).
139
30. Nguyễn Công Khanh, Phạm Tiến Đông, Quan hệ ngoại giao Singapore -
Ấn Độ giai đoạn 1965 - 1990, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 12 ( 2007).
31. Trần Khánh, Địa chính trị Đông Nam Á, Tạp chí Cộng sản số 16, tháng
8/2006
32. Nguyễn Văn Lịch, Vài nét về mô hình và triển vọng kinh tế Ấn Độ, Tạp
chí nghiên cứu Quốc tế, tháng 12 / 2006.
33. Trần Thị Lý, Sân khấu Đông Nam Á - Sự giao lưu và tiếp xúc với sân
khấu Ấn Độ, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 1 ( 1997).
34. Trần Thị Lý, 10 năm điều chỉnh chính sách đối ngoại của Cộng hòa Ấn
Độ ( 1991 - 2000). Những thành tựu, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 6 (
2001).
35. Cao Xuân Phổ, Đối thoại văn hóa giữa Việt Nam và Ấn Độ, Tạp chí
nghiên cứu Đông Nam Á, số 3 ( 2005).
36. Bùi Minh Sơn, Kinh tế Ấn Độ trên con đường hội nhập khu vực, hội nhập
toàn cầu và quan hệ hợp tác kinh tế Ấn Độ - Đông Nam Á, Tạp chí nghiên cứu
Đông Nam Á, số 3 ( 1997)
37. Phạm Quyết Thắng, Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong thập kỉ 90 thế kỉ
XX, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 6 ( 2001).
38. Lê Thanh Thủy, Tiếp xúc và hội nhập thương mại ở Động Nam Á từ thế
kỉ XVI - XIX, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 5( 2007)
39. Trần Cao Thành, ASEAN - Ấn Độ và hợp tác Mê Công - Sông Hằng, Tạp
chí nghiên cứu quốc tế, số 44( 2001)
40. Tôn Sinh Thành, Vài suy nghĩ về tư duy đối ngoại của Ấn Độ, Tạp chí
nghiên cứu Đông Nam Á, số 6 ( 2001).
41. Lê Nguyễn Hương Trinh, Quan hệ thương mại giữa Ấn Độ và ASEAN,
Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 3 (2002).
42. Phan Minh Tuấn, Quan hệ Ấn Độ - ASEAN: Tiến tới mối quan hệ lâu dài
và bền vững, Tạp chí nghiên cứu các vấn đề quốc tế, tháng 3 ( 2006).
43. Võ Xuân Vinh, Việt Nam trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ, Tạp
chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 ( 2005).
44. Võ Xuân Vinh, Chính sách hướng Đông của Ấn Độ: các nguyên nhân
hình thành, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 3 ( 2005).
140
45. Võ Xuân Vinh, Ấn Độ hợp tác ở Đông Á, Tạp chí nghiên cứu Đông Bắc
Á, số 5(2007).
46. Võ Xuân Vinh, Một số nội dung cơ bản trong chính sách hướng Đông của
Ấn Độ, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 10 ( 2009).
47. Xúc tiến thương mại Ấn Độ - Myanmar, Tạp chí kinh tế Việt Nam và thế
giới, 19/9/2007, trang 11.
48. Báo kinh tế thế giới
3/ Các bài viết trong tài liệu tham khảo đặc biệt ( TLTKĐB)
49. Năm nước ASEAN đang phát triển: Hãy tới đây đầu tư, TLTKĐB 21/
8/1980
50. Tìm hiểu hướng đi của Đông Nam Á trong những năm 80, TLTKĐB
12/11/1981
51. Vai trò của Ấn Độ trong một thế giới mới, TLTKĐB 24/4/1991
52. Bức tranh kinh tế của 4 nước trong khối ASEAN, TLTKĐB 29/5/1991
53. 30 năm ASEAN, kết thúc sự thần kì về kinh tế, TLTKĐB 14/11/1994,
54. Về chiến lược ngoại giao của ASEAN, TLTKĐb 13/9/1997
55. ASEAN: Bức tranh năm 2020, TLTKĐB 13/6/1997
56. Cơ hội của Ấn Độ tại thị trường vũ khí Đông Nam Á, TLTKĐB
13/9/1997
57. Tầm nhìn 2020 của ASEAN, TLTKĐB 30/12/1997
58. Tìm hiểu hướng đi của Đông Nam Á trong những năm 80, TLTKĐB
30/12/1997
59. Quan hệ Ấn Độ / ASEAN, TLTKĐB 6/12/1999
60. Quan hệ Ấn Độ - ASEAN, TLTKĐB 14/1/2000
61. Chính sách ngoại giao của Ấn Độ trong thiên niên kỉ mới, TLTKĐB
28/1/2000
62. Ấn Độ đang hướng Đông , TLTKĐB 7/3/2000
63. Hợp tác quốc phòng Ấn Độ - Việt Nam, TLTKĐB 5/4/2000
64. Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ có sức bật mới, TLTKĐB 10/4/2000
65. Ấn Độ : Hãy hướng về phía Đông, TLTKĐB 22/4/2000
66. Ấn Độ - Việt Nam phục hồi quan hệ cũ, TLTKĐB 4/5/2000
67. Quan hệ Ấn Độ - Đông Á, TLTKĐB 22/5/2000
141
68. Ấn Độ tăng cường ảnh hưởng tại Biển Đông, TLTKĐB 23/5/2000
69. Ấn Độ - Việt Nam tăng cường quan hệ, TLTKĐB 10/6/2000
70. Quan hệ Ấn Độ - Đông Nam Á, TLTKĐB 13/6/2000, 14/7/2000
71. Ấn Độ tăng cường hoạt động đối ngoại TLTKĐB 17/8/2000
72. Ấn Độ thúc đẩy quan hệ với Việt Nam, TLTKĐB 7/9/2000
73. Ấn Độ với dự án sông Hằng - Mê Công, TLTKĐB 2/12/2000
74. Ấn Độ với chính sách hướng Đông, TLTKĐB 9/12/2000
75. Ấn Độ củng cố quan hệ với ASEAN, TLTKĐB 16/1/2001
76. Ấn Độ - Thái Lan quan hệ an ninh, TLTKĐB 1/12/2001
77. Ấn Độ: Chính sách hướng Đông giai đoạn II, TLTKĐB 7/5/2002
78. ASEAN với quan hệ căng thẳng Ấn Độ - Pakixtan, TLTKĐB 18/6/2002
79. Quan hệ Ấn Độ - ASEAN, TLTKĐB 18/11/2002
80. Việt Nam - Ấn Độ mở rộng quan hệ an ninh, TLTKĐB 23/5/2003
81. Thủ tướng A.B Vajpayee nói về quan hệ Ấn Độ - Thái Lan, TLTKĐB
15/10/2003
82. Ấn Độ: Chính sách hướng Đông giai đoạn II, TLTKĐB 16/10/2003
83. Về mối quan hệ đối tác chiến lược Ấn Độ - Việt Nam , TLTKĐB
8/6/2005
84. Ấn Độ thực hiện chính sách " Cân bằng Đông - Tây", TLTKĐB
3/10/2005
85. Quan hệ Ấn Độ - ASEAN, TLTKĐB 10/1/2006
86. Chính sách hướng Đông của Ấn Độ, 15/2/2006
87. ASEAN và chính sách hướng Đông của Ấn Độ, TLTKĐB 27/2/2007
88. Ấn Độ tăng cường ảnh hưởng tại Đông Nam Á, TLTKĐB 24/3/2007
89. Chính sách Myanmar của Ấn Độ TLTKĐB 5/4/2007
90. Triển vọng khu vực mậu dịch tự do Ấn Độ - ASEAN, TLTKĐB 5/4/2007
91. Quan hệ Ấn Độ - ASEAN, TLTKĐB 14/4/2007
92. Trở ngại đối với hiệp định AFTA Ấn Độ - ASEAN, TLTKĐB 9/5/2007
93. Quan hệ đối tác chiến lược Ấn Độ - Singapore TLTKĐB 15/6/2007
94. Ấn Độ với chiến lược hướng Đông, TLTKĐB 22/6/2007
95. Quan hệ Ấn Độ - Myanmar TLTKĐB 4/7/2007, 26/7/2007, 14/8/2007
142
96. Về cuộc tập trận hải quân chung giữa Ấn Độ và ASEAN, TLTKĐB
9/8/2007
97. Ấn Độ và nền ngoại giao quốc phòng, TLTKĐB 13/10/2007
98. Ấn Độ và chính sách hướng Đông, TLTKĐB 5/11/2007
99. Ấn Độ và vấn đề Myanmar, TLTKĐB 9/11/2007
100. Ấn Độ tăng cường hợp tác quốc phòng với các nước, TLTKĐB
10/11/2007
101. Ấn Độ và Singapore trong cơ cấu phòng thủ của Mĩ tại châu Á - Thái
Bình Dương, TLTKĐB 16/11/2007
102. Quan hệ Ấn Độ - ASEAN, TLTKĐB 18/11/2007
103. Quan hệ Ấn Độ - ASEAN, TLTKĐB 14/12/2007
104. Xung quanh việc Ấn Độ cung cấp vũ khí cho Việt Nam, TLTKĐB
8/9/2007
105. Chính trị đường ống giữa Ấn Độ và Myanmar, TLTKĐB 15/9/2007
106. Quan hệ Ấn Độ và Đông Nam Á trong năm 2007, TLTKĐB 24/12/2007
107. Ấn Độ thúc đẩy vai trò trong khu vực, 10/1/2008
108. Ấn Độ cung cấp vũ khí cho Myanmar, TLTKĐB 21/1/2008
109. Trung Quốc và chính sách hướng Đông của Ấn Độ, TLTKĐB 14/3/2008
110. Quan hệ Ấn Độ và Trung Quốc - Myanmar, TLTKĐB 14/3/2008
111. Những lợi ích của Ấn Độ tại Myanmar, 3/4/2008
112. Chính sách của Ấn Độ với Myanmar, 21/6/2008
113. Quyền lợi của Ấn Độ tại Myanmar, 10/7/2008
114. Hiệp định tự do thương mại Ấn độ - ASEAN, 13/9/2008
115. Ấn Độ " hướng Đông" để phá gọng kìm của Trung Quốc, TLTKĐB
9/11/2010
116. Thời gian hướng Đông của Ấn Độ đã qua, TLTKĐB 25/11/2010
117. Hải quân Ấn Độ tại Biển Đông, TLTKĐB 10/5/2011
118. Ấn Độ tăng cường hợp tác quân sự với Việt Nam, TLTKĐB 21/7/2011
119. Thời cơ để Ấn Độ trở thành cường quốc thế giới, TLTKĐB 12/8/2011
120. Ấn Độ cần giúp duy trì hòa bình và ổn định tại Biển Đông, TLTKĐB
19/10/2011
143
4/ Các bài viết trên Internet:
121.ttnn.com.vn.
nam.gplist.291.gpopen.187811.gpside.1.gpnewtitle.that-chat-va-nang-cao-hieu-
qua-hop-tac-viet-nam-an-do.asmx
122.Chongbanphagia.vn/.../quan-he-thuong-mai-viet-nam-an-do-nam-2010-
va-trien-vong-nam-2011
123.
ns070705102310#tdetikr4dsis.
124.
nam.gplist.291.gpopen.187811.gpside.1.gpnewtitle.that-chat-va-nang-cao-hieu-
qua-hop-tac-viet-nam-an-do.asmx
125.
truyen-thong-Viet-NamAn-Do/407.vnp
126. cafef.vn/.../unctad-thai-lan-la-trung-tam-san-xuat-may-mac-cua-khu-
vuc.chn
120 . trungtamwto.vn/cachiepdinhkhac/doi-thoai-asean-do
127. dantri.com.vn/c36/s36.../an-do-chinh-sach-huong-dong-va-asean.htm
128. www.baomoi.com/An-Do-truoc-thach-thuc-lon-cua TK 21
II. Tiếng Anh
1/ Sách.
129. K.S. Sandhu ( 1994), The ASEAN reader, xuất bản tại Singapore :
ISEAS
130. Atish Sinha, Madhup Mohta ( 2007), Indian foreign policy: challenges
and opportunities, xuất bản tại Ấn Độ
2/ Các bài viết trên Internet:
131. Mukul Asher, Rahul Sen and Sadhana Srivastava ( 2001) , Asean-India:
Emerging economic opportunities, www.spp.nus.edu.sg/docs/wp/wp06.pdf
132. Mukul G. Asher And Sadhana Srivastava ( 2003), India and the Asian
Economic Community, www.spp.nus.edu.sg/docs/wp/wp41.pdf
133. Mohit Anand, ( 2009), India-asean relations,
www.ipcs.org/pdf_file/issue/SR72-Final.pdf
144
134. Vani Archana ( 2009), India-ASEAN FTA Agreement: Challenges
Ahead,
www.eastasiaforum.org/2009/10/02/india-asean-fta/
135. Sanjaya Baru ( 2001), India and asean: the emerging economic relationship
towards a bay of bengal community, www.icrier.org/pdf/baru61.pdf
136. Arianne S. Bobillo and Amirah Penalber ( 2010), Issues and Challenges
in ASEAN-India Relations: Political-Security Aspects,
papers.ssrn.comsol3papers.cfmabstract_id=1630249
137.SasiwanChingchit (2012), India, Thailand and the Burma Connection,
www.eastwestcenter.orgdownload453133307apb151.pdf.
138. Nityanand Deva ( 2006), India's Look-East Policy,
www.indianmba.com/Occasional_Papers/OP104/op104.html
139. Zhao Hong( 2006), India's changing relations with ASEAN in CHINA'S
perspective, www.eai.nus.edu.sgBB313.pdf.
140. Suparna Karmakar ( 2005), India–asean cooperation in services – an
overview, www.icrier.org/pdf/WP176.pdf
141. Prashanth Parameswaran ( 2010), Strengthening ASEAN – India Relations in
the21 Century Century,
strengthening_asean_india_relations_21st_century_parameswaran.pdf
142.Yogendra Singh ( 2007), India Thailand relation in search of new
horizons, kms1.isn.ethz.ch/serviceengine/Files/.../IPCS-Special-Report-46.pdf
143. Tuli Sinha ( 2009), India - Asean free trade agreement,
www.ipcs.org/pdf_file/issue/SR75-Tuli-Final.pdf
144. India – Myanmar Relations ( 2012),
www.mea.gov.inmystart.phpid=50044503
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tvefile_2013_01_14_1225017992_6943.pdf