Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình an ninh ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương đã thay đổi to lớn, một cục diện mới xuất hiện trong tình thế an ninh
quân sự. Quan hệ giữa Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga, ASEAN bắt đầu được điều
chỉnh tòan diện. Mỹ cho rằng một loạt thách thức đối lợi ích an ninh cửa Mỹ vẫn
tồn tại. Hai vấn đề lớn hoặc hai mối đe dọa lớn mà Washington quan tâm nhất là các
vụ rối ren mang tính chất khu vực và chạy đua phổ biến hạt nhân. Họ cho rằng các
mối đe dọa chạy đua phổ biến hạt nhân đang tồn tại ở Nam Á và bán đảo Triều Tiên,
họ cũng lo ngại Trung Quốc va Nga xuất khẩu vũ khí ồ ạt.
Tình hình căng thẳng đang tăng lên quanh biển Nhật Bản. TôKyô lo lắng, Sách
trắng hàng năm của Cục phòng vệ, được xuất bản hồi tháng 7 năm 1993 nhấn mạnh
đến mối đe dọa của Bắc Triều Tiên và những mối lo ngại về an ninh khác với một
giọng điệu chưa thấy trước đây. Trong quá khứ, cục này chủ yếu tập trung vào mối
đe dọa giữa các lực lượng của Liên Xô cũ. Vụ thử tên lửa tầm trung mới Rodong - 1
vào cuối tháng 5, của Bình Nhưỡng đã gây sửng sốt trong Cục phòng vệ. Tên lửa
Rodong-2, có thể sử dụng vào năm 1995, với tầm xa 1300km, có thể khống chế toàn
bộ nước Nhật. Cả hai đều được cho là có khả năng mang đầu đạn hạt nhân hay vũ
khí vi trùng. Bắc Triều Tiên không phải là mối đe dọa duy nhất được Nhật Bản công
nhận. Vụ nổ hạt nhân gần đây của Trung Quốc nhắc nhở đến sức mạnh của họ. Sách
trắng của Cục phòng vệ lưu ý rằng Bắc Kinh đang hiện đại hóa các lực lượng vũ
trang của họ nhất là lực lượng không quân và hải quân. Sách trắng cho biết "nhịp độ
tuy từ từ, nhưng nó đang hút sự chú ý của các nước láng giềng".
80 trang |
Chia sẻ: builinh123 | Lượt xem: 1397 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ an ninh Mỹ - Nhật thời hậu chiến tranh lạnh (1992-1999), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bày như một thách
thức quốc gia nhiệm vụ nâng cao vị trí quốc tế của Nhật thông qua việc tăng cường
những đóng góp quốc tế và tranh thủ liên minh Mỹ - Nhật dưới ngọn cờ trở thành
một nhà nước "bình thường".
Đồng thời, do Mỹ và Nhật có lợi ích chung trong việc bảo đảm sự ổn định
chính trị và kinh tế quốc tế tập trung vào đầu tư, thương mại và tài chính toàn cầu,
Nhật đã chọn chính sách ủng hộ những nỗ lực của Mỹ nhằm duy trì trật tự thế giới
hiện nay. Nói một cách khác Nhật đã chọn chiến lược giải quyết các tranh chấp ở
biển Đông và bảo vệ các tuyến đường biển, thương mại, đầu tư bằng cách lợi dụng
sự ưu việt quân sự của Mỹ như một cường quốc hải quân toàn cầu. Đây là lí do tại
sao trong tuyên bố chung Nhật công nhận việc mở rộng quy mô của hệ thống an
ninh Mỹ- Nhật bao gồm cả "an ninh" của khu vực chân Á - Thái Bình Dương"
Nhật đã thấy trước rằng liên minh song phương được tăng cường như được nêu
trong tuyên bố an ninh có thể dẫn đến các phản ứng từ các nước láng giềng, nhất là
Trung Quốc. Tuy vậy, TôKyô đã có sự lựa chọn mang tính chiến lượt đặt quan hệ
liên minh của họ với Mỹ lên trên quan hệ Trung - Nhật. Nói tóm lại các nhân tố dẫn
tới tuyên bố an ninh là Mỹ cần giảm vai trò quá tải như một sen đầm quốc tế và chú
ý phê phán ngày càng tăng về việc Nhật được tự do hành động trong an ninh. Về
phần mình, Nhật thấy cần phải duy trì một liên minh gần gũi hơn với Mỹ coi đó là
phương tiện để tăng cường ảnh hưởng chính trị của mình.
Nói một cách khác, do cả hai phía tìm cách ký kết tuyên bố an ninh, Nhật quyết
tâm đề ra phương hướng chính sách ngoại giao của mình bằng cách mở rộng ảnh
hưỏng quốc tế dựa trên cơ sở liên minh với M ỹ . Do Nhật phải giải quyết vấn đề nan
giải của việc viết lại hiến pháp và khắc phục dư luận công chúng chống đối trước
khi thực hiện việc phòng thủ tập thể những biện pháp này chắc chắn sẽ làm cho các
nước láng giềng lo ngại, Nhật Bản đã chấp nhận vai trò yểm trợ hậu cứ mở rộng cho
Mỹ. Như vậy, mũi nhọn của chính sách Nhật Bản nhấn mạnh sự liên minh với Mỹ là
dàn xếp an ninh tập trung và liên minh Mỹ - Nhật ở Đông Bắc Á đang ở trong quá
trình chuyển đổi từ nước Nhật được tự do hành động sang nước Nhật tích cực mở
rộng yểm trợ hậu cứ cho Mỹ.
3.2.2. Vai trò mở rộng của lực lượng phòng vệ
Theo tuyên bố chung an ninh Mỹ - Nhật, tháng 9/1997 hai nước đồng ý tiến
hành một loạt biện pháp tác chiến phối hợp mà mỗi bên sẽ đảm nhận trong trường
hợp khẩn cấp của khu vực. Các điều khoản yểm trợ hậu cứ cho Mỹ như nêu trong
phương châm mới, có thể mở rộng hoặc thay đổi vai trồ an ninh khu vực của lực
lượng phòng vệ Nhật trong những tháng tới.
Thứ nhất, biện pháp kêu gọi việc vận chuyển nhân lực, cung cấp thuốc men đến
vùng bị nạn theo hình thức các hoạt động cứu trợ nhân đạo có thể tạo điều kiện dễ
dàng cho sự tham gia của Nhật trong việc cung cấp vật tư, ví dụ nếu lực lượng của
Mỹ tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình (PKO) trong tình huống không có chiến
tranh, chẳng hạn như việc Bắc Triều Tiện sụp đổ hoặc nội chiến xảy ra ở đây. Mỹ có
thể có kế hoạch thúc đẩy quan hệ Mỹ - Triều Tiên ổn định thậm chí sau khi đạt được
thống nhất bằng tích cực can thiệp thông qua sự hợp tác quốc tế trong trường hợp
Bắc Triều Tiên sụp đổ và lừ đó hợp tác trong sự thống nhất và ổn định bán đảo
Triều Tiên.
Rất có khả năng Nhật Bản cũng sẽ tham gia bất cứ sự dính líu quốc tế nào với
sự sụp đổ của Bắc Triều Tiên, nếu việc đó chỉ nhằm bảo đảm mối quan hệ hữu nghị
với mội nước Triều Tiên thống nhất. Trong trường hợp này, Nhật có thể ủng hộ việc
cung cấp một lượng lớn vật tư theo thỏa thuận mua bán và dịch vụ giữa hai bên đã
được ký kết của Nhật và Mỹ. Những nỗ lực như vậy của Nhật góp phần ổn định bán
đảo Triều Tiêu có lẽ sẽ dẫn đến sự mở rộng ảnh hưởng của liên minh Nhật - Mỹ đối
với một nước Triều Tiên thống nhất, điều này đến lượt có thể trở thành một tài sản
ngoại giao hữu ích trong việc kiềm chế quan hệ Triều Tiên - Trung Quốc trong
trường hợp Nhật- Mỹ ngày càng dính líu vào các cuộc tranh chấp với Trung Quốc.
Thứ hai, nếu lực lượng phòng vệ dân sự Nhật tham gia vào các hoạt động cứu
hộ các tàu chiến của hải quan Mỹ bị tấn công ở vùng biển Triều Tiên hoặc các vùng
biển khác và đưa về khu vực hậu cứ, điều này có thể kéo theo sự hộ tống của các tàu
ngầm máy bay trinh sát, các tàu hộ tống của Nhật trong các khu vực chung quanh
vùng xảy ra chiến sự. Như vậy một địa bàn hoạt động được mở rộng ra ngoài khu
vực đối với lực lượng phòng vệ hải quân Nhật có thể được coi là vấn đề tất nhiên.
Điều đó hình như không thể tưởng tượng được rằng Nhật sẽ không phá các tàu cứu
hộ, đã túc trực ở vùng biển sát với chiến trường trước lời kêu cứu từ các tàu chiến
Mỹ chỉ vì e ngại việc giải thích quyền tự vệ tập thể theo như hiến pháp của Nhật
Bản có thể gây tranh cãi.
Thứ ba, một lĩnh vực khác của hoạt động yểm trệ là truy lùng các tàu khả nghi
ở ngoài biển khơi do lưc lượng phòng vệ hải quân của Nhật Bản tiến hành để thực
hiện các cấm vận kinh tế. Đó sẽ là trường hợp mà Nhật có thể triển khai hải quân
của mình để ngăn chặn hàng hóa đến một nước mà Hội đồng bảo an Liên Hiệp Quốc
đã áp dụng để trừng phạt kinh tế. Việc tạo điều kiện dễ dàng cho các tàu hải quân
Nhật có thể tiến hành những cuộc truy lùng ở ngoài biển khơi có thể dẫn đến việc
mở rộng khu vực cho hoạt động tìm kiếm của hải quân Nhật. Nói một cách khác,
đây có thể là một cách làm giảm sự lo ngại của các nước láng giềng đối với sự có
mặt của các tàu hải quân Nhật những khu vực đó với lý do những hoạt động tìm
kiếm như vậy không phải là hành động chiến đấu, với máy bay Nhật chỉ tham gia
vào các hoạt động đa phương dưới sự giám sát của một tổ chức quốc tế.
Thứ tư, có thể nảy sinh một tình huống trong đó các tàu hải quân Nhật được
dùng sơ tán khẩn cấp công dân Nhật ra khỏi bán đảo Triều Tiên, Đài Loan hoặc
Đông Nam Á. Được hình dung như một biện pháp yểm trệ lớn trong phương châm
an ninh mới, điều này đã gây ra những phản ứng nhạy cảm trong và ngoài Nhật Bản.
Trong quá khứ, khi Nhật Bản xâm lược Trung Quốc, quân đội Nhật Bản vẫn ở lại
những khu vực mà họ chiếm đóng với cái cớ bảo đảm an toàn cho các công dân
Nhật. Thậm chí, nếu tàu buôn Nhật, chứ không phải là tàu vận tải của hải quân mà
việc sử dụng các tàu này ở nước ngoài bị hạn chế theo điều 99 của Luật các lực
lượng phòng vệ (SDF) cùng các hoạt động hộ tống có thể cần thiết để bảo vệ các tàu
buôn điều này sẽ cho phép các tàu hải quân Nhật Bản tham gia hoạt động hộ tống
trong vùng biển ngoài khơi bán đảo Triều Tiên.
Trong trường hợp chính phủ Nhật cho phép sơ tán các công dân của mình bằng
máy bay theo diều 100 của SDF thì việc hộ tống trực tiếp của không quân thuộc lực
lượng phòng vệ Nhật Bản sẽ được yêu cầu nếu như không quân Mỹ không có mặt.
Thậm chí trong giai đoạn đầu của chiến sự, máy bay chiến đấu Nhật có thể tham gia
các hoạt động hộ tống với lý do là hoạt động của bộ chỉ huy phòng không dọc
những luyến sơ tán cho công dân Nhật. Vì những hoạt động sơ tán các công dân
Nhật, khối nước ngoài có khả năng kéo theo sự can thiệp của Nhật vào vùng lãnh
thổ được luật pháp qui định của Triều Tiên và các nước khác nên có thể nảy sinh
những phản ứng nhạy cảm đối với các hoạt động quân sự tiềm tàng của Nhật ở nước
ngoài.
Thứ năm, các biện pháp nhằm mở rộng sự yểm trợ của các lực lượng của Mỹ ở
Nhật rơi vào phạm trù "yểm trợ nước chủ nhà trong thời chiến". Các biện pháp này
yên cầu Nhật hỗ trợ về hậu cần cho lực lượng Mỹ phải triển khai ở mội nơi nào đó
ngoài lãnh thổ Nhật Bản. Điều này nhằm làm cho Nhật Bản có thể phục vụ như một
lực lượng yểm trở hậu cứ hùng mạnh. Vì điều khoảng này phải nhất quán với đạo
luật SDF và các đạo luật khác của Nhật nên phải nghiên cứu các luật bản có liên
quan dựa trên cơ sở phương châm mới. Việc phương châm này đưa ra những biện
pháp hợp tác đa dạng và cụ thể trong lĩnh vực này là bằng chứng cho thấy Mỹ quan
tâm đến việc khai thác các nguồn kinh tế của Nhật.
Về sự phối hợp tác chiến, các hoạt động thu nhập tình báo, do máy bay cảnh
giới trên không (AWACS) của Nhật Bản, hoặc loại p-3c Orions tiến hành có thể
dùng để mở rộng phạm vi can thiệp của SDF, Hải quân Mỹ có thể yêu cầu hải quân
của lực lượng phòng vệ Nhật Ban tiến hành nhiệm vụ tuần tra trên phạm vi rộng
bằng cách lận dụng số lượng lớn các máy bay tuần tra mà họ có và thực hiện các
hoạt động phát hiện chống tàu ngầm trên phạm vi rộng. Sự thật là phương châm mới
này, cho phép trao đổi thông tin về hoạt động tuần tra hàng hải và trinh sát, hình
như dành cho Mỹ để có sự yểm trợ của khả năng tuần tra và trinh sát của không
quân và hải quân lực lượng phòng vệ Nhật có thể hoạt động trong những khu vực
rộng lớn hờn các khu vực chiến sự có giới hạn trong vùng biển quanh bán đảo Triều
Tiên nên chúng có thể huy động để thay mặt hải quân Mỹ tuần tra các tuyến giao
thông trên biển (SLOC) ở biển Đông.
Chiến lược phòng thủ của hải quân lực lượng phòng vệ Nhật Bản được phát
triển phù hợp với các hoạt động chống tàu ngầm và kiểm soát eo biển để phòng thủ
chống lại mối đe dọa từ hạm đội Viễn đông của Liên Xô cũ trong thời kỳ chiến
tranh lạnh. Hạm đội 7 của Mỹ dĩ nhiên có thể kêu gợi khả năng hải quân Nhật hùng
mạnh như mội lực lượng bổ sung.
Trong trường hợp khẩn cấp, hải quân Mỹ có thể yêu cầu hải quân Nhật không
chỉ huy hoạt động trong vùng biển gần quần đảo Nhật Bản mà còn triển khai các tàu
tuần tra trên các tuyến đường biển thiết yếu. Vị dụ, nếu tàu chiến của hạm đội 7 Mỹ
và các tàu khác tập trung để đối phó với tình hình khẩn cấp ở bán đảo Triều Tiên,
thì khả năng trinh sát của hải quân và không quân của lực lượng phòng vệ Nhật Bản
có thể được sử dụng như sự răn đe chống lại những hoạt động có thể xảy ra của hải
quân Trung Quốc tại eo biển Đài Loan hoặc biển Đông.
Do Nhật có bốn tàu hậu cần lớn, hải quân của lực lượng phòng vệ có đủ khả
năng tham gia hoạt động tuần tra các vùng biển xa tới tận eo biển Malacca. Mặc dù
quân đội Trung Quốc áp đảo lực lượng của Nhật về con số đơn thuần, nhưng chất
lượng của hải quân lực lượng phòng vệ Nhật chỉ đứng sau hạm đội 7 của Mỹ ở Tây
Thái Bình Dương, Do khả năng tấn công tên lửa một cách chính xác và khả nắng
phân tích tình báo có thể bao trùm trong các trận hải chiến hiện đại nên hải quân
Trung Quốc có thể sẽ ở vào thế bất lợi về chiến thuật trước lực lượng hải quân Nhật
Bản được huy động tuần tra các tuyến đường biển thiết yếu, mặc dù các tàu ngầm
chạy bằng năng lực hạt nhân của Trung Quốc được trang bị vũ khí hạt nhân là một
lực lượng răn đe chiến lược quan trọng. Nói một cách khác, do khả năng chiến đấu
hiện nay của riêng Nhật Bản được coi là đủ để ngăn chặn Trung Quốc mở một cuộc
tấn công chống lại hải quân Nhật Bản nên tính hiệu quả của các tàu tuần tra trên
biển của hải quân của lực lượng phòng vệ Nhật là điều hoàn toàn rõ ràng.
Trong lĩnh vực thứ 6 về hợp tác các tàu quét mìn của hải quân lực lượng phòng
vệ Nhật Bản có thể được triển khai để rà mìn ở vùng biển quốc tế. Trường hợp khẩn
cấp ở bán đảo Triều Tiên, Nhật có thể chủ động trong việc vớt mìn từ biển khơi để
bảo vệ các tàu của mình trong biển Nhật Bản và ngăn chặn không cho mìn lọt vào
vùng biển Nhật. Nếu xung đột nổ ra giữa Trung Quốc và Đài Loan và hải quân
Trung Quốc rải mìn quanh Đài Loan, tàu hải quân Nhật có thế được triển khai để
vớt mìn từ biển khơi nhằm mục đích bảo vệ hải quân Mỹ hoặc duy trì sự bảo vệ của
SLOC. Và nếu khi hải quân của lực lượng phòng vệ Nhật Bản tham gia dọn mìn ở
dọc eo biển Đài Loan hoặc ở Đông Nam Á, nó sẽ có tác động tăng thêm tính cơ
động tác chiến của hải quân Mỹ. Theo cách này, hải quân của lực lượng phòng vệ
Nhật có thể đóng vai trò bổ sung đầy ý nghĩa trong việc thực hiện các hoạt động
kiểm soát hàng hải của hải quân ở Tây Thái Bình Dương.
3.2.3. Lập trường của Trung Quốc đối với việc mở rộng lực lượng phòng vệ Nhật
Hàn.
Để đánh giá lập trường của Trung Quốc đối với phương châm chỉ đạo phòng
thủ mới, qui định việc lực lượng phòng vệ Nhật Bản can thiệp vào nước ngoài và tác
động tiềm tàng của nó đối với an ninh khu vực thì phải nghiên cứu về phản ứng của
Trung Quốc đối với tuyên bố chung an ninh Mỹ - Nhật. Mặc dù phương châm mới
không nói rõ các mục tiêu cụ thể của sự hợp tác Mỹ - Nhật, tuyên bố năm 1996 mô
tả rõ lập trường chiến lược của hai nước này đối với Trung Quốc.
Ngay sau khi ra tuyên bố chung, nghe nói các quan chức cấp cao của Nhật Bản
và Mỹ đã đi thăm Nga để giải thích với tổng thống Boris Yeltsin về mục đích của
tuyên bố này. Đây là một cử chỉ ngoại giao để thuyết phục Nga, không nên có nhiều
mối lo ngại không thích hợp về lời tuyên bố. Dường như đạt kết quả, Nga đã lặng
thinh. Nhưng không có lời giải thích hoặc cử chỉ ngoại giao tương tự nào được;
dành cho Trung Quốc. Lời tuyên bố được chuyển tới Trung Quốc dưới hình thức
tuyên bố đơn phương khiến Trung Quốc lo ngại rằng khi một phần bản tuyên bố có
ý định chuyển một bức thông điệp tới Bắc Triều Tiên, chủ yếu là nhằm chống lại
Trung Quốc.
Khi Trung Quốc tổ chức các cuộc tập trận nhằm đe dọa Đài Loan hồi tháng
3/1996, Mỹ đã phản ứng nhanh chóng, tố cáo hành động của Trung Quốc là khiêu
khích đồng thời phái ngay một tàu sân bay, USS Independence, tới khu vực Đài
Loan để biểu thị thái độ sẵn sàng can thiệp của Mỹ. Mỹ cảm thấy cần phải biểu lộ ý
định kiên quyết can thiệp của họ, dựa trên sự lo ngại rằng tình hình căng thẳng ở eo
biển Đài Loan nảy sinh từ việc phống tên lửa và tập trận của Trung Quốc có thể leo
thang thành một thách thức ngoại giao.
Với ý nghĩ cho rằng các cuộc tập trận của Trung Quốc chủ yếu tập trung ở
chung quanh các vùng biển gần hai thương cảng lớn của Đài Loan, Kaohsiung và
Keelung như là một phương tiện nhằm gây sức ép tâm lý lên tổng thống Leo Teng-
hui trước cuộc bầu cử tổng thống Đài Loan tháng 3/1996, Washington đã nhanh
chóng thể hiện ý đồ can thiệp của mình.
Trong đạo luật về quan hệ Đài Loan năm 1979, Mỹ tuyên bố, với những từ ngữ
có phần nào mơ hồ về khả năng can thiệp của họ trong trường khẩn cấp ở eo biển
Đài Loan. Đạo luật này quy định rằng Mỹ có thể giúp đỡ cho việc phòng thủ Đài
Loan và rằng việc tẩy chay hoặc cấm vận buôn bán Đài Loan có thể được coi là một
thách thức ngoại giao nghiêm trọng đối vói Mỹ, thực tế tuyên bố rằng Đài Loan nằm
trong phạm vi ảnh hưởng của Mỹ.
Chắc chắn, Mỹ không ở trong trạng thái ngồi yên nếu xảy ra bất kỳ hành động
nào chống lại Đài Loan xét theo tầm quan trọng về địa lí kinh tế và giá trị chiến
lược tủa Đài Loan. Đài Loan về mặt địa lí, Đài Loan gần Okinawa nơi duy nhất có
một đơn vị hải quân Mỹ triển khai ở nước ngoài đóng và là nơi có căn cứ không
quân lến nhất của Mỹ ở nước ngoài Kadena, ngoài ra Đài Loan nằm ở vị trí chiến
lược kiểm soát bước tiến của hải quân Trung Quốc xuống biển Đông.
Vì thế cho nên Mỹ nhanh chóng có biện pháp bảo vệ Đài Loan bằng cách đưa
tàu sân bay USS independene từ căn cứ ở Yokosuka- Nhật, tới vùng biển ngoài khơi
Đài Loan. Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật 1960 không nêu cụ thể rằng lực lượng Mỹ ở
Nhật Bản chỉ có thể được sử dụng để phòng thủ Nhật, điều này khiến cho Nhật
không thể chống lại việc sử dụng căn cứ không quân và hải quân Mỹ đóng ở
Okinawa vào các hoạt động khẩn cấp ở chung quanh Đài Loan, nếu không Nhật Bản
có thể đưa ra sự phản đối với lý do rằng tình trạng khẩn cấp như vậy không gây ra
mối đe dọa trực tiếp chống lại an ninh của Nhật.
Hãy xem các báo cáo về chính sách, được Lầu Năm Góc và Hội đồng tham
mưu trưởng liên quân Mỹ chuẩn bị năm 1995, nêu rõ rằng tất cả lực lượng Mỹ ở
Nhật, đặc biệt là lực lượng không quân và hải quân ở Okinawa được triển khai ở các
khu vực tiền phương để bố trí họ ở tư thế tốt hơn và triển khai ngay tới Khu vực có
tranh chấp. Qua cuộc khủng hoảng ở eo biển Đài Loan hồi tháng 3/1996, qua khả
năng Mỹ can thiệp vào một cuộc tranh chấp giữa Trung Quốc và một trong những
láng giềng của họ đã trở thành sự thật.
Cuộc tranh luận giữa Chánh văn phòng nội các Nhật Seiroku Kajivama và tổng
thư ký đảng Dân chủ tự do cầm quyền Koichikato về vấn đề Đài Loan có nằm trong
phạm vi hợp tác Mỹ - Nhật trong trường hợp khẩn cấp hay không, dường như có
điều gì liên quan tới bối cảnh này. Cuộc tranh luận này nổ ra ngay sau khi có bản dự
thảo báo cáo được chuẩn bị hồi tháng 4/1997, theo phương châm mới.
Trong chuyến thăm của thủ tướng Nhật Ryutaro Hashimoto sang Bắc Kinh
tháng 9/1997, thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đã bày tỏ sự phản đối dứt khoát về
việc áp dụng phương châm an ninh Mỹ - Nhật mới đối với vấn đề Đài Loan. Thủ
tướng Hashimoto trả lời với lời lẽ có phần mơ hồ rằng khái niệm về các khu vực
xung quanh như ghi trong phương châm mới không xác định bất cứ khu vực cụ thể
nào.Vai trò ngày càng tăng của lực lượng phòng vệ Nhật Bản có thể có một tác động
quan trọng đối với quan hệ Mỹ -Trung Quốc và Nhật - Trung và có thể xuất hiện
như một nhân tố của sự thay đổi cơ bản đối với trật tự an ninh đang tồn tại ở Đông
Á. Ở đây, để hiểu rõ hơn lập trường của Trung Quốc đối với Tuyên bố chung an
ninh Mỹ - Nhật, trước hết phải xem xét sự nhận thức về lịch sử của Trung Quốc và
mối liên hệ giữa đồng minh Mỹ - Nhật và hệ thống hợp tác an ninh giữa Hàn Quốc,
Nhật, Mỹ. Khi Nhật đánh bại Trung Quốc trong chiến tranh Trung.- Nhật 1894-
1895, ảnh hưởng của Trung Quốc đối với Triều Tiên bị tiêu tan và bán đảo Triều
Tiên đảm đương một vai trò quan trọng như một đầu cầu cho bước tiến của Nhật
vào Trung Quốc. Kinh nghiệm này khiến cho Trung Quốc nhận thức rằng ảnh hưởng
đặc biệt của Nhật ở bán đảo Triều Tiên là một mối đe dọa an ninh nghiêm trọng. Vì
đã chịu nhiều cuộc chiến tranh xâm lược của Nhật Bản trước và trong cuộc chiến
tranh thế giới thứ II, Trung Quốc đã rút ra một bài học đau đớn từ sự bất hạnh của
bán đảo Triều Tiên dưới sự kiểm soát của Nhật, một bài học đã hình thành nguyên
tắc cơ bản của chính sách Trung Quốc đối với bán đảo Triều Tiên sau chiến tranh
thế giới thứ hai kết thúc: rằng không có một trường hợp nào sẽ cho phép một lực
lượng thù địch có chung biên giới đường bộ với Trung Quốc. Vì thế cho nên trong
cuộc chiến tranh Triều Tiên, Trung Quốc mặc dù tình hình nội bộ gặp khó khăn do
hậu quả của một cuộc nội chiến tận phá, đã cử một số lượng rất lớn "chí nguyện
quân" tới Triều Tiên để ngăn không cho Bắc Triều Tiên bị chiếm đóng hoàn toàn.
Thậm chí sau chiến tranh, Trung Quốc coi mối quan hệ với Bắc Triều Tiên như một
biện pháp duy trì Bắc Triều Tiên như một nhà nước đệm.
Khi Hàn Quốc và Nhật Bản đề xướng hiệp định cơ bản cho việc bình thường
hóa quan hệ ngoại giao ngày 20/2/1965, Trung Quốc tố cáo khả năng xuất hiện của
một liên minh quân sự giữa Hàn Quốc, Nhật Bản và Mỹ, buộc tội Washington tìm
cách thành lập một khối quân sự ở châu Á . Vào lúc ký chính thức hiệp định cơ bản
ngày 22/6/1965, Trung Quốc chỉ trích hiệp định này, nói rằng hiệp định này là "một
âm mưu nghiêm trọng của Mỹ hòng chia cắt vĩnh viễn Triều Tiên, chiếm đóng trái
phép Nam Triều-Tiên và dùng Nhật phục vụ cho cuộc tiến công xâm lược của Mỹ.
"Sau đó, Trung Quốc tiếp lục chiến dịch chống lại "chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản".
Tuy nhiên, việc Trung Quốc tố cáo liên minh Mỹ - Nhật và khả năng can thiệp
của hai nước vào bán đảo Triều Tiên đã dần dần lắng xuống. Thứ nhất, chính sách
ngoại giao Trung Quốc của tổng thống Mỹ Richard Nixon đã hình thành một sự hòa
hoãn Mỹ -Trung chống lại Liên Xô. Thứ hai, Mỹ bắt đầu quan tâm tới tiềm năng thị
trường của Trung Quốc. Trong khi đó vì quan hệ giữa Trung Quốc với Nhật Bản
được bình thường hóa, Bắc Kinh phát triển thuyết "ba thế giới". Nói một cách khác,
trong khi theo quan điểm của Trung Quốc sự đối đầu giữa các nước đế quốc phương
Tây tiên tiến và khối XHCN tập trung vào Liên Xô, Trung Quốc bây giờ công nhận
Nhật và châu Âu như những thực thể mới độc lập với Mỹ. Cuối cùng, Trung Quốc
bắt đầu nuôi dưỡng quan niệm rằng có thể chia rẽ mối quan hệ Mỹ - Nhật và lợi
dụng sự va chạm giữa hai nước.
Tiếp theo việc bình thường hóa quan hệ với Seoul năm 1992, Bắc Kinh bất đầu
áp dụng một chính sách linh hoạt đối với bán đảo Triều Tiên, giảm bớt phản đối sự
có mặt quân sự của Mỹ ở Hàn Quốc. Xác định rằng cuộc chạy đua giữa Bắc và Nam
Triều Tiên đã được ngã ngũ, Trung Quốc đã chấp nhận Hàn Quốc như một mô hình
của phát triển kinh tế và từ chối năm 1980 bắt đầu tăng cường hợp tác kinh tế với
Hàn Quốc. Tuy nhiên việc làm dịu tình hình căng thẳng của cuộc chiến tranh lạnh ở
khu vực Đông Á mới đây lại bị thất bại thêm do Mỹ bắt đầu coi Trung Quốc như
một mối đe dọa đối với an ninh khu vực, nhất là sau sự kiện Thiên An Môn năm
1989. Việc Trung Quốc tố cáo chủ nghĩa bá quyền Mỹ, Mỹ tỏ ý lo ngại về tình trạng
lạm dụng nhân quyền ở Trung Quốc, các vụ tranh chấp thương mại tăng lên và Mỹ
quan niệm Trung Quốc như một mối đe dọa đối với an ninh khu vực đã dẫn đến mối
quan hệ căng thẳng giữa hai nước này.
Tinh hình xấu đi trong quan hệ Trung Quốc - Mỹ thời kì sau chiến Hanh lạnh
đã lên đến đỉnh cao hồi năm 1994, khi vấn đề Đài Loan dẫn tới việc Nhật Bản và
Mỹ gây sức ép ngoại giao đối với Trung Quốc với hình thức tuyên bố an ninh
chung. Mặt trái liên minh này khiến Trung Quốc phẫn nộ. Khi tuyên bố chung được
công bố ngày 17/04/1996, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói rằng
Nhật và Mỹ, vượt quá phạm vi chia sẻ gánh nặng an ninh, đang đưa ra một nhân tố
gây bất ổn định cho khu vực của châu Á - Thái Bình Dương, và nói thêm rằng Trung
Quốc hy vọng Nhật cư xử một cách thận trọng với sự suy nghĩ về lịch sử.
Trong khi ghi nhận rằng hệ thống an ninh Nhật - Mỹ có thể mở rộng chức năng
của nó để bảo đảm sự ổn định ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương sau khi chiến
tranh lạnh kết thúc, nhà cầm quyền Trung Quốc nói rằng tuy nhiên họ vẫn lo ngại sự
hợp tác Mỹ - Nhật có thể đi xa đến đâu vượt qua tình hình an ninh trước mắt Nhật
và liệu thỏa thuận song phương này sẽ can thiệp vào vấn đề Đài Loan hay không?
Nhà cầm quyền Trung Quốc cũng bày tỏ mối quan ngại rằng tuyên bố chung an ninh
Mỹ - Nhật nhằm tăng cường kiềm chế Trung Quốc. Một quan chức ngoại giao cấp
cao Trung Quốc cảnh báo rằng chẳng cần thiết phải cầu khẩn tới hệ thống an ninh
chung, trừ khi Nhật bị đe dọa. Nếu (Nhật) can thiệp vào các vấn đề khu vực và vấn
đề Đài Loan, như vậy là vượt quá cơ cấu của hiệp ước giữa hai nước, thì nó có thể
dẫn tới tình trạng phức tạp. Nếu Nhật Bản chìa tay ra với một nước Mỹ bá quyền,
thì bản chất của hiệp ước an ninh sẽ bị thay đổi và điều đó sẽ không phục vụ các lợi
ích của Nhật Bản.
Bình luận về việc mở rộng sự hợp tác giữa Nhật và Mỹ thông qua các hoạt
động của lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc như nêu trong bản tuyên bố
chung, Zhao Chieqi, phó giám đốc Viện Nhật Bản thuộc Viện hàn lâm khoa học xã
hội Trung Quốc, nói rằng cái còn phải bàn không phải là sự hợp tác Mỹ - Nhật trong
các hoạt động gìn giữ hòa bình ở nước ngoài trong tương lai, mà là vấn đề đặt cơ sở
cho khả năng sửa đổi hiến pháp "hòa bình" của Nhật.
Trong khi đó, cần phải ghi nhận rằng trái với sự cảnh giác của Trung Quốc,
Đài Loan hoan nghênh bản tuyên bố an ninh, ngày 17/4/1996, Bộ ngoại giao Đài
Loan nói rằng việc bắt đầu nghiên cứu các tình hình khẩn cấp như ghi trong tuyên
bố chung này là một bước quan trọng mà Đài Loan ủng hộ. Báo ChungYang JihPao
của Đài Loan ngày 17/4 nói rằng Nhật trở nên quan tâm, do việc Trung Quốc phống
lên lửa qua eo biển Đài Loan về sự cần thiết phải mở rộng hợp tác quân sự Mỹ -
Nhật để khống chế những tình huống bất trắc trên phạm vi rộng ở châu Á.
Trả lời phỏng vấn báo Ashahi Shimbun của Nhật, Vang Zhiheng, một nhà
nghiên cứu cấp cao tại Viện nghiên cứu chính sách quốc gia ở Đài Bắc, nói rằng
việc bắt đầu vạch kế hoạch để đối phó với các tình trạng khẩn cấp tiềm tàng ở Viễn
Đông như mô tả trong tuyên bố chung là điều cực kì quan trọng như với tình hình an
ninh của Đài Loan. Yang nói điều này làm yên lòng người Đài Loan và nói thêm
rằng những hoạt động của Mỹ và Nhật Bản nhằm ngăn chặn các cuộc tập trận của
Trung Quốc ở vào thời điểm điều tra cuộc bầu cử Tổng Thống của Đài Loan tháng
3/1996 được dùng để giảm bớt mưu đò của Trung Quốc đe dọa Đài Loan.
Trong bối cảnh có những phản ứng đối ngược như vậy từ phía Trung Quốc và
Đài Loan đối với bản tuyên bố chung, Trung Quốc đã cực lực phản đối phương
châm an ninh mới của Mỹ - Nhật, bất chấp sự nỗ lực của thủ tướng Hashhttoto giải
thích ý định của hai nước này đi thăm của ông ở Trung Quốc tháng 9/1997. Vì lý do
đó, sự phản đối của Trung Quốc phải được phản ánh trong phương châm mới.,
Nhật, tuy là một đồng minh của Mỹ, không muốn bị lôi kéo vào một cuộc tranh
giành bá quyền giữa Trung Quốc và Mỹ, nhận thấy căng thẳng tăng lên ở Đông Bắc
Á và những cơ hội ở phía trước đối với những thành quả kinh tế ở Trung Quốc.
Thậm chí trong cuộc chiến tranh lạnh Nhật cảnh giác chống lại kịch bản tồi tệ nhất
trong đó họ có thể trở thành mục tiêu của một cuộc tấn công hạt nhân từ Liên Xô.
Sự tính toán mang tính chiến lược của Nhật có thể là một giải pháp hai mặt thận
trọng, trong đó Nhật có thể một mặt gây sứ ép đối với Trung Quốc trừ một cuộc
phong tỏa toàn bộ dưới lá chắn của các cuộc hành quân khu vực chung giữa Nhật và
Mỹ như được kêu gọi khỏi phương châm an ninh Mỹ-Nhật và mặt khác, vẫn tiếp tục
quan hệ hợp tác tiềm tàng với Trung Quốc trong một giới hạn nhất định.
3.2.4. Triển vọng cho cơ cấu an ninh Đông Bắc Á trong tương lai.
Chính sách của Mỹ đối với Trung Quốc là theo đuổi hai mục tiêu hình như
không thích hợp với nhau: Kiềm chế ảnh hưởng đang được mở rộng của Trung Quốc
trong khu vực đồng thời tăng cường quan hệ kinh tế với Trung Quốc. Nhật cũng đã
chấp nhận một cách thận trọng và dần dần vai trò ngày càng tăng với Mỹ bảo đảm
sự tiếp cận an toàn các tuyến đường biển quan trọng. Hơn nữa, Nhật đã tăng cường
vai trò của mình như một căn cứ yểm trợ hậu cứ bằng cách giúp Mỹ ngăn chặn
Trung Quốc áp đảo Đài Loan, nó hành động như một khu đệm trong quan hệ Trung -
Nhật; không cho Trung Quốc làm gián đoạn đường hàng hải ở Đông Nam Á và kiềm
chế ảnh hưởng đang mở rộng của Trung Quốc trong khu vực.
Đặc biệt, Nhật ủng hộ một vai trò được mở rộng cho hải quân của lực lượng
phòng vệ của mình ra những khu vực khác ngoài phạm vi lãnh thổ của Nhật với
niềm tin rằng nó phục vụ cho lợi ích của Nhật bổ sung khả năng chiến đấu của các
lực lượng hải quan và không quân Mỹ trong tình huống xuất hiện khoảng trống
quyền lực trong khu vực do việc triển khai lại lực lượng của Mỹ tới Trung Đông
hoặc những điểm rối ren khác. Vì như vậy góp phần tăng cường phát triển sức mạnh
toàn cầu và tính linh hoạt của các lực lượng Mỹ. Điều này báo trước sự xuất hiện
của sự giám sát khu vực phối hợp, một lực lượng chung được tạo ra bằng bổ sung
khả năng yểm trợ hậu cứ của Nhật và vai trò phụ trợ của hải quân lực lượng phòng
vệ Nhật Bản đối với hải quân Mỹ trong trường hợp cùng một lúc nổ ra các cuộc
xung đột khu vực ở nhiều địa điểm. Mỹ có thể hy vọng rằng điều này sẽ tăng
cường'chiến lược của họ nuôi dưỡng một môi trường "cam kết ", dẫn đến "mở rộng"
các cơ hội dân chủ, kinh tế thị trường ở Tây Thái Bình Dương.
Nói một cách khác, Nhật đang tăng cường hỗ trợ cho các lực lượng của Mỹ
đóng ở Nhật Bản theo hiệp ước an ninh sau chiến tranh và qui chế thỏa thuận về các
lực lượng tới mức mà sự hỗ trợ đó sẽ được mở rộng thậm chí đến các lực lượng của
Mỹ được đưa tới khu vực khác. Như vậy, trong một cuộc nỗ lực để không phương
hại đến lợi ích quốc gia của mình cụ thể là kiềm chế các mối đe dọa an ninh đối với
an ninh khu vực và quan hệ kinh tế của họ đối với Trung Quốc, Nhật đang tìm cách
xét lại chính sách an ninh khu vực của mình bằng cách chấp thuận những yêu cầu
của Mỹ, trừ việc thiết lập hệ thống phòng thủ chung theo kiểu NATO rất có thể làm
cho Trung Quốc tức giận.
Chương 4: PHÂN TÍCH PHƯƠNG CHÂM PHÒNG VỆ MỚI NHẬT-
MỸ
Sau một năm rưỡi trù tính và đàm phán, ngày 23/9/1997 chính phủ Mỹ và
chính phủ Nhật Bản đã công bố "Phương châm chỉ đạo hợp tác phòng vệ Nhật-Mỹ"
sau khi đã được sửa đổi. Do phương châm mới này đi ngược lại với trào lưu thời
đại, thiếu cơ sở dân ý, khiến hợp tác phòng vệ Nhật- Mỹ có thay đổi to lớn, sẽ mang
lại ảnh hưởng tiêu cực cho an ninh của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương , vì thế
làm cho các nước chung quanh Nhật Bản; và trong nước Nhật Bản lo lắng và phê
phán mạnh mẽ.
4.1. Sự thay đổi mới trong hợp tác phòng vệ Nhật - Mỹ
Trong quá trình sửa đổi và sau khi công bố phương châm mới, Nhật Bản đã
nhiều lần giải thích nhằm xoa dịu những lời chỉ trích và tâm trạng lo lắng của nhân
dân trong nước và của các nước xung quanh, rằng phương châm mới không thay đổi
"Hiệp ước an ninh Nhật - Mỹ" và khung cơ bản mà các hiệp nghị hữu quan đã xác
định, và tuân thủ nguyên tắc "Chuyên về phòng vệ". Nhận xét nội dung phương
châm phòng vệ mới này, thấy rằng nhiều mặt đã phá vỡ những hạn chế nói trên.
Mở rộng khu vực phòng vệ Nhật - Mỹ . Theo qui định của "hiệp ước bảo an
Nhật -Mỹ" năm 1960, khu vực phòng vệ chung giữa Nhật Bản và Mỹ được giới hạn
nghiêm ngặt trong phạm vi 200 hải lý lấy lãnh thổ Nhật Bản làm trung tâm và 3 eo
biển Tsugaru, Tsushima và Soya; "Phương châm hợp tác phồng vệ Nhật -Mỹ" công
bố năm 1978 qui định vùng "Viễn Đông" không bao gồm Trung Quốc và Triều Tiên.
Nhưng lần sửa đổi này đã mở rộng khu vực phòng vệ chung đến "khu vực xung
quanh Nhật Bản". Chính phủ Nhật Bản tuyên bố, "khu vực xung quanh Nhật Bản
"biến đổi theo tình hình quốc tế, sẽ bao gồm cả khu vực châu Á-Thái Bình Dương,
thậm chí còn bao gồm cá Ấn Độ Dương, vịnh Ba Tư. Cần đặc biệt chỉ ra rằng, trong
quá trình sửa đổi phương châm hợp tác phòng vệ, các quan chức cao cấp như chánh
văn phòng nội các và ngoại trưởng Nhật Bản đã nhiều lần tuyên bố phạm vi hợp tác
phòng vệ Nhật- Mỹ bao gồm cả Đài Loan, Sau khi bị chỉ trích mạnh mẽ của dư luận
trong ngoài nước, chính phủ Nhật Bản thay đổi cách nói, rằng phương châm mới
không hoạch định phạm vi phòng vệ trên "khaí niệm địa lí", mà là "quan tâm tới
tính chất sự việc", về thực chất, phương châm hợp tác phòng vệ mới này vẫn đưa
Đài Loan - vào trong phạm vi hợp tác phòng vệ Nhật - Mỹ. Đây là hành động can
thiệp vào công việc nội bộ nước khác trên: danh nghĩa hợp tác quân sự song
phương. Thử hỏi rằng, nếu hai nước Mỹ , Nhật Bản cho rằng khu vực nào đó "xung
quanh Nhật Bản" xuất hiện "tình hình khẩn cấp", khu vực này sẽ trở thành ''khu vực
trong phạm vi phòng vệ" của hai nước Nhật -Mỹ ,thì làm gì có chuẩn tắc quốc tế
nữa.
Quân đội Nhật Bản chuyển từ loại hình chuyên về phòng thủ sang hướng ra bên
ngoài. Hiến pháp Nhật Bản qui định rõ ràng rằng Nhật Bản vĩnh viễn từ bỏ biện
pháp "sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để giải quyết tranh chấp quốc tế".
'phương châm hợp tác phòng vệ Nhật-Mỹ" năm 1978 qui định hợp tác phòng vệ
Nhật - Mỹ chỉ được sử dụng khi Nhật bị tấn công vũ trang, còn khi tình hình khu
vực Viễn Đông bên ngoài Nhật Bản có ảnh hưởng nghiêm trọng tới an ninh của
Nhật Bản, thì Nhật Bản chỉ cung cấp điều kiện cho quân Mỹ. Còn phương châm mới
qui định hợp tác phòng vệ Nhật - Mỹ không chỉ sử dụng phù hợp khi Nhật Bản bị
tiến công vũ trang, mà còn sử dụng khi xung quanh Nhật Bản có vấn đề xảy ra. Khi
tình hình xung quanh có ánh hưởng lớn đối với Nhật Bản, quân đội Nhật Bản sẽ làm
các nhiệm vụ như gỡ mìn, trinh sát theo dõi, cứu viện nhân đạo, dị chuyển kiều dân
và viện trợ cho quân đội Mỹ. Điều đó hiển nhiên đã phá vỡ phương châm hợp tác
phòng vệ Nhật - Mỹ năm 1978 và hiến pháp của Nhật Bản, làm cho trọng điểm của
hợp tác phòng vệ giữa hai nước chuyển từ hợp tác phòng vệ trên lãnh thổ Nhật Bản
sang hợp tác phòng vệ xung quanh Nhật Bản khi "có sự kiện", làm cho quân đội
Nhật Bản chuyển từ phòng vệ lãnh thổ sang phát huy vai trò quân sự "ỏ khu vực
ngoài biên giới", chuyển từ loại hình chuyên về phong thủ sang hướng ra bên ngoài.
Phá vỡ nguyên tắc "chuyên về phòng vệ". Sau Chiến tranh thế giới thứ II, quân
đội Nhật Bản luôn tuân thủ nguyên tắc " chuyên về phòng vệ" chỉ đánh trả khi bị
tiến công tác chiến trên lãnh thổ của Nhật Bản và tác chiến biển gần , tác chiến trên
không ở gần biên giới , không tấn công căn cứ của đối phương, không phản kích
chiến lược và trinh sát chiến lược đối với đối phương. Thông qua sửa đổi lần này,
quân Nhật có thể làm nhiệm vụ chi viện quân Mỹ tác chiến trong khu vực châu Á -
Thái Bình Dương, từ đó phá vỡ nguyên tắc "chuyên về phòng vệ".
Vi phạm hiến pháp Nhật Bản về việc cấm thi hành quyền tự vệ tập đoàn. Lần
sửa đổi này, xung quanh vấn đề hợp tác quân sự Mỹ - Nhật khi khu vực xung quanh
Nhật Bản "có vấn đề", đã đưa ra hơn 40 hạng mục hợp tác, từ đó đã phá vỡ qui định
về việc cấm thi hành quyền tự vệ tập đoàn. Chính phủ Nhật Bản nêu rõ, sẽ đưa ra
các luật định và hoàn thiện pháp luật về giải quyết những vấn đề này. Được biết
Đảng Tự Do Dân Chủ dự định trình lên quốc hội luật về "khi Nhật Bản có vấn đề
Ngày 29/9, tai hội nghị về đảm bảo an ninh, chính phủ Nhật Bản đã chính thức
quyết định sửa đổi luật đội tự vệ. Hiện nay , trong quốc hội Nhật Bản , bầu không
khí lập pháp về những vấn đề xung quanh Nhật Bản đang tăng lên nguyên nhân Mỹ
- Nhật sửa đổi phương châm hợp tác phòng vệ. Về vấn đề sửa đổi phương châm hợp
tác phòng vệ, hai bên Mỹ và Nhật có những nhu cầu riêng cửa mình.
Về phía Mỹ, có những mục tiêu chủ yếu sau: Một là, ngăn chặn khuynh hướng
ly tâm của Nhật Bản. Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, vai trò của biện pháp quân
sự trong công việc quốc tế đã giảm xuống, mọi người hoài nghị về tính tất yếu của
hợp lác phòng vệ Mỹ -Nhật, khuynh hướng ly tâm của Nhật Bản tăng lên, những lời
kêu gọi đòi giảm bớt căn cứ quân sự của Mỹ tại Nhật Bản ngày càng tăng lên. Trong
khi tiến hành diễn tập mô phỏng quản lí cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực đảm bảo
an ninh của Nhật Bản, Sở nghiên cứu Nhật Bản của trường đại học vật lí
Massachuset / Mỹ đã rút ra kết luận như sau: Sau năm 2008, nước Mỹ bị buộc phải
thực hiện chính sách bảo đảm an ninh không có đồng minh Mỹ - Nhật. Do vậy, Mỹ
muốn thông qua sửa đổi "phương châm hợp tác phòng vệ Mỹ - Nhật" để củng cố
quan hệ đồng minh quân sự với Nhật Bản, ngăn chặn khuynh hướng ly tâm của nước
này, tiếp tục duy trì lực lượng quân sự to lớn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương,
nhằm khi "có vấn đề" ở châu Á -Thái Bình Dương thì kéo Nhật vào can thiệp quân
sự cùng với Mỹ, lấy đó để ngăn chặn và đe dọa các nước châu Á -Thái Bình Dương
. Hai là, để Nhật Bản chia sẻ nhiều hơn nữa chi phí cho quân Mỹ đóng ở Nhật Bản.
Thông qua sửa đổi phương châm hợp tác phòng vệ, Mỹ sẽ yêu cầu Nhật Bản tăng
thêm chi phí cho quân Mỹ đóng trên đất Nhật dưới nhiều hình thức. Ba là, mượn lực
lượng của Nhật Bản để bảo vệ quyền lợi của Mỹ ở châu Á- Thái Bình Dương. Sau
chiến tranh lạnh, tuy Châu Âu vẫn là trọng điểm chiến lược của Mỹ, nhưng khu vực
châu Á -Thái Bình Dương ngày càng trể nên quan trọng đối với Mỹ, tổng kim ngạch
mậu dịch của Mỹ đối với khu vực này đã chiếm trên 40% tổng kim ngạch mậu dịch
của Mỹ. Để củng cố và mở rộng lợi ích chính trị, kinh tế của Mỹ ở châu Á - Thái
Bình Dương, nước Mỹ vẫn coi trọng vai trò của biện pháp quân sự. Bộ trưởng quốc
phòng Mỹ W. COHEN nói, trọng tâm kinh tế thế giới đang chuyển dần sang khu vực
châu Á -Thái Bình Dương và do lợi ích kinh tế của Mỹ ở khu vực này, nên ông đã
đặt trọng điểm công tác vào trong mối quan hệ an ninh giữa Mỹ và khu vực châu Á-
Thái Bình Dương, chú trọng chính sách dùng sức mạnh quân sự để duy trì sự có mặt
của Mỹ ở khu vực. Có thể thấy rằng, nước Mỹ muốn thông qua sửa đổi phương
châm hợp tác phòng vệ Mỹ-Nhật để Nhật Bản phát huy vai trò to lớn hơn nữa về
quân sự, nhờ Nhật Bản bảo vệ lợi ích chính trị, kinh tế của mình ở khu vực châu Á-
Thái Bình Dương. Bốn là nhằm thi hành chiến lược toàn cầu của chủ nghĩa bá
quyền. Đối với Mỹ, sửa đổi phương châm hợp tác phòng vệ Mỹ-Nhật, không chỉ
đơn thuần nhằm bảo vệ lợi ích của họ trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương, mà
còn là một khâu quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ sau chiến tranh lạnh.
Nước Mỹ mưu toan thông qua "sửa đổi" ở khu vực châu Á-Thái Bình. Dương, mở
rộng sang phía Đông của châu Âu, để tăng cường khống chế các khu vực khác và
các công việc quốc tế, các tổ chức quốc tế, củng cố địa vị siêu cường duy nhất của
mình, thiết lập thế giới đơn cực dưới sự lãnh đạo của Mỹ.
Về phía Nhật Bản, sửa đổi phương châm hợp tác phòng vệ Nhật Mỹ là nâng cao
vị thế quốc tế của Nhật Bản. Nhật mưu tính thông qua việc sửa đổi này, từng bước
thay đổi quan hệ chủ tớ (trong quan hệ với Mỹ) và vị trị nước bại trận trước đây của
họ, nâng cao ảnh hưởng quốc tế để phát triển hơn nữa nền kinh tế, dành vị trí nước
lớn về chính trị, từ đó đặt cơ sở cho việc thực hiện nước lớn về quân sự. Hai là, tạo
ra cơ sở cho Nhật sử dụng lực lượng quân sự can thiệp vào công việc quốc tế. Ba là
lợi dụng Mỹ để kìm chế, ngăn chặn Triều Tiên, Trung Quốc, Nga.
4.2. Ảnh hưởng của việc Mỹ, Nhật Bản sửa đổi phương châm hợp tác phòng vệ.
Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình chính trị ở khu vực châu Á- Thái
Binh Dương tương đối ổn định, kinh tế phát triển nhanh chóng, cục diện an ninh
được cải thiện đáng kể. Mưu cầu hòa bình, phát triển và ổn định đã trở thành xu
hướng chủ yếu ở khu vực này. Cơ chế an ninh châu Á - Thái Bình Dương được thiết
lập trên cơ sở hiệp thương bình đẳng, đang ở trong giai đoạn mò mẫm và hình
thành. Năm lực lượng lớn chủ yếu là Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc , Nga và ASEAN
kìm chế lẫn nhau, có lợi cho việc nhanh chóng hình thành cục diện khu vực đa cực
hóa, ổn định. Trong tình thế mới này, đồng minh quân sự Mỹ - Nhật - sản phẩm của
thời kỳ chiến tranh lạnh tất yếu không tồn tại, nhưng hai nước Mỹ, Nhật giữ tư duy
chiến tranh lạnh, mưu toan thông qua việc sửa đổi phương châm hợp tác phòng vệ
Nhật - Mỹ để nhấn mạnh đồng minh quân sự giữu hai nước, điều này rõ ràng đi
ngược lại với trào lưu thời đại.
Việc sửa đổi phương châm hợp tác phòng vệ cũng đem lại ảnh hưởng tiêu cực
cho nền an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương, không có lợi cho việc hòa bình
và ổn định của khu vực này. Trong quá trình sửa đổi phương châm hợp tác phòng
vệ, hai nước Mỹ, Nhật Bản ngầm nhấn mạnh ngăn chặn Trung Quốc, Triều Tiên,
Nga, tuyên bố khi "xảy ra vấn đề" thì Mỹ, Nhật Bản phải can thiệp quân sự. Cách
làm này sẽ đầu độc bầu không khí hòa dịu của khu vực châu Á- Thái Bình Dương,
phá hoại hòa bình ổn định của khu vực này.
Sửa đổi phương châm hợp lác phòng vệ bất lợi cho việc xây dựng cơ chế an
ninh châu Á - Thái Bình Dương trên cơ sở nguyên tắc hợp thương bình đẳng. Thông
qua sửa đổi phương châm phòng vệ, Mỹ, Nhật Bản nhấn mạnh đồng minh quân sự
giữa hai nước, làm cho hợp tác phòng vệ song phương bước vào thời kỳ mới. Đồng
minh quân sự mà hai nước nhấn mạnh, mang tính cường quyền, tính can thiệp và
tính bài xích rõ rệt vì vậy bất lợi cho việc thiết lập quan hệ hiệp thương bình đẳng,
tin tưởng lẫn nhau giữa các nước châu Á- Thái Bình Dương, cũng không có lợi cho
việc thiết lập cơ chế an ninh ở khu vực trên cơ sở nguyên tắc này.
Sau Chiến tranh lạnh, để thực hiện mục tiêu lớn về chính trị, Nhật Bản tăng
cường coi trọng vị trí và vai trò của lực lượng quân sự, nhấn mạnh việc xây dựng
lực lượng quân sự tương xứng với địa vị nước lớn kinh tế, nhằm phát huy vai trò to
lớn hơn trên trường quốc tế. Phương châm hợp tác phòng vệ mới đã tạo cơ sở cho
Nhật Bản phát huy vai trò quân sự ngày càng lớn hơn nữa trên vũ đài quốc tế, sử
dụng lực lượng quân sự can thiệp vào công việc quốc tế, nuôi dưỡng khuynh hướng
chủ nghĩa quân phiệt cửu Nhật bản.
Việc Nhật Bản và Mỹ sửa đổi "phương châm hợp tác phòng vệ" đã vấp phải sự
phản đối gay gắt của các nước xung quanh Nhật Bản. Đại sứ 9 nước ASEAN yêu
cầu Nhật làm rõ phạm vi địa lí mà "phương châm hợp tác phòng vệ" sau khi sửa đổi
đảm nhiệm. Một quan chức bộ ngoại giao Thái Lan nói, Thái Lan không muốn thấy
vai trò hiện tại của Nhật Bản có bất kỳ thay đổi nào. Ông nhấn mạnh: "Nhật muốn
phát huy vai trò ở châu Á vượt quá qui định của hiến pháp nước mình, thì cần phải
thông qua quyết định của diễn đàn các nước ASEAN, diễn đàn này là nơi thông qua
đối thoại để giải quyết tranh chấp vũ trang khu vực". Báo chí Singapore nêu rõ, hợp
tác phòng vệ Nhật - Mỹ là sản phẩm của thời kỳ chiến tranh lạnh. Sau khi chiến
tranh lạnh kết thúc, hợp tác phòng vệ Nhật – Mỹ càng được mở rộng, để Nhật đóng
vai trò có tầm quan trọng hơn tất sẽ gây ra những phản đối của dư luận quốc tế. Sự
khác biệt lớn nhất giữa phương châm hợp tác phòng vệ cũ và mới là; phương châm
cũ qui định khi "Nhật gặp phải vấn đề" thì mới cùng nhau hành động. Nhưng
phương châm mới lại qui định khi "xung quanh Nhật Bản có vấn đề" thì Nhật cũng
có thể tham gia hành động hiệp đồng, như vậy hành động quân sự của Nhật đã được
mở rộng ra ngoài nước. Do nguyên nhân lịch sử, Nhật mở rộng vai trò quân sự của
mình, tất sẽ gây nên sự chú ý của các nước trong khu vực, đặc biệt là sau khi
phương châm phòng vệ này mở rộng sang cả eo biển Đài Loan, thì lẽ đương nhiên
sẽ gây ra sự phản đối gay gắt của Trung Quốc. Điều này rất không có lợi cho sự ổn
định và hoà bình của khu vực. Nếu Nhật Bản muốn thiết lập một hệ thống phồng
ngự riêng cho mình thì chẳng ai phản đối làm gì. Thế nhưng, khi Nhật mở rộng hệ
thống phòng ngự ra bên ngoài lãnh thổ của mình thì không thể không gây ra sự cảnh
giác của các nước xung quanh, vì những nước này từng bị Nhật xâm lược, đã từng là
vật hy sinh của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản, điều tất nhiên càng phải quan tâm là
ngày nay chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản đang có xu hướng ngóc đầu dậy. ASEAN
là một tổ chức tập thể của khu vực, có quyền quan tâm đến những hành động của
Nhật, đồng thời muốn biết rõ ràng những động hướng và ý đồ của Nhật. Thông tấn
xã Hàn Quốc bình luận, các nước châu Á còn nhớ rõ những khổ đau mà Nhật gây ra
cho họ trong chiến tranh thế giới lần II, vì vậy họ lo ngại Nhật mở rộng vai trò của
lực lượng vũ trang. Một bài báo đăng trên từ Rodong Shimbun của Triều Tiên viết,
hai nước Nhật, Mỹ đã biến liên minh Nhật - Mỹ thành công cụ để đối phó với khu
vực và các nước khác. Báo chí Nga đăng bài nêu rõ, cần phải cảnh giác liên minh
quân sự Nhật - Mỹ trở thành NATO của Thái Bình Dương, hy vọng thủ tướng Nhật
Bản Hashimoto coi trọng sự cảnh cáo của các nước đã từng chịu đau khổ mà chủ
nghĩa quân phiệt Nhật đã gây ra cho họ trong chiến tranh thế giới thứ II. Người phát
ngôn bộ ngoại giao Trung Quốc nêu rõ, việc nhấn mạnh đồng minh quân sự, mở
rộng hợp tác quân sự là đi ngược lại với trào lưu thời đại.
Trong vấn dề hợp tác an ninh, Nhật, Mỹ nên hành động thận trọng, nghiêm
khắc hạn chế trong phạm vi của hai bên, không được gây ra những việc làm cho các
nước xung quanh phải lo ngại, hy vọng Nhật rút ra được bài học kinh nghiệm trong
chiến tranh thế giới lần thứ II, kiên định đi theo con đường phát triển hòa bình.
Phương châm hợp tác mới này cũng bị dư luận trong nước Nhật Bản lên án
mạnh mẽ. Được biết, sau khi phương châm mới ra đời, một số đoàn thể và chính
đảng của Nhật đã rầm rộ diễn thuyết hoặc tổ chức mít tin phản đối phương này. Họ
cho rằng đây là bước đi mà Nhật dấn thân vào nguy hiểm. Đảng Xã Hội Dân Chủ
Nhật Bản tỏ ra lấy làm tiếc về phương châm mới không rõ ràng trong việc gạt bỏ
Đài Loan ra ngoài phạm vi thích hợp của phương châm hợp tác phòng vệ. Đảng này
cho rằng không hạn chế phạm vi địa lý sẽ có nguy hiểm là mở rộng vô hạn "phạm vi
thích hợp'' của phương châm hợp túc phòng vệ mới. Tờ Rodong Shimbun viết, thực
chất của phương châm hợp tác phòng vệ mới là kéo Nhật bản vào chiến lược châu
Á- Thái Bình Dương của Mỹ, khiến đội tự vệ của Nhật Bản tham gia vào hành động
nhằm vào các nước thứ 3 dưới chiêu bài chi viện cho quân Mỹ. Một số tổ chức xã
hội khác cũng tiến hành mít tinh, phản đối phương châm hợp tác mới này, ngày
23/09 có tới 1200 ngươi diễu hành, kháng nghị xung quanh Cục phòng vệ Nhật Bản
. Một số đoàn thể và nhân dân ở các thành như Naha, Nugasaki, Kobe cũng rầm rộ
phản đối việc Nhật Bản cung cấp một số bến cảng và sân bay cho quân Mỹ làm căn
cứ quân sư. Theo kết quả thăm dò dư luận do tờ Mainichi Shimbun/ Nhật bản tiến
hành trong tháng 9 năm nay. Cho thấy có hơn 37% số người phản đối việc sửa đổi
"phương châm hợp tác phòng vệ Nhật - Mỹ", số người ủng hộ chỉ chiếm 18%,
nhưng có rất nhiều người nói rằng "không biết" hoặc không trả lời. Điều này cho
thấy, ở ngay Nhật Bản, việc sửa đổi phương châm hợp tác phòng vệ cũng không
được sự đồng tình của đông đảo quần chúng nhân dân.
PHẦN KẾT LUẬN
Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, tình hình an ninh ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương đã thay đổi to lớn, một cục diện mới xuất hiện trong tình thế an ninh
quân sự. Quan hệ giữa Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga, ASEAN bắt đầu được điều
chỉnh tòan diện. Mỹ cho rằng một loạt thách thức đối lợi ích an ninh cửa Mỹ vẫn
tồn tại. Hai vấn đề lớn hoặc hai mối đe dọa lớn mà Washington quan tâm nhất là các
vụ rối ren mang tính chất khu vực và chạy đua phổ biến hạt nhân. Họ cho rằng các
mối đe dọa chạy đua phổ biến hạt nhân đang tồn tại ở Nam Á và bán đảo Triều Tiên,
họ cũng lo ngại Trung Quốc va Nga xuất khẩu vũ khí ồ ạt.
Tình hình căng thẳng đang tăng lên quanh biển Nhật Bản. TôKyô lo lắng, Sách
trắng hàng năm của Cục phòng vệ, được xuất bản hồi tháng 7 năm 1993 nhấn mạnh
đến mối đe dọa của Bắc Triều Tiên và những mối lo ngại về an ninh khác với một
giọng điệu chưa thấy trước đây. Trong quá khứ, cục này chủ yếu tập trung vào mối
đe dọa giữa các lực lượng của Liên Xô cũ. Vụ thử tên lửa tầm trung mới Rodong - 1
vào cuối tháng 5, của Bình Nhưỡng đã gây sửng sốt trong Cục phòng vệ. Tên lửa
Rodong-2, có thể sử dụng vào năm 1995, với tầm xa 1300km, có thể khống chế toàn
bộ nước Nhật. Cả hai đều được cho là có khả năng mang đầu đạn hạt nhân hay vũ
khí vi trùng. Bắc Triều Tiên không phải là mối đe dọa duy nhất được Nhật Bản công
nhận. Vụ nổ hạt nhân gần đây của Trung Quốc nhắc nhở đến sức mạnh của họ. Sách
trắng của Cục phòng vệ lưu ý rằng Bắc Kinh đang hiện đại hóa các lực lượng vũ
trang của họ nhất là lực lượng không quân và hải quân. Sách trắng cho biết "nhịp độ
tuy từ từ, nhưng nó đang hút sự chú ý của các nước láng giềng".
Chính từ những mối đe dọa những lợi ích của Nhật và Mỹ mà hai nước này đã
hợp tác chặt chẽ với nhau để cùng có lợi. Dựa vào liên minh với Mỹ, Nhật Bản được
Mỹ bảo vệ về quân sự, viện trợ kinh tế, được thâm nhập vào thị trường Mỹ,... Như
vậy, đối với Nhật Bản việc đi với Mỹ có lợi hơn nhiều so với tự lực phát triển, là
nước thiếu nguyên liệu lại bị chiến tranh tàn phá, Nhật Bản nếu tự lực phát triển
không thể đạt được tiến bộ và trở thành cường quốc kinh tế như hiện nay. Chính
sách của Mỹ trong quan hệ với Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ II
phản ánh chiến lược toàn cầu của Mỹ thực hiện cuộc Chiến tranh lạnh nhằm cô lập
và tiến tới xóa bỏ hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa. Đối với Mỹ, duy trì được một lực
lượng mạnh trên " chiếc tàu sân bay không thể bị đánh chìm" này có ý nghĩa chiến
lược tối quan trọng kìm chế các; siêu cường Cộng Sản cũng như kiểm soát an ninh
trong khu vực.
Năm 1996, Clinton và thủ tướng Nhật Hashimoto đã ký kết một tuyên bố chung
xác nhận tầm quan trọng của liên minh quân sự giữa hai nước để bảo đảm an ninh
và thịnh vượng cho khu vực châu Á Thái Bình Dương. Hai bên cam kết hợp tác chặc
chẽ trong lĩnh vực quốc phòng, đặc biệt chế tạo chiếc máy bay chiến đấu Mỹ - Nhật
kiểu F-2. Mở đầu cho tuyên bố chung liên kết cho nền hòa bình, an ninh thế kỷ 21,
Hoa Kỳ và Nhật Bản cho biết hai nước hãnh diện trước sự đóng góp sâu xa và tích
cực mà mối quan hệ giữa hai nước này mang đến cho nền hòa bình thế giới và sự ổn
định thịnh vượng trong khu vực. Hai chính phủ Mỹ và Nhật sẽ tăng cường trao đổi
trong lĩnh vực công nghệ và trang thiết bị; đồng thời cùng nhau ngăn ngừa việc phát
triển các loại vũ khí có sức phá hủy trên qui mô lớn. Tổng thống Mỹ nhấn mạnh đến
lời cam kết của Hoa Kỳ bảo vệ Nhật Bản cũng như bảo vệ nền hòa bình và an ninh
khu vực châu Á - Thái Binh Dương. Ngoai ra, Mỹ- Nhật còn nhấn mạnh đến vai trò
của Trung Quốc trong thế ổn định và thịnh vượng của khu vực - trong bối cảnh ấy
cả Mỹ và Nhật đều cần phát triển hợp tác với Trung Quốc.
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, khu vực châu Á- Thái Bình Dương trở thành
khu vực sôi động nhất trên thế giới với sự tập trung của các lực lượng quân sự, kể
cả các kho vũ khí nguyên tử với các tranh chấp lãnh thổ chưa dược giải quyết và các
tranh chấp khu vực đang ngấm ngầm. Trên cơ sở đó, Mỹ - Nhật sẽ phối hợp đường
lối, phối hợp kiểm soát việc trang bị cũng như giải trừ vũ khí, kể cả việc thúc đẩy
những cuộc thảo luận về hiệp ước cấm toàn bộ các vụ thử nghiệm nguyên tử.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-Sách Quan hệ Mỹ- Nhật sau thời kỳ Chiến tranh lạnh - PTS Ngô Xuân Bình" Cán
Bộ nghiên cứu của trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ- Nhà xuất bản khoa học Xã hội
năm 1995.
Tài liệu tham khảo dặc biệt ngày 19/12/94.
Tài liệu tham khảo dặc biệt ngày 25/06/99.
Tài liệu tham khảo đặc biệt ngày 15/11/98.
Tài liệu tham khảo đặc biệl ngày 22/04/96.
Tạp chí "quân sự thế giới" /Trung quốc 12/97.
Tài liệu tham khảo đặc biệt 03/11/93.
Tạp chí Korea Pocus 11/11/97.
Tài liệu tham khảo đặc biệt 27/05/99
Tài liệu tham khảo đặc biệt 24/12/94
Tài liệu tham khảo đặc biệt 14/10/94
Tài liệu tham kháo đặc biệt 14/04/97
Tài liệu tham khảo dặc biệt 17/09/94
Tài liệu tham khảo đặc biệt 18/07/94
Tài liệu tham khảo đặc biệt 22/12/94
Tài liệu tham khảo đặc biệt 09/11/96
Tài liệu tham khảo đặc biệt 20/07/90
Tài liệu tham khảo đặc biệt 10/12/93
Tài liệu tham khảo đặc biệt 23/11/94
Tài liệu tham kháo dặc biệt 19/04/94
Tài liệu tham khảo đặc biệt 19/07/90
Tài liệu tham khảo đặc biệt 21/07/94
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_he_an_ninh_my_nhat_thoi_hau_chien_tranh_lanh_1992_1999_7189.pdf