Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển bền
vững và hội nhập quốc tế. Đã thể hiện quan điểm toàn diện, đồng bộ, hài hòa với
phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam. Đồng thời, là định hướng
quan trọng để các cấp, các ngành, các địa phương triển khai và vận dụng có hiệu
quả trong việc góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Có thể nói Quản lý nhà nước một trong những nội dung quan trọng của
chiến lược về hệ thống bảo tàng hiện nay, nhằm xây dựng hệ thống bảo tàng
phát triển hoàn thiện với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng
như của thành phố Đà Nẵng.
Xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng, luận văn thông qua cơ sở lý luận và thực tiễn phản ánh
được những bước chuyển rõ rệt và tích cực về nhận thức về giá trị của hệ thống
bảo tàng đối với đời sống, nhu cầu hưởng thụ văn hóa của công chúng trong và
ngoài nước. Đồng thời đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hệ thống bảo
tàng, đưa ra những nhận xét, đánh giá về những mặt đạt được và những hạn chế,
nguyên nhân hạn chế trong việc quản lý nhà nước về phát triển hệ thống bảo
tàng. Do đó, việc hoàn thiện quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng ở Đà Nẵng
là nhiệm vụ quan trọng nhằm khắc phục những hạn chế bất cập trong công tác
quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng.
Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối với hệ thống
bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trước hết đòi hỏi sự nỗ lực lớn của các
cấp lãnh đạo thành phố, các sở, ban ngành đồng thời có sự đầu tư nghiên cứu về
quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng và xây dựng, tổ chức thực hiện các
thể chế chính sách đối với hệ thống bảo tàng; phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
và cán bộ chuyên môn để đáp ứng nhu cầu trong công việc. Để phát triển hoạt
động của hệ thống bảo tàng cần có sự hỗ trợ và thu hút nguồn lực từ các chính101
sách hỗ trợ từ trung ương và địa phương để phát huy các giá trị di sản văn hóa
trong đời sống xã hội
114 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 638 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o? ngành gì? số lượng phải
được bồi dưỡng? bồi dưỡng như thế nào? Cuối cùng, thành phố cần tiến hành
phân tích tiềm lực, tức là xác định các nguồn lực và kế hoạch phụ trợ khác.
Hai là, cần chú trọng xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng. Xây dựng kế
hoạch cần phải căn cứ vào kế hoạch tổng thể phát triển giáo dục đào tạo và quy
hoạch phát triển độ ngũ cán bộ của hệ thống bảo tàng thành phố. Kế hoạch cần
phải xây dựng theo ba loại cơ bản: ngắn hạn (1 năm), trung hạn (5 năm) và dài
hạn (10 năm). Trong mỗi kế hoạch cần phải cụ thể hóa được mục tiêu đào tạo
bồi dưỡng, hình thức, thời gian, đối tượng tham gia, cá nhân, đơn vị có trách
78
nhiệm kiểm tra, giám sát. Nếu khóa đào tạo do chính tỉnh đứng ra tổ chức thì
phải quy định cụ thể đơn vị chịu trách nhiệm chính về chất lượng và chương
trình đào tạo, bồi dưỡng. Đồng thời, nội dung của kế hoạch đào tạo bồi dưỡng
phải thể hiện được tính liên tục, hệ thống, tính chủ động đón đầu. Tuy nhiên, cần
chống khuynh hướng dàn trải chương trình đào tạo, bồi dưỡng gây lãng phí thời
gian, khó bố trí công việc của đội ngũ cán bộ quản lý và đội ngũ cán bộ chuyên
môn dẫn đến chất lượng đào tạo, bồi dưỡng kém hiệu quả.
Ba là, xác định đúng đắn nội dung chương trình, phương pháp đào tạo.
Trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ cán bộ cần phải thường xuyên được bồi
dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học. Có như vậy mới đảm bảo hội nhập
và mở rộng giao lưu hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới về tất
cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ cũng rất cần được
nâng cao trình độ về lý luận chính trị và trình độ quản lý nhà nước.
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện quy định về đào tạo, bồi dưỡng. Cần có
chính sách, chế độ đãi ngộ phù hợp cũng như các điều kiện đảm bảo thực hiện
các chính sách, chế độ đó nhằm tạo động lực thu hút, động viên đội ngũ cán bộ
tích cực tham gia học tập, bồi dưỡng để không ngừng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ.
Năm là, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế trong hoạt động đào tạo bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ. Tạo điều kiện để đội ngũ cán bộ được đi đào tạo ở nước
ngoài để có điều kiện tiếp cận với nguồn tri thức mới của nhân loại.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra và đánh giá sau đào tạo. Thực tế
hiện nay cho thấy, hầu hết đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ chuyên môn tham
gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng chủ yếu là để chuẩn hóa chức danh, tiêu chuẩn
ngạch bậc. Điều này dẫn đến tình trạng học lấy bằng cấp và mang tính hình
thức. Chính vì vậy, chủ thể quản lý cần phải tiến hành nghiêm chỉnh công tác
kiểm tra, giám sát đối với hoạt động này. Trên cơ sở chế độ kiểm tra, sát hạch,
tỉnh cần xây dựng chế độ khen thưởng, kỷ luật đối với đội ngũ cán bộ để đảm
bảo hoạt động này được tiến hành nghiêm túc và hiệu quả.
79
Phát triển nguồn nhân lực hệ thống bảo tàng chính là sự biến đổi về số
lượng và chất lượng nguồn nhân lực về các mặt thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến
thức và tinh thần cùng với quá trình tạo ra những biến đổi tiến bộ cơ cấu nguồn
nhân lực. Mục tiêu phát triển nguồn nhân lực bảo tàng là nhằm sử dụng tối đa
nguồn nhân lực hiện có và nâng cao tính chuyên nghiệp, tính hiệu quả của tổ
chức thông qua việc giúp người lao động hiểu rõ hơn về công việc, nắm vững
hơn nghề nghiệp của mình, thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình một cách tốt
hơn cũng như nâng cao khả năng thích ứng với các công việc trong tương lai.
Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là điều kiện tiên quyết để hệ thông bảo
tàng Việt Nam và các thành viên trong hệ thống tồn tại và phát triển trong bối
cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước.
Phát triển tổ chức bộ máy, tăng cường năng lực đội ngũ về số lượng, cơ
cấu, chất lượng, tính chuyên nghiệp hóa đối với hệ thống bảo tàng
+ Công tác tổ chức bộ máy và xây dựng phát triển đội ngũ được xác
định là một trong những hoạt động quan trọng trong chiến lược phát triển hệ
thống bảo tàng đến năm 2020. Nhằm hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy của hệ
thống bảo tàng theo mô hình quản lý tập trung, trong kế hoạch chiến lược phát
triển hệ thống bảo tàng.
+ Hệ thống bảo tàng sẽ tập trung vào hoạt động phát triển hệ thống tổ
chức bộ máy và tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ bảo tàng về số lượng, cơ
cấu, nâng cao chất lượng, tính chuyên nghiệp hóa của đội ngũ.
Sau khi tiến hành đánh giá thực trạng hệ thống tổ chức bộ máy, thực
trạng đội ngũ nguồn nhân lực của hệ thống bảo tàng, bám sát vào định hướng
chiến lược phát triển đối với mọi lĩnh vực hoạt động của hệ thống bảo tàng đến
năm 2020, tổ chức cán bộ của hệ thống bảo tàng đã đề ra các mục tiêu cũng như
các dự án/hoạt động thực hiện chiến lược. Theo đó, mục đích chiến lược đề ra 5
mục tiêu hoạt động, cụ thể: hoàn thiện và phát triển hệ thống tổ chức bộ máy
từng bước tiến tới đồng bộ; xây dựng đội ngũ chuyên nghiệp; sửa đổi, bổ sung
các quy định về công tác cán bộ một cách đồng bộ; xây dựng đội ngũ đảm bảo
80
đủ về số lượng, có cơ cấu hợp lý và chất lượng cao và nâng cao chất lượng, tính
chuyên nghiệp đội ngũ công chức, cán bộ bảo tàng thông qua đào tạo, bồi
dưỡng.
Xây dựng và triển khai nhiều đề án nhằm hoàn thiện và phát triển hệ
thống tổ chức bộ máy, phát triển nguồn nhân lực của hệ thống bảo tàng.
Nhằm hoàn thiện và phát triển hệ thống tổ chức bộ máy từng bước tiến
tới đồng bộ. Đầu năm 2014, hệ thống bảo tàng đã thành lập phòng nghiệp vụ
chuyên môn hoạt động từng bước nghiên cứu, hoạt động thử nghiệm và triển
khai trong hệ thống bảo tàng. Khi đủ điều kiện, năng lực sẽ tiếp tục đề xuất Ủy
ban thành phố xem xét thành lập độ ngũ cán bộ bảo tàng chuyên ngành có
chuyên môn cao. Đồng thời, phối hợp với trung tâm, các trường để bồi dưỡng
nâng cao nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ.
Đối với mục đích xây dựng Đề án và thực hiện điều động, luân chuyển,
chuyển đổi vị trí công tác, ông Đặng Việt Dũng Phó Chủ tịch UBND cho rằng,
Đề án cần thực hiện đồng bộ các giải pháp, từ việc lựa chọn công chức, đến theo
dõi, kiểm tra, đánh giá, phương án điều động về sau khi hết thời hạn, chế độ,
chính sách kèm theo. Đồng thời tiếp tục quán triệt Nghị quyết 34 của Ban cán sự
tới toàn thể công chức trong toàn ngành để công chức nắm rõ chủ trương và yên
tâm công tác.
Định hướng phát triển nguồn nhân lực hệ thống bảo tàng cho hiện tại và
tương lai trước hết cần đảm bảo yêu cầu cơ bản chung: có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có đạo đức nghề nghiệp và nhân cách tốt, có tri thức, kỹ năng thực
hành mọi hoạt động của bảo tàng và có khả năng cập nhật thường xuyên những
thành tựu mới nhất của bảo tàng học thế giới. Là thành viên ICOM, các bảo tàng
hoàn toàn có quyền sử dụng và vận dụng hướng dẫn của ICOM về phát triển
nguồn nhân lực bảo tàng với 5 nội dung gồm: năng lực nói chung (kỹ năng và tri
thức về công tác truyền thông, truyền thông liên văn hóa, phân tích dữ liệu, thiết
kế dự án); năng lực trong lĩnh vực bảo tàng học; năng lực quản lý; năng lực lập
81
chương trình công chúng; năng lực chăm sóc, quản lý thông tin và các sưu tập
hiện vật.
Ngoài ra, đối với thực tế hệ thống bảo tàng thành phố Đà Nẵng, trước
hết cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực bảo tàng với những định
hướng, lộ trình cụ thể nhằm từng bước hình thành nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu cả về số lượng và chất lượng; đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, bồi
dưỡng nguồn nhân lực bảo tàng tương ứng với tiêu chuẩn chức danh quản lý và
tiêu chuẩn chức danh nghiệp vụ trong lĩnh vực bảo tàng, phù hợp với yêu cầu
thực tiễn và yêu cầu của từng hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ chuyên sâu
trong bảo tàng; gắn kết thường xuyên, chặt chẽ và hiệu quả giữa các cơ sở đào
tạo với các bảo tàng trong quá trình triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực nhằm thực hiện tốt phương châm “học đi đôi với hành”; xây
dựng và thực hiện có hiệu quả cơ chế thu hút nhân tài, đãi ngộ và sử dụng nhân
lực trong lĩnh vực bảo tàng; tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo, bồi dưỡng
nguồn nhân lực bảo tàng; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu nguồn nhân lực bảo
tàng trong hệ thống dữ liệu nguồn nhân lực ngành di sản văn hóa nói chung để
làm cơ sở, căn cứ đề xuất kịp thời với các cơ quan quản lý nhà nước hoạch định
chính sách, chiến lược, chương trình, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực phù
hợp với yêu cầu và định hướng chung cho toàn ngành.
Trong thời đại ngày nay, bảo tàng nói riêng, di sản văn hóa nói chung
đang trở thành một động lực quan trọng để phát triển kinh tế, đặc biệt là kinh tế
du lịch. Đã đến lúc chúng ta phải đánh thức được mọi nguồn lực xã hội vào cuộc
và thay đổi nhận thức về vai trò, tầm quan trọng của bảo tàng trong đó có nguồn
nhân lực. Hy vọng trong tương lai không xa, ngành bảo tàng Việt Nam nói
chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng sẽ có đội ngũ cán bộ tài năng, đủ năng
lực quản lý và vận hành các thiết chế bảo tàng hiện đại ngang tầm với các bảo
tàng quốc gia, khu vực và trên thế giới.
Tăng cường xây dựng và quản lý đội ngũ cán bộ công nhân viên bảo
tàng là biện pháp căn bản để nâng cao trình độ công tác chuyên môn của bảo
82
tàng, nhằm đạt được hiệu quả và lợi ích xã hội tốt đẹp. Thực tế đã chứng minh
muốn xây dựng một bảo tàng phải dựa vào hai đội ngũ đó là: đội ngũ cán bộ
quản lý và đội ngũ cán bộ chuyên môn. Hai đội ngũ này hỗ trợ và tạo điều kiện
cho nhau cùng hoạt động và không thể thiếu một trong hai đội ngũ này. Bảo tàng
phải coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên môn, lại vừa phải coi trọng
việc xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý. Tiếp tục kiện toàn cơ cấu tổ chức và nhân
lực là yêu cầu cấp thiết đối với hệ thống bảo tàng trong giai đoạn hiện nay và lâu
dài. Mặt khác, bổ sung cán bộ, trước tiên cần ổn định và xác định rõ vị trí, các
phòng chức năng trung tâm với các nhiệm vụ của các bảo tàng trên địa bàn thành
phố để bố trí cán bộ theo những chuẩn mực chặt chẽ. Nếu chỉ chú ý tới sự nhiệt
tình, ý thức trách nhiệm của cán bộ viên chức thôi thì chưa đủ mà còn đòi hỏi
cán bộ bảo tàng phải có kiến thức chuyên môn và năng lực tổ chức thực hiện và
phải có tinh thần trách nhiệm đối với công việc. Cán bộ được nhận vào làm việc
đều phải qua sát hạch về chuyên môn và các yêu cầu riêng của hệ thống bảo
tàng, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi trong tình hình mới.
Tăng cường quản lý nguồn nhân lực, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
quản lý: Trong việc quản lý đội ngũ cán bộ của bảo tàng thì việc quản lý cán bộ
chuyên môn chiếm vị trí rất quan trọng. Một bảo tàng dù là nâng cao trình độ
bảo quản hiện vật, thiết kế trưng bày, nghiên cứu khoa học hay phục vụ công
chúng, giáo dục xã hội, thì cán bộ chuyên môn luôn có tác dụng quyết định.
Muốn xây dựng được bảo tàng thì nhất định phải xây dựng đội ngũ cán bộ có
chuyên môn, có tố chất nghiệp vụ chính trị tốt, được bố trí công việc hợp lý,
tương đối ổn định, lâu dài.
Xây dựng kế hoạch quản lý, tổ chức và nâng cao tính chuyên nghiệp
trong các hoạt động nghiệp vụ bảo tàng: Kế hoạch quản lý của hệ thống bảo tàng
cần có các nội dung như: mục đích hoạt động của bảo tàng; sưu tầm và sắp xếp
các sưu tập với sự tham khảo các yêu cầu mang tính luật pháp và nghiệp vụ;
chăm sóc và bảo đảm an toàn cho các sưu tập hiện vật; nghiên cứu các sưu tập
hiện vật và nghiên cứu các chuyên đề; tuyên truyền - gồm tất cả các hình thức
83
tuyên truyền tới công chúng về các cuộc triển lãm, các phần trưng bày, thu nhận
và cung cấp thông tin, các dịch vụ giáo dục, maketing; tiếp cận và sử dụng các
sản phẩm của bảo tàng; Sắp xếp và đào tạo, phát triển đội ngũ cán bộ; chăm sóc
và bảo hành các công trình của bảo tàng; tuân thủ luật pháp quốc gia và quốc tế.
3.2.4. Tăng cường hỗ trợ ngân sách từ nguồn thu của thành phố đối với hệ
thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
Nguồn lực tài chính là một nhân tố quan trọng trong quá trình hoạt
động của hệ thống bảo tàng. Tăng mức đầu tư cho hệ thống bảo tàng từ nguồn
chi phí thường xuyên và nguồn chi phí phát triển trong ngân sách nhà nước. Tỉ
trọng chi ngân sách cho hệ thống bảo tàng phải tương ứng nhịp độ tăng trưởng
kinh tế. Khuyến khích các địa phương tăng thêm nguồn đầu tư cho hệ thống
bảo tàng, tích cực huy động các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước cho phát
triển hệ thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Việc huy động nguồn lực về vốn đáp ứng nhu cầu trên là nhiệm vụ hết sức
khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng của các cấp chính quyền và của toàn xã hội
mới có thể thực hiện được, trong đó tập trung vào một số giải pháp sau:
Một là, tăng ngân sách nhà nước cho phát triển hệ thống bảo tàng: Về cơ
bản ngân sách nhà nước vẫn là nguồn lực cơ bản, chủ yếu, là động lực để phát
triển hệ thống bảo tàng. Do đó cần tăng đầu tư phát triển cả về giá trị tuyệt đối
và tỷ trọng trong tổng nguồn đầu tư toàn xã hội để hiện đại hoá có trọng tâm,
trọng điểm các cơ sở đào tạo trên địa bàn đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực phục
vụ công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Trong kế hoạch phân bổ ngân sách hàng năm
cần tập trung vào các nhiệm vụ chi để thực hiện các chương trình, dự án phát
triển hệ thống bảo tàng.
Hai là, đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho
phát triển hệ thống bảo tàng. Thành phố cần có cơ chế, chính sách đủ mạnh để
tăng cường huy động các nguồn đóng góp từ người dân bằng các hình thức.
Đồng thời có cơ chế, chính sách và biện pháp đủ mạnh để huy động sự đóng góp
từ phía người sử dụng lao động thông qua việc thành lập quỹ hỗ trợ do các tổ
84
chức, cá nhân, các doanh nghiệp đóng góp.
Ba là, đối với huy động các nguồn vốn nước ngoài: Tăng cường tranh thủ
sự hỗ trợ của các Bộ, ngành TW để thu hút các nguồn vốn, công tác vận động để
thu hút các nguồn vốn nước ngoài và tổ chức quản lý, sử dụng có hiệu quả các
nguồn vốn viện trợ của các tổ chức, cá nhân nước ngoài hỗ trợ phát triển hệ
thống bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2.5. Cụ thể hóa chính sách khuyến khích thu hút nguồn lực trong cộng
đồng cho hoạt động của hệ thống bảo tàng
3.2.5.1. Cụ thể hóa chính sách
Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực là một trong những chủ trương,
chiến lược của Đảng ta được thể hiện trong các Nghị quyết Trung ương 3 khóa
VIII, Nghị quyết Trung ương 7, 9 khóa X. Trong đó nhấn mạnh: một trong
những nhiệm vụ trọng tâm là hoàn thiện, ban hành và thực hiện tốt các chế độ,
chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc
và nhà khoa học trẻ để bổ sung cán bộ tài năng cho các lĩnh vực công tác.
Từ thực tế cho thấy, số lượng các văn bản quy định chính sách đối với
nguồn nhân lực chất lượng cao được ban hành nhiều nhưng lại thiếu tính hệ
thống và cái nhìn tổng thể dẫn tới sự chồng chéo, thiếu sự đồng bộ, thậm chí
mâu thuẫn với những quy định đã có, tạo sự cạnh tranh giữa địa phương, bộ,
ngành trong việc thu hút nguồn nhân lực.
Thành phố Đà Nẵng có chính sách hỗ trợ đối với đối tượng thu hút đến
làm việc lâu dài cụ thể:
- Học viên được đào tạo tại các trường đại học, Viện nghiên cứu uy tín
trong nước (trừ các trường nằm trong danh sách 400 trường đại học hàng đầu thế
giới) thì trình độ đại học được hưởng mức hỗ trợ 80 lần mức lương cơ sở. Các
trình độ cao hơn là thạc sĩ: 120 lần mức lương cơ sở, tiến sĩ: 200 lần mức lương
cơ sở.
85
- Học viên được đào tạo tại các trường thuộc danh sách 201 - 400 trường
đại học hàng đầu thế giới thì trình độ đại học được hỗ trợ:130 lần mức lương cơ
sở, thạc sĩ: 180 lần mức lương cơ sở và tiến sĩ là: 230 lần mức lương cơ sở.
- Học viên được đào tạo tại các trường trong danh sách 200 trường đại
học hàng đầu thế giới thì có hỗ trợ như sau: trình độ đại học 180 lần mức lương
cơ sở; thạc sĩ 230 lần mức lương cơ sở và tiến sĩ 280 lần mức lương cơ sở.
+ Ví dụ mức lương cơ sở hiện nay khoảng 1,2 triệu đồng thì đối tượng
thu hút tốt nghiệp đại học được hưởng 80 lần mức lương cơ sở là vào khoảng 96
triệu đồng, còn thạc sĩ thì cao hơn là 120x1,2 triệu đồng. Số tiền này sẽ được
trao một lần cho đối tượng thu hút.
Mức hỗ trợ sẽ do UBND thành phố quyết định sau khi có ý kiến của
thường trực Hội đồng nhân dân thành phố (nhưng không quá 200 lần mức lương
cơ sở).
Sau một năm công tác, nếu được đánh giá xếp loại hoàn thành tốt nhiệm
vụ trở lên thì được xem xét cử dự thi công chức, tuyển dụng viên chức theo quy
định hiện hành.
- Đối với những trường hợp đặc biệt, sau khi có ý kiến quyết định của
thường trực Thành ủy hoặc Chủ tịch UBND thành phố quyết định, Ban Tổ chức
Thành ủy (đối với cơ quan thuộc khối đảng, đoàn thể) hoặc Sở Nội vụ (đối với
cơ quan thuộc khối chính quyền) tham mưu thực hiện việc tuyển dụng theo quy
định.
- Đối với những trường hợp khó khăn và thật sự có nhu cầu về nhà ở thì
được xem xét cho thuê nhà chung cư của thành phố hoặc hỗ trợ vay vốn ưu đãi
trong thời hạn từ 10 - 15 năm để mua nhà ở xã hội.
- Đối với chuyên gia làm việc ngắn hạn thì tùy theo lĩnh vực công việc,
thành phố thỏa thuận mức hợp đồng thuê chuyên gia (bao gồm lương, nhà ở, đi
lại), được thể hiện thông qua hợp đồng thuê khoán chuyên gia.
Tạo động lực để thu hút nguồn nhân lực theo hướng quan tâm đúng mức
tới lợi ích kinh tế (tiền lương, nhà ở, chỗ làm việc, phương tiện đi lại, dịch vụ y
86
tế, giáo dục) để nhân lực quyết định gắn bó, cống hiến với cơ quan, đơn vị là
một trong những giải pháp mang tính khả thi song họ cũng rất cần một môi
trường làm việc thật sự dân chủ, có cơ hội, điều kiện để khẳng định bản thân;
một hệ thống quản lý minh bạch, công bằng, có chế độ khen thưởng hợp lý, có
sự trân trọng, nhìn nhận đúng khả năng của họ, sử dụng họ vào đúng ngành nghề
chuyên môn. Cân bằng tất cả những điều đó trong chính sách sẽ có thể thu hút
và phát huy được chất xám của nguồn nhân lực trong và ngoài nước.
3.2.5.2. Chính sách xã hội hóa
Nhằm huy động nguồn lực xã hội xây dựng bảo tàng cần có cơ chế,
chính sách tạo điều kiện cho cộng đồng và cá nhân tham gia vào các hoạt động
của bảo tàng như sưu tầm hiện vật, trưng bày giới thiệu và tuyên truyền giáo
dục. Bảo tàng tiến hành công tác marketing, thu hút công chúng tham gia các
hoạt động tình nguyện của bảo tàng.
Nhà nước có cơ chế khuyến khích và hỗ trợ thành lập các bảo tàng chuyên
ngành, chuyên đề nhằm phát huy tối đa giá trị di sản văn hóa của dân tộc.
Có thể nói từ khi Luật Di sản văn hóa ra đời (6-2001) xu hướng xã hội
hoá trong việc bảo tồn di sản văn hóa ngày càng được mở rộng trong nhân dân.
Cùng với việc phát triển sự nghiệp bảo tàng thì việc bảo vệ và phát huy
giá trị di tích cũng đang được chú trọng, từng bước thiết lập những cơ chế, chính
sách cho hoạt động này. Trong những năm qua, việc triển khai chương trình mục
tiêu quốc gia về văn hóa chống xuống cấp di tích đã đạt được những kết quả to
lớn, nhiều di tích được tu bổ đã góp phần nâng cao đời sống văn hóa của nhân
dân. Công tác xã hội hoá hoạt động bảo tồn di tích đã huy động được nhiều
nguồn lực xã hội cho công tác bảo vệ và tu bổ di tích. Hàng trăm di tích được tu
bổ, tôn tạo đã trở thành những sản phẩm văn hóa hoàn chỉnh có sức hấp dẫn
khách tham quan cả trong và ngoài nước, tạo ra nguồn thu nhập đáng kể cho
ngân sách nhà nước, đồng thời tạo thêm việc làm cho nhân dân địa phương như:
Vịnh Hạ Long, Phố cổ Hội An, Khu Di tích Phong Nha - Kẻ Bàng. Tuy nhiên,
87
việc quản lý nguồn thu và xử lý hài hòa các lợi ích ở khu di tích vẫn là một bài
toán vô cùng khó khăn được đặt ra cần phải giải quyết.
Bên cạnh việc bảo tồn các di sản văn hóa vật thể thì xã hội hóa trong
hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hoá phi vật thể cũng được chúng ta
quan tâm đặc biệt. Nhiều chương trình hành động, dự án liên quan đến di sản
văn hóa phi vật thể đã và đang được triển khai nhằm hướng đến mục đích tư liệu
hóa và thiết lập một ngân hàng dữ liệu về di sản văn hóa phi vật thể. Việc gia
nhập Công ước UNESCO 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể từ năm
2005 đã đánh dấu một bước chuyển biến mới trong công tác bảo vệ di sản văn
hóa phi vật thể ở Việt Nam. Những năm gần đây, số dự án hướng tới mục tiêu
phục hồi, làm sống lại văn hóa phi vật thể trước nguy cơ mai một của quá trình
đô thị hóa, hiện đại hóa và toàn cầu hóa ngày càng tăng. Nhờ đó, công tác xã hội
hóa trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể ngày càng
được quan tâm và phát triển hơn.
Hiện nay chúng ta có 3 di sản văn hóa phi vật thể được công nhận là Di
sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại đó là: Nhã nhạc Cung đình Huế,
Văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên và Dân ca quan họ Bắc Ninh. Ca trù cũng
được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Thông
tư quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di sản
văn hóa phi vật thể để đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia
được ban hành, là văn bản pháp lý nhằm xác định hiện trạng, nhận diện giá trị di
sản văn hóa phi vật thể. Từ đó tạo cơ sở để có kế hoạch bảo tồn và phát huy
những giá trị vô giá này.
Tuy nhiên, công tác xã hội hoá trong bảo tồn di sản cũng đang gặp nhiều
vướng mắc. Nhận thức của toàn xã hội về di sản văn hoá chưa thật sâu sắc và
toàn diện, ý thức pháp luật chưa cao nên vẫn còn xảy ra hiện tượng vi phạm di
tích và thắng cảnh; chưa có cơ chế hỗ trợ về tài chính cho những tổ chức và cá
nhân có đóng góp đối với việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa; thiếu đội ngũ
88
cán bộ chuyên môn tại cơ sở, đặc biệt ở miền núi, vùng sâu, vùng xa; công tác
tôn vinh nghệ nhân còn vướng mắc cơ chế.
Bởi vậy, chúng ta cần có những giải pháp để đẩy mạnh hơn nữa công tác
xã hội hóa bảo tồn di sản. Cần phải tăng cường hiệu lực của Luật Di sản văn
hóa; xây dựng cơ chế, chính sách cho việc đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo
tồn di sản, khuyến khích huy động cá nhân và các tổ chức đóng góp kinh phí để
tu bổ di tích, hiến tặng hiện vật cho bảo tàng Nhà nước; xây dựng chính sách tôn
vinh các nghệ nhân, nghệ sĩ có đóng góp cho việc giữ gìn và truyền dạy bí quyết
các di sản văn hóa phi vật thể; thực hiện thường xuyên công tác tuyên truyền về
xã hội hoá đến tận người dân ở mọi địa bàn trên cả nước và xây dựng chính sách
dài hạn cho công tác đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ cơ sở và nghệ nhân.
3.2.6. Mở rộng hợp tác quốc tế và áp dụng khoa học kỹ thuật đối với hệ thống
bảo tàng
3.2.6.1. Mở rộng hợp tác quốc tế
Quan hệ hợp tác quốc tế nhằm tăng cường tình hữu nghị, hiểu biết lẫn
nhau giữa các bên cùng có lợi sẽ mở ra con đường hợp tác, ngoại giao và học
hỏi được nhiều kinh nghiệm ở đối tác để có thể áp dụng trong công tác quản lý
của chúng ta.
Mở rộng giao lưu hợp tác trong nước và quốc tế, tạo điều kiện cho các
bảo tàng thành phố tham gia các tổ chức bảo tàng ở Trung ương, các địa
phương và quốc tế, chủ động và tích cực thiết lập các mối quan hệ song
phương và đa phương với mọi tổ chức bảo tàng để phát triển sự nghiệp bảo
tàng. Vì vậy, trong quá trình hợp tác quốc tế, các nhà quản lý bảo tàng cần
trang bị kiến thức, sự hiểu biết để hợp tác với các hệ thống bảo tàng quốc tế.
Đa phương hóa, đa dạng hóa loại hình hợp tác, tăng cường hội nhập
với các bảo tàng trong khu vực và quốc tế. Chú trọng đẩy mạnh hợp tác các
cường quốc trên thế giới về bảo tàng học.
Phát triển các hoạt động liên kết với các bảo tàng trên thế giới trong
việc triển khai các khâu công tác bảo tàng: trao đổi triển lãm, giao lưu văn hóa,
89
trao đổi đoàn tham quan, học tập. Đồng thời, làm tốt việc giới thiệu văn hóa,
đất nước và con người Việt Nam với thế giới; tiếp thu có chọn lọc các giá trị
nhân văn, khoa học tiến bộ của nước ngoài. Phổ biến những kinh nghiệm tốt
xây dựng và phát triển hệ thống bảo tàng của thành phố Đà Nẵng ngày càng
hoàn thiện và đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của công chúng trong và ngoài nước.
Giúp cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiểu biết tình hình nước
nhà, thu nhận thông tin và sản phẩm văn hóa từ trong nước ra, thông qua hoạt
động quảng bá của hệ thống bảo tàng.
Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế và các trường học có
chuyên ngành bảo tàng để tìm kiếm các nguồn học bổng tài trợ cho cán bộ
được đi đào tạo, bồi dưỡng, nang cao trình độ.
Với đặc thù riêng của hệ thống bảo tàng, vấn đề hợp tác quốc tế cũng
còn hết sức mới mẻ, cần được quan tâm đầu tư hơn nữa. Từ những phương
hướng về hợp tác quốc tế nói trên, chúng ta phải xây dựng những mục tiêu,
hành động cụ thể để đưa hệ thống bảo tàng đến với quốc tế, đưa khách quốc tế
tới Việt Nam, đến Đà Nẵng là đến thăm hệ thống bảo tàng.
3.2.6.2. Áp dụng khoa học kỹ thuật đối với hệ thống bảo tàng
Công nghệ thông tin hiện nay là một trong những động lực quan trọng
nhất đối với sự phát triển của xã hội. Cùng với một số ngành khoa học khác,
công nghệ thông tin đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội
của thế giới hiện đại.Và trong xu thế chung đó hệ thống bảo tàng cũng không
nằm ngoài quỹ đạo của công nghệ thông tin. Trong lĩnh vực văn hóa công nghệ
truyền thông đa diện (multimedia) đã mở ra những khả năng to lớn để phổ cập
hóa di sản văn hóa vật thể và phi vật thể để trao đổi liên văn hóa. Được phép sử
dụng sản phẩm văn hóa và các dịch vụ truyền thông đa diện thông qua xa lộ
thông tin đảm bảo cho từng người khả năng vô tận để giao tiếp với nền văn hóa
thế giới cùng với sự đa dạng của nó. Nhận định của UNESCO đã khẳng định
tầm quan trọng của công nghệ thông tin đối với hệ thống bảo tàng. (UNESCO
và xã hội thông tin đối với tất cả mọi người số tháng 5/1996).
90
Việc sử dụng công cụ máy tính và tin học để tạo dựng một môi trường
thông tin số về bảo tàng. Nhưng để hình dung cụ thể nó là gì thì đã có rất nhiều
cách tiếp cận khác nhau. Ở một số quốc gia tiên tiến trên thế giới, công việc số
hóa thông tin bảo tàng để xây dựng bảo tàng điện tử được thực hiện cách đây
hơn chục năm và trên thực tế họ đã xây dựng thành công một số mô hình bảo
tàng điện tử. Bảo tàng điện tử đã biến toàn bộ vật chất (hiện vật bảo tàng) cùng
toàn bộ giá trị phi vật thể tiềm ẩn trong nó thành những luồng con số thông qua
thiết bị thông tin truyền tải đến tất cả mọi người ở mọi nơi, mọi lúc. Ở Việt Nam
trong vài năm gần đây, một số bảo tàng đã bắt đầu ứng dụng công nghệ thông
tin trong hoạt động nghiệp vụ và thực sự bước đầu đã có hiệu quả số hóa thông
tin tư liệu, mà hạt nhân của nó là hệ thống thông tin quản lý hiện vật. Tuy nhiên,
để các bảo tàng xây dựng thành công bảo tàng số thì còn cần đầu tư rất nhiều
công sức và trí tuệ.
Hoạt động trưng bày bảo tàng trong môi trường thông tin số
Thiết kế và triển khai trưng bày bảo tàng sẽ thay đổi trong quá trình ứng
dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của bảo tàng. Một trong những biến
chuyển về phương thức hoạt động của các bảo tàng ngày nay đang trong giai
đoạn chuyển từ hình thái bảo tàng truyền thống sang hình thái bảo tàng tin học,
điện tử hóa một phần để tiến tới bảo tàng điện tử. Sự phát triển đó dẫn đến một
tất yếu là, phải thay đổi phương thức, cách thức trưng bày sưu tập hiện vật trong
bảo tàng. Trước đây, ở bảo tàng truyền thống, việc trưng bày bảo tàng được triển
khai phòng trưng bày (khu trưng bày) cụ thể, trong đó là sự sắp xếp một cách
thủ công các hiện vật và cùng với hoạt động trưng bày là sự có mặt của hướng
dẫn viên phục vụ khách tham quan bảo tàng. Khi bảo tàng bước đầu có kho tư
liệu số thì việc kết hợp khai thác thông tin số hóa trong công tác trưng bày tạo ra
những hiệu quả rõ rệt: Trong gian trưng bày của bảo tàng, sẽ bố trí nhiều
phương tiện máy móc điện tử như máy tính, máy hình, hỗ trợ khách tham quan
tìm hiểu, nghiên cứu nội dung trưng bày rất tiện lợi.
Ứng dụng trang thiết bị trong trưng bày tại các bảo tàng ở Đà Nẵng
91
- Các tủ trưng bày đạt chuẩn, hệ thống bục bệ sử dụng trong các phần
trưng bày cũng được dùng những vật liệu mới giúp cho các khối hình bục bệ trở
lên chau chuốt, tinh xảo, khiến cho hiện vật khi được đặt lên những bục bệ này
trở lên trang trọng gấp nhiều lần.
- Hệ thống chiếu sáng mỹ thuật cần được đầu tư nâng cấp, sử dụng loại
đèn LED tiết kiệm điện hơn, chất lượng ánh sáng tốt hơn và đặc biệt không phát
ra tia tử ngoại, hồng ngoại đảm bảo an toàn cho hiện vật, đặc biệt với các hiện
vật hữu cơ như giấy, vải.
- Các trang thiết bị muntimedia phục vụ cho hệ thống trưng bày của hệ
thống bảo tàng hiện nay, cần đầu tư trang bị, bao gồm: Hệ thống TV LCD -
Video được hãng Toshiba (07 màn hình cảm ứng và hệ thống hướng dẫn tham
quan tự động đa phương tiện); trang bị hệ thống loa trợ giúp các ứng dụng
muntimedia, hình ảnh, video. Với hình ảnh phong phú, sinh động, những dữ liệu
khoa học rộng mở, hỗ trợ đa ngôn ngữ và cách tiếp cận chủ động của khách
tham quan nên đã có sức hấp dẫn nhất định đối với một số đối tượng công
chúng.
- Hệ thống hướng dẫn tham quan tự động Audioguide: Thiết bị này có
hình thức giống như chiếc điện thoại di động, khách tham quan khi đến bảo tàng
được cho mượn (có trả phí) thiết bị này. Sau khi lựa chọn ngôn ngữ thích hợp và
tiến vào các phần trưng bày trong tuyến tham quan, thiết bị thông qua bộ phận
cảm ứng được đặt tại mỗi phần trưng bày hoặc các hiện vật sẽ phát ra âm thanh,
hình ảnh tương ứng
3.2.7. Thanh tra, kiểm tra, giám sát được tiến hành thường xuyên, kịp
thời, xử lý nghiêm những sai phạm trong QLNN đối với hệ thống bảo tàng
Thanh tra, kiểm tra, giám sát thường xuyên, kịp thời xử lý những sai
phạm trong QLNN đối với hệ thống bảo tàng là hoạt động của cơ quan thanh
tra nhằm phát hiện sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến
nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền biện pháp khắc phục; phòng ngừa,
phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật; giúp cơ quan, tổ chức, cá nhân
92
thực hiện đúng quy định của pháp luật; phát huy nhân tố tích cực; góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra nhà
nước là hoạt động xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp luật
quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thanh tra
nhà nước bao gồm thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành, trong đó
thanh tra hành chính là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao; thanh tra chuyên ngành là
hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực
đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên
ngành, quy định về chuyên môn - kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh
vực đó.
Thực hiện Luật Thanh tra năm 2010 (có hiệu lực từ ngày 1-7-2011),
trong những năm qua các cơ quan thanh tra đã tích cực triển khai đồng bộ
nhiều giải pháp trong công tác để đạt được mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của
hoạt động thanh tra. Thủ trưởng các cơ quan thanh tra tăng cường chỉ đạo hoạt
động thanh tra theo hướng tập trung thanh tra trách nhiệm trong công tác quản
lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội và đặc biệt là thanh tra, kiểm tra, giám sát
thường xuyên, kịp thời xử lý những sai phạm trong QLNN đối với hệ thống
bảo tàng và trách nhiệm trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,
phòng, chống tham nhũng của các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan, tổ chức,
đơn vị. Đồng thời, đẩy mạnh thanh tra việc chấp hành pháp luật chuyên ngành,
quy định về chuyên môn kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực của cơ quan,
tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý nhà nước của ngành, lĩnh vực hoạt
động của hệ thống bảo tàng. Nội dung thanh tra có trọng tâm, trọng điểm, tập
trung vào những vấn đề bức xúc, dễ phát sinh các hiện tượng tiêu cực, tham
nhũng để phòng ngừa và phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, tham
93
nhũng, đồng thời kiến nghị chấn chỉnh, khắc phục những bất cập, sơ hở trong
quản lý, trong ban hành chính sách, pháp luật.
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát
thường xuyên, kịp thời xử lý những sai phạm trong QLNN đối với hệ thống
bảo tàng trong thời gian tới, các cơ quan thanh tra cần quan tâm thực hiện đồng
bộ những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng sau:
Thứ nhất, tăng cường chỉ đạo định hướng đối với hoạt động thanh tra,
thường xuyên nắm chắc tình hình để xây dựng kế hoạch thanh tra trình cấp có
thẩm quyền phê duyệt, đồng thời tiến hành thanh tra đột xuất, thanh tra lại khi
phát hiện dấu hiệu vi phạm. Định hướng chung cho hoạt động thanh tra là hướng
vào việc phát hiện, chấn chỉnh và xử lý kịp thời các vi phạm pháp luật; kiến nghị
khắc phục những sơ hở, bất cập trong công tác quản lý và cơ chế, chính sách;
thúc đẩy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước, quản lý
kinh tế - xã hội và cải cách hành chính, phòng, chống tham nhũng, lãng phí của
các ngành, các cấp. Nội dung thanh tra hành chính phải có trọng tâm, trọng
điểm, tập trung vào các lĩnh vực quan trọng, dễ xảy ra các hiện tượng tiêu cực,
vi phạm, tham nhũng, như quản lý đầu tư xây dựng; quản lý, sử dụng đất đai, tài
sản công; quản lý, khai thác tài nguyên, khoáng sản, bảo vệ môi trường; quản lý
tài chính, thu chi ngân sách; quản lý thị trường chứng khoán, tiền tệ; quản lý và
thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia; quản lý, sử dụng vốn, tài sản và
hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. Trong đó, Thanh tra Chính phủ tập
trung thanh tra việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ quan trọng trên các lĩnh vực
quản lý nhà nước của các bộ, ngành ở Trung ương; thanh tra trách nhiệm của ủy
ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong công tác quy
hoạch, quản lý, sử dụng đất đai; quản lý, khai thác tài nguyên, khoáng sản, bảo
vệ môi trường; quản lý đầu tư xây dựng; quản lý tài chính, ngân sách và mua
sắm tài sản công; thanh tra các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước trong
việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước và cổ phần hóa, cơ cấu lại doanh
nghiệp. Tăng cường thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật về khiếu nại, tố
94
cáo và phòng, chống tham nhũng của thủ trưởng các cơ quan quản lý nhà nước,
qua đó phát hiện, xử lý vi phạm và chấn chỉnh quản lý, nâng cao trách nhiệm
của các ngành, các cấp trong công tác này. Bên cạnh việc thanh tra theo kế
hoạch là chủ động nắm tình hình dư luận và đơn, thư khiếu nại, tố cáo, phản ánh
của công dân để nghiên cứu, đề xuất và tiến hành các cuộc thanh tra đột xuất khi
có dấu hiệu vi phạm pháp luật, từ đó kịp thời phát hiện, xử lý các vi phạm pháp
luật, tham nhũng.
Thứ hai, hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát thường xuyên, kịp thời
xử lý những sai phạm trong QLNN đối với hệ thống bảo tàng phải được tiến
hành theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục pháp luật quy định. Đối với các
trường hợp vi phạm nghiêm trọng, có dấu hiệu vi phạm pháp luật hình sự thì
phải kịp thời phối hợp với cơ quan công an và viện kiểm sát nhân dân để đánh
giá, làm thủ tục chuyển hồ sơ ngay cho cơ quan công an điều tra làm rõ. Thời
điểm ban hành các quyết định xử lý về thanh tra cần phải được quan tâm sớm
hơn và nên thực hiện ngay trong quá trình thanh tra, trong đó các quyết định xử
lý thu hồi về kinh tế và áp dụng các biện pháp ngăn chặn hoặc khắc phục hậu
quả vi phạm pháp luật cũng cần phải tiến hành kịp thời, đồng bộ ngay sau khi
phát hiện và có đầy đủ căn cứ mà không nhất thiết phải chờ đến khi kết luận.
Thứ ba, tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thanh tra để phát hiện,
chấn chỉnh, xử lý kịp thời các thiếu sót, vi phạm trong hoạt động thanh tra; tổ
chức thẩm định dự thảo kết luận thanh tra một cách chặt chẽ, nhất là các nội
dung về kết luận, kiến nghị và quyết định xử lý về thanh tra. Trong quá trình
thẩm định, cần phải quan tâm phát hiện, khắc phục những hạn chế, thiếu sót, bất
cập của dự thảo kết luận thanh tra để kiến nghị người ký kết luận xem xét, điều
chỉnh kịp thời. Bên cạnh đó, cần phải tổ chức thực hiện nghiêm túc, triệt để các
kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra, trong đó tăng tỷ lệ thu hồi tiền,
tài sản, đất đai bị tham nhũng, chiếm đoạt, thất thoát; làm rõ nguyên nhân tham
nhũng và có biện pháp xử lý nghiêm minh, đúng pháp luật đối với các tổ chức,
95
cá nhân có hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm nâng cao trật tự, kỷ cương, kỷ
luật trong nền hành chính và trong hoạt động thanh tra.
Thứ tư, quan tâm nâng cao chất lượng, năng lực, trình độ của đội ngũ
cán bộ, công chức thanh tra, thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho
cán bộ, công chức thanh tra, nhất là về kỹ năng tác nghiệp thanh tra, kỹ năng
tham mưu kết luận và kiến nghị xử lý vi phạm được phát hiện qua thanh tra. Chú
trọng việc giáo dục chính trị - tư tưởng, nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho đội
ngũ cán bộ, công chức thanh tra; thực hiện tốt văn hóa thanh tra; xây dựng người
cán bộ, công chức thanh tra có đạo đức, có văn hóa, cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư. Khi phát hiện cán bộ thanh tra có biểu hiện lệch lạc, vi phạm nguyên
tắc trong hoạt động thanh tra thì phải có biện pháp chấn chỉnh kịp thời, nếu vi
phạm pháp luật thì phải xử lý nghiêm. Các cơ quan thanh tra tích cực, gương
mẫu triển khai tổ chức thực hiện quy định và các giải pháp về phòng, chống
tham nhũng trong hoạt động thanh tra.
Thứ năm, đổi mới phương pháp, cách thức chỉ đạo, điều hành hoạt động
thanh tra; nâng cao chất lượng định hướng chương trình thanh tra và kế hoạch
thanh tra, trong đó cần đánh giá, khảo sát, nghiên cứu sâu sắc các nhiệm vụ quản
lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội của các ngành, các cấp và tình hình dư
luận, những vấn đề bức xúc trong xã hội đang nổi lên, từ đó xác định rõ vấn đề,
nội dung phải thanh tra; phân công trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, cán
bộ, công chức thanh tra, xác định thời gian, cách thức tiến hành và biện pháp tổ
chức thực hiện trong từng cuộc thanh tra. Đồng thời, quan tâm thực hiện việc
công khai các kết luận thanh tra theo quy định của pháp luật, trừ những nội dung
thuộc bí mật nhà nước, để cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân biết, giám sát và
thực hiện.
Thứ sáu, tăng cường kiểm tra, đánh giá kết quả thực hiện: Đối với các
bảo tàng, kiểm tra là một công tác rất quan trọng trong quá trình tổ chức và quản
lý bảo tàng, mục đích của kiểm tra là nhằm điều chỉnh những nhận thức cũng
như những hành vi sai trái trong quá trình tổ chức hoạt động của mình. Mặt khác,
96
hệ thống các bảo tàng cần chủ động xây dựng mối quan hệ gắn bó với các trường
học, các đoàn trực thuộc, các công ty du lịch lữ hành trong và ngoài nước, để đưa
khách tham quan bảo tàng tới bảo tàng nghiên cứu, học tập thưởng thức và tăng
cường giao lưu hợp tác giữa các bảo tàng để trao đổi kinh nghiệm hoạt động chuyên
môn, trao đổi hiện vật, phối hợp tổ chức trưng bày triển lãm, hội thảo chuyên đề,
xuất bản ấn phẩm để có thể từng bước hòa nhập với hệ thống bảo tàng Trung ương
và các bảo tàng địa phương. Hơn nữa, hệ thống bảo tàng phải thực hiện từng bước
công tác xã hội hóa các hoạt động của mình. Tăng cường hoạt động xây dựng
đội ngũ tình nguyện viên.
3.3. Một số khuyến nghị về điều kiện để thực thi giải pháp
3.3.1. Đối với chính quyền địa phương
Ủy ban nhân dân thành phố Đà Nẵng cần quan tâm hơn nữa trong việc
đầu tư về vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị di sản nói chung và bảo tàng nói
riêng, đầu tư kinh phí cả tu bổ công trình và phục hồi các DSVH.
Đề nghị thành phố đôn đốc, chỉ đạo xây dựng kế hoạch quản lý, quy
hoạch tổng thể, quy hoạch chi tiết và dự án thành phần theo lộ trình và kế
hoạch thực hiện hằng năm.
Ủy ban nhân dân thành phố cần sớm tiến hành ban hành các quy chế
quản lý, bảo tồn phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa trên địa bàn thành
phố.
Tổ chức rà soát, kiểm tra toàn diện về hệ thống bảo tàng trên địa bàn,
đánh giá lại tình hình, số lượng, chất lương, hiệu quả tổ chức hoạt động của hệ
thống bảo tàng để có phương án nâng cấp cơ sở vật chất, điều chỉnh, bổ sung,
nâng cao chất lượng hoạt động để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ của công chúng.
3.3.2. Đối với Sở Văn hóa và Thể thao
Quan tâm nhiều hơn nữa trong định hướng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
quản lý và đội ngũ thực hiện công tác chuyên môn về bảo tàng, bảo tồn. Hằng
năm, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ
và năng lực quản lý cho cán bộ viên chức làm công tác bảo tàng.
97
Để bảo tồn và phát huy hiệu quả tiềm năng du lịch của bảo tàng, Sở
Văn hóa và Thể thao cần có văn bản chỉ đạo các bảo tàng liên kết với các đơn
vị, công ty lữ hành du lịch trên địa bàn thành phố để kết hợp xây dựng tour
tuyến tham quan. Trong quá trình xây dựng các tour tuyến cần xây dựng liên
thông đến các bảo tàng trên địa bàn một cách hợp lý, khoa học, để tạo điều kiện
thuận lợi cho du khách tiếp cận với nhiều loại hình bảo tàng khác nhau trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
98
Tiểu kết chương 3
Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, cùng với quá trình đặt trọng tâm vào
đổi mới về kinh tế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
xác định đường lối xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Quan điểm này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận của đảng, đồng thời cũng
là kết quả tổng kết thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam trong suốt
quá trình lãnh đạo của đảng.
Trong công tác quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng hiện nay vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế, tuy nhiên thành
phố Đà Nẵng đang tiến hành quản lý hệ thống bảo tàng ngày càng hoàn thiện
hơn về đổi mới, nâng cao hiệu lực quản lý, đồng bộ và thống nhất. Đồng thời
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên môn, cán bộ quản lý và tăng cường
công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động của hệ thống bảo tàng.
Từ những phân tích và đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hệ thống
bảo tàng, trên cở sở vận dụng những lý luận về quản lý nhà nước về hệ thống
bảo tàng, trên cơ sở quan điểm của đảng về phát triển văn hóa và di sản văn hóa;
đồng thời định hướng hoàn thiện quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Để từ đó đưa ra những giải phápnhằm hoàn
thiện nội dung về quản lý nhà nước: quy hoạch hệ thống bảo tàng, hoàn thiện thể
chế quản lý nhà nước, đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ quản lý
và cán bộ chuyên môn, tăng cương hỗ trợ về ngân sách từ nguồn thu của thành
phố, cụ thể hóa chính sách và chính sách xã hội hóa hệ thống bảo tàng; mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế và áp dung khoa học kỹ thuật đối với hệ thống bảo tàng.
Khuyến nghị hoàn thiện nội dung quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo
tàng. Hy vọng những giải pháp mà luận văn đưa ra sẽ là những gợi ý cho các cơ
quan quản lý nhà nước cũng như đơn vị trực tiếp quản lý hệ thống bảo tàng trên
địa bàn thành phố tham khảo, áp dụng vào hoạt động quản lý nhằm nâng cao
99
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng ở thành phố Đà Nẵng
trong thời kỳ hội nhập và phát triển hiện nay.
100
KẾT LUẬN
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển bền
vững và hội nhập quốc tế. Đã thể hiện quan điểm toàn diện, đồng bộ, hài hòa với
phát triển văn hóa, xây dựng con người Việt Nam. Đồng thời, là định hướng
quan trọng để các cấp, các ngành, các địa phương triển khai và vận dụng có hiệu
quả trong việc góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
Có thể nói Quản lý nhà nước một trong những nội dung quan trọng của
chiến lược về hệ thống bảo tàng hiện nay, nhằm xây dựng hệ thống bảo tàng
phát triển hoàn thiện với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng
như của thành phố Đà Nẵng.
Xuất phát từ thực tiễn quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng, luận văn thông qua cơ sở lý luận và thực tiễn phản ánh
được những bước chuyển rõ rệt và tích cực về nhận thức về giá trị của hệ thống
bảo tàng đối với đời sống, nhu cầu hưởng thụ văn hóa của công chúng trong và
ngoài nước. Đồng thời đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về hệ thống bảo
tàng, đưa ra những nhận xét, đánh giá về những mặt đạt được và những hạn chế,
nguyên nhân hạn chế trong việc quản lý nhà nước về phát triển hệ thống bảo
tàng. Do đó, việc hoàn thiện quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng ở Đà Nẵng
là nhiệm vụ quan trọng nhằm khắc phục những hạn chế bất cập trong công tác
quản lý nhà nước về hệ thống bảo tàng.
Để góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối với hệ thống
bảo tàng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, trước hết đòi hỏi sự nỗ lực lớn của các
cấp lãnh đạo thành phố, các sở, ban ngành đồng thời có sự đầu tư nghiên cứu về
quản lý nhà nước đối với hệ thống bảo tàng và xây dựng, tổ chức thực hiện các
thể chế chính sách đối với hệ thống bảo tàng; phát triển đội ngũ cán bộ quản lý
và cán bộ chuyên môn để đáp ứng nhu cầu trong công việc. Để phát triển hoạt
động của hệ thống bảo tàng cần có sự hỗ trợ và thu hút nguồn lực từ các chính
101
sách hỗ trợ từ trung ương và địa phương để phát huy các giá trị di sản văn hóa
trong đời sống xã hội.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Chí Bền (Chủ biên) (2010), Bảo tồn, phát huy giá trị DSVH vật thể
Thăng Long – Hà Nội, Nxb Hà Nội;
2. Trương Quốc Bình (2011), “Nghiên cứu, ứng dụng những thành tựu khoa
học công nghệ để đổi mới hoạt động bảo tàng ở Việt Nam”, Tạp chí Di
sản Văn hóa, Số 36, tr.20-25.
3. Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (1994), Sưu tập hiện vật bảo tàng, Nxb Văn
hóa - Thông tin, Hà Nội.
4. Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (1997), Sự nghiệp bảo tàng những vấn đề cấp
thiết, Nxb Lao động, Hà Nội.
5. Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (1998), Bảo tàng với sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Nxb Hà Nội, Hà Nội.
6. Bảo tàng Cách mạng Việt Nam (2004), Bảo tàng góp phần hoàn thiện nhân
cách con người, Nxb Lao động, Hà Nội.
7. Bảo tàng Lịch sử Việt Nam - Cục Di sản văn hóa (2005); Công tác bảo
quản hiện vật bảo tàng, Nxb Hà Nội.
8. Bảo tàng góp phần hoàn thiện nhân cách con người (2004), Nxb. Bảo tàng
cách mạng Việt Nam, Hà Nội.
9. Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam (2000), Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.
10. Bảo tàng với sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước (1998), Kỷ
yếu Hội thảo khoa học tại Quảng Bình, Nxb Hà Nội, Hà Nội
11. Bộ Văn hóa - Thông tin (2005), Tọa đàm công tác giáo dục của bảo tàng,
Nxb Hà Nội.
12. Bộ Văn hóa - Thông tin (2005), Bảo vệ và phát triển di sản văn hoá trong
sự phát triển bền vững, Nxb Hà Nội.
13. Bộ Văn hóa - Thông tin (2006), Quy chế kiểm kê hiện vật bảo tàng (Ban hành
kèm theo Quyết định số 70/2006/QĐ-BVHTT, ngày 15/9/2006 của Bộ
trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin).
14. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2008), Quyết định số 47/2008/QĐ-
BVHTTDL, ngày 3/7/2008 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch Quy định về tiêu chuẩn, trách nhiệm của cán bộ và người thực hành
bảo quản hiện vật bảo tàng.
15. Cẩm nang bảo tàng (2001), Nxb. Bảo tàng cách mạng Việt Nam, Hà Nội
16. Cục Di sản văn hóa - Bảo tàng Cách mạng Việt Nam – Bảo tàng lịch sử Việt
Nam – Bảo tàng Hồ Chí Minh (2004), Hoạt động của bảo tàng trong sự
nghiệp đổi mới đất nước, Hà Nội.
17. Cục di sản văn hóa (2005), Một con đường tiếp cận văn hóa, tập 3, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
18. Cục di sản văn hóa (2007), Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Tập 1, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
19. Cục Di sản văn hóa (2012), Tuyển tập văn bản quy phạm pháp luật về hoạt
động bảo tàng (tuyển dịch), Nxb. Xây dựng, Hà Nội
20. Đổi mới các hoạt động bảo tàng (1998), Nxb Bảo tàng cách mạng Việt
Nam, Hà Nội.
21. Đổi mới các hoạt động Bảo tàng (2002), Nxb. Bảo tàng Cách mạng Việt
Nam, Hà Nội.
22. Gary Edson, David Dean (2001), Cẩm nang bảo tàng, Bảo tàng cách mạng
Việt Nam, Nxb.Hà Nội, Hà Nội
23. Nguyễn Thị Thu Hoan (2001), Vai trò bảo tàng tỉnh Việt Nam trong sự
nghiệp giáo dục thế hệ trẻ học đường, Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học,
trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
24. Học viện hành chính (2010), giáo trình Lý luận Hành chính nhà nước, Học
viện Hành chính, Hà Nội.
25. Nguyễn Thị Huệ (2008), Cơ sở bảo tàng học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội
26. Nguyễn Thị Huệ (2005), Lược sử sự nghiệp bảo tồn bảo tàng Việt Nam từ
1945 đến nay, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
27. Nguyễn Thị Hương (Chủ biên), Trần Kim Cúc (2011), Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn xây dựng, phát triển văn hóa Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia – Sự thật, Hà Nội.
28. Luật Di sản văn hóa (2001), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
29. Lê Thị Minh Lý (2006), Bảo tàng Việt Nam – thực trạng và những giải pháp
chính nhằm kiện toàn hệ thống bảo tàng trong phạm vi cả nước, Luận
án Tiến sĩ, Hà Nội.
30. Hà Thế Ngữ (2001), Giáo dục học, một số vấn đề lý luận thực tiễn, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
31. Hoàng Phê (2010), Từ điển tiếng việt, Nxb Đà nẵng, Đà Nẵng
32. Quốc hội (2001), Luật DSVH số 28/2001/QH10
33. Quốc hội (2009), Luật DSVH số 32/2009/QH12 sửa đổi bổ sung Luật
DSVH số 28/2001/QH10
34. Quy chế tổ chức và hoạt động của bảo tàng (2010), Hà Nội. 19. Timothy
Ambrose, Crispin Paine (2000), Cơ sở bảo tàng, Bảo tàng cách mạng
Việt Nam, Hà Nội.
35. Nguyễn Thịnh (Chủ biên) (2004), Quản lý bảo tàng, Nxb Trường Đại học
Văn hóa, Hà Nội.
36. Lâm Bình Tường – Mai Khắc Ứng – Phạm Xanh – Đặng Văn Bài (1990), Sổ
tay công tác bảo tàng, Nxb. Văn hóa, Hà Nội.
37. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
38. Văn kiện Hội nghị lần thứ V Ban chấp hành TW khóa VIII (1998), Nxb.
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
39. Tạp chí Di sản văn hóa số 8 - 2004.
40. Tạp chí Di sản văn hóa số 9 - 2004.
41. Tạp chí Di sản văn hóa số 2 (23) - 2008.
42. Tạp chí Lý luận chính trị số 4-2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_doi_voi_he_thong_bao_tang_tren_dia.pdf