Cần phải nhận thức rõ ràng rằng, sức cạnh tranh của nền kinh tế nằm ở sự 
đúng đắn, phù hợp của chính sách thƣơng mại quốc tế, đảm bảo đem lại những 
đóng góp cho thế giới, tạo đƣợc sự tín nhiệm đối với bạn hàng quốc tế, giới thiệu 
đƣợc những sản phẩm, dịch vụ, thƣơng hiệu ngang tầm thế giới. Tóm lại, chúng ta 
phải biết rõ và có sự đồng thuận cao về Việt Nam sẽ đi về đâu, sẽ đóng vai trò gì 
trong thế giới đang biến đổi ngày một nhanh chóng và đa dạng nhƣ hiện nay. Chỉ 
khi giành đƣợc thế chủ động và hội nhập có hiệu quả, chúng ta mới có thể tranh 
thủ lợi thế, hạn chế tác động tiêu cực trong hoạt động thƣơng mại quốc tế, đồng 
thời có khả năng tác động vào tiến trình toàn cầu hóa kinh tế hiện nay.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 114 trang
114 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2721 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệ thương mại trung quốc - Mỹ latinh và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thƣờng trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc khoá 2008-
2009. Lãnh đạo ba nƣớc này cũng khẳng định sẵn sàng tạo thuận lợi cho doanh 
nghiệp và hàng hóa Việt Nam thâm nhập thị trƣờng của họ và làm cửa ngõ vào thị 
trƣờng Nam Mỹ nói chung. 
Mới đây nhất, từ ngày 24/5/2007, Tổng bí thƣ Nông Đức Mạnh đã có chuyến 
thăm chính thức tới 4 nƣớc Mỹ Latinh là Chile, Brazil, Venezuela và Cuba. đây là 
chuyến thăm đầu tiên tới một loạt quốc gia Mỹ Latinh của một Tổng Bí thƣ Đảng 
Cộng sản Việt Nam. Chuyến thăm lần này của Tổng Bí thƣ Nông Đức Mạnh là 
nhằm triển khai đƣờng lối đối ngoại của Đảng sau Đại hội Đảng lần thứ X, nhằm 
thắt chặt hơn nữa quan hệ truyền thống tốt đẹp với Cuba; thúc đẩy quan hệ hợp tác 
nhiều mặt với Chile, Brazil và Venezuela, qua đó mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp 
83 
tác bình đẳng và cùng có lợi với các nƣớc Mỹ Latinh. Chuyến thăm góp phần đƣa 
các mối quan hệ quốc tế đã đƣợc thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền vững và phù 
hợp với xu thế lớn của thế giới: hoà bình, hợp tác và phát triển. Dƣ luận trong nƣớc 
và quốc tế mong đợi những kết quả tốt đẹp của chuyến thăm này sẽ mang lại 
những xung lực mới, những định hƣớng quan trọng trong phát triển quan hệ giữa 
Việt Nam với Cuba, Brazil, Venezuela và Chile, cũng nhƣ với các nƣớc khác trong 
khu vực Mỹ Latinh. 
Tuy nhiên, cho đến nay, quan hệ kinh tế thƣơng mại đƣợc coi là trọng tâm 
của hợp tác giữa Việt Nam và các nƣớc Mỹ Latinh vẫn còn ở mức khiêm tốn so 
với tiềm năng và nhu cầu của mỗi nƣớc. Chẳng hạn, quan hệ thƣơng mại song 
phƣơng với Chile vẫn ở mức rất thấp tuy đã tăng trƣởng liên tục, từ mức gần 19 
triệu USD năm 2000 lên hơn 60 triệu USD năm 2004 và năm 2005 đạt khoảng 108 
triệu USD. Các sản phẩm may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ, cà phê, gạo của 
Việt Nam có rất nhiều triển vọng mở rộng thị trƣờng ở Chile. Với Brazil, quan hệ 
thƣơng mại giữa hai nƣớc cũng đang có chiều hƣớng phát triển mạnh. Theo Đại sứ 
Brazil, Alcides Parates, xuất khẩu của Brazil sang Việt Nam năm 2001 mới chỉ đạt 
11,5 triệu USD, thì năm 2003 đã đạt 25 triệu USD. Nhập khẩu từ Việt Nam từ mức 
17,7 triệu USD năm 2001 lên 22,1 triệu USD năm 2003. Còn với Argentina, kim 
ngạch thƣơng mại hai chiều cũng tăng liên tục từ 11,53 triệu USD năm 1995 lên 
32,4 triệu USD năm 1998; 43,6 triệu năm 1999 và 64,5 triệu USD năm 2002, trong 
đó Argentina thƣờng nhập siêu. Năm 2002, Việt Nam xuất sang Argentina 14,3 
triệu USD và nhập 35,9 triệu USD; năm 2003 xuất khẩu của Việt Nam đạt 16 triệu 
USD. Argentina nhập của ta chủ yếu là hàng tiêu dùng (giầy dép, quần áo, đồ da, 
đồ chơi, đồ gốm sứ), phụ tùng máy móc (nồi hơi), nguyên vật liệu (cao su) và xuất 
sang ta chủ yếu là nguyên liệu (gang, thép), nông sản (ngô, đậu tƣơng, dầu ăn thực 
vật), da và đồ da. 
Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trƣờng khu vực Mỹ 
Latin trong năm 2006 bao gồm giày dép chiếm 26,65%, gạo 31,25%, dệt may 
7,55%, máy vi tính và linh kiện 1,94%, thuỷ hải sản 1,34%, sản phẩm chất dẻo và 
84 
gỗ 2,17%... và các hàng hoá khác chiếm khoảng 19,33%. Tổng kim ngạch nhập 
khẩu của Việt Nam từ các nƣớc trong khu vực Mỹ Latin năm 2006 ƣớc đạt 627,5 
triệu USD, tăng 17,61% so với năm 2005. Nhƣ vậy, Việt Nam nhập siêu khoảng 83 
triệu USD. Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu bao gồm: thức ăn và chế biến gia súc 
chiếm tới hơn 80% tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu, nguyên phụ liệu dệt may, da và 
thuốc lá, hoá chất, tân dƣợc và các loại máy móc thiết bị phụ tùng. Nhìn chung, phần 
lớn các mặt hàng nhập khẩu là để phục vụ cho sản xuất trong nƣớc và tái xuất khẩu. 
Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu thì gạo luôn là mặt hàng đứng đầu 
về trị giá xuất khẩu trong số các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang khu vực 
Mỹ Latinh, nhất là đối với thị trƣờng truyền thống Cuba. Năm 2005, Việt Nam đã 
xuất khẩu đƣợc 600.000 tấn gạo sang Cuba, gồm cả hợp đồng của năm 2004 
chuyển sang, tăng 200.000 tấn so với năm 2004, trị giá khoảng 180 triệu USD. 
Năm 2006, Tổng công ty Lƣơng thực miền Bắc (Vinafood I) đã ký đƣợc hợp đồng 
xuất khẩu gạo sang Cuba là 400.000 tấn với tín dụng của Chính phủ (trả chậm 540 
ngày, không tính lãi suất) và theo thoả thuận doanh nghiệp. Theo nhận định của Bộ 
Thƣơng mại, tiềm năng Việt Nam có thể xuất tới 1 triệu tấn gạo/năm trong tƣơng 
lai bởi gạo vẫn là lƣơng thực chính trong bữa ăn hàng ngày của ngƣời dân Mỹ 
Latin, thêm nữa gạo của Việt Nam ngày càng khẳng định đƣợc tính cạnh tranh ở 
thị trƣờng khu vực này do giá cạnh tranh và chất lƣợng ổn định. Riêng Cuba mỗi 
năm có nhu cầu nhập khẩu từ 500.000 - 600.000 tấn gạo. Bên cạnh đó, hàng giày 
dép đã xếp thứ nhất về kim ngạch trong số các mặt hàng xuất khẩu chính của Việt 
Nam vào khu vực này. Đặc biệt ở các nƣớc Panama, Argentina, Brazil, Chilê, Peru 
và Venezuela, mặt hàng giày dép luôn luôn là mặt hàng xuất khẩu đạt giá trị lớn 
nhất của Việt Nam. Chỉ tính riêng 10 tháng đầu năm 2006, Việt Nam đã xuất 
108.460.608 USD hàng giày dép vào các thị trƣờng Mỹ Latin, chiếm 21,1% tổng 
kế hoạch xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực Mỹ Latinh. Vụ Thị trƣờng châu Mỹ 
(Bộ Thƣơng mại) cho rằng Việt Nam có thể chia sẻ thị phần 1 - 2 triệu đôi các loại 
giày thể thao, giày vải, dép xăngđan, dép đi biển với giá trị xuất khẩu khoảng 1 - 
1,5 triệu USD thông qua hình thức hợp tác sản xuất, giao bán thành phẩm và hoàn 
85 
thiện tại Cuba. Một ví dụ điển hình là Công ty Giày Hiệp Hƣng đã cung cấp chi 
tiết tháo rời (KIT) để hoàn thiện tại Cuba nên năm 2006 đã tung đƣợc vào thị 
trƣờng này hơn 630.000 đôi giày, dép các loại. Hàng dệt may là một mặt hàng xuất 
khẩu chính của Việt Nam vào khu vực Mỹ Latinh, chỉ đứng sau mặt hàng gạo, giày 
dép và cà phê. 10 tháng đầu năm 2006, Việt Nam đã xuất đƣợc 30.923.060 USD 
hàng dệt may vào thị trƣờng khu vực này, chiếm 6% tổng kế hoạch xuất khẩu vào 
khu vực. 
Theo thống kê của Hải quan Việt Nam, các mặt hàng xuất khẩu vào thị 
trƣờng Mỹ Latin ngoại trừ các mặt hàng nhƣ gạo, giày dép, dệt may, nông sản, cao 
su, máy vi tính, sản phẩm điện tử, túi xách, mũ, sản phẩm chất dẻo, xe đạp phụ 
tùng, gỗ và sản phẩm gỗ, đồ gốm sứ, hải sản trong 10 tháng năm 2006 Việt Nam 
đã xuất đƣợc trên 78 triệu USD các hàng hoá khác. 
Mặc dù giá trị trao đổi thƣơng mại vẫn thấp, song tốc độ tăng trƣởng nhanh 
trong thời gian qua hứa hẹn những cơ hội lớn trong quan hệ song phƣơng giữa Việt 
Nam và Nam Mỹ. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị 
trƣờng truyền thống nhƣ Argentina, Brazil, Cuba và Chile và một số thị trƣờng 
mới nhƣ Panama, Venezuela đạt xấp xỉ 348 triệu USD, tăng 12,98% so với mức 
308 triệu USD đạt đƣợc cùng kỳ năm 2005. Theo Bộ Thƣơng mại, năm 2007 dự 
kiến kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang thị trƣờng khu vực Mỹ 
Latinh ƣớc đạt 650 triệu USD, tăng 20% so với năm 2006. Nhu cầu lớn về hàng 
hóa của thị trƣờng khu vực Mỹ Latinh sẽ là cơ hội tốt để hàng hóa Việt Nam thâm 
nhập sâu hơn vào thị trƣờng này. 
3.2.2 Những đề xuất về chính sách thƣơng mại từ kinh nghiệm 
của Trung Quốc 
3.2.2.1 Đề xuất về chính sách thương mại quốc tế chung của 
Việt Nam 
Xây dựng một chính sách thƣơng mại quốc tế có tính chiến lƣợc 
Điều đó có nghĩa là khi hoạch định chính sách thƣơng mại quốc tế, cần xác 
định rõ các mục tiêu chiến lƣợc trong dài hạn. Đối với chúng ta, mục tiêu cao nhất 
86 
trong việc phát triển thƣơng mại quốc tế là đƣa Việt Nam trở thành một trong 
những quốc gia phát triển trên thế giới, có vị thế cao trong nền kinh tế thƣơng mại 
toàn cầu, mở rộng quan hệ chính trị ngoại giao, tạo thế đứng vững chắc của dân tộc 
trên trƣờng quốc tế. 
Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ thuộc lẫn 
nhau giữa các nƣớc sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trƣờng các nƣớc sẽ tác động 
mạnh đến thị trƣờng trong nƣớc, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách thƣơng mại 
quốc tế đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, tạo cơ sở để nền kinh 
tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế đƣợc ảnh hƣởng tiêu cực trƣớc những 
biến động trên thị trƣờng thế giới. Với một quốc gia có xuất phát điểm về kinh tế 
thấp nhƣ Việt Nam, để có thể chuẩn bị nội lực đầy đủ cho hội nhập, hƣớng chính 
sách đối ngoại sẽ phải đảm bảo ủng hộ và bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp 
trong nƣớc, đảm bảo thời điểm mở thị trƣờng thích hợp để chúng ta có thể chuẩn 
bị hạ tầng kinh tế - kỹ thuật chủ động và bền vững. 
Để hội nhập với cộng đồng khu vực và thế giới, chúng ta cần phải xây dựng 
một chiến lƣợc kinh tế đối ngoại mềm dẻo, linh hoạt theo nguyên tắc độc lập, tự 
chủ, bình đẳng cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế, phát 
huy các nhân tố tích cực của quá trình phát triển quốc tế để hỗ trợ, tạo điều kiện 
thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới theo chiều sâu và tăng trƣởng bền vững, làm 
nền tảng vật chất cho mục tiêu cuối cùng của thể chế là: xây dựng một vị thế Việt 
nam “dân giầu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” thực sự trong 
con mắt của ngƣời Việt Nam và trong cách nhìn của các đối tác quốc tế trong quan 
hệ hiện tại và tƣơng lai. 
Trong tiến trình toàn cầu hóa, đƣờng lối đối ngoại đó sẽ đƣợc cụ thế hóa rõ 
nét nhất bằng việc tham gia vào các tổ chức kinh tế - chính trị trên thế giới. Việt 
Nam đã là thành viên của nhiều tổ chức kinh tế - chính trị quốc tế và khu vực. 
Chúng ta đã là thành viên của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế 
(IMF),... Ở cấp liên khu vực, chúng ta là thành viên tích cực của Diễn đàn hợp tác 
kinh tế châu Á - Thái Bình Dƣơng (APEC), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM), của 
87 
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)... Và sự kiện vô cùng quan trọng là 
chúng ta đã chính thức gia nhập Tổ chức Thƣơng mại thế giới (WTO). 
Cần phải nhận thức rõ ràng rằng, sức cạnh tranh của nền kinh tế nằm ở sự 
đúng đắn, phù hợp của chính sách thƣơng mại quốc tế, đảm bảo đem lại những 
đóng góp cho thế giới, tạo đƣợc sự tín nhiệm đối với bạn hàng quốc tế, giới thiệu 
đƣợc những sản phẩm, dịch vụ, thƣơng hiệu ngang tầm thế giới. Tóm lại, chúng ta 
phải biết rõ và có sự đồng thuận cao về Việt Nam sẽ đi về đâu, sẽ đóng vai trò gì 
trong thế giới đang biến đổi ngày một nhanh chóng và đa dạng nhƣ hiện nay. Chỉ 
khi giành đƣợc thế chủ động và hội nhập có hiệu quả, chúng ta mới có thể tranh 
thủ lợi thế, hạn chế tác động tiêu cực trong hoạt động thƣơng mại quốc tế, đồng 
thời có khả năng tác động vào tiến trình toàn cầu hóa kinh tế hiện nay. 
Phát huy vai trò và phƣơng thức hỗ trợ gián tiếp của Nhà nƣớc trong 
hoạt động thƣơng mại quốc tế 
Trong giai đoạn hậu WTO, Việt Nam cần xác định lại vai trò và phƣơng thức 
can thiệp hỗ trợ của Nhà nƣớc đối với tổng thể nền kinh tế và đối với mỗi chủ thể 
tham gia hoạt động thƣơng mại quốc tế sao cho vừa hiệu quả, vừa không trái 
ngƣợc với quy định của WTO. Các nƣớc phát triển tham gia WTO từ nhiều năm 
nên đã tận dụng đƣợc mọi sự linh hoạt đƣợc phép trong khuôn khổ WTO để thực 
chất tiếp tục trợ cấp, dù là gián tiếp cho nông nghiệp, nông sản của họ. Nhà nƣớc 
cần kết hợp với từng ngành nghề để dự đoán, xác định những mắt xích yếu, dễ bị 
tổn thƣơng nhất trƣớc sự gia tăng cạnh tranh khốc liệt cũng nhƣ những lĩnh vực, 
mặt hàng, thị trƣờng hứa hẹn nhiều triển vọng phát triển sau khi các cam kết hai 
chiều giữa Việt Nam và các thành viên còn lại của WTO bắt đầu có hiệu lực từ 
ngày 11/1/2007. Nhƣ vậy, vai trò của Nhà nƣớc sẽ phải vừa mang tính chiến lƣợc 
hơn, định hƣớng dài hạn hơn, vừa cần loại hẳn tính bao cấp, tập trung vào đúng 
chức năng vai trò, tạo điều kiện chung, đòn bẩy và động lực.[8] 
Để đạt đƣợc các mục tiêu của hoạt động xuất nhập khẩu (XNK), Nhà nƣớc 
cần không ngừng tăng cƣờng quản lý hoạt động XNK, hỗ trợ cho sản xuất trong 
nƣớc, khuyến khích tích cực thông qua việc đổi mới các chính sách: đơn giản hoá 
88 
việc cấp giấy phép và cấp hạn ngạch XNK, đổi mới thủ tục thông qua Hải quan, 
cải cách hệ thống thuế XNK, đơn giản hoá biểu thuế và giảm chênh lệch giữa các 
mức thuế áp dụng; Tạo điều kiện cho các nhà sản xuất ở mọi thành phần kinh tế 
đƣợc tiếp cận với thị trƣờng nƣớc ngoài; hỗ trợ khuyến khích đầu tƣ, xây dựng các 
cơ sở chế biến hàng xuất khẩu, Bãi bỏ việc phân phối Quota xuất khẩu, thay vào 
đó là cơ chế đấu thầu, chuyển nhƣợng quota cho các doanh nghiệp; Tổ chức lại 
quy trình tái sản xuất từ khâu sản xuất - chế biến - đàm phán thƣơng mại đến xuất 
khẩu hàng hóa, tăng cƣờng việc sử dụng các công cụ xúc tiến tín dụng thƣơng 
mại… Bảo hộ một cách hợp lý nền sản xuất trong nƣớc, từng bƣớc hỗ trợ các 
ngành và các cơ sở sản xuất phát triển để đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm nƣớc 
ngoài ở thị trƣờng trong nƣớc; Ngăn chặn có hiệu quả các hàng hoá có chất lƣợng 
thấp, hàng tiêu dùng trốn thuế giá rẻ, hàng đã qua sử dụng thâm nhập thị trƣờng 
nội địa qua buôn lậu. 
Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngành nghề tham gia XNK 
Một thực tế hiện nay là sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên trƣờng 
quốc tế vẫn chƣa cao. Xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, Việt Nam xếp 
thứ 48/53 nƣớc đƣợc xem xét năm 1999, 53/59 nƣớc năm 2000, 60/75 nƣớc năm 
2001 ; 65/80 năm 2002 nƣớc tham gia xếp hạng. Năm 2004 giảm 17 bậc so với 
năm 2003, năm 2005 giảm tiếp 4 bậc so với năm 2004 trong các nƣớc xếp hạng 
(theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF). Sức cạnh tranh và năng lực 
quản lý doanh nghiệp còn yếu, thiếu sự chuẩn bị để ứng phó hiệu quả với quá trình 
hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng. Xét tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm 
nhƣ giá cả, chất lƣợng, mạng lƣới tổ chức tiêu thụ và uy tín doanh nghiệp thì sức 
cạnh tranh của hàng Việt Nam cũng thấp hơn so với các nƣớc trong khu vực và 
trên thế giới. Trong khi đó, những lợi thế về nguồn lao động rẻ đang mất dần, vấp 
phải sự cạnh tranh của các nƣớc trong khu vực nhất là Trung Quốc, việc phát triển 
các mặt hàng mới đang gặp khó khăn về vốn, công nghệ, nguồn nhân lực và thị 
trƣờng tiêu thụ. 
89 
Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóaViệt Nam trong điều kiện hội nhập 
kinh tế quốc tế hiện nay, cần xây dựng chiến lƣợc cạnh tranh quốc gia mà cốt lõi là 
hệ thống các chính sách cạnh tranh. Việc xây dựng và thực hiện chính sách cạnh 
tranh cần theo hƣớng: giảm dần tiến tới xoá bỏ phân biệt đối xử trong kinh doanh, 
chống hạn chế cạnh tranh, giảm thiểu các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên 
thị trƣờng, hạn chế kiểm soát độc quyền. Theo hƣớng này, cần nhanh chóng ban 
hành Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh. 
Chúng ta cần phải nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa trong tất 
cả các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, thƣơng mại và dịch vụ. Một mặt, phải ý 
thức đƣợc sự cần thiết phải giữ vững và phát triển các ngành kinh tế có ý nghĩa 
sống còn, đảm bảo tính ổn định của nền kinh tế đất nƣớc; mặt khác phải biết đầu tƣ 
những ngành mũi nhọn có thể tạo ra đột phá cho Việt Nam trong cuộc cạnh tranh 
toàn cầu. Sức cạnh tranh của ngành công nghiệp và nông nghiệp của nƣớc ta đều ở 
mức thấp, do đó cần tập trung đầu tƣ về khoa học kỹ thuật, nâng cao hiệu quả sản 
xuất kinh doanh và cải thiện cơ cấu hàng công nông nghiệp xuất khẩu. Thƣơng 
mại và dịch vụ là lĩnh vực sẽ chịu ảnh hƣởng trực tiếp nhất khi Việt Nam gia nhập 
WTO, khi thị trƣờng trong nƣớc nhanh chóng đƣợc mở cửa tự do. Đặc biệt là 
ngành thƣơng mại, phân phối hàng hóa, đó chính là động mạch chủ của nền kinh tế 
nƣớc nhà. Chúng ta cần chung sức tạo nên những hệ thống phân phối mạnh phục 
vụ cho lợi ích của Việt Nam. Cần giữ vững sự tự chủ trong các ngành ngân hàng, 
đầu tƣ, bảo hiểm, viễn thông, công nghệ thông tin, giao nhận và vận chuyển hàng 
hóa; bởi đó cũng là những động mạch quan trọng của nền kinh tế nƣớc nhà. Cần 
tiếp tục phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng và sức cạnh tranh. Hoàn thiện cơ 
chế quản lý và tổ chức hệ thống phân phối theo ngành hàng; phát triển đồng bộ các 
loại hình dịch vụ phân phối trên thị trƣờng nội địa. Hình thành tập đoàn thƣơng 
mại trong nƣớc đủ mạnh, có khả năng cạnh tranh về phân phối, tiêu thụ với các tập 
đoàn phân phối của nƣớc ngoài. Tận dụng cơ hội và điều kiện từ hội nhập kinh tế 
quốc tế để mở rộng thị trƣờng, phát huy lợi thế, đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút 
nguồn vốn đầu tƣ, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nƣớc ngoài; 
90 
đồng thời, hạn chế tác động tiêu cực trong quá trình hội nhập. Chủ động thực hiện 
các biện pháp thích hợp, tạo điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh đầu tƣ ra nƣớc ngoài 
với các hình thức thích hợp; khai thác có hiệu quả các lợi thế khi gia nhập Tổ chức 
Thƣơng mại thế giới để đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế, thƣơng mại, đầu tƣ; 
thực hiện các chƣơng trình hợp tác với ASEAN. Khuyến khích phát triển các loại 
hình doanh nghiệp; các dịch vụ mới, dịch vụ có hàm lƣợng trí tuệ cao, dịch vụ hỗ 
trợ kinh doanh và các dịch vụ sản xuất, đời sống ở nông thôn; cần quan tâm cụ thể 
phát triển các dịch vụ pháp luật, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế, 
văn hóa, thông tin, thể thao, việc làm và an sinh xã hội. 
Nhƣ vậy, việc tạo nên những liên kết nội ngành, liên ngành là một nội dung 
quan trọng để nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa XNK. Hơn nữa, cần phải 
ý thức rằng, liên kết không chỉ đơn thuần là tạo ra các liên minh lớn hơn trong 
nƣớc mà phải hƣớng đến hiệu quả đích thực, phải xem xét đến việc liên kết chiến 
lƣợc để hấp thu tinh hoa quản trị, bí quyết công nghệ, lợi thế tài chính của nƣớc 
ngoài, nhƣng vẫn giữ đƣợc sự tự chủ trong phát triển. 
Xác định đƣợc cơ cấu hàng hóa thích hợp trong thƣơng mại quốc tế 
Trong định hƣớng phát triển xuất khẩu, chúng ta cần tập trung vào hai hƣớng 
chính: tập trung phát triển những mặt hàng lớn vì các mặt hàng này tăng trƣởng sẽ 
tạo ra giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn, giải quyết nhiều lao động và các vấn đề xã 
hội khác; tập trung vào các mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tuy chƣa lớn nhƣng 
vừa qua có tốc độ tăng trƣởng nhanh, có tiềm năng, không bị hạn chế hoặc chƣa bị 
hạn chế về thị trƣờng, hạn ngạch. Cần có những điều chỉnh chiến lƣợc chuyển từ 
phát triển theo chiều rộng, xuất phát từ phía cung sang phát triển theo chiều sâu, 
lấy nhu cầu thị trƣờng làm cơ sở xuất phát điểm; chuyển đổi cơ cấu sản xuất và 
thƣơng mại theo hƣớng tăng tỷ trọng hàng công nghiệp, chế biến và giúp Việt Nam 
thoát khỏi cái bẫy về cơ cấu xuất khẩu sản phẩm thô giá rẻ. 
Hàng hóa của Việt Nam xuất sang các nƣớc chủ yếu còn là hàng hóa nông 
sản dƣới dạng thô và gia công là chính nên giá trị không cao. Vì vậy, khi hoạch 
định đƣa ra các chính sách xuất khẩu, Nhà nƣớc cần khuyến khích tìm kiếm mặt 
91 
hàng và dịch vụ mới, phát triển những mặt hàng đặc thù, tập trung thành những 
kênh hàng hoá lƣu chuyển có tổ chức, có giá trị lớn, ƣu tiên sản xuất các hàng hoá 
mà Việt Nam có nhiều lợi thế hơn so với các nƣớc, nhằm thực hiện chính sách 
chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu để từng bƣớc đƣa nƣớc ta trở thành một nƣớc 
xuất khẩu hàng chế biến và dịch vụ, tạo lập một vị thế vững chắc trên thị trƣờng 
thƣơng mại quốc tế. Chúng ta cần thực hiện chiến lƣợc hƣớng vào xuất khẩu, từng 
bƣớc thay thế nhập khẩu các sản phẩm trong nƣớc tự sản xuất ngày càng ở đẳng 
cấp cao hơn, đảm bảo thực hiện nhập khẩu các máy móc, thiết bị, công nghệ thiết 
yếu, có hiệu quả cho nền kinh tế. 
Mục tiêu quan trọng trong chiến lƣợc xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 
2007-2010 là, “chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hƣớng đẩy mạnh xuất khẩu 
những mặt hàng có giá trị tăng cao; tăng sản phẩm chế biến chế tạo, sản phẩm có 
hàm lƣợng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Theo đó, tỷ 
trọng của các nhóm hàng nông-lâm-thuỷ sản và nhiên liệu và thủ công mỹ nghệ. 
Theo đó, nhóm hàng nhiên liệu, khoáng sản với hai mặt hàng chủ yếu là dầu thô và 
than đá giảm mạnh từ 21,0% năm 2006 xuống còn 9,6% năm 2010. Dự kiến lƣợng 
dầu thô xuất khẩu năm 2007 là 19 triệu tấn và bắt đầu giảm xuống còn 15,6 triệu 
tấn vào năm 2010. Tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng công nghiệp chế biến chế tạo 
gia tăng, với mức 57% (số liệu 2004) trong khi, năm 1991, con số này chỉ đạt xấp 
xỉ 18%. 
Tham gia tiến trình hội nhập, thị trƣờng xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện 
đã đƣợc mở rộng. Đến nay ta đã có mối quan hệ thƣơng mại thực tế với hơn một 
trăm nƣớc trên thế giới. Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên (bình quân 
trên 20% từ năm 1991-2004), tổng kim ngạch xuất khẩu từ chỗ xấp xỉ 1 tỷ USD 
năm 1999 lên đến 26 tỷ USD năm 2004. Cơ cấu xuất khẩu cũng có những chuyển 
dịch quan trọng, nhiều ngành sản xuất tạo ra những mặt hàng chủ lực, có khối 
lƣợng xuất khẩu lớn nhƣ: dầu thô, gạo, cà phê, hải sản, may mặc, giày da…, đã trở 
thành thành viên tiên phong trong "câu lạc bộ" những ngành có doanh số xuất khẩu 
từ 1 tỷ USD/năm trở lên.[6] 
92 
Thúc đẩy công tác xúc tiến thƣơng mại 
Nhà nƣớc và các bộ, ngành liên quan cần sớm thay đổi cơ bản các chƣơng 
trình xúc tiến xuất khẩu theo hƣớng thiết kế các chƣơng trình xúc tiến chuyên 
ngành đối với từng mặt hàng mới (hoặc mặt hàng cần hỗ trợ), tập trung vào một số 
thị trƣờng mới (hoặc thị trƣờng cụ thể cần ƣu tiên phát triển); triển khai thực hiện 
một số chiến dịch lớn để quảng bá hình ảnh quốc gia, sản phẩm của Việt Nam trên 
các phƣơng tiện thông tin, truyền thông ở nƣớc ngoài, đặc biệt trên các kênh truyền 
hình, tạp chí quốc tế nổi tiếng (CNN, BBC, Economics…); nâng cao vai trò của 
các cơ quan đại diện ngoại giao và đại diện thƣơng mại của Việt Nam ở nƣớc 
ngoài, để làm cầu nối giúp doanh nghiệp trong nƣớc tìm hiểu thông tin, thâm nhập 
thị trƣờng. 
Nhà nƣớc cần ƣu tiên và dành nguồn vốn để tập trung đầu tƣ nâng cấp cơ sở 
hạ tầng thƣơng mại, đặc biệt là hệ thống giao thông đƣờng bộ, đƣờng sắt dẫn tới 
biên giới, cảng biển, cảng sông và các phƣơng tiện liên quan. Các cơ quan quản lý 
nhà nƣớc cần tăng cƣờng áp dụng quy trình quản lý chất lƣợng công việc và chất 
lƣợng cung cấp dịch vụ công, nhằm thƣờng xuyên giám sát, quản lý hiệu quả chất 
lƣợng các thủ tục hành chính cũng nhƣ dịch vụ công (ISO 9002, quy chế cơ 
quan…). Bên cạnh đó, các hiệp hội doanh nghiệp, ngành, nghề cần vƣơn lên đáp 
ứng tốt hơn, chủ động hơn và chuyên nghiệp hơn yêu cầu của các hội viên trong 
giai đoạn mới; Cần nhanh chóng kiện toàn bộ máy tổ chức, mô hình hoạt động 
theo hƣớng chuyên nghiệp hoá, thực hiện tốt vai trò là ngƣời hỗ trợ doanh nghiệp 
tìm kiếm thị trƣờng, nguồn nguyên liệu, giúp liên kết các doanh nghiệp với nhau 
nhằm mở rộng năng lực sản xuất; là đại diện sở hữu để phản ánh nhu cầu, yêu cầu 
của doanh nghiệp tới Chính phủ; cần tổ chức thu thập, phân tích xử lý thông tin về 
thị trƣờng, về yêu cầu của nhà nhập khẩu, về chính sách nhập khẩu, về đối thủ 
cạnh tranh để tƣ vấn, hỗ trợ doanh nghiệp trong khâu tiếp cận thị trƣờng, tổ chức 
sản xuất và xuất khẩu. 
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, một nhu cầu bức thiết và quyết định thành 
bại của các đối tác trên thƣơng trƣờng quốc tế là thông tin và sự hiểu biết. Ngày 
93 
nay, nếu có điều kiện vật chất hay kỹ thuật thì không thiếu thông tin, trái lại mỗi 
một chúng ta có thể lúng túng, choáng ngợp trƣớc những dòng chảy thông tin nhƣ 
thác không ngừng của thế giới toàn cầu hóa, tin học hóa. Vấn đề đặt ra là tiếp cận 
thông tin nhƣ thế nào để có thể tinh lọc đƣợc những thông tin cần và đủ nhằm đạt 
đƣợc mục tiêu. Không thể coi nhẹ tầm quan trọng của thông tin đã qua xử lý vì đó 
thực sự là sức mạnh. Khi thông tin là sức mạnh thì việc nắm bắt và sử dụng thông 
tin để hiểu rõ đối thủ, tác động khiến cho các đối tác hành động theo ý muốn, kế 
hoạch của mình, đó là quyền lực, và ai có quyền lực thì sẽ bảo toàn đƣợc nhiều lợi 
ích nhất trong cuộc cạnh tranh kinh tế khốc liệt hiện nay.[8] 
3.2.2.2 Đề xuất về chính sách thương mại của Việt Nam đối với 
khu vực Mỹ Latinh 
Có chính sách thƣơng mại cụ thể, dài hạn trong quan hệ với các nƣớc 
châu Mỹ Latinh 
Khu vực Mỹ Latinh là một đối tác thƣơng mại đầy tiềm năng của Việt Nam. 
Trong thời gian qua, cả Việt Nam và các nƣớc Mỹ Latinh đều thể hiện thiện chí 
muốn tăng cƣờng quan hệ hợp tác nói chung và quan hệ thƣơng mại nói riêng. 
Trong hoạch định chính sách thƣơng mại với các nƣớc khu vực Mỹ Latinh, Việt 
Nam cần xác định những mục tiêu dài hạn tại đây: thúc đẩy tăng trƣởng thƣơng 
mại; tiếp cận và thâm nhập sâu hơn vào thị trƣờng các nƣớc Mỹ Latinh; thông qua 
trao đổi thƣơng mại nhằm tìm kiếm sự đồng tình ủng hộ của các nƣớc Mỹ Latinh 
đối với Việt Nam trên nhiều diễn đàn quốc tế (chẳng hạn ủng hộ Việt Nam gia 
nhập WTO, tham gia Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc với tƣ cách Ủy viên không 
thƣờng trực); tăng cƣờng quan hệ toàn diện trên nhiều lĩnh vực khác; và củng cố 
tình đoàn kết giữa các nƣớc đang phát triển, tạo sức mạnh đối phó với sức cạnh 
tranh và ảnh hƣởng của các nƣớc lớn hơn. 
Việt Nam không thể tham vọng tăng cƣờng quan hệ thƣơng mại với đồng 
thời nhiều quốc gia tại Mỹ Latinh, mà cần xác định những đối tác đƣợc ƣu tiên. Đó 
trƣớc hết là các đối tác thƣơng mại truyền thống, đã và đang có quan hệ tốt với 
Việt Nam nhƣ Argentina, Brazil và Cuba. Thông qua những cửa ngõ này, Việt 
94 
Nam sẽ tiếp cận dễ dàng hơn với các quốc gia khác, những nƣớc hiện đang có nhu 
cầu lớn đối với hàng hóa của Việt Nam, đó là Peru, Paragoay, Urugoay, El 
Salvador, Colombia… 
Chúng ta cần hiểu rằng khu vực Mỹ Latinh hiện vẫn là nơi tiềm ẩn nhiều yếu 
tố dễ gây biến động về kinh tế. Mặt khác, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị 
trƣờng này đang chịu sự cạnh tranh của hàng hóa nhiều nƣớc khác vốn đã có mặt 
từ trƣớc, điển hình là hàng hóa Trung Quốc. Do vậy, yếu tố cung cầu của thị 
trƣờng này cũng không ổn định. Để tránh thế bị động, phụ thuộc vào mối quan hệ 
thƣơng mại với Mỹ Latinh, chúng ta vẫn cần tiếp tục chính sách đa dạng hóa thị 
trƣờng xuất nhập khẩu, tiếp tục củng cố quan hệ thƣơng mại với các đối tác ở 
những khu vực khác, đảm bảo sự ổn định về nguồn cung cấp và tiêu thụ sản phẩm 
cho nền kinh tế nƣớc nhà. 
Để nâng cao hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu, chúng ta cần đảm bảo 
sao cho cơ chế chính sách có sự nhất quán và ổn định trong thời gian dài, giúp các 
doanh nghiệp xây dựng định hƣớng đầu tƣ và phát triển; cần hỗ trợ trực tiếp cho 
việc thực hiện các mục tiêu xuất khẩu về mặt hàng và thị trƣờng; các chính sách 
khuyến khích phải đến đúng đối tƣợng, tập trung vào đúng mặt hàng, đúng thị 
trƣờng và đúng chủ thể cần khuyến khích; xây dựng chính sách khuyến khích phát 
triển các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, các mặt hàng có kim ngạch nhỏ, có tiềm 
năng và tốc độ tăng trƣởng cao. 
Đa dạng hóa các chủ thể tham gia thƣơng mại quốc tế 
Để nâng cao hiệu quả trong hoạt động thƣơng mại quốc tế nói chung và quan 
hệ thƣơng mại với khu vực Mỹ Latinh nói riêng, chúng ta cần đa dạng hóa hơn nữa 
các loại hình doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu. Hiện các chủ thể tham gia 
thƣơng mại quốc tế của Việt Nam chủ yếu là các công ty nhà nƣớc lớn, hoạt động 
đã lâu năm, có khối lƣợng hàng hóa giao dịch lớn, và các công ty liên doanh. Còn 
tỷ lệ xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp cổ phần, tƣ nhân hay các loại hình kinh 
tế khác vẫn chƣa cao. 
Trong thời gian tới, chúng ta cần tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành 
và hoạt động của các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty kinh doanh đa ngành, đa 
95 
lĩnh vực, có nhiều chủ sở hữu. Hỗ trợ có hiệu quả cho doanh nghiệp nhỏ và vừa 
tham gia xuất nhập khẩu, trƣớc hết là giảm tối đa các thủ tục hành chính trong việc 
thành lập, cấp phép xuất nhập khẩu, chuyển đổi hoạt động sản xuất, kinh doanh; 
Thu hút các tập đoàn kinh tế lớn của nƣớc ngoài có tiềm năng về công nghệ cao 
vào đầu tƣ tại Việt Nam. Thúc đẩy phát triển nhanh các loại hình kinh tế tập thể 
với những hình thức hợp tác đa dạng, nhất là trong nông nghiệp và nông thôn. 
Chuyển dần việc quản lý giá theo cơ chế thị trƣờng, tạo điều kiện để các doanh 
nghiệp thực hiện hạch toán kinh tế, nâng cao khả năng thích nghi trong cơ chế thị 
trƣờng và hội nhập quốc tế. 
Nhà nƣớc cần có chính sách cởi mở hơn với các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài để 
tăng cƣờng thu hút đầu tƣ, đặc biệt là đầu tƣ vào những lĩnh vực mà doanh nghiệp 
trong nƣớc hạn chế về năng lực thực hiện; phải đổi mới cơ chế, chính sách tín 
dụng liên quan đến xuất khẩu theo hƣớng tạo điều kiện cấp tín dụng cho đầu tƣ sản 
xuất hàng xuất khẩu, hƣớng tới các dịch vụ tín dụng phục vụ ngƣời mua, thay vì 
chỉ phục vụ nhà xuất khẩu trong nƣớc; khuyến khích sự tham gia của các ngân 
hàng thƣơng mại vào hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu, chuyển từ hình thức cho 
vay thƣơng mại sang góp vốn tài trợ, hoặc nhiều ngân hàng đồng thời tài trợ cho 
dự án sản xuất vì mục đích xuất khẩu. Theo đó, ngân hàng sẽ chuyển vị thế từ 
ngƣời cho vay sang vị thế đối tác hoặc đồng sở hữu doanh nghiệp; nghiên cứu xây 
dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp của ngƣời Việt Nam ở 
nƣớc ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá vào nƣớc sở tại; đồng thời có các 
chính sách phù hợp để khuyến khích các công ty đa quốc gia hoạt động tại Việt 
Nam tiêu thụ sản phẩm qua mạng lƣới thị trƣờng sẵn có của các công ty này; chủ 
động nghiên cứu các cơ chế giải quyết tranh chấp quốc tế trong khuôn khổ 
ASEAN, WTO để có thể vận dụng hiệu quả ngay khi xảy ra tranh chấp liên quan 
đến quyền lợi của quốc gia, các doanh nghiệp Việt Nam. 
Chúng ta cần có chính sách nâng cao năng lực cạnh tranh của các loại hình 
doanh nghiệp tham gia thƣơng mại quốc tế. Doanh nghiệp là một nhân tố hết sức 
quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là khi Việt Nam chính 
thức gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO). Do vậy cần phải khuyến khích 
96 
và hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển, tạo sân chơi bình đẳng, tạo cơ hội cho doanh 
nghiệp tiếp cận các nguồn lực, thông tin chính sách, thị trƣờng, khuyến khích khối 
tƣ nhân đóng vai trò quan trọng. Chính những doanh nghiệp mới là cầu nối giữa 
sản xuất và thị trƣờng, mới đủ sức vƣơn ra thị trƣờng quốc tế. Một mặt, các doanh 
nghiệp sẽ phát ra những tín hiệu thị trƣờng nhanh nhạy nhất, chính xác nhất, qua 
đó hƣớng điều chỉnh sản xuất, mặt khác doanh nghiệp mới đủ khả năng tài chính 
và nhạy bén kinh doanh để cung ứng, thoả mãn nhu cầu thị trƣờng. 
Các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu nói chung và với khu vực Mỹ 
Latinh nói riêng cần chủ động tiến hành khảo sát, đánh giá thị trƣờng, năng lực tài 
chính, năng lực sản xuất của mình; chú ý tận dụng hiệu quả chính sách khuyến 
khích của Nhà nƣớc đối với những sản phẩm, ngành hàng nằm trong định hƣớng 
phát triển trong quan hệ với các nƣớc Mỹ Latinh giai đoạn tới để xác định cho 
mình chiến lƣợc phát triển mặt hàng xuất khẩu trọng điểm, chiến lƣợc phát triển 
mặt hàng xuất khẩu mới và chƣơng trình cụ thể tiếp cận các thị trƣờng xuất khẩu 
trọng điểm, tiềm năng. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần xây dựng cho mình 
chiến lƣợc mở rộng liên kết, hợp tác giữa các doanh nghiệp với nhau nhằm hợp lý 
hoá, chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xuất trên cơ sở thế mạnh của mỗi doanh 
nghiệp, nhằm mở rộng sức sản xuất, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh 
khi thâm nhập vào một thị trƣờng mới mẻ, hấp dẫn những cũng đầy thách thức nhƣ 
khu vực Mỹ Latinh. 
Lựa chọn cơ cấu hàng hóa hợp lý trong quan hệ thƣơng mại với Mỹ 
Latinh 
Trong định hƣớng chính sách thƣơng mại đối với khu vực Mỹ Latinh, chúng 
ta nên xác định một cơ cấu hàng hóa dựa trên nhu cầu của thị trƣờng mục tiêu, 
trong xuất khẩu tăng dần tỷ trọng hàng công nghiệp, chế biến, giảm tỷ trọng hàng 
nguyên liệu thô, trong nhập khẩu nên tập trung vào các hàng hóa Việt Nam khan 
hiếm, hoặc không có lợi thế so sánh. Nói cách khác, cần có sự điều chỉnh để cơ cấu 
xuất nhập khẩu của hai bên mang tính bù trừ, tƣơng hỗ, tránh sự cạnh tranh trực 
tiếp có thể dẫn đến bất lợi cho hai bên và có lợi cho các đối thủ khác. 
97 
Hiện nay, các mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam xuất khẩu sang thị trƣờng 
Mỹ Latinh là hàng dệt may, da giày, gạo, hàng điện tử, máy tính. Hàng dệt may 
của Việt Nam đang có nhiều cơ hội thâm nhập sâu vào thị trƣờng khu vực Mỹ 
Latinh. Các đối tác nhập khẩu dệt may lớn của ta tại khu vực là Chile, Panama, 
Peru, Cuba và Brazil. Riêng Cuba hàng năm có nhu cầu nhập khẩu khoảng 80 - 
100 triệu USD hàng may mặc với nhiều chủng loại nhƣ quần bò, áo phông, sơ mi 
cộc tay, dài tay, quần âu nam, váy, quần áo bảo hộ lao động, đồng phục học sinh... 
Một thuận lợi khác nữa là hiện Cuba không hạn chế định lƣợng đối với hàng dệt 
may nhập khẩu. Nếu có khả năng cạnh tranh đƣợc về giá với hàng dệt may của 
Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan..., hàng dệt may của chúng ta sẽ có cơ hội thâm 
nhập vào sâu hơn nữa trong thị trƣờng này. 
Đối với sản phẩm máy vi tính, Việt Nam đƣợc đánh giá có chất lƣợng tốt hơn 
hàng Trung Quốc, tuy nhiên giá cả lại chƣa thực sự cạnh tranh. Điều cơ bản là Việt 
Nam phải có cơ chế bán trả chậm mới có thể xuất đƣợc hàng vào thị trƣờng này. 
Hiện Trung Quốc cũng đang áp dụng chính sách cho vay tín dụng để Cuba mua 
các loại hàng hoá của họ. Năm 2006, Cuba đã đề nghị Việt Nam cung cấp 100.000 
máy tính với điều kiện thanh toán trả chậm 5 năm, có 1 năm ân hạn không tính lãi 
suất. Nhƣng phía Việt Nam đã đề nghị đƣợc cung cấp 50.000 máy tính với yêu cầu 
thanh toán trả chậm 15 tháng. Cuối cùng, hai bên thoả thuận phía Việt Nam (cụ thể 
là Công ty Điện tử Hanel) cung cấp cho tập đoàn điện tử Cuba 30.000 chiếc máy 
tính trong năm 2006, thanh toán trả chậm 15 tháng. 
Tuy nhiên, để thiết lập đƣợc chỗ đứng vững chắc trên thị trƣờng, các doanh 
nghiệp cung cấp máy tính của Việt Nam cần có trung tâm hậu mãi tại Cuba và các 
nƣớc có xuất khẩu mặt hàng này để hƣớng dẫn và xử lý những trục trặc kỹ thuật có 
thể xảy ra trong quá trình vận hành máy và phải thƣờng xuyên có sẵn linh kiện 
thay thế, sửa chữa, nâng cấp máy và phải phổ thông hoá linh kiện (có thể lắp lẫn 
cho nhau đƣợc). 
Vụ Châu Mỹ nhận định, ngoài các thị trƣờng truyền thống, Việt Nam còn có 
thể mở rộng xuất khẩu các hàng hoá khác vào các nƣớc khác thuộc thị trƣờng khu 
98 
vực nhƣ Peru, Paraguay, Venezuela, El Salvador, Uruguay, Colombia, Jamaica, 
Ecuador, Belize, Barbados. 
Tăng cƣờng hoạt động xúc tiến thƣơng mại đối với thị trƣờng châu 
Mỹ Latinh 
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, đòi hỏi chúng ta phải mở rộng 
nhiều thị trƣờng hơn cho tất cả các hàng hóa mà Việt Nam có lợi thế cạnh tranh. 
Châu Mỹ Latinh là một thị trƣờng rộng lớn đầy tiềm năng. Nhƣng đây cũng là một 
khu vực có nhiều quốc gia với trình độ phát triển kinh tế không đồng nhất, văn 
hóa, ngôn ngữ đa dạng. Cho đến nay, những gì Việt Nam tìm hiểu về thị trƣờng 
khu vực này chƣa đƣợc nhiều và đầy đủ. 
Để có thể tiếp cận và thâm nhập thành công các thị trƣờng trong khu vực Mỹ 
Latinh, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thƣơng mại tại khu 
vực này. Cụ thể, trƣớc hết cần tăng cƣờng các hoạt động nghiên cứu thị trƣờng, 
tìm hiểu pháp luật, văn hóa, ngôn ngữ của các nƣớc châu Mỹ Latinh. Đây là nhiệm 
vụ chung không chỉ đƣợc thực hiện từ phía các Bộ, Ngành trong Chính phủ mà còn 
một phần rất quan trọng từ phía các doanh nghiệp Việt Nam. Về phía các cơ quan 
Nhà nƣớc, chúng ta cần khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc mở 
rộng trao đổi kinh tế thƣơng mại với các nƣớc Mỹ Latinh, nhất là chú trọng giải 
quyết tốt hơn các vấn đề liên quan đến thủ tục hành chính cũng nhƣ cung cấp 
thông tin nhanh hơn, nhiều hơn, phong phú hơn cho các doanh nghiệp Việt Nam 
nhằm giảm bớt chi phí và thời gian trong các quan hệ giao dịch với các đối tác Mỹ 
Latinh. Trong các cố gắng chung đó, các cơ quan đại diện ta ở nƣớc ngoài chiếm 
một vị trí quan trọng. Hiện Việt Nam đã có 7 Thƣơng vụ phụ trách thị trƣờng 7 
nƣớc và kiêm nhiệm tại Mỹ Latinh. Điều cần thiết là các cơ quan này phải phản 
ánh kịp thời các thông tin về nƣớc sở tại, nhất là các thông tin về kinh tế, đặc biệt 
là những thay đổi về cơ chế, chính sách và chế độ thuế xuất nhập khẩu... 
Các Bộ Ban ngành hữu quan cũng cần tạo điều kiện tổ chức các cuộc hội 
thảo và các chuyến đi thực tế cho các doanh nghiệp Việt Nam muốn tìm kiếm, mở 
rộng thị trƣờng xuất khẩu tại các nƣớc trong khu vực này. 
99 
Về phía các doanh nghiệp, đây sẽ vừa là cơ hội vừa là thách thức trong việc 
tiếp cận và khôi phục, xâm nhập thị trƣờng mới mẻ này. Để duy trì và tăng cƣờng 
uy tín của hàng hoá Việt Nam trên thị trƣờng này, cần chú ý đúng mức và trƣớc 
hết đến chất lƣợng, giá thành, nhất là tính ổn định của các tiêu chí này. Các doanh 
nghiệp Việt Nam cần tăng cƣờng các hoạt động giới thiệu, quảng bá hàng hóa, 
thƣơng hiệu và văn hóa của nƣớc nhà tại các quốc gia Mỹ Latinh. Một nhiệm vụ 
nữa đặt ra đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi tiếp cận và đi vào thị trƣờng này 
là ngoài các thông tin chung về thị trƣờng, cần tìm hiểu và nắm đƣợc thị hiếu và sở 
thích ngƣời tiêu dùng các nƣớc này, hiểu đƣợc các đặc trƣng văn hóa, chủng tộc, 
ngôn ngữ tại đây. Để làm đƣợc điều đó, doanh nghiệp cần tiến hành những nghiên 
cứu, khảo sát thị trƣờng một cách kỹ lƣỡng, khoa học, nhằm nắm đƣợc những 
thông tin chính xác. Đó là những điều kiện quan trọng để thiết lập một mối quan 
hệ lâu dài và đáng tin cậy với các quốc gia Mỹ Latinh. 
100 
KẾT LUẬN 
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi 
phối sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế. Trong bối 
cảnh đó, việc đa dạng hóa các quan hệ đối tác là một lựa chọn tất yếu. Việc Trung 
Quốc tăng cƣờng quan hệ thƣơng mại với các đối tác Mỹ Latinh không nằm ngoài 
xu hƣớng trên. 
Quan hệ thƣơng mại Trung Quốc - Mỹ Latinh thời gian qua đã có sự tăng 
trƣởng mạnh mẽ, trở thành tiêu điểm chú ý của nhiều nhà phân tích kinh tế các 
nƣớc. Mối quan hệ này đã đem lại nhiều lợi ích kinh tế cho các bên đối tác, đáp 
ứng một số mục tiêu đề ra trong chính sách thƣơng mại của các bên. Tuy nhiên, 
mối quan hệ này vẫn tồn tại các hạn chế, hàm chứa những rủi ro, thách thức có khả 
năng gây tác động tiêu cực cho các nền kinh tế, đặc biệt là nền kinh tế các nƣớc 
Mỹ Latinh, đối tác ở vị thế yếu hơn trong mối quan hệ này. 
Qua việc nghiên cứu tìm hiểu về đặc điểm, thực trạng và triển vọng mối quan 
hệ thƣơng mại Trung Quốc - Mỹ Latinh thời gian qua, chúng ta có thể rút ra một 
số bài học kinh nghiệm, trên cơ sở đó đƣa ra những đề xuất về chính sách thƣơng 
mại Việt Nam nói chung và chính sách thƣơng mại với khu vực Mỹ Latinh nói 
riêng. 
Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập hay 
không, mà là làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo đƣợc 
lợi ích dân tộc, nâng cao đƣợc sự cạnh tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi 
các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong quá trình hội nhập. Điều đó đòi hỏi 
phải có một chính sách thƣơng mại quốc tế đúng đắn, khả năng nắm bắt và xử lý 
thông tin, tƣ duy nhanh nhạy, sắc bén và cả kinh nghiệm thực tiễn, khả năng rút ra 
những bài học hữu ích từ những kinh nghiệm thành công cũng nhƣ thất bại. 
Mong rằng công trình này sẽ đóng góp một phần nhỏ vào hoạt động nghiên 
cứu khoa học về quan hệ kinh tế thƣơng mại Trung Quốc - Mỹ Latinh, một đề tài 
vẫn còn nhiều mảng trống tại Việt Nam. 
101 
MỤC LỤC 
Trang 
LỜI CẢM ƠN 
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TĂT 
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 
LỜI MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NỀN KINH TẾ TRUNG QUỐC VÀ 
CHÂU MỸ LATINH TRONG BỐI CẢNH KINH TẾ THẾ GIỚI .................... 5 
1.1 BỐI CẢNH KINH TẾ QUỐC TẾ ĐẦU THẾ KỶ XXI ...................................... 5 
1.1.1 Những đặc điểm và xu hƣớng cơ bản của nền kinh tế - thƣơng mại thế giới ......... 5 
1.1.2 Quan hệ giữa các nƣớc đang phát triển trong hệ thống thƣơng mại toàn cầu ....... 12 
1.2 TÌNH HÌNH KINH TẾ - THƢƠNG MẠI TRUNG QUỐC .............................. 15 
1.2.1 Khái quát chung về nền kinh tế Trung Quốc đầu thế kỷ XXI ...................... 15 
1.2.2 Tình hình thƣơng mại quốc tế của Trung Quốc ........................................... 19 
1.3 TÌNH HÌNH KINH TẾ - THƢƠNG MẠI CÁC NƢỚC MỸ LATINH ........... 23 
1.3.1 Tình hình kinh tế đầu thế kỷ XXI ................................................................ 23 
1.3.2 Tình hình thƣơng mại quốc tế ..................................................................... 28 
CHƢƠNG 2:ĐẶC ĐIỂM, THỰC TRẠNG VÀ TRIỂN VỌNG QUAN HỆ 
THƢƠNG MẠI TRUNG QUỐC - MỸ LATINH ................................................ 31 
2.1 CHÍNH SÁCH THƢƠNG MẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA MỐI QUAN HỆ 
THƢƠNG MẠI GIỮA TRUNG QUỐC VÀ MỸ LATINH ................................... 31 
2.1.1 Chính sách thƣơng mại ............................................................................... 31 
2.1.2 Một số đặc điểm cơ bản của mối quan hệ thƣơng mại giữa Trung Quốc 
và Mỹ Latinh ....................................................................................................... 44 
102 
2.2 THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƢƠNG MẠI TRUNG QUỐC - MỸ 
LATINH ...................................................................................................................... 51 
2.2.1 Tình hình chung .......................................................................................... 51 
2.2.2 Tình hình xuất khẩu hàng hóa từ Trung Quốc sang khu vực Mỹ Latinh ...... 54 
2.2.3 Tình hình nhập khẩu hàng hóa của Trung Quốc từ khu vực Mỹ Latinh ....... 57 
2.2.4 Đánh giá chung về quan hệ thƣơng mại Trung Quốc - Mỹ Latinh ............... 59 
2.3 TRIỂN VỌNG QUAN HỆ THƢƠNG MẠI TRUNG QUỐC - MỸ LATINH...... 68 
2.3.1 Một số căn cứ dự đoán triển vọng phát triển của quan hệ song phƣơng ....... 68 
2.3.2 Dự đoán triển vọng phát triển quan hệ song phƣơng ................................... 69 
CHƢƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT 
CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM ......................................................................... 73 
3.1 BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA TỪ THỰC TẾ QUAN HỆ 
THƢƠNG MẠI TRUNG QUỐC - MỸ LATINH .................................................... 73 
3.1.1 Quan hệ thƣơng mại dựa trên những lợi ích tƣơng đồng ............................. 73 
3.1.2 Giành vị thế chủ động trong quan hệ với các đối tác ................................... 74 
3.1.3 Lợi ích kinh tế - thƣơng mại có thể không tách rời lợi ích chính trị, ngoại giao ... 75 
3.1.4 Chính sách thƣơng mại cởi mở đem lại cả lợi ích và thách thức .................. 77 
3.1.5 Phải có chính sách phát triển thƣơng mại đi đôi với chiến lƣợc phát triển 
bền vững.............................................................................................................. 78 
3.2 MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CHÍNH SÁCH CHO VIỆT NAM TRONG QUAN 
HỆ THƢƠNG MẠI VỚI KHU VỰC MỸ LATINH ............................................... 79 
3.2.1 Thực trạng quan hệ Việt Nam - Mỹ Latinh ................................................. 79 
3.2.2 Những đề xuất về chính sách thƣơng mại từ kinh nghiệm của Trung Quốc ........ 85 
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 100 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
PHỤ LỤC 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Tiếng Việt 
1. Dương Danh Dy (2006), "Vài suy ngẫm về Trung Quốc", Tạp chí Nghiên cứu 
và Thảo luận, (8), tr. 15. 
2. John Audley (2004), A new direction for global trade?, Carnegie Endowment, 
bản dịch của Viện Nghiên cứu Châu Mỹ, Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (4), tr. 21. 
3. Liễu Xuân Đài (2006), "Kinh tế Chile đang trên đà phát triển", Tạp chí Châu 
Mỹ Ngày nay, (10), tr. 45. 
4. Liễu Anh Đài (2006), "Kinh tế các nước Mỹ Latinh thời gian qua và triển 
vọng", Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (12), tr. 36. 
5. Vũ Đăng Hinh (2006), "Các thiết chế chính trị chủ yếu ở Mỹ Latinh", Tạp chí 
Châu Mỹ Ngày nay, (1), tr. 3. 
6. Nguyễn Đại Lai (2005), "Vài bình luận về kinh tế thế giới và vấn đề vươn ra 
thế giới của kinh tế Việt Nam", Tạp chí Kinh tế và dự báo, (5), tr. 29. 
7. Trịnh Trọng Nghĩa (2006), "Kinh tế Brazil hiện nay và triển vọng", Tạp chí 
Châu Mỹ Ngày nay, (12), tr. 50. 
8. Tôn Nữ Thị Ninh (2007), "Một số yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế đối 
với chính sách và phương thức hoạt động đối ngoại của nước ta", Tạp chí 
Cộng sản điện tử, (123). 
9. Nguyễn Xuân Phúc (2007), "Triển khai đồng bộ các giải pháp phát triển kinh 
tế - xã hội năm 2007", Tạp chí Cộng sản điện tử, (125). 
10. Nguyễn Xuân Thắng (2005), Chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế - 
Động lực phát triển của Việt Nam trong giai đoạn mới, 
studies.org/2005_NXThang.pdf 
11. Nguyễn Xuân Trung (2006), "Tình hình kinh tế Mỹ Latinh đầu thế kỷ XXI", 
Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (3), tr. 18. 
12. Nguyễn Xuân Trung (2006), "Quan hệ Việt Nam - Nam Mỹ đang trên đà 
phát triển", Tạp chí Châu Mỹ Ngày nay, (4), tr. 60. 
13. Nguyễn Văn Vĩnh, "Từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Trung Quốc", 
Tạp chí Cộng sản, (1), tr. 33. 
14. TTXVN, Tin kinh tế, các số năm 2003, 2004, 2005, 2006 
15. TTXVN, Tài liệu tham khảo đặc biệt, các số năm 2003, 2004, 2005, 2006 
Tiếng Anh 
16. Alexander B. Hammer và James A. Kilpatrick (2006), "Distinctive Patterns 
& Prospects in China-Latin America Trade, 1999-2005", Journal of 
International Commerce and Economics, United States International Trade 
Commission, September 2006 
17. Birgit Zinzius (2004), Doing Business in the New China: a handbook guide, 
Westport, Connecticut, London. 
18. Caroline Freund, Caglar Ozden (2006), The Effect of China’s Exports on 
Latin American Trade with the World, August, 2006, 
yLevelTradeFlows.pdf 
19. Florencia Jubany and Daniel Poon (2006), Recent Chinese Engagement in 
Latin America and the Caribbean: A Canadian Perspective, Research Report, 
Canada Foundation for Americas, March 2006 
20. IDB (2004), The Emergence of China; Opportunities and Challenges for 
Latin America and the Caribbean, Inter-American Development Bank, 
Integration and Regional Programs Department/Research Department, 
Washington DC 
21. Jiang Shixue (2006), "A New Look at the Chinese Relations with Latin 
America", Nueva Sociedad Journal, (203), 2006. 
22. Jiang Shixue (2005), South-South Cooperation in the Age of Globalization: 
Recent Development of Sino-Latin American, Relations and Its Implications, 
Chinese Academy of Social Sciences,  
2005020134080.html 
23. Jorge I. Domínguez (2006), China’s Relations With Latin America: Shared 
Gains, Asymmetric Hopes, Inter-American Dialogue, Harvard University 
24. Jorge I. Domínguez (2006), Latin America’s International Roles and 
Implications for the United States,  
25. José Luis Machinea (2005), World Economic Situation and China's Impact 
on Latin America and the Caribbean, Caracas, 31 October 2005. 
26. Karl Buck (2006), China's Engagement in Latin America and the Caribbean 
- Expectations and Bad Dreams, Latin America Council of the European 
Union, Geneva Dec., 2006 
27. Nancy Birdsall, Dani Rodrid and Arvind Subramanian (2005), "How to help 
poor countries", Foreign Affairs, July/August 2005. 
28. Roldan Muradian (2006), Development Effects of the Chinese Boom in Latin 
America, Development Research Institute (IVO), Tilburg University. 
29. Robert Devlin and Zheng Kai (2006), China’s Emergence: A Wake Up 
Service for Latin America, G-24 Meeting, Singapore, September 13-14, 2006. 
30. Thalif Deen (2004), South - South Corperation Soars, Inter Press Service, 
December 20, 2004. 
PHỤ LỤC 1: BẢN ĐỒ ĐỊA LÝ KHU VỰC MỸ LATINH 
PHỤ LỤC 2: DỰ ĐOÁN MỘT SỐ CHỈ TIÊU KINH TẾ 
CỦA MỸ LATINH NĂM 2006 - 2007 
Đơn vị: % 
KHU VỰC VÀ NƢỚC 
Năm 2006 Năm 2007 
GDP 
Lạm 
phát 
Cán cân 
thanh toán 
vãng lai 
GDP 
Lạm 
phát 
Cán cân 
thanh toán 
vãng lai 
Toàn MLT 4,3 5,8 0,8 3,6 5,6 0,2 
Các nước MERCOSUR 4,5 6,6 0,9 3,8 6,6 0,1 
Argentina 7,3 12,9 1,2 4,0 15,0 0,5 
Brazil 3,5 4,9 1,0 3,5 4,4 0,2 
Uruguay 4,0 5,5 -5,8 3,5 4,9 -2,5 
Chile 5,5 3,6 0,5 5,2 3,6 -1,2 
Vùng Andean 4,8 5,7 5,1 3,8 6,5 4,2 
Venezuela 6,0 11,7 14,1 3,0 17,3 13,4 
Colombia 4,5 4,7 -1,6 4,0 4,2 -2,7 
Peru 5,0 2,7 1,4 4,5 2,2 0,3 
Ecuador 3,0 3,4 0,2 2,2 3,0 0,4 
Mexico, Trung Mỹ và 
Vùng Caribbean 
3,7 4,5 -1,1 3,3 3,6 -1,2 
Mexico 3,5 3,5 -0,6 3,1 3,0 -0,8 
Các nước Trung Mỹ 3,9 7,4 -4,9 3,8 5,8 -4,3 
Các nước vùng 
Caribbean 
5,3 8,3 -1,0 4,5 5,8 -1,4 
Nguồn: IMF 
PHỤ LỤC 3: CÁN CÂN THƢƠNG MẠI 
GIỮA TRUNG QUỐC VÀ MỸ LATINH 
 (Tỷ USD) 
 2000 2001 2002 2003 2004 2005 
Trung Quốc XK 
sang Mỹ Latinh 
7,2 8,2 9,49 11,9 18,2 23,7 
Trung Quốc NK 
từ Mỹ Latinh 
5,4 6,7 8,33 14,9 21,8 26,8 
Cán cân thƣơng 
mại 
1,8 1,5 1,16 -3,0 -3,6 -3,1 
Nguồn: Thống kê của Hải quan Trung Quốc, và www.moftec.gov.cn 
PHỤ LỤC 4: CƠ CẤU HÀNG XUẤT KHẨU 
CỦA MỸ LATINH SANG TRUNG QUỐC 
 (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) 
Các sản phẩm gỗ 0,44 2,13 4,53 0,76 0,27 0,59 --- 
Các sản phẩm da 2,61 3,68 --- 1,21 0,34 --- --- 
Hóa chất 0,75 0,63 0,63 1,09 0,35 0,35 0,48 
Thức ăn chế biến 5,57 3,11 2,68 1,50 0,51 5,24 0,29 
Hàng dệt may 0,34 0,60 0,25 0,88 0,52 0,80 --- 
Khoáng sản 1,42 0,69 1,33 2,68 0,67 1,80 6,69 
Hàng công nghiệp cơ bản 0,79 1,44 3,68 0,92 0,74 3,18 1,30 
Máy móc phi điện tử 0,30 0,75 0,08 0,11 0,75 0,14 --- 
Thực phẩm tươi sống 5,58 3,84 4,01 4,24 0,77 2,49 0,28 
Hàng tạp phẩm 0,30 0,34 0,20 0,49 1,10 0,33 0,06 
Trang thiết bị giao thông 0,68 1,13 0,12 0,32 1,43 --- 0,09 
Trang phục --- 0,15 --- 1,47 1,52 2,73 --- 
Linh kiện điện tử 0,10 0,24 0,05 0,19 1,56 0,06 --- 
Hàng điện tử công nghệ và 
tiêu dùng 
--- 0,38 --- --- 1,96 --- --- 
Nguồn: Số liệu dựa trên Intracen 
Chú thích: (1) Argentina, (2) Brazil, (3) Chile, (4) Colombia, (5) Mexico, (6) Peru, 
(7) Venezuela. 
PHỤ LỤC 5: CÁC SẢN PHẨM XUẤT KHẨU CHỦ YẾU 
CỦA TRUNG QUỐC SANG MỸ LATINH 
 (USD million) 
 2001 2002 2003 2004 2005 2001-05 
Hàng dệt may và sản phẩm may 
mặc 
2.131 2.731 3.127 4.284 4.051 16.324 
Giày dép 323 385 415 638 755 2517 
Trang thiết bị giao thông vận tải 372 379 637 979 1.357 3.722 
Máy vi tính 10 15 31 40 53 149 
Máy chủ 65 48 84 125 200 522 
Các máy móc khác 2.277 2.491 3.362 5.463 7.736 21.328 
Nguồn: World Trade Atlas 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 3131_8725.pdf 3131_8725.pdf