Quán triệt tư tưởng chỉ đạo trong các thời kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI, VII, VIII ngoại giao Việt Nam đã phát
huy vai trò to lớn của mình đối với sựnghiệp đổi mới đất nước.
Với sự đổi mới trong tư duy đối ngoại cùng với bễn hữu quan chúng ta
giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia, bình thường hoá quan hệvới Trung
Quốc từng bước bình thường hoá quan hệvới Mỹ. Với chiến lược và chính
sách đúng đắn Việt Nam đã phá được thế bao vây cô lập về chính trị, cấm vận
về kinh tế. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ đa dạng hoá đa
phương hoá các quan hệ quốc tế.
40 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2456 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quan hệquốc tếcủa Việt Nam thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuận lợi cho
công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời góp phần
tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình,
độc lập dân tọc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và
thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất và xu hướng quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới để có những chủ
trương đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới phải coi vận dụng bài học kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức
11
mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các
nước, không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở các
nguyên tắc cùng tồn tại hoàn bình. Trước sau như một tăng cường đoàn kết và
hợp tác với Liên Xô, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hợp tác Việt
- Xô nhằm đáp ứng lợi ích của mỗi nước.
Không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị đặc biệt
giữa Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân
Campuchia anh em. Đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo
nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của
nhau. Phấn đấu góp phần sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ về vấn
đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và Hiến chương
LHQ.
Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, từng
bước mở rộng sự hợp tác Việt - Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa
hai nước thông qua thương lượng.
Củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với Cu - Ba
và các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Đảng cộng sản Việt Nam chủ trưng tăng cường quan hệ với các Đảng
cộng sản và công nhân, góp phần tích cực vào sự đoàn kết và hợp tác giữa các
Đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin, đấu tranh vì những mục tiêu
cao cả của thời đại.
Đoàn kết với lực lượng đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội, sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng xã
hội - dân chủ, các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới.
12
Phát triển quan hệ đoàn kết, tin cậy và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều
mặt với Ấn Độ. Tiếp tục mở rộng hợp tác với các nước đang phát triển khác.
Tiếp tục củng cố và tăng cường phong trào không liên kết. Phát triển quan hệ
hữu nghị với các nước ở Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương, phấn
đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
Mở rộng sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước Bắc Âu, Tây
Âu, Nhật Bản và các nước phát triển khác. Thúc đẩy quá trình bình thường
quan hệ với Hoa Kỳ.
Góp phần làm cho Liên Hợp Quốc phục vụ đắc lực hơn những mục tiêu
của nhân loại là hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Hợp tác với các tổ
chức chuyên môn của LHQ và các tổ chức phi chính phủ.
Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập, phát triển.
Việc Liên Xô sụp đổ vào 22-12-1991 đã làm chấn động thế giới vì tốc
độ nhanh chóng của các sự kiện và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các Đảng cộng
sản trên thế giới. Đứng trước tình hình đó, Hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ III khoá VII đã họp và đưa ra 4 phương châm xử lý trong hoạt
động đối ngoại của ta là:
“Một là: Biết kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa
quốc tế của giai cấp công nhân đảm bảo lợi ích chân chính của dân tộc.
Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng
hoá, đa phương hoá nhưng hai vế đó không hề mâu thuẫn nhau mà thực ra là
thống nhất, phục vụ hỗ trợ cho nhau.
Ba là: Nắm vững hai mặt đối lập của hợp tác và đấu tranh trong quan
hệ quốc tế.
13
Bốn là: Nhìn rõ vai trò của các tổ chức khu vực, hợp tác tốt với tất cả
các nước trên thế giới, nhất là các nước lớn có vai trò kinh tế, chính trị cường
quốc trên thế giới”.
Bốn phương châm chỉ đạo trên đưa ra vào đúng thời điểm hợp lý, kịp
thời phát huy và đạt được những thành tựu tốt đẹp.
Trước những thành tựu của đường lối đối ngoại đổi mới Đại hội VI và
VII, Đại hội VIII tiếp tục đường lối đối ngoại đổi mới chỉ ra đường lối chính
sách đối ngoại tới mọi chủ thể trên thế giới.
Đại hội VIII chỉ rõ: “ Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố
môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh
phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, phục vụ
sự nghiệp xây dựng và bảo vệc tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh
chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội.
Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển.
Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa
phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, thông qua thương lượng để
tìm những giải pháp phù hợp giải quyết những vấn đề tồn tại và các tranh
chấp, đảm bảo hoà bình, ổn định, an ninh, hợp tác và phát triển.
Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức
ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi
trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên
14
thế giới. Đồng thời luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang
phát triển ở Châu á, Châu Phi, Mỹ Latinh và phong trào không liên kết.
Tăng cường quan hệ với các tổ chức của Liên Hợp Quốc và các tổ chức
quốc tế khác. Tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết
các vấn đề toàn cầu. Ủng hộ cuộc đấu tranh loại trừ vũ khí hạt nhân và các
phương tiện giết người hàng loạt khác.
Phát triển quan hệ với các Đảng sản và công nhân, các lực lượng cách
mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ, thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng
cầm quyền và các đảng khác
Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính
phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp
phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển.
Trên đây là những nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại qua từng
thời kỳ tổ chức đại hội, chính sách đổi mới này được áp dụng trong bối cảnh
quốc tế có nhiều biến động và tác động trực tiếp đến Việt Nam. Nhưng tựu
chung lại đây là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương
hoá theo tinh thầm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển.
2.2. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI.
Chính sách đối ngoại đổi mới mà đại hội VI đề ra là kiên trì thực hiện
nhiệm vụ chiến lược giữ vững hoà bình, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi,
tập trung cao nhất, nhằm từng bước ổn định và tạo cơ sở cho phát triển kinh tế
trong vòng 25 năm đến 30 năm (tức đến năm 2020), xây dựng chủ nghĩa xã
hội, bảo vệ độc lập của tổ quốc góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung
cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu
chiến lược và ích lợi cao nhất của toàn Đảng và toàn dân ta. Chính sách đối
ngoại đổi mới phải góp sức mình vào sự nghiệp chung đó.
15
Ngay sau khi đưa chính sách đối ngoại vào thực hiện, Đảng và nhà
nước đã “đưa vấn đề Campuchia ra để giải quyết bằng con đường hoà bình”.
Những giải pháp đưa ra trong chính sách để giải quyết vấn đề Campuchia, đã
có tác động thúc đẩy tác động đến một giải pháp chung trong vấn đề
Campuchia đi đến một giải pháp hoà bình toàn diện, đến năm 1989 thì cơ bản
hoàn thành bằng tuyên bố về một giải pháp chính trị toàn diện cho xung đột ở
Campuchia. Việt Nam và ASEAN cùng tìm ra một giải pháp đồng bộ cho vấn
đề này, từ đây 2 nhóm nước hiểu nhau hơn, tin tưởng nhau hơn. Điều đó có ý
nghĩa rất to lớn trong việc mang lại ổn định an ninh cho khu vực và làm giảm
nguy cơ xung đột tại khu vực Đông Nam Á vốn đang tiềm tàng nhiều mâu
thuẫn giữa các nước. Đây chính là thành công đầu tiên của chính sách đối
ngoại đổi mới. Bắt đầu từ thành công này tình hình ở Đông Nam Á được cải
thiện từ đối đầu sang đối thoại, tạo xu thế hoà bình, hữu nghị, hợp tác. Với
các nước Đông Nam Á, nước ta chủ trương mở rộng quan hệ về mọi mặt trên
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, hai bên cùng có lợi. Những năm qua cũng đã ghi nhận những cố
gắng to lớn của nhà nước ta trong việc cải thiện quan hệ với các nước khu vực
Đông Nam Á - ASEAN.
Tháng giêng năm 1989, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẵn sàng quan hệ hữu nghị với các nước
ASEAN và các nước khác trong khu vực6. Từ đây các cuộc đi thăm lẫn nhau
của các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam và của các nước ASEAN đã đạt được
những thoả thuận quan trọng và đặt nền móng cho một thời kỳ mới trong
quan hệ giữa nước ta với các nước ASEAN. Ngày 22 tháng 7 năm 1992, Việt
Nam tham ký hiệp ước thân thiện Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN.
Có thể nói đây là một tiền đề quan trọng cho sự hội nhập của Việt Nam sau
này. Ngày 28/7/1995 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của
6: Trích Lưu Văn Lai: 50 năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995) Tập II - NXB Công an nhân dân trang 251-
252
16
ASEAN, đây là một thành công to lớn của ngoại giao Việt Nam, có ý nghiã
quyết định cho tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam.
Sau khi hội nhập ASEAN, Việt Nam đã trở thành nhân tố rất năng động
của tổ chức này, sau sự tổ chức thành công của hội nghị cấp cao ASEAN
tháng 12/1998 ở Hà Nội, Việt Nam càng chứng tỏ là một hạt nhân tích cực
của tổ chức này. Quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và các
nước ASEAN ngày càng được đẩy mạnh.
Năm 1994 thương mại 2 chiều đạt 2,4 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim
ngạch ngoại thương của Việt Nam. Đến năm 1996 tăng lên 6 tỷ USD chiếm
33% kim ngạch xuất khẩu và 27% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Cho
đến năm 1998 khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang ở đỉnh cao thì các
nước ASEAN vẫn chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu và 18% đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam 7.
Sau khi hội nhập ASEAN, chúng ta tham gia vào khu vực mậu dịch tự
do ASEAN (AFTA). Tuy nhiên, do sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa
Việt Nam và một số nước trong khuôn khổ AETA nên Việt Nam cần có thời
gian để điều chỉnh. Các nước ASEAN đã đồng ý kéo dài thời hạn giảm thuế
quan của Việt Nam đến năm 2006 thay vì 2003 như các thành viên khác.
Mặc dù được đánh giá là khu vực phát triển năng động của Châu Á -
Thái Bình Dương và của thế giới, nhưng cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997
đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển chung của khu vực, đối phó với vấn
đề này là rất khó, đòi hỏi các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng
cần phải nghiên cứu, rút kinh nghiệm và đề ra những giải pháp mang tính
phòng ngừa hữu hiệu, xây dựng mô hình phát triển bền vững hơn, ổn định
hơn cho từng thành viên của toàn khu vực.
Tóm lại, việc gia nhập ASEAN của Việt Nam là hướng đúng. Về kinh
tế, ta có thể tranh thủ được vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các
7: ĐHKTQD kinh tế quốc tế - NXB Thống kê - Hà Nội, 1998 trang 139
17
nước ASEAN tiên tiến. Tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển,
mở rộng thị trường trong khu vực.
Về an ninh, chính trị, Việt Nam tham gia vào diễn đàn khu vực ASEAN
chuyên bàn về những vấn đề an ninh khu vực ASEAN (ARF), khi tham gia
vào ASEAN chúng ta có thể góp phần củng cố môi trường xung quanh mình,
tạo dựng một vành đai an toàn mang tính chiến lược, bên cạnh đó khi tham
gia vào ASEAN tiếng nói của Việt Nam sẽ có thế và lực hơn trên thị trường
quốc tế. Hơn nữa, nếu các nước ASEAN gạt bỏ được những bất đồng tranh
chấp không đáng kể để đi tới một đồng thuận trong việc giải quyết vấn đề
tranh chấp ở Biển Đông đối với Trung Quốc thì tình hình sẽ bớt đi căng
thẳng, nhanh
*Đối với Trung Quốc
Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng gần, có quan hệ hữu
nghị văn hoá và lịch sử lâu dài. Chúng ta luôn quý trọng tình hữu nghị với
nhân dân Trung Quốc, với mong muốn khôi phục lại mối quan hệ hữu nghị
giữa hai dân tộc. Trong yêu cầu để hai bên Việt - Trung có thể đi đến bình
thường hoá quan hệ đó là thế giới đang tích cực chuyển từ đối đầu sang đối
thoại, mọi vấn đề tranh chấp quốc tế, các quốc gia trên thế giới ngày càng đi
theo xu thế giải quyết bằng thương lượng hoà bình. Nhu cầu hoà bình là vấn
đề “tự thân” các nước phải phấn đấu, bởi chỉ có hoà bình mới có thể “dồn”
sức cho phát triển kinh tế và quan hệ Việt - Trung cũng không nằm ngoài quy
luật đó. Trong vấn đề đặt lại quan hệ ngoại giao giữa hai nước, cả hai nước đề
nhằm tới một mục tiêu là gạt bỏ đối đầu, mọi tranh chấp về biên giới lãnh hải
và các vấn đề xung đột giữa hai nước đều giải quyết bằng thương lượng hoà
bình. Ngoài ra hai nước còn muốn khôi phục lại quan hệ ngoại giao truyền
thống có từ lâu do hai lãnh tụ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh vun đắp cho
tình hữu nghị của hai dân tộc.
18
Cùng với việc nối lại mối quan hệ ngoại giao hai nước còn tìm thấy ở
nhau những tiềm năng có thể hợp tác được trong vấn đề kinh tế, như nhu cầu
thị trường của hai bên đều lớn do hai nước cùng thi hành chính sách phát triển
kinh tế dựa vào xuất khẩu là chính. Việt Nam mong muốn Trung Quốc giúp ta
sửa chữa nâng cấp một số nhà máy, xí nghiệp mà Trung Quốc giúp ta xây
dựng trước kia như nhà máy gang thép Thái Nguyên và các nhà máy xi măng
lò đứng của Trung Quốc. Còn phía Trung Quốc có nhu cầu về nguồn nguyên
liệu lớn nhất là nguồn nguyên liệu than đá, trong khi Việt Nam có thế mạnh ở
điểm này, ngoài ra Trung Quốc cần một thị trường tiêu thụ hàng hoá tiêu
dùng do các địa phương giáp Việt Nam sản xuất... Tính đến khi hai bên cùng
mở cửa biên giới cho hai bên giao lưu buôn bán hàng hoá thì hàng hoá Trung
Quốc tràn vào Việt Nam rất nhiều, nhất là hàng tiêu dùng với giá cả mẫu mã
phong phú.
Có thể đánh giá nhu cầu hai bên về việc bình thường hoá quan hệ là rất
cần thiết. Nhất là đối với Việt Nam, việc bình thường hoá quan hệ với Trung
Quốc giúp nước ta có thêm bạn bè, tạo môi trường thuận lợi để phá vỡ thế bao
vây cô lập... Khôi phục và phát triển quan hệ với Trung Quốc là nhiệm vụ
trọng tâm của nước ta trong chính sách đối ngoại đối nội.
Các cuộc gặp cấp cao Việt Trung từ tháng 9/1990 diễn ra tại Thành Đô
(Trung Quốc)8 đã mở ra một trang sử mới trong việc khai thông quan hệ giữa
hai nước, đến trung tuần tháng 11 năm 1991 tại Bắc Kinh hai bên đã ra thông
cáo chung: việc bình thường hoá quan hệ Việt - Trung phù hợp với lợi căn
bản, lâu dài của nhân dân hai nước, có lợi cho hoà bình ổn định ở khu vực,
đây là sự kiện “khép lại quá khứ, mở ra tương lai” hai nước là đồng chí,
không phải là đồng minh. Tranh chấp giữa hai nước cần được được giải quyết
theo hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, thông qua thương lượng hoà
bình, không được sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực.
8: Trích Lưu Văn Lợii: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 209
19
Tuy nhiên các vấn đề cần giải quyết giữa hai nước là: vấn đề biên giới
trên bộ, tranh chấp ở biển Đông, phân định vịnh Bắc Bộ. Tháng 10 năm 1993
Tổng bí thư Đỗ Mười đã tuyên bố “Việt Nam chủ trương giải quyết tranh
chấp giữa các nước, kể cả tranh chấp về các quần đảo ở Biển Đông, thông qua
thương lượng hoà bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn
nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế và Công ước về luật biển năm 1982 và chủ
quyền các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
họ”9.
Đến ngày 30-12-1999, hai nước đã hoàn thành phân định 164 điểm còn
tranh chấp biên giới trên bộ và ký kết Hiệp định biên giới trên bộ. Còn những
vấn đề còn lại như: phân định vịch Bắc Bộ và những vấn đề khác do lịch sử
để lại. Qua các cuộc gặp gỡ hàng năm, hai bên đã thống nhất về nguyên tắc:
Khai thác những điểm chung, gác lại những bất đồng, cùng nhau thương
lượng, giải quyết từng bước trên cơ sở hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau và cùng
có lợi. Bước sang giai đoạn mới, hai bên thống nhất cần phải đẩy mạnh hơn
nữa quan hệ hữu nghị, hợp tác lên một bước mới về chất cho phù hợp với nhu
cầu lợi ích của hai bên.
Trong chuyến thăm hữu nghị Trung Quốc của Tổng bí thư Đảng cộng
sản Lê Khả Phiêu đầu năm 1999, hai bên đã thảo luận thống nhất về nguyên
tắc quan hệ Việt - Trung từ nay sẽ phát triển theo tinh thần 16 chữ:
“Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện
Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”
Ngày 26 - 12 - 2000 nhân chuyến thăm của Chủ tịch nước Trần Đức
Lương đã ra một thông cáo chung về Hợp tác toàn diện và ký Hiệp ước phân
định vị trí Bắc Bộ
* Đối với Mỹ.
9: Trích Lưu Văn Lợi: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 219-220
20
Một thành công của công tác đối ngoại trong giai đoạn đổi mới là việc
Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Mỹ vào ngày 11-7-1995, khép lại một
quá khứ đau thương và mở ra tương lai trong quan hệ hai nước.
Trước sự thay đổi của thế giới, trước chính sách đối ngoại đổi mới rộng
mở cùng tồn tại hoà bình của Việt Nam (1986) và những thiện chí của Việt
Nam trong vấn đề POW và MIA (người Mỹ mất tích trong cuộc chiến tranh ở
Việt Nam), chính quyền Mỹ đã phải thay đổi chính sách của mình, đã tuyên
bố xoá bỏ cấm vận đối với Việt Nam (3-2-1994). Thủ tướng Chính phủ nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng ra tuyên bố hoan nghênh tuyên bố
của Chính phủ Mỹ và bày tỏ sẵn sàng “khép lại quá khứ, hướng tới tương lai”.
Ngày 11-7-1995, Tổng thống Mỹ Clinton tuyên bố về việc bình thường
hoá quan hệ với Việt Nam “Hôm nay tôi loan báo việc bình thường hoá các
quan hệ ngoại giao với Việt Nam ”10
Đầu tháng 8/1995, Hoa Kỳ và Việt Nam đã chính thức lập quan hệ
ngoại giao và mở đại sứ quán ở thủ đô hai nước.
Có thể thấy rằng chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam hiện nay là một
bộ phận nằm trong chiếm lược toàn cầu của Mỹ. Mỹ rất chú trọng đến vị trí
chiến lược của Việt Nam ở khu vực Châu Á Thái Bình Dương trong đó bao
gồm cả Đông Nam Á.
Nội dung chiến lược của Mỹ đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
bao gồm những trọng điểm sau:
- Bình thường hoá quan hệ với Việt Nam giúp cho Mỹ có cơ hội xoá bỏ
được những mâu thuẫn trong nội bộ nước Mỹ. Giải quyết hết những di sản
của chiến tranh trước đây, đồng thời mở đường cho các nhà kinh doanh Mỹ
thâm nhập thị trường Việt Nam buôn bán và đầu tư, đem lại thêm lợi nhuận,
10: Trích Lưu Văn Lợi: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 280
21
việc làm và lợi thế mới cho Mỹ trong cuộc cạnh tranh kinh tế và thương mại
toàn cầu hiện nay.
Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Bill- Clinton về việc bình thường hoá
quan hệ với Việt Nam đã nêu rõ những vấn đề mà Mỹ rất quan tâm. Đó là,
việc tìm kiếm hết những người Mỹ mất tích trong chiến tranh, tạo điều kiện
cho Mỹ thoát khỏi “hội chứng Việt Nam” và làm cho xã hội Mỹ khỏi bị chia
rẽ. Mỹ cũng hy vọng Việt Nam sẽ phồn vinh hơn với sự hỗ trợ của Mỹ trong
tương lai để thực hiện nền kinh tế thị trường và mở cửa.
Chỉ sau ba năm bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, Mỹ đã trở
thành một trong những nước đầu tư lớn vào Việt Nam (trên 1 tỷ USD - đứng
hàng thứ 8), kim ngạch buôn bán giữa hai nước tăng lên nhanh chóng hàng
năm. Tương lai Mỹ có thể là nước dẫn trong việc đầu tư và buôn bán với Việt
Nam. Tất cả các công ty lớn của Mỹ đã mở văn phòng ở Việt Nam.
- Bên cạnh đó Mỹ theo chiến lược lâu dài, thực hiện “diễn biến hoà
bình” để chuyển hoá Việt Nam đi vào quỹ đạo của Mỹ, triệt tiêu mục tiêu và
bản chất xã hội chủ nghĩa của Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản của Việt Nam, toàn quân, toàn
dân ta đoàn kết với tinh thần “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Thực
hiện đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại, tranh thủ sức mạnh
của thời đại kết hợp với việc phát huy nội lực đất nước và con người Việt
Nam, nhất định chúng ta sẽ thực hiện thành công sự nghiệp dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Mọi âm mưu nham hiểm của các thế lực
thù địch nhất định sẽ bị thất bại.
Trong quan hệ với Mỹ, Chính phủ Việt Nam luôn luôn xuất phát từ lập
trường nguyên tắc là đảm bảo “ cho quan hệ giữa hai nước trên cơ sở bình
đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của
22
nhau, cùng có lợi và phù hợp với các nguyên tắc phổ biến của luật pháp quốc
tế.11
Đến ngày 19-7-2000 hai nước Việt Nam - Mỹđã hoàn thành việc ký kết
Hiệp định thương mại giữa hai nước, đánh dấu sự phát triển hơn nữa quan hệ
thương mại giữa hai nước. Và gần đây nhất, chuyến đi thăm lịch sử lần đầu
tiên của Tổng thống Mỹ W.J.Clinton từ ngày 16 đến ngày 19-11-2000 đã
đánh dấu mong muốn hơn nữa phát triển trong quan hệ giữa hai nước trên tinh
thần “Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai” phấn đấu vì lợi ích của nhân dân
hai nước.
Tóm lại, bình thường hoá quan hệ với Mỹ là một thành công quan trọng
của ngoại giao Việt Nam. Việt Nam đã đánh bại âm mưu cô lập, cấm vận về
kinh tế của các thế lực thù địch đối với Việt Nam và các nước, các tổ chức
quốc tế khác. Bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ mở ra cho Việt Nam những
cơ hội mới, đồng thời cũng tạo ra những thách thức mới. Việt Nam cần khai
thác những mặt thuận lợi để thúc đẩy phát triển kinh tế đồng thời luôn phải
cảnh giác với âm mưu “Diễn biến hoà bình” của Mỹ.
* Đối với EU.
Trong chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam, việc tăng cường hợp
tác và mở rộng quan hệ với các nước EU là rất quan trọng. Bởi đây là một
trong ba trung tâm kinh tế chính trị của thế giới có thế mạnh đặc biệt về vốn
và công nghệ. Tranh thủ được các nước Tây, Bắc Âu này sẽ tạo điều kiện rất
thuận lợi cho sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước ta. Việc thi
hành chính sách đổi mới của Việt Nam đã tạo cơ sở, hành lang vững chắc cho
quan hệ của Việt Nam với các quốc gia trên khu vực này. Ngay từ khi Mỹ
chưa gỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, các quốc gia EU đã khởi động
quan hệ kinh tế thương mại với nước ta, nối lại ODA (viện trợ không hoàn
lại) cho Việt Nam.
11: Tuyên bố của Thủ tướng CHXHCNVN Võ Văn Kiệt - Báo Nhân dân 13/7/1995
23
Ngay từ 22 - 10 -1990 nước ta và EU ký hiệp định về lập quan hệ ngoại
giao và trao đổi Đại sứ. Đây là bước phát triển quan trọng thể hiện thiện chí
quan hệ hợp tác giữa hai bên. Từ đó quan hệ hợp tác ta và EU không ngừng
được tăng cường và mở rộng. Ta chủ trương thúc đẩy quan hệ hợp tác với các
nước EU và cả cộng đồng Châu Âu dưới cả hai hình thức: song phương và đa
phương. Do vậy “Pháp đã vận động các nước EC và EU cho Việt Nam vay 1
tỷ 800 triệu USD năm 1994 và 2 tỷ USD năm 1995”12 và từ khi Mỹ bỏ cấm
vận, các tổ chức IMF, WB đã cho Việt Nam vay 1 tỷ 500 triệu USD”12. Ngày
17-7-1995, tại trụ sở EU ở Bruxcells (Bỉ) Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam
Nguyễn Mạnh Cầm và Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng liên minh Châu Âu
Javier Salana đã ký chính thức hiệp định hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và Cộng đồng Châu Âu trước sự chứng kiến của 15 bộ
trưởng ngoại giao của 15 nước thành viên EU. Hiệp định này quy định những
điều khoản về đầu tư, thương mại, buôn bán trao đỏi, cho vay... giữa EU và
Việt Nam, tạo dựng một môi trường thuận lợi để mở rộng quan hệ hợp tác
trên nhiều lĩnh vực giữa hai bên. Tháng 9-1996, Uỷ ban hỗn hợp Việt Nam -
EU họp tại Hà Nội đã ký hai văn kiện quan trọng, đó là: Chiến lược hợp tác
Việt Nam - EU 1996-2000 và chương trình hành động có định hướng 3 năm
1996-1998, lập ra 3 tổ công tác hỗ hợp phụ trách các lĩnh vực hợp tác phát
triển, kinh tế, đầu tư. Tháng 3-1997, Việt Nam chính thức tham gia hiệp định
hợp tác ASEAN - Eu. Hai bên đã thực hiện nhiều chuyến thăm cấp cao, tăng
cường hợp tác chính trị. Là một nước thành viên của ASEAN, Việt Nam đã
tham dự cuộc gặp cấp cao Á - Âu lần thứ nhất (1996) và lần thứ hai (1998)
gọi tắt là ASEM-1 và ASEM-2, lần thứ ba tại Xơun (Hàn Quốc) - ASEM 3.
Đây là một cơ chế hợp tác liên châu lục, giữa một châu Âu hiện đại đang phát
triển, giầu tiềm năng.
Tóm lại, việc mở rộng quan hệ, thúc đẩy hợp tác giữa Việt Nam và Eu
là chủ trương đúng đắn phù hợp với quan điểm đa dạng hoá, đa phương hoá
12: Nguyễn Minh Hằng - Cải cách Kinh tế ở CHND Trung Hoa - Lựa chọn mới cho sự phát triển - NXB
1995 trang 19 -Hội thảo khoa học: 50 năm NGVN dưới sự lãnh đạo của Đảng - Viện QHQT, 1995 trang 19
24
mà Đảng ta đã đề ra cho công tác đối ngoại trong thời kỳ đổi mới. Tăng
cường quan hệ với EU sẽ có lợi rất lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế
của nước ta. Song chúng ta cũng không quên rằng đa số thành viên EU là
đồng minh chiến lược của Mỹ, cùng chung những giá trị về dân chủ tự do
kiểu phương Tây.
Vì vậy, việc thúc đẩy, mở rộng quan hệ dựa trên cơ sở thận trọng, cân
nhắc kỹ lưỡng, nắm vững nguyên tắc độc lập tự chủ vừa hợp tác vừa đấu
tranh trong cùng tồn tại hoà bình.
* Đối với Liên bang Nga.
Sau khi Liên Xô tan rã (1991), so với 14 nước cộng hoà còn lại, Liên
bang Nga là nước lớn nhất kế thừa Liên Xô về mọi mặt. Bước lên vũ đài quốc
tế với một thể chế chính trị mới, với những hành trang trong đó có chính sách
đối ngoại “ Định hướng Đại Tây Dương” được áp dụng trong giai đoạn từ
1991-1993. Nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại này là thân phương
Tây, tìm kiếm sự công nhận về mặt ngoại giao và thu hút vốn đầu tư từ
phương Tây để khôi phục nền kinh tế. Vì vậy, quan hệ Việt - Nga thời kỳ này
cơ bản là ngưng trệ, một phần do chính sách đối ngoại của Liên bang Nga,
phần khác Việt Nam cũng muốn có thời gian để nhận diện lại đối tác của
minh.
Từ 1994 đến nay, quan hệ Việt - Nga đã có những chuyển biển tích
cực, trước hết do sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Liên Bang
Ngan và các cuộc viếng thăm của lãnh đạo hai nước.
Với việc phát triển quan hệ với Liên Bang Nga, một bạn hàng truyền
thống, Việt Nam có thể đi trước các nước trong khu vực trong việc tranh thủ
thị trường gần 170 triệu dân, có thể tranh thủ các nước SNG khác. Ngược lại
Nga cũng muốn thông qua bạn hàng truyền thống là Việt Nam để vũ khí Nga
thâm nhập và thị trường ASEAN.
25
Hiện nay lĩnh vực hợp tác mà hai nước Việt Nam và Liên Bang Nga
quan tâm nhất là dầu khí, tiêu biểu là VietSopetro, nhà máy lọc dầu Dung
Quất...
Nói chung, trong xu thế toàn cầu hoá, quốc tế hoá nền kinh tế thế giới
hiện nay, việc thúc đẩy quan hệ hợp tác với các nước lớn như Liên Bang Nga
sẽ rất có lợi cho việc phát triển kinh tế của các nước đang phát triển như Việt
Nam. Mặc dù quan hệ hợp tá giữa hai nước hiện nay chưa tương xứng với
tiềm năng của hai nước. Song với những ưu thế của mình, Liên Bang Nga -
Việt Nam sẽ trở thành đối tác quan trọng của nhau vì lợi ích của nhân dân hai
nước.
* Bên cạnh việc thúc đẩy quan hệ với các nước, các nước láng giềng
và truyền thống, chính sách đối ngoại đổi mới của Việt Nam cũng rất chú
trọng đến khu vực Châu Á - Thái Bình Dương.
Được đánh giá là khu vực năng động nhất của thế giới, thế kỷ XXI là
thế kỷ của Châu Á - Thái Bình Dương. Khu vực này đã, đang và sẽ là một
điểm nóng của nền kinh tế thế giới.
Việt Nam chủ trương mở rộng các nước của khu vực này, từ Đông Bắc
Á đến Nam Thái Bình Dương. Nhiều nước ở đây có nền kinh tế phát triển cao
và giàu tiềm năng như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Nga... Bằng sự nỗ lực
hoạt động ngoại giao từ sau khi áp dụng chính sách đối ngoại đổi mới, Việt
Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ trong quan hệ với các nước ở khu
vực này. Đối với Nhật Bản, quan hệ giữa hai nước được đánh dấu bằng hành
động mở lại viện trợ phát triển (ODA) cho Việt Nam của Nhật Bản. Sau 14
năm gián đoạn, đây là bước khởi đầu thuận lợi, tạo ấn tượng tốt đẹp thúc đẩy
quan hệ hợp tác giữa hai nước. Những cuộc đi thăm chính thức của các quan
chức cấp cao giữa hai nước đã taok tiền đề cho quan hệ buôn bán, đầu tư trên
quy mô lớn của Nhật Bản vào Việt Nam.
Về cơ bản, cho đến năm 1997 đã có 9 nước thuộc khu vực Châu Á -
Thái Bình Dương trong tổng số 11 nước đầu tư vào Việt Nam hơn 1 tỷ USD.
26
Đó là Singapore 4918,8 triệu USD; Đài Loan 4255,3 USD; Hồng Kông
3433,8 triệu USD; Nhật Bản 3275,1 triệu USD; Hàn Quốc3053,3 triệu USD;
Thái Lan 1035 triệu USD và Malayxia 1048 triệu USD13. Có thể nói sự thật
đây là những đối tác quan trọng của Việt Nam. Ta không chỉ khai thác được ở
họ vốn, công nghệ hay các kỹ năng quản lý mà còn có thể học hỏi, rút kinh
nghiệm từ quá trình phát triển kinh tế của các nước này.
Để mở rộng quan hệ hợp tác và phù hợp với chủ trương đã đề ta, chúng
ta không dừng lại ở mức độ hợp tác song phương mà còn đẩy mạnh quan hệ
đa phương của khu cực. Tháng 6-1996 ta đã chính thức nộp đơn xin ra nhập
tổ chức Hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Với những nỗ
lực trong việc tham gia ASEAN, APEC chúng ta đã thực hiện thành công
chính sách đối ngoại khu vực và thế giới.
Cùng với việc tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước,
các khu vực trên thế giới trong thời gian qua, ngoại giao Việt Nam còn tham
gia tích cực vào việc giải quyết những vấn đề toàn cầu như môi trường, dân
số, y tế, giáo dục... Năm 1997, Việt Nam được bầu làm phó chủ tịch Đại hội
đồng Liên Hợp Quốc khoá 52 (1997 - 1998). Việt Nam còn được bầu làm uỷ
viên Hội đồng kinh tế - xã hội của LHQ (ECOSOC), một cơ quan quan trọng
vào bậc nhất của LHQ. Là thành viên mới của Hội nghị giải trừ quân bị, Việt
Nam đã tham gia soạn thảo và ký kết hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn
diện (CTBT). Bên cạnh đó ta cũng góp phần tích cực vào mục tiêu chung là
đòi cải tổ LHQ theo hướng dân chủ hoá, đảm bảo quyền bình đẳng giữa các
quốc gia. Ngoài ra chúng ta tham gia tích cực và chủ động vào tổ chức không
liên kết, thúc đẩy hợp tác giữa các nước G77 kêu gọi tăng cường hợp tác Nam
- Nam, đấu tranh vì công bằng trong quan hệ Bắc - Nam. Không những thế
chúng ta cũng là một nhân tố năng động trong cộng đồng các nước có sử dụng
tiếng Pháp. Điều này đã được chứng tỏ bằng việc tổ chức thành công Hội nghị
13: Dương Ngọc: Đầu tư nước ngoài qua những con số - Thời báo kinh tế Việt Nam 14/2/1998 trang 8
27
thượng đỉnh các nước có sử dụng tiếng Pháp vào cuối tháng 5-1998 đã gây ấn
tượng tốt đẹp đối với các thành việc của tổ chức này.
* Đối với các Đảng cộng sản và công nhân quốc tế. Trong điều kiện
phong trào đảng cộng sản và công nhân quốc tế đang bị thoái trào, quan hệ
giữa các Đảng cộng sản và Nhà nước với các Đảng cộng sản và công nhân
quốc tế được chúng ta coi là ưu tiên trong chính sách đối ngoại. Đại hội VIII
đã khẳng định: “Đảng ta tiếp tục phát triển quan hệ đoàn kết, hữu nghị với các
Đảng cộng sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc, các tổ chức và
phong trào tiến bộ trên thế giới.14
Đối với các Đảng cộng sản và công nhân đang cầm quyền, Đảng cộng
sản Việt Nam tăng cường đoàn kết, hữu nghị trên cơ sở tôn trọng độc lập, tự
chủ với tinh thần khai thác những điểm tương đồng, hạn chế bất đồng, phấn
đấu vì mục tiêu xã hội chủ nghíac. Các Đảng cộng sản và công nhân cầm
quyền hiện nay chỉ còn 5 nước, đó là Việt Nam; Trung Quốc; Lào; CuBa; Bắc
Triều Tiên. Với Là và CuBa quan hệ đó vừa là quan hệ với các Đảng cộng sản
và công nhân, vừa là quan hệ với các nước láng giềng.
Bên cạnh việc xây dựng quan hệ tốt với Trung Quốc, Lào. Đối với
CuBa, Việt Nam luôn khẳng định đây là mối quan hệ tốt đẹp truyền thống.
Việt Nam cũng luôn ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân CuBa vì
mục tiêu hoà bình, đọc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Việt Nam
tích cực giúp đỡ CuBa trong khả năng cho phép của mình. Với Cộng hoà
nhân dân Triều Tiên, Việt Nam vẫn giữ vững hợp tác, quan hệ hữu nghị bình
đẳng, ủng hộ sự nghiệp thống nhất đất nước của nhân dân Triều Tiên. Gần
đâu quan hệ giữa hai Đảng và hai Nhà nước có những bước tiến mới sau một
thời gian dài chững lại.
Đối với các Đảng cộng sản và công nhân chưa cầm quyền, Việt Nam
tiếp tục ủng hộ về chính trị, trao đổi kinh nghiệm đấu tranh và giúp đỡ về vật
chất trong điều kiện cho phép của Việt Nam.
14: Đảng CSVN - Văn kiện Đậi hội VIII - NXB Chính trị quốc gia trang 62
28
Tóm lại: Từ sau những năm 1975, Việt Nam từ một nước bị bao vây
cấm vận về kinh tế, cô lập chính trị. Đến những năm 1990 Việt Nam đã bình
thường hoá quan hệ với Trung Quốc, ký hiệp định Paris về Campuchia, đặc
biệt Việt Nam bước đầu thành công trong công cuộc đổi mới, thực hiện đa
dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại trên cơ sở độc lập tự chủ nên đã
mở ra thời kỳ cải thiện quan hệ với hầu hết các nước và các tổ chức quốc tế,
phá được thế bao vây, cô lập và cấm vận.
Hiện nay Việt Nam đã lập quan hệ ngoại giao với 168 nước và hơn 200
tổ chức chính trị trên thế giới, vị thế quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế
ngày càng được nâng cao.
Thắng lợi của hoạt động đối ngoại trong những năm qua cùng với
những thắng lợi trên lĩnh vực đối ngoại đảm bảo cho các hoạt động của Đảng
và Nhà nước dứng vững trong điều kiện thế giới có nhiều biến động, đồng
thời những thắng lợi này cũng khẳng định chính sách “Đa dạng hoá, đa
phương hoa quan hệ đối ngoại” của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hoàn toàn
đúng đắn phù hợp với mục tiêu “Việt Nam là bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng quốc tế ”15. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ
bình thường với tất cả các nước lớn, các tổ chức quốc tế có vai trò quan trọng
trên thế giới, đây là nền tảng thuận lợi cho Việt Nam bước vào thiên niên kỷ
mới.
15: Nguyễn Mạnh Cầm: 3 nét nổi bật của hoạt động ngoại giao năm 1993 - Tuần báo quốc tế 2/1994
29
CHƯƠNG 3
TRIỂN VỌNG QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
3.1. NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN.
* Thuận lợi.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, đúng đắn của Đảng ta, với bản lính chính
trị vững vàng, sau 15 năm đổi mới Đảng dẫn dắt dân tộc ta thoát khỏi khủng
hoảng trầm trọng và giành được những thành tựu to lớn và quan trọng, làm
cho thế và lực của nước ta lớn mạnh lên nhiều. Cơ sở vật chất kỹ thuật của
nền kinh tế được tăng cường. Đất nước còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên
lao động. Nhân dân ta có nhiều phẩm chất cao quy. Tình hình chính trị - xã
hội ổn địng. Môi trường hoà bình, sự hợp tác, liên kết, chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng phát triển tạo điều kiện để chúng ta tiếp tục phát
huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực, nguồn vốn, công nhệ mới,
kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Đó là cơ hội lớn để chúng ta tạo ra bước phát triển mới.
Đầu thập kỷ 90, Việt Nam bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc,
ký kết hiệp địng Paris về Campuchia, cải thiện quan hệ với các nước phương
Tây, ASEAN và các tổ chức tiền tệ quốc tế.
Hiện nay quan hệ đối ngoại của Việt Nam đã được rộng mở. Việt Nam
bình thường quan hệ với các nước lớn, với hầu hết các chủ thể trong quan hệ
quốc tế. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có quan hệ bình thường
với tất cả các nước lớn, các tổ chức quốc tế chủ chốt. Vị thế của Việt Nam
ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế, đây là nền tảng, thuận lợi cho
việc đặt nền móng cho đường lôứi đối ngoại của Việt Nam trong những năm
đầu thế kỷ XXI.
* Khó khăn.
Bên cạnh những thuận lợi, cơ hội lớn chúng ta cũng phải đối mặt với
nhiều khó khăn thách thức.
30
Thách thức lớn nhất là tình trạng thấp kém vủa nền kinh tế, khoảng
cách về trình độ phát triển giữa nước ta với nhiều nước trên thế giới còn rất
lớn, trong khi đó đất nước đi lên trong điều kiện cuộc cạnh tranh quốc tế ngày
càng quyết liệt, trong bộ máy của Đảng và Nhà nước tệ quan liên, tham nhũng
và sự thoái hoá về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ đảng viên
chưa được đẩy lùi. Bốn nguy cơ mà Đảng ta từng cảnh báo vẫn tồn tại và diễn
biến phức tạp. Các nguy cơ này đan xen và tác động lẫn nhau, không thể xem
nhẹ nguy cơ nào.
Bên cạnh đó về công tác đối ngoại của Việt Nam cũng còn nhiều tồn tại
đáng lưu ý:
Sự tham gia của Việt Nam vào các tổ chức đa phương ở khu vực trên
thế giới còn nhiều hạn chế. Một phần do tình độ tổ chức, quản lý và do thực
lực kinh tế có hạn. Nhưng cần phải khẳng định thêm rằng trong tương lai sự
tham gia này là rất cần thiết.
Bên cạnh đó việc nghiên cứu dự báo chiến lược của chúng ta còn chưa
được đầu tư thích đáng. Bởi nếu không dự báo được tình hình lường trước
những nguy cơ, đe doạ có thể xảy ra, sẽ rất khó khăn cho chúng ta nếu các thế
lực thù địch thay đổi chiến lược chống phá cách mạnh Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á vừa qua đã và đang nhắc
nhở chúng ta về tinh thần độc lập tự chủ giảm bớt phụ thuộc vào bên ngoài,
bởi nếu phục thuộc quá nhiều vào nước ngoài, khi học cắt giảm liên kết kinh
tế rất dễ dẫn tới mất ổn định về chính trị.
Mặt khác phải dự báo được nhu cầu, sở thích của thị trường thế giới để
có chủ trương đầu tư sản xuất trong nước thích hợp mới tăng được khả năng
cạnh tranh. Chúng ta phải năng động, nhạy bén hơn trong việc tìm kiếm thị
trường và nắm bắt thông tin kinh tế đối ngoại tạo điều kiện định hướng cho
các doanh nghiệp trong nước.
31
Tựu trung lại, hơn 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nước ta đã đạt
được những bước tiến căn bản tạo nền móng vững chắc cho quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên trong một thế giới sôi động,
phát triển như vũ bão hiện nay, tiềm ẩn rất nhiều những thức thức. Việt Nam
có tận dụng được thời cơ thuận lợi hay không , có vượt qua được những trở
ngại thác thức đưa đất nước tiến vào thế kỳ 21 hay không tuỳ thuộc rất nhiều
vào đường lối phát triển đất nước nói chung và hoạt động đối ngoại của Đảng
và Nhà nước ta nói riêng.
3.2. TRIỂN VỌNG CỦA QUAN HỆ ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM NHỮNG NĂM
ĐẦU THẾ KỲ XXI.
Chúng ta tự hào về những thành tựu của Đảng và Nhà nước ta giành
được trong 15 năm đổi mới, chúng ta vững tin vào tiền đồ của đất nước những
năm tới.
Tình hình thế giới với nhiều mối liên hệ luôn vận động phát triển biến
đổi liên tục và phức tạp. Tuy nhiên những năm tới vẫn là kỷ nguyên của khoa
học và công nghệ. Kinh tế tri thức sẽ chiếm vị trí ngày càng lớn trong quá
trình phát triển. Toàn cầu hoá là một xu thế khác quan ngày càng có nhiều
nước tham gia, đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn kinh tế xuyên
quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có
mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh. Các mâu thuẫn cơ bản trên thế
giới, biểu hiện dưới những hình thái và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát
triển có mặt sâu sắc hơn. Đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp tiếp tục diễn
ra dưới nhiều hình thức, lúc hoàn hoãn, lúc găy gắt. Chủ nghĩa tư bản hiện đại
còn tiếp tục tự điều chỉnh, nắm và sử dụng các thành tựu khoa học và công
nghệ, song không khắc phục được những mâu thuẫn vốn có. Các quốc gia độc
lập sẽ ngày càng tăng cường cuộc đấu tranh để tự lựa chọn và quyết định con
đường phát triển cuả mình, chống lại sự áp đặt can thiệp và xâm lược của
nước ngoài, bảo vệ độc lập chủ quyền và nền văn hoá dân tộc. Chủ nghĩa xã
hội tạm thời lâm vào thoái trào nhưng vẫn cos điều kiện và khả năng để phục
32
hồi và phát triển. Tính chất của thời đại vẫn không thay đổi. Lịch sử thế giới
đã đang và sẽ còn trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật biến hoá của lịch sử.
Những năm gấn đây ít có khả năng diễn ra chiến tranh thế giới chiến
tranh tổng lực dùng vũ khí hạt nhân và vũ khí giết người hàng loạt. hoà bình
và hợp tác vẫn là một xu thế lớn phản ánh đòi hỏi bức xúc của các quốc gia
dân tộc. Nhưng những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, dân tộc,
tôn giáo vẫn xảy ra ở nhiều nơi trên thế giới. Các dân tộc đấu tranh cho hoà
bình phát triển chống cường quyền, áp đặt phấn đấu vì dân chủ dân sinh tiến
bộ và công bằng xã hội sẽ có những bước tiến lớn. Khu vực Đông Nam á,
Châu á - Thái Bình Dương vẫn sản xuất là khu vực phát triển năng động và
chứa nhiều nhân tố ổn định.
* Đứng trước tình hình đó vẫn đề đặt ra cho quan hệ đối ngoại của
Việt Nam trong những năm tới phải nắm bắt được cơ hội, vượt qua thách
thức hoà bình cùng đường lối phát triển chung của đất nước.
Quan hệ đối ngoại của chúng ta trong thời gian tới vẫn sẽ tiếp tục tạo
môi trường hoà bình và điều kiện quốc tế thuận lợi để đẩy mạnh phát triển
kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo về tổ
quốc, đồng thời góp phần tích cức vào công cuộc đấu tranh chung của nhân
dân thế giới vì hoà bình, độc lập, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Mở rộng quan hệ nhiều mặt song phương và đa phương với các tổ chức
quốc tế và khu vực theo các nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc lập,
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không dùng vữ lực và đe doạ sử
dụng vũ lực, bình đẳn và cùng có lợi, giải quyết các bất đồng và giải quyết
các tranh chấp bằng thương lượng hoà bình, chống mọi hành động gây sức ép,
áp đặt và cường quyền.
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy
tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và
33
định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, phát
huy bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái. Thực hiện các biện
pháp đẩy mạnh chuyển dịch co cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế
- xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh
tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế, bồi dưỡng, rèn luyện năng lực,
phẩm chất của đội ngũ cán bộ làm công tác ngoại giao và kinh tế đối ngoại.
Tăng cường công tác thông tin, làm tối cong tác nghiên cứu và dự báo
tình hình khu vực và thế giới, kịp thời có chủ trương, chính sách thích hợp khi
tình hình thay đổi.
Coi trọng và ra sức phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước xã
hội chủ nghĩa và các nước lãng giềng. Mở rộng quan hệ với các nước trong tổ
chức ASEAN, từng bước nâng cao hiệu quả và chất lượng của sự hợp tác,
phấn đấu xây dựng Đông Nam á thành một khu vực hoà bình, ổn định hợp tác
cùng phát triển, không có vũ khí hạt nhân.
Tiếp tục củng cố và mở rộng quan hệ với các nước bạn bè truyền thống,
các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở Châu Phi, Trung Đông
và Mỹ La Tinh, với phong trào không liên kết, ủng hộ lẫn nhau cùng phát
triển, phối hợp bảo vệ lợi ích chính đáng của nhau.
Thúc đẩy quan hệ đa dạng với các nước phát triển và các tổ chức quốc
tế.
Chủ động tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Tham gia ủng hộ
cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới nhằm loại trờ vũ khí hạt nhân, vũ khí
sinh học và những phương tiện chiến tranh hiện đại khác giết người hàng loạt,
bảo vệ hoà bình, chống nguy cơ chiến tranh và chay đua vũ trang, chóng
chính sách cường quyền, can thiệp vào công việc nội bộ của nhau của các
nước bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và quyền tự lựa
chọn con đường phát triển của mỗi dân tộc trên thế giới, góp phần xây dựng
trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng hợp lý và ổn định.
34
Củng cố và quan hệ đoàn kết và hợp tác với các đảng cộng sản và công
nhân, các phong trào cách mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ trên thế giới.
Tiếp tục mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Mở rộng hơn nữa
công tác đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức nhân dân các nước,
nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ, góp phần thúc đẩy
giao lưu giữa các dân tộc làm cho nhân dân thế giới hiểu rõ hơn đất nước, con
người, đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta và công cuộc đổi mới
công nghiệp hoá Việt Nam; tranh thủ sự đồng tính ủng hộ và hợp tác rộng rãi
của nhân dân các nước với nhân dân ta; góp phần thúc đẩy xu thế hoà bình ổn
định hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác thông tin và văn hoá đối
ngoại.
Kết hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của nhà nước, hoạt động đối
ngoại của Đảng và ngoại giao nhân dân. hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất
hoạt động đối ngoại tạo thành sức mạnh tổng hợp trên lĩnh vực này.
35
KẾT LUẬN
Quán triệt tư tưởng chỉ đạo trong các thời kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI, VII, VIII ngoại giao Việt Nam đã phát
huy vai trò to lớn của mình đối với sự nghiệp đổi mới đất nước.
Với sự đổi mới trong tư duy đối ngoại cùng với bễn hữu quan chúng ta
giải quyết dứt điểm vấn đề Campuchia, bình thường hoá quan hệ với Trung
Quốc từng bước bình thường hoá quan hệ với Mỹ. Với chiến lược và chính
sách đúng đắn Việt Nam đã phá được thế bao vây cô lập về chính trị, cấm vận
về kinh tế. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ đa dạng hoá đa
phương hoá các quan hệ quốc tế.
Từ chỗ bao vây cấm vận Việt Nam trở thành đối tác của tất cả các nước
lớn và các trung tâm kinh tế chính trị hàng đầu của thế giới... Những thành
tựu này là nhân tố quan trọng góp phần giữ vững hoà bình ổn định khu vực và
thế giới nâng cao vị thế Việt Nam trong quan hệ quốc tế tạo môi trường thuận
lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc thời kỳ mới.
Có thể nói ra đời do yêu cầu bức thiết của công cuộc đổi mới của xu thế
QHQT thời đại mới, chính sách đối ngoại đa phương hoá, đa dạng hoá là
đúng đắn kịp thời đáp ứng yêu cầu của Việt Nam, phù hợp với xu thế thế giới.
Chính sách đối ngoại đổi mới đã đem lại những thành tựu mới đưa đất nước
vững bước trên con đường phát triển. những thành tựu đạt được từ chính sách
đối ngoại đổi mới đã khẳng định rõ vị trí vai trò lãnh đạo của Đangr là nhạy
bén sâu sắc, kinh nghiệm và bản lĩnh lãnh đạo của Đảng rất vững vàng. Với
những kinh nghiệm thực hiện chính sách đối ngoại đổi mới những năm qua,
chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước chắc chắn có những
đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc của Việt Nam, vào sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất nước nhằm xây dựng một đất
nước Việt Nam dân giầu nước mạnh xã hội công bằng dân chủ và văn minh,
đưa đất nước vững bước vào thế kỷ XXI.
36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII - NXB Chính trị quốc
gia - Hà Nội, 1996
2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI - NXB Sự thật - Hà Nội,
1987
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII - NXB Sự thật - Hà
Nội, 1997
4. Lịch sử Đảng - NXB Giáo dục, 1997
5. Chính sách đối ngoại của 1 số nước lớn sau chiến tranh lạnh - NXB
Công an nhân dân - Hà Nội, 1998
6. 50 năm NGVN (Lưu Văn Lợi) 1945 - 1995
7. Thống kê của Bộ lao động, thương binh và xã hội - Tháng 10 năm 1993.
Tư liệu tham khảo - Viện thông tin khoa học Học viện Chính trị quốc gia -
Hồ Chí Minh.
8. Kinh tế học quốc tế - NXB Thống kê - Hà Nội, 1998
9. Hội thảo khoa học: 50 NGVN dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam - Học viện QHQT, 1995
10. Tuyên bố của Thủ tướng Cộng hoà XHCN Việt Nam Võ Văn Kiệt -
Báo Nhân dân ngày 13/7/1995
11. Nguyễn Minh Hằng - Cải cách kinh tế ở Cộng hoà nhân dân Trung
Hoa - Lựa chọn mới cho sự phát triển - NXB Khoa học - Hà Nội, 1995
37
12. Lương Ngọc: Đầu tư nước ngoài qua những con số. Thời báo KTVN,
14/12/1998.
13. Nguyễn Trọng Phúc: Vai trò lãnh đạo của Đảng CSVN trong thời kỳ
đổi mới đất nước.
14. Tô Huy Rứa: Công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN của Đảng
cộng sản Việt Nam trong hơn 10 năm qua - Tư liệu tham khảo: Viện
Thông tin khoa học Học viện chính trị quốc gia - Hồ Chí Minh, 1996
15. Nguyễn Mạnh Cầm: Ba nét nổi bật của hoạt động ngoại giao năm 1993
- Tuần báo Quan hệ quốc tế số 2 - 1994.
16. Bối cảnh quốc tế và chính sách đối ngoại của Việt Nam. - Tư liệu tham
khảo: Viện Thông tin khoa học Học viện chính trị quốc gia - Hồ Chí Minh.
17. Bộ ngoại giao: Hoà nhập quốc tế và giữ vững bản sắc - NXB Chính trị
quốc gia - Hà Nội,1995
18. Z.Barezinski: Bàn cờ lớn - NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội,1999
19. Nguyễn Sinh: 12 năm đổi mới (1986 - 1997) - Tạp chí Cộng sản - Số 6
tháng 3 năm 1998
38
MỤC LỤC
Trang
Lời dẫn..... 1
Chương 1. Những nhân tố tác động tới đường lối đổi mới của Việt
Nam .............................................................................................. 3
1.1. Tình hình thế giới những năm 80 và đầu thập kỷ 90 ............................. 3
1.2. Sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam sau 1975 đến 1986. .......... 6
Chương 2. Quan hệ quốc tế của Việt Nam từ 1986 đến nay ....................... 8
2.1. Nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại đổi mới. .............................. 8
2.2. Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới. ............................... 14
Chương 3. Triển vọng quan hệ đối ngoại của Việt Nam những năm
đầu thế kỷ XXI .......................................................................... 29
3.1. Những thuận lợi và khó khăn............................................................... 29
3.2. Triển vọng của quan hệ đối ngoại của Việt Nam những năm đầu
thế kỳ XXI........................................................................................... 31
Kết luận........ .................................................................................................. 35
Danh mục tài liệu tham khảo ....................................................................... 36
39
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kd73_www_freebooks_vn__0658.pdf