Bình đẳng giới là nền tảng của hòa bình, ổn định, dân chủ và tiến bộ xã
hội, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia và
toàn nhân loại. Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau,
được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của
cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển
đó. Bình đẳng giới là bình đẳng giới cho cả nam và nữ.
Vì vậy, bình đẳng giới là vấn đề đang rất được quan tâm trong giai đoạn
hiện nay không chỉ trong nước mà còn trên toàn thế giới. Kiên Giang là một
tỉnh nông nghiệp, có dân số nữ chiếm trên 50% tổng dân số, trong đó lao động
nữ chiếm 49,8% lực lượng lao động. Nữ giới góp phần tích cực vào sự phát
triển của tỉnh. Tuy nhiên, trong các lĩnh vực đời sống xã hội, phụ nữ vẫn chịu
nhiều thiệt thòi so với nam giới. Tỷ lệ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo các
cấp ủy, chính quyền địa phương, quản lý trong các cơ quan nhà nước cón thấp,
họ phải chịu trách nhiệm chăm sóc người thân, ngoài xã hội thì vai trò của nữ
giới chưa được đánh giá đúng mức, áp lực định kiến giới vẫn còn tồn tại trong
nhân dân đã gây nên khó khăn trong việc triển khai thực hiện chính sách pháp
luật về bình đẳng giới.
Công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới được triển khai, bước đầu
đã mang lại một số thành công nhất định, thu hút được sự chú ý của các cấp, các
ngành, người dân về thực hiện bình đẳng giới. Một số nội dung quản lý nhà
nước về bình đẳng giới đã được thực hiện tương đối tốt, như công tác lồng ghép
giới trong việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; công tác
chủ động xây dựng các chương trình hành động thực hiện bình đẳng giới của
các cấp chính quyền địa phương, công tác tuyên truyền được thực hiện sâu rộng96
trong nhân dân; công tác phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong việc tổ chức
thực hiện bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ.
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định như: kết quả thực
hiện bình đẳng giới chưa cao; một số địa phương, đơn vị chưa thật sự quan tâm
đến việc thực hiện bình đẳng giới; đội ngũ cán bộ công chức làm công tác quản
lý nhà nước về bình đẳng giới còn kiêm nhiệm đặc biệt là ở cấp cơ sở; thiếu đội
ngũ báo cáo viên, giảng viên có chất lượng trong lĩnh vực bình đẳng giới; công
tác đánh giá, quản lý các chỉ tiêu bình đẳng giới còn mang tính hình thức; tài
liệu tuyên truyền, tập huấn còn ít. Chính những điều này đã làm hạn chế hiệu
quả thực hiện công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
Trong thời gian tới, để công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới đạt
hiệu quả cao hơn cần thực hiện một số giải pháp về hoàn thiện hệ thống chính
sách, văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới; hoàn thiện tổ chức bộ máy
và nguồn nhân lực làm công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới; tăng
cường công tác tuyên truyền giáo dục và công tác thanh tra, kiểm tra việc thực
hiện bình đẳng giới.
109 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 654 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh,... tuy nhiên công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới còn nhiều hạn
chế về nhận thức, đội ngũ cán bộ công chức làm công tác về bình đẳng giới,
công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, thống kê, thu thập, xử lý thông tin, số
liệu, tài liệu tuyên truyền,... tỉnh cần khắc phục những hạn chế, phát huy những
thành tựu nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý về bình đẳng giới,
góp phần thực hiện bình đẳng giới thực chất tại địa phương.
73
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BÌNH
ĐẲNG GIỚI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG GIAI ĐOẠN 2018 -
2025
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới trên
địa bàn tỉnh Kiên Giang
3.1.1. Bình đẳng giới phát triển kinh tế - xã hội
Bình đẳng giới được xem là tiêu chí quan trọng đánh giá sự phát triển của
một xã hội. Nó vừa là mục tiêu của sự phát triển vừa là yếu tố nâng cao khả
năng tham gia đóng góp của phụ nữ và nam giới vào sự phát triển ổn định và
bền vững của mỗi quốc gia. Quyền bình đẳng giới là một nội dung cơ bản của
quyền con người, thể hiện giá trị nhân văn cao cả, đồng thời mang lại những giá
trị chính trị, pháp quyền đáng trân trọng. Bất bình đẳng giới không chỉ là rào
cản đối với sự tham gia của phụ nữ và nam giới mà còn cản trở quá trình phát
triển xã hội và xóa đói giảm nghèo. Trong bối cảnh đất nước đang trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì việc dành mọi nguồn lực phát
triển đất nước là rất cần thiết.
Trong Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
năm 1946 bằng nguyên tắc “không phân biệt giống nòi, gái trai”; và đã quy định
“tất cả các công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội và quan điểm đó tiếp tục kế thừa và phát triển phù hợp
với xu thế phát triển của đất nước và thời đại qua các lần sửa đổi của Hiến pháp
và đặc biệt, tại Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm
2013, quan điểm này được khẳng định tại Điều 26: “Công dân nữ, nam bình
74
đẳng về mọi mặt”. Từ đó, những tư tưởng tiến bộ về bình đẳng giới đã được cụ
thể hóa bằng các chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước.
Với mục tiêu thực hiện bình đẳng giới là xóa bỏ phân biệt đối xử về giới,
tạo cơ hội như nhau cho nam giới và nữ giới trong phát triển kinh tế - xã hội
tiến tới bình đẳng giới thực chất giữa nam và nữ, hỗ trợ nam và nữ trong mọi
lĩnh vực của đời sống xã hội.
Dựa trên tinh thần đó, Bộ Chính trị cho ban hành nghị quyết 11-NQ/TW
ngày 24 tháng 4 năm 2007 về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước xác định mục tiêu đến năm 2020 “phấn đấu để nước ta là một trong
các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất khu vực” (1,tr.36). Tại kỳ
họp thứ 10 của Quốc hội khóa XI, Quốc hội đã ban hành Luật bình đẳng giới.
Đây là cơ sở pháp lý cơ bản có tính định hướng đối với quản lý nhà nước về
bình đẳng giới. Đặc biệt, trong giai đoạn đổi mới và hội nhập, công tác xây
dựng pháp luật dựa trên nguyên tắc tiếp cận về bình đẳng giới của Đảng và Nhà
nước, Quốc hội và các cơ quan Nhà nước rất quan tâm và xác định là nhiệm vụ
trọng tâm để đảm bảo sự tiến bộ và công bằng xã hội.
Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020 do Chính phủ
ban hành xác định “là một bộ phận của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước, là cơ sở nền tảng của chiến lược phát triển con người của Đảng và nhà
nước. Công tác bình đẳng giới là một trong những yếu tố cơ bản để nâng cao
chất lượng cuộc sống của từng người, từng gia đình và toàn xã hội” [4,tr.19] và
việc “tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính quyền, sự phối
hợp của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, sự tham gia của mỗi cá nhân gia đình
và cả cộng đồng đối với công tác bình đẳng giới. Huy động tối đa mọi nguồn
lực để thực hiện có hiệu quả công tác bình đẳng giới” [4,tr.19]
75
Chiến lược đề ra 7 mục tiêu và các giải pháp cho từng mục tiêu nhằm
thúc đẩy việc hoàn thành các mục tiêu do Chiến lược đề ra, góp phần thực hiện
thành công chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Xuất phát từ điểm, định hướng đó, tỉnh Kiên Giang đã xác định công tác
bình đẳng giới là một công tác quan trọng nhằm góp phần ổn định chính trị,
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh. Trong những năm qua, Kiên Giang
luôn có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, các lĩnh vực văn hóa, y tế,
giáo dục... đang ngày càng phát triển. Dân số của tỉnh có khoảng 49,8% là nữ.
Lực lượng lao động dồi dào, trong đó lao động nữ chiếm gần 59% tổng số lao
động trên địa bàn. Tỉnh rất cần sự chung tay, góp sức của mọi người dân, bao
gồm cả nam và nữ vào sự nghiệp phát triển của tỉnh. Do đó cần phải tăng cường
quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên tất cả các hoạt động định hướng phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh, nhằm tạo mọi điều kiện để bình đẳng giới là một
trong những tiêu chí về phát triển kinh tế - xã hội. Bộ máy chính quyền các cấp
từ tỉnh đến cơ sở trong phạm vi trách nhiệm, quyền hạn của mình phải thực hiện
tốt công tác này. Đồng thời huy động sự phối hợp của các tổ chức, cá nhân để
tạo sự chuyển biến tích cực, sâu rộng trong toàn tỉnh về bình đẳng giới và sự
phát triển kinh tế, xã hội. trong đó, ngành Lao động TBXH được giao trách
nhiệm chủ trì cần phát huy hơn nữa vai trò quản lý nhà nước, sử dụng hợp lý và
hiệu quả các biện pháp, công cụ cần thiết để công tác bình đẳng giới của tỉnh
đạt được mục tiêu đề ra.
Thực hiện tốt quan điểm tổng quát mà Đảng ta đã khẳng định là “tăng
trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng
bước và trong suốt quá trình phát triển”. Cần cụ thể hoá trong phát triển kinh tế
của tỉnh gắn với công bằng xã hội mà đặc biệt là thực hiện bình đẳng giới có thể
xem phát triển kinh tế là tiền đề và điều kiện cho nhau trong quản lý nhà nước
76
về bình đẳng giới. Tăng trưởng kinh tế tạo ra điều kiện vật chất để thực hiện
công bằng xã hội, ngược lại thực hiện tốt bình đẳng giới là động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế; và đặc biệt là đối với các chính sách kinh tế - xã hội tỉnh
cần phải hướng tới bảo đảm bình đẳng giới.
Tăng cường sự quản lý của cơ quan chức năng, các cấp chính quyền
trong việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung chế độ chính sách đối với lao động nữ
cho phù hợp với ngành nghề, đối tượng, tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện
đời sống, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng cho lao động nữ; kiểm
tra giám sát việc thực hiện các chế độ chính sách đối với lao động nữ, trong đó
quan tâm việc thực hiện các chế độ chính sách có liên quan đến lao động nữ và
hạn chế những vi phạm trong việc sử dụng lao động nữ. Chính quyền phải kết
hợp sử dụng có hiệu quả các công cụ pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chính sách
để bảo đảm bình đẳng giới và bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp nhân
dân.
3.1.2. Xử lý vi phạm bình đẳng giới
Bình đẳng giới là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước, là nhiệm vụ
quan trọng của chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Bình đẳng giới
vừa là mục tiêu, vừa là cơ sở thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xây dựng xã hội ổn
định. Để thực hiện đạt kết quả bình đẳng giới trong thời gian qua Quốc hội đã
ban hành Luật Bình đẳng giới có hiệu lực thi hành từ 1/7/2007, với những quy
định, nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia
đình, các hành vi bị nghiêm cấm và các biện pháp bảo đảm bình đẳng giới; ban
hành các luật như Luật phòng chống bạo lực gia đình, Luật Lao động,Ngày
10/6/2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 55/2009/NĐ-CP, quy định xử phạt
vi phạm hành chính về Bình đẳng giới với những quy định cụ thể về hành vi vi
phạm, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả, thẩm quyền, thủ tục xử
77
phạt một số hành vi và mức xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới. Ủy
ban Nhân dân tỉnh Kiên Giang đã có nhiều biện pháp triển khai, tổ chức thực
hiện nội dung các Luật và Nghị định trên địa bàn toàn tỉnh, qua đó từng lĩnh vực
có sự chuyển biến tích cực, nhưng một số lĩnh vực vẫn chưa đạt được kết quả
cao.
Trước thực tiễn đó, phải tăng cường nâng cao nhận thức về bình đẳng
giới cho các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là ý thức tham gia cùng nhà nước và
cộng đồng xã hội thực hiện công tác bình đẳng giới. Cần thực hiện nghiêm việc
xử phạt đối với nhiều tổ chức, cá nhân có những sai phạm về vấn đề bình đẳng
giới. Với trách nhiệm quản lý Nhà nước, bên cạnh việc tuyên truyền, vận động,
rất cần có những biện pháp mạnh để nghiêm trị những tổ chức, cá nhân vi phạm
các quy định và các chính sách pháp luật về bình đẳng giới đã được ban hành.
Đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải gương mẫu thực
hiện bình đẳng giới, nói không với bạo lực gia đình. Khi mà cán bộ, công chức,
viên chức gương mẫu thực hiện sẽ có tác dụng thúc đẩy xã hội và đây được xem
là nhiệm vụ thường xuyên, cần đưa vào chỉ tiêu thi đua của tổ chức, cá nhân, có
như vậy phong trào hành động sẽ hiệu quả hơn.
Cơ quan chức năng tham mưu công tác quản lý Nhà nước về bình đằng
giới các cấp trong tỉnh cần đề cao trách nhiệm, sâu sát và kịp thời đề xuất chủ
trương, biện pháp phù hợp để chỉ đạo, lãnh đạo, điều hành thực hiện tốt các
nghị quyết, chiến lược, chương trình về bình đẳng giới và vì sự tiến bộ của phụ
nữ trong tỉnh, trong quá trình triển khai, tổ chức thực hiện cần tăng cường công
tác kiểm tra, thanh tra, giám sát thường xuyên theo định kỳ để kịp thời việc xử
phạt hành vi vi phạm.
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về bình đẳng giới trên địa
bàn tỉnh Kiên Giang
78
3.2.1. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật và ban hành văn
bản chỉ đạo thực hiện
Hệ thống chính sách, pháp luật chính là hành lang pháp lý, là căn cứ, cơ
sở để quản lý một lĩnh vực, đưa nó vào khuôn khổ, trật tự nhất định mà nhà
nước đã định hướng nhằm phục vụ tốt cho sự phát triển của xã hội. Hoàn thiện
hệ thống chính sách, pháp luật đối với một lĩnh vực luôn là một vấn đề quan
trọng để phát triển lĩnh vực đó đúng định hướng.
Hiện nay hệ thống chính sách pháp luật trong lĩnh vực bình đẳng giới
được tạo nên bởi các văn bản quy phạm pháp luật như: Luật bình đẳng giới năm
2006, Nghị định 70/2008/NĐ-CP ngày 4 tháng 6 năm 2008 của Chính phủ quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật bình đẳng giới, Nghị định
48/2009/NĐ-CP ngày 19 tháng 5 năm 2009 của Chính phủ về các biện pháp bảo
đảm bình đẳng giới, Nghị định 55/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2009 về
xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới, Thông tư số 191/2009/TT-BTC
ngày 01tháng 10 năm 2009 của Bộ Tài chính về hướng dẫn quản lý và sử dụng
kinh phí hoạt động của bình đẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ,
Quyết định số 56/2011/QĐ-TTg ngày 14 tháng 10 năm 2011 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới của quốc gia.
Ngoài ra còn có các văn bản quy phạm pháp luật liên quan như Luật hôn nhân
gia đình; Luật phòng chống bạo lực gia đình; Bộ luật lao động; Luật bảo hiểm;
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em;...
Chính sách quy định về bình đẳng giới bao gồm quy định bảo đảm tỷ lệ
nữ đại biểu quốc hội nhiệm kỳ 2011- 2016, chính sách cân bằng giới tính khi
sinh, chính sách hỗ trợ phụ nữ vay vốn và giải quyết việc làm, chính sách đảm
bảo 100% hộ nghèo do phụ nữ làm chủ được vay vốn, chính sách đào tạo nghề
và giải quyết việc làm cho lao động nữ, chính sách hỗ trợ tư vấn cho người bị
79
bạo lực gia đình, chính sách bảo vệ bà mẹ sinh con và nuôi con nhỏ,... nhìn
chung, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách, quy định bảo đảm bình đẳng
giới.
Bên cạnh triển khai các văn bản chỉ đạo của cấp trên, tỉnh Kiên Giang
ban hành một số chính sách thực hiện bình đẳng giới. Tuy nhiên, các chính
sách, quy định chưa nhiều. Tỉnh cần xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp
luật phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới tại địa phương. Xây dựng và thực hiện
các chính sách nhằm thúc đẩy việc thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới. Trước
mắt, xây dựng và triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về bình
đẳng giới với hệ thống mục tiêu, chỉ tiêu, công cụ theo dõi, đánh giá và hệ
thống giải pháp toàn diện, đồng bộ. Đặc biệt cần sớm ban hành bộ chỉ số thống
kê phát triển giới của tỉnh. Đây là căn cứ quan trọng để thống kê, theo dõi, đánh
giá việc thực hiện bình đẳng giới thông qua các số liệu cụ thể, nhằm đưa ra các
giải pháp thực hiện bình đẳng giới xác thực phù hợp với thực tế địa phương.
Ngoài ra, tỉnh cũng cần ban hành văn bản hướng dẫn công tác quản lý như
chính sách hỗ trợ, tư vấn cho nạn nhân bị bạo lực gia đình để giúp đỡ những
người này thoát khỏi bạo hành, sẵn sàng tố cáo các hành vi bạo lực gia đình;
tỉnh cần sớm ban hành các hướng dẫn đối với việc xử phạt các hành vi vi phạm
hành chính về bình đẳng giới; đối với việc nâng cao vị thế và sự tham gia của
phụ nữ vào các hoạt động chính trị và cơ quan quản lý nhà nước cần bổ sung
chính sách ưu đãi, hỗ trợ đối với cán bộ nữ trong việc đi học, đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ, xây dựng chính sách hỗ trợ và khuyến khích nữ tài
năng trẻ,... thực hiện tốt chính sách về luân chuyển cán bộ nữ và giải quyết hợp
lý vấn đề tuổi nghỉ hưu của cán bộ nữ làm công tác quản lý và nghiên cứu khoa
học; đối với công tác cán bộ nữ cần có chính sách mang tính chiến lược đồng bộ
trong toàn bộ công tác cán bộ của Đảng và nhà nước. Trên cơ sở quy hoạch, có
kế hoạch tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ, tạo điều kiện để cán bộ nữ
80
cống hiến và trưởng thành, phấn đấu tăng tỷ lệ nữ trong các cấp ủy Đảng, cơ
quan nhà nước, trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội, y tế, giáo dục, khoa
học, nghệ thuật; đối với người lao động tại các khu, cụm công nghiệp trên địa
bàn tỉnh, khi xây dựng và ban hành các chính sách cần đặc biệt quan tâm đến
tính chất đặc thù của lao động nữ, sớm có các văn bản chỉ đạo, triển khai thí
điểm tại một số doanh nghiệp và có chính sách hỗ trợ đối với các doanh nghiệp
trong việc giải quyết chổ ở và xây dựng các nhà trẻ trong các doanh nghiệp tạo
điều kiện về mặt thời gian để người lao động có thời gian tham gia vào các hoạt
động xã hội khác góp phần thực hiện bình đẳng giới cho người lao động.
Bên cạnh đó, UBND tỉnh cần chỉ đạo các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể
rà soát lại các quy định của ngành, lĩnh vực mình phụ trách để phát hiện kiến
nghị sửa đổi hoặc bãi bỏ những quy định, chính sách có khả năng gây bất bình
đẳng giới, việc hoàn thiện hệ thống các quy định về bình đẳng giới cần được
tiến hành và áp dụng đồng bộ, tránh mâu thuẫn giữa các quy định.
Trên thực tế cho thấy có nhiều nội dung trong các văn bản quy phạm
pháp luật về bình đẳng giới nhưng đến nay vẫn chưa có cơ sở để thực hiện,
nguyên nhân là do chưa có hướng dẫn thực hiện cụ thể, ví dụ như ở khoản 1
điều 19 Luật bình đẳng giới quy định “việc ưu tiên nữ trong trường hợp nữ có
điều kiện, tiêu chuẩn như nam” [36,tr.11], nhưng cho đến nay chưa có quy định
cụ thể về việc này, cũng chưa có văn bản hành chính nào ghi rõ phải ưu tiên nữ
có đủ điều kiện, tiêu chuẩn như nam, hay trong Nghị định 55 về xử lý vi phạm
hành chính về bình đẳng giới, tại điểm b thuộc khoản 2 điều 8 quy định nếu các
đơn vị, doanh nghiệp từ chối tuyển dụng hoặc tuyển dụng hạn chế lao động nam
hoặc lao động nữ vì lý do giới tính, trừ trường hợp áp dụng biện pháp thúc đẩy
bình đẳng giới; sa thải hoặc cho thôi việc người lao động vì lý do giới tính hoặc
do việc mang thai, sinh con, nuôi con nhỏ thì sẽ bị phạt tiền từ 3 đến 5 triệu
đồng, nhưng đến nay chưa có hướng dẫn thực hiện cho vấn đề này. Ngoài ra,
các sở, ban, ngành của tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải
81
đề xuất, kiến nghị với cấp có thẩm quyền sớm ban hành các văn bản hướng dẫn
chi tiết việc áp dụng các quy định của pháp luật bình đẳng giới, nhất là các quy
định về biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới để sớm có cơ sở triển khai thực hiện.
Hoàn thiện hệ thống chính sách và các văn bản quy phạm pháp luật về
bình đẳng giới là biện pháp quan trọng để tạo cơ sở pháp lý và định hướng cho
hoạt động quản lý nhà nước về bình đẳng giới. Để làm được điều này thì các
cấp, các ngành có liên quan cần phải có sự quan tâm, trong đó ngành LĐ-TBXH
giữ vai trò chủ động tham mưu và phối hợp với các ngành liên quan nhằm xây
dựng hoàn thiện hệ thống này.
3.2.2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và tăng cƣờng nguồn lực cho quản
lý nhà nƣớc về bình đẳng giới
Hoạt động quản lý nhà nước về bình đẳng giới là một hoạt động rộng lớn,
liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, chính vì vậy để nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước đối với bình đẳng giới cần hoàn thiện hệ thống tổ chức quản
lý nhà nước về bình đẳng giới, nâng cao năng lực điều tra và thu thập số liệu về
giới, tăng cường về công tác tổ chức nhân sự, cơ sở vật chất kỹ thuật và đẩy
mạnh phối hợp giữa các cơ quan chủ trì và các đơn vị liên quan nhằm thực hiện
hiệu quả các mục tiêu bình đẳng giới, đáp ứng yêu cầu phát triển và xu hướng
hội nhập của đất nước.
Thứ nhất, cần nâng cao năng lực điều tra, thu thập số liệu và xây dựng cơ
sở dữ liệu về bình đẳng giới. Trên cơ sở các vấn đề giới có thể nảy sinh, thu
thập thông tin số liệu, đánh giá vai trò của nam và nữ, nhu cầu, cơ hội, thách
thức đối với vấn đề cần lập kế hoạch để xác định mục tiêu, biện pháp nhằm xóa
bỏ vấn đề bất bình đẳng giới. Xây dựng các biện pháp có thể là các biện pháp áp
dụng chung hoặc các biện pháp chuyên biệt cho nam giới và phụ nữ. Sau đó lập
ngân sách giới, cụ thể là dự trù kinh phí cho các hoạt động. Bên cạnh đó tiến
82
hành phân tích giới, nghiên cứu những khác biệt về kinh tế, xã hội giữa nam
giới và nữ giới, cụ thể là nghiên cứu những điều kiện, nhu cầu, việc tiếp cận
hoặc kiểm soát các nguồn lực, mức độ hưởng lợi từ sự phát triển của xã hội và
quá trình ra quyết định của nữ giới và nam giới. Cụ thể của tiến trình này là xác
định nhóm đối tượng chính.
Hiện tại tỉnh Kiên Giang đang đánh giá mức độ thực hiện bình đẳng giới
thông qua các chỉ tiêu của mục tiêu về bình đẳng giới, ban hành theo kế hoạch
về việc thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang giai đoạn 2011- 2015. Đây là căn cứ để phấn đấu và đánh giá kết quả
thực hiện bình đẳng giới của tỉnh.
Tuy nhiên các chỉ tiêu theo chương trình quốc gia còn ít, chỉ thể hiện một
phần các số liệu cơ bản cần có đối với mỗi lĩnh vực chính trị, lao động, y tế,
giáo dục, gia đình và năng lực quản lý. Trong khi đó để có cái nhìn toàn diện về
tình hình phát triển giới của tỉnh, có căn cứ số liệu phong phú cho việc chứng
minh sự phát triển giới cũng như đánh giá tình hình phát triển giới qua các giai
đoạn và để góp phần thực hiện có hiệu quả công tác quản lý nhà nươc về bình
đẳng giới, trong thời gian tiếp theo tỉnh cần sớm xây dựng và ban hành bộ tiêu
chí phát triển giới làm cơ sở dữ liệu phục vụ lâu dài cho công tác bình đẳng giới
và các công tác khác có liên quan, đồng thời xây dựng và hoàn chỉnh bộ chỉ tiêu
thống kê phát triển giới theo quyết định số 56/QĐ-TTg ngày 14 tháng 10 năm
2011 của Thủ tướng Chính phủ để đảm bảo tính thống nhất thống kê và lưu trữ
số liệu phù hợp với đặc điểm tình hình của địa phương. Việc ban hành được bộ
tiêu chí về bình đẳng giới cần có sự phối hợp của nhiều ngành để đảm bảo số
liệu được cung cấp chính xác, đầy đủ, khách quan, thống nhất.
Sau khi ban hành bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới, UBND các huyện,
thị, thành cần phải đôn đốc các ngành, các cơ quan, tổ chức và cá nhân có trách
nhiệm theo dõi, nắm số liệu, định kỳ báo cáo để các số liệu được phản ánh trong
83
bộ chỉ tiêu đảm bảo tính trung thực, chính xác, kịp thời. Đây cũng là biện pháp
nhằm tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức có liên quan đến việc
quản lý nhà nước về bình đẳng giới. Bên cạnh đó cần đẩy mạnh thông tin, tuyên
truyền, tập huấn thống kê về bình đẳng giới nhằm nâng cao nhận thức và ý thức
trách nhiệm thu thập, tổng hợp chỉ tiêu thống kê giới cho các cấp, các ngành để
công tác thống kê về giới thực sự trở thành thói quen trong công tác chuyên
môn của từng cơ quan, đơn vị. Để thực hiện được điều đó, trước mắt, sở Lao
động TBXH chủ trì phối hợp Cục thống kê tỉnh tổ chức tập huấn hướng dẫn
nghiệp vụ cụ thể cho đội ngũ cán bộ làm công tác bình đẳng giới các cấp, các
ngành về thu thập, phương pháp tính, tổng hợp các chỉ tiêu thống kê phát triển
giới theo quy định tại Thông tư số 07/2012/TT-BKHĐT về quy định nội dung
chỉ tiêu thống kê giới của quốc gia, bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới cấp tỉnh,
huyện và xã.
Thứ hai, cần tiếp tục tổ chức thực hiện tốt kế hoạch phân công trách
nhiệm cụ thể cho các sở, ban, ngành cấp tỉnh và UBND các huyện, thị, thành
phố thu thập, tổng hợp các chỉ tiêu thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê
cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã theo tiêu chí về mục tiêu thực hiện bình đẳng giới
trên địa bàn giai đoạn 2011-2015 và những năm tiếp theo. Các sở, ban, ngành
các huyện, thị, thành phố cần nêu cao tính chủ động trong việc thực hiện thống
kê giới; chấp hành nghiêm túc chế độ báo cáo, biểu mẫu thống kê đầy đủ và kịp
thời. Gắn trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan với số liệu thống kê về giới
do cơ quan mình thu thập, tổng hợp. Hệ thống chỉ tiêu phát triển giới phải được
lồng ghép trong hệ thống chỉ tiêu kế hoạch ngành và lĩnh vực, thực hiện đồng
thời với thời gian xây dựng kế hoạch ngành hàng năm.
Thứ ba, tổ chức thực hiện lồng ghép vấn đề bình đẳng giới trong xây
dựng chính sách và ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Lồng ghép vấn đề
84
bình đẳng giới trong xây dựng chính sách và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật là một trong những nội dung của lồng ghép giới, là biện pháp nhằm thực
hiện mục tiêu bình đẳng giới bằng cách xác định vấn đề giới, dự báo tác động
giới của văn bản, trách nhiệm, nguồn lực để giải quyết vấn đề giới trong các
quan hệ xã hội được văn bản quản lý nhà nước điều chỉnh.
Trong những năm qua, trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, việc lồng ghép bình
đẳng giới trong xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật luôn
được quan tâm và đạt được kết quả nhất định. Tỉnh đã có sự chủ động triển khai
thực hiện ngay sau khi Luật bình đẳng giới được ban hành. Tuy nhiên, tồn tại
lớn nhất hiện nay của việc lồng ghép giới trong xây dựng chính sách và ban
hành văn bản quy phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh là chưa có quy định cụ thể
về trình tự, thủ tục, nội dung việc lồng ghép giới còn mang tính chung chung;
đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu, hoạch định chính sách còn thiếu kiến
thức về giới, kỹ năng lồng ghép giới nên việc tổ chức thực hiện còn hạn chế. Vì
vậy để lồng ghép giới trong xây dựng chính sách và ban hành văn bản quy
phạm pháp luật ngoài việc phải đảm bảo các quy trình thực hiện của Luật ban
hành văn bản pháp luật thì cần tiến hành đầy đủ các quy trình thực hiện của
lồng ghép giới từ phân tích giới, lập kế hoạch giới đến thực hiện và giám sát,
đánh giá việc lồng ghép giới. Việc thực hiện lồng ghép giới và giám sát, đánh
giá phải đảm bảo tính khách qua, trung thực, liên tục và có chỉ tiêu cụ thể, rõ
ràng.
Đối với lồng ghép giới trong xây dựng và ban hành văn bản quy phạm
pháp luật trong từng lĩnh vực cụ thể, với các văn bản đã ban hành phải tiến hành
rà soát, thống kê những nội dung đảm bảo bình đẳng giới; sau đó xác định nội
dung liên quan đến vấn đề bình đẳng giới hoặc vấn đề bất bình đẳng giới phân
biệt đối xử về giới. Đối với các văn bản dự thảo dự thảo đang lấy ý kiến đóng
85
góp, cần chuyển đến cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới là ngành lao
động TBXH xem xét, đánh giá yếu tố lồng ghép của văn bản, đảm bảo văn bản
khi ban hành sẽ bảo vệ quyền lợi chính đáng của cả nam và nữ. Đối với các
chương trình, dự án, cần xem xét đến mức độ tác động của nó đến đời sống của
cả nam và nữ. Một chương trình dự án được ban hành phải đem lại lợi ích chính
đáng cho cả nam và nữ đều được thụ hưởng kết quả của dự án. Việc lồng ghép
giới phải tiến hành bắt đầu từ bước xác định vấn đề cần giải quyết của dự án
đến bước cuối cùng là đánh giá kết quả thực hiện của dự án.
Thứ tư, trong thời gian qua tỉnh Kiên Giang đã bố trí đội ngũ cán bộ kiêm
nhiệm làm công tác bình đẳng giới từ cấp tỉnh đến cấp xã. Tuy nhiên đội ngũ
cán bộ công chức làm công tác quản lý về bình đẳng giới từ cấp tỉnh đến cấp xã
đều kiêm nhiệm, bán chuyên trách, trong khi đó ngoài việc tham gia quản lý thì
họ còn tham gia vào công tác tham mưu xây dựng chính sách và ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật. Chính vì kiêm nhiệm công việc nhiều, trình độ đội
ngũ cán bộ cấp cơ sở còn hạn chế lại thường xuyên thay đổi do đó không thể
chuyên tâm vào một lĩnh vực bình đẳng giới và ít có điều kiện tìm hiểu, nghiên
cứu các tài liệu, tham gia hoạt động mang tính đối phó nên thụ động theo sự chỉ
dẫn của cấp trên, kém linh hoạt trong việc vận dụng và cụ thể các nội dung chỉ
đạo phù hợp với tình hình thực tiễn, gây ảnh hưởng đến việc tham mưu và tổ
chức thực hiện.
Để khắc phục những tồn tại hạn chế của đội ngũ cán bộ làm công tác
tham mưu, thực hiện lồng ghép giới trong hoạch định chính sách cần củng cố
đội ngũ cán bộ công chức làm công tác bình đẳng giới theo hướng chuyên trách
ở các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở. Vì hơn ai hết họ nắm bắt được những vấn đề về
bình đẳng giới của địa phương và sáng tạo ra cách giải quyết vấn đề phù hợp
với thực tế giúp công tác quản lý bình đẳng giới hiệu quả hơn thông qua đút kết
86
kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn. Đồng thời thường xuyên tổ chức tập huấn,
hội thảo, lồng ghép giới nhằm nâng cao năng lực tham mưu và linh hoạt tổ chức
thực hiện các hoạt động bình đẳng giới, đặc biệt là năng lực tham mưu xây
dựng chính sách và ban hành văn bản quy phạm pháp luật tại địa phương. Ngoài
ra cần đảm bảo đội ngũ làm công tác tham mưu hành chính trong cơ quan, ban
ngành các cấp chính quyền địa phương cần có sự ổn định, việc thay đổi, lắp
ghép cán bộ thường xuyên cũng làm ảnh hưởng đến công tác tham mưu thực
hiện công việc.
3.2.3. Tăng cƣờng tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về bình
đẳng giới
Nâng cao nhận thức có vai trò vô cùng quan trọng trong thực hiện bình
đẳng giới. Việc làm thay đổi nhận thức, tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, “nhất
nam viết hữu, thập nữ viết vô” của Nho giáo đã hình thành và tồn tại qua hàng
ngàn năm để tiến tới thực hiện mục tiêu bình đẳng giới là việc khó khăn và cần
phải thực hiện lâu dài. UBND các cấp đã chỉ đạo các sở, ban, ngành đoàn thể tổ
chức triển khai thực hiện các hoạt động tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận
thức về thực hiện bình đẳng giới nhưng thực tế hiện nay, sự bất bình đẳng giới
vẫn tồn tại trong nhiều lĩnh vực như về quyền lợi, nghĩa vụ, phân công lao động,
cơ hội việc làm, tiền lương, thu nhập, cơ hội thăng tiến giữa nam và nữ. Vấn đề
trên có thể do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết và chủ yếu do công tác tuyên
truyền, giáo dục về giới và bình đẳng giới chưa thực sự đạt hiệu quả cao, nội
dung tuyên truyền chưa được chuyển tải thường xuyên, sâu rộng, chưa sát với
đối tượng. Các cấp, các ngành, đoàn thể chưa có sự quan tâm đúng mức về vấn
đề này. Nhận thức của phụ nữ về quyền lợi của mình còn nhiều hạn chế, nhất là
phụ nữ ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Chính vì thế, trong thời gian tới,
87
để công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới ngày càng có hiệu lực, hiệu quả,
cần phải:
Thứ nhất, cần tăng cường tuyên truyền Luật Bình đẳng giới để nâng cao
nhận thức và ý thức trách nhiệm trong thực hiện bình đẳng giới cho cộng đồng,
giúp họ hiểu được trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới không chỉ là của mỗi cá
nhân, mà là trách nhiệm của mỗi gia đình, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị - xã hội, nghề nghiệp. Đối với cộng đồng dân cư, việc tuyên truyền, giáo dục
về bình đẳng giới cần được thực hiện thường xuyên, liên tục. Tăng cường các
hoạt động tập huấn để các loại tài liệu tuyên truyền, giáo dục về pháp luật, về
giới và bình đẳng giới đến được với tất cả phụ nữ và cộng đồng. Cần có nhiều
chương trình, dự án để lồng ghép với phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương,
tạo điều kiện phát huy vai trò, vị thế của người phụ nữ, trên cơ sở này sẽ giúp cả
giới nam và giới nữ xoá bỏ những tư tưởng phong kiến, lạc hậu ăn sâu trong
tâm trí người dân, tạo điều kiện cho bình đẳng giới được thực hiện tốt hơn, có
hiệu quả hơn.
Thứ hai, tăng cường mở các lớp đào tạo, tập huấn về giới và bình đẳng
giới cho các đối tượng là cán bộ lãnh đạo, quản lý của các ban ngành, đoàn thể,
những cán bộ trực tiếp tiến hành các hoạt động liên quan đến việc bảo đảm và
thực hiện các quyền bình đẳng của phụ nữ. Thông qua các khoá đào tạo, tập
huấn này mà góp phần nâng cao nhận thức và kỹ năng về bình đẳng giới cho đội
ngũ cán bộ, giúp họ có khả năng lồng ghép các chính sách về giới vào các
chương trình kinh tế - xã hội ở địa phương có hiệu quả hơn. Các nội dung đào
tạo, tập huấn cần cung cấp cho đội ngũ cán bộ này các kiến thức mang tính toàn
diện khách quan về bình đẳng giới. Cần phân tích thực trạng bất bình đẳng giới
đang tồn tại ở nước ta hiện nay đã cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội để họ có
được nhận thức và hành động đúng đắn hơn trong việc lồng ghép giới vào phát
88
triển kinh tế - xã hội ở từng ngành, từng địa phương đạt hiệu quả. Cần phải có
sự đầu tư, tạo điều kiện thích đáng cho hoạt động tuyên truyền, giáo dục về bình
đẳng giới cho các địa phương, đặc biệt là cấp cơ sở vì đây là cấp hành động, là
cấp gần dân nhất. Tạo điều kiện để xây dựng tủ sách pháp luật nói chung, có
liên quan đến bình đẳng giới nói riêng ở cơ sở là một hoạt động cấp thiết và có
ý nghĩa quan trọng trong công tác tuyên truyền, giáo dục. Các loại sách phải có
nội dung đơn giản, dễ đọc, dễ nhớ và phù hợp với từng đối tượng.
Thứ ba, phải có sự phối kết hợp thống nhất, chặt chẽ giữa các cơ quan, tổ
chức để tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm nâng cao nhận thức về giới và ý thức
trách nhiệm thực hiện bình đẳng giới cho cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân
dân; lên án, đấu tranh chống tư tưởng coi thường phụ nữ, các hành vi phân biệt
đối xử, xâm hại, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ, đồng thời chú trọng việc nêu
gương tốt, điển hình trong thực hiện bình đẳng giới qua các hoạt động tuyên
truyền, giáo dục; đồng thời tạo dư luận xã hội công khai qua công tác tuyên
truyền với những vụ việc vi phạm về bình đẳng giới.
Thứ tư, giáo dục khoa học giới trong hệ thống nhà trường phổ thông, giúp
cho thanh niên, thiếu niên nhận thức đúng những vấn đề giới và bình đẳng giới
một cách cơ bản và hệ thống. Từ đó, các em có ý thức trách nhiệm về bình đẳng
giới trong xây dựng gia đình và xã hội.
3.2.4. Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra
Thanh tra, kiểm tra, giám sát là việc làm cần thiết để đánh giá tình hình
hoạt động, nhận xét những ưu điểm, hạn chế, cùng tháo gỡ khó khăn, giải quyết
những đề xuất, kiến nghị, có cơ sở xử lý vi phạm hoặc khen thưởng các đơn vị
được thanh tra, kiểm tra, giám sát nhằm có kế hoạch, biện pháp thúc đẩy đơn vị
hoạt động tốt hơn. Đối với một lĩnh vực còn mới mẽ như quản lý nhà nước về
bình đẳng giới, thì tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát không
89
những là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động quản lý nhà nước
mà còn thể hiện sự quan tâm lãnh đạo cấp tỉnh đối với công tác bình đẳng giới,
đồng thời đôn đốc nhắc nhỡ các đơn vị quan tâm hơn đối với công tác này.
Tỉnh cần tổ chức thanh tra theo đúng quy định. Công tác này giao cho
thanh tra ngành lao động TBXH chủ trì thanh tra hành chính đối với các đơn vị
trực thuộc trong việc thực hiện chương trình, mục tiêu, biện pháp thúc đẩy bình
đẳng giới; phối hợp với các đơn vị có liên quan thanh tra việc thực hiện pháp
luật bình đẳng giới ở các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp, đồng thời giải quyết
khiếu nại tố cáo. Kiên Giang là tỉnh nông nghiệp, trình độ dân trí thấp nên việc
thực hiện bình đẳng giới gặp không ít khó khăn và phức tạp, do đó trong thời
gian tới cần tập trung kiểm tra, giám sát để kịp thời có giải pháp trong quản lý
để hoạt động bình đẳng giới ngày một tốt hơn.
Trong những năm qua, tỉnh đã thực hiện tương đối tốt công tác kiểm tra.
Tổ chức kiểm tra tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trên địa bàn, hàng năm
đoàn kiểm tra liên ngành của tỉnh đã tiến hành kiểm tra các đơn vị, địa phương
về hoạt động bình đẳng giới. Đây là một trong những thành quả mà tỉnh đã đạt
được và cần tiếp tục phát huy trong thời gian tới. Tỉnh đã tổ chức các buổi kiểm
tra định kỳ vào cuối năm. Thành phần đoàn kiểm tra là lãnh đạo và công chức
một số cơ quan, tổ chức cấp tỉnh có liên quan như Sở Nội vụ, Sở Y tế, Sở Giáo
dục – đào tạo, Hội LHPN tỉnh. Tỉnh có thể thực hiện nhiều phương pháp, hình
thức kiểm tra để tăng cường hiệu quả công tác này như:
Thứ nhất, bên cạnh kiểm tra định kỳ vào cuối năm để đánh giá tình hình
hoạt động hàng năm, tỉnh có thể tổ chức kiểm tra vào giữa năm để đánh giá kết
quả kết quả hoạt động 6 tháng đầu năm để kịp thời chấn chỉnh hoạt động của
đơn vị, đồng thời cần tăng cường tổ chức kiểm tra, giám sát đối với việc quy
hoạch, bố trí cán bộ nữ tham gia các chức danh lãnh đạo và tham gia quản lý
nhà nước.
90
Thứ hai, do thành phần đoàn kiểm tra là công chức cấp tỉnh tiến hành
kiểm tra cấp huyện, thị, thành phố và các xã, phường, thị trấn nên hạn chế về
nhân sự, thời gian, không thể kiểm tra đồng loạt nhiều đơn vị. Vì vậy tỉnh nên
phân công cho cấp huyện tổ chức kiểm tra cấp xã trên địa bàn huyện hoặc kiểm
tra chéo các huyện khác, sau đó báo cáo kết quả cho Sở lao động TBXH là cơ
quan chịu trách nhiệm chủ trì quản lý công tác bình đẳng giới của tỉnh. Tỉnh có
thể tổ chức các đoàn kiểm tra liên sở ngành để kiểm tra cấp huyện hoặc kiểm tra
điểm một số xã để đánh giá tình hình hoạt động cấp cơ sở cũng như đánh giá kết
quả kiểm tra của huyện. Việc phân cấp như vậy sẽ đảm bảo tất cả các đơn vị
được kiểm tra hàng năm, tránh tình trạng năm được kiểm tra thì đơn vị thực
hiện tốt, sau đó lại bê trễ vì biết trước không bị kiểm tra trong vài năm tới. Việc
phân cấp kiểm tra cần tăng cường trách nhiệm của cấp huyện. Nếu tổ chức kiểm
tra chéo còn giúp các huyện, thị, thành phố đánh giá được thực trạng hoạt động
của địa phương mình trong mối tương quan với các địa phương khác, có thể học
tập những kinh nghiệm, mô hình hay, phù hợp để vận dụng cho địa phương
mình.
Thứ ba, đối với hoạt động giám sát việc thực hiện pháp luật về bình đẳng
giới, bên cạnh giám sát của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, các tổ chức
chính trị xã hội như Mặt trận tổ quốc, Hội Liên hiệp phụ nữ, Liên đoàn Lao
động, Đoàn thanh niên... cần huy động sự giám sát của các cơ quan truyền
thông đại chúng và quần chúng nhân dân để đảm bảo hoạt động quản lý nhà
nước về bình đẳng giới được thực hiện tốt, có hiệu quả, đồng thời tăng cường
trách nhiệm của toàn xã hội đối với công tác bình đẳng giới.
3.2.5. Xây dựng quy chế phối hợp trong hoạt động bình đẳng giới
Quản lý nhà nước về bình đẳng giới bao gồm nhiều nội dung do nhiều cơ
quan khác nhau phối hợp thực hiện, hầu hết cán bộ thực hiện công tác bình đẳng
giới là kiêm nhiệm nên trong thời gian qua thực hiện bình đẳng giới ở từng đơn
vị và từng cấp chưa có sự phối, kết hợp chặt chẽ, thiếu đồng bộ, hiệu quả chưa
91
cao. Do đó nhà nước phải xây dựng quy chế phối hợp công tác giữa các cơ quan
này. Mỗi cơ quan được giao nhiệm vụ căn cứ vào chức năng, lĩnh vực được
phân công phụ trách và thực hiện việc phối hợp công tác theo quy định nhằm
hướng đến mục tiêu chung là bình đẳng giới. Cơ quan được giao trách nhiệm
quản lý nhà nước về bình đẳng giới sẽ chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên
quan.
Quy chế phối hợp phải do cơ quan có thẩm quyền chung quy định để đảm
bảo tính hợp lý. Các hoạt động phối hợp do cơ quan quản lý về bình đẳng giới
chủ trì thực hiện dưới sự chỉ đạo của cơ quan thẩm quyền chung, đồng thời quy
chế phải xác định rõ nội dung, tiến độ, trách nhiệm phối hợp và cách thức đánh
giá định kỳ hoặc theo chuyên đề nhất định.
Nội dung phối hợp thông thường là thực hiện các nhiệm vụ theo quy
định; báo cáo kết quả thực hiện; tham gia quyết định các vấn đề quan trọng như
xây dựng kế hoạch, dự án về bình đẳng giới, hội thảo các chuyên đề về bình
đẳng giới; giải trình hoặc chất vấn các nội dung liên quan đến bình đẳng giới;
tham gia đoàn kiểm tra liên ngành.
3.2.6. Đầu tƣ kinh phí đảm bảo cho hoạt động bình đẳng giới
Để tổ chức thực hiện tốt các hoạt động bình đẳng giới thì kinh phí là một
trong những vấn đề đầu tiên và quan trọng nhất. Đảm bảo nguồn kinh phí chính
là đảm bảo điều kiện vật chất để tiến hành công việc. Từ năm 2011 đến 2015,
thực hiện chương trình quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2015 và hoạt
động bình đẳng giới năm 2016 tỉnh được hỗ trợ ngân sách Trung ương để thực
hiện các mô hình, dự án trong khuôn khổ chương trình quốc gia. Hiện nay kinh
phí hoạt động bình đẳng giới của tỉnh Kiên Giang gồm hai nguồn: ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương. Theo khoản 1, điều 24 Luật bình đẳng
giới “nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới bao gồm ngân sách nhà
nước; đóng góp tự nguyện của tổ chức, cá nhân; các nguồn thu hợp pháp khác”
[39,tr.14.]. Tuy nhiên đến nay nguồn tài chính cho hoạt động bình đẳng giới của
92
tỉnh hoàn toàn dựa vào nguồn ngân sách nhà nước, chưa khuyến khích được các
nguồn kinh phí khác, nhìn chung nguồn kinh phí này chỉ đảm bảo cho các hoạt
động cơ bản và cần thiết nhưng chưa khuyến khích các hoạt động tăng nguồn
kinh phí. Do đó để tăng cường kinh phí cho hoạt động bình đẳng giới, các cơ
quan tổ chức cần huy động nguồn đóng góp, tranh thủ các dự án của các tổ chức
nước ngoài, đặc biệt cần chú trọng để làm tốt công tác lồng ghép giới, tranh thủ
nguồn kinh phí đầu tư cho các lĩnh vực y tế, giáo dục, lao động việc làm,... để
nâng cao kết quả thực hiện các mục tiêu bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Bình đẳng giới liên quan đến nhiều lĩnh vực, đặc biệt nó là vấn đề phức
tạp đòi hỏi phải có sự đầu tư lâu dài. Trước mắt, cần tập trung kinh phí để củng
cố tổ chức bộ máy quản lý, xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ công chức
làm công tác bình đẳng giới, trong đó kinh phí chủ yếu để trả lương, thanh toán
chế độ công tác phí ở cấp cơ sở; trợ cấp cho đội ngũ cộng tác viên. Tiếp theo
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và phát triển hệ thống các dịch vụ hỗ trợ, thúc
đẩy bình đẳng giới như trang thiết bị phục vụ công tác bình đẳng giới; xây dựng
nhà tạm lánh, địa chỉ tin cậy, hỗ trợ nạn nhân bị bạo hành gia đình; hỗ trợ xây
dựng nhà giữ trẻ tại các khu công nghiệp, khu chế xuất có nhiều lao động nữ
hoặc khu vực có nhiều nhà trọ, hộ gia đình nhập cư; trang bị cho địa điểm sinh
hoạt của các câu lạc bộ bình đẳng giới,...
Bình đẳng giới có đạt được hay không phụ thuộc chủ yếu vào mức độ
nhận thức của người dân, do đó cần đầu tư kinh phí để đẩy mạnh công tác
truyền thông, tập trung vào các chiến dịch truyền thông in ấn, phát hành tờ rơi
tuyên truyền; sử dụng xe cổ động; nâng cao chất lượng và số lượng của chuyên
mục về bình đẳng giới trên truyền hình đài phát thanh và trên Báo Kiên Giang;
mở các lớp tập huấn bồi dưỡng nâng cao kiến thức và kỹ năng cho những người
làm công tác quản lý, xây dựng chính sách và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật về bình đẳng giới.
93
Để tạo sự chuyển biến trong xã hội về vấn đề bình đẳng giới cần có thời
gian lâu dài và có sự đầu tư kinh phí, trong đó trước mặt cần thiết phải ưu tiên
cho các hoạt động bình đẳng giới ở các vùng, lĩnh vực có nguy cơ bất bình đẳng
giới cao.
Vấn đề đảm bảo kinh phí không phải là cung cấp thật nhiều kinh phí cho
hoạt động. Điều quan trọng là phải sử dụng kinh phí thật hiệu quả, tiết kiệm,
đầu tư đúng đối tượng, đúng mục đích, đảm bảo kinh phí được triển khai đem
lại lợi ích thiết thực tối đa cho những người được hưởng lợi từ các chính sách.
Hàng năm, giữa nhiệm kỳ và sau khi kết thúc chuyên đề, dự án cần tổng kết
đánh giá hiệu quả, tính toán kinh phí hợp lý cho các chương trình, kế hoạch tiếp
theo. Đảm bảo kinh phí cho hoạt động quản lý nhà nước về bình đẳng giới
chính là đáp ứng các điều kiện cần thiết nhằm góp phần hoàn thiện mục tiêu mà
tỉnh đề ra.
94
Tiểu kết chƣơng 3
Quản lý nhà nước về bình đẳng giới là một nhiệm vụ quan trọng góp
phần phát huy năng lực quản lý nhà nước, thúc đẩy sự tiến bộ và công bằng xã
hội, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội mà tỉnh Kiên
Giang đã đặt ra. Để nâng cao năng lực quản lý nhà nước về bình đẳng giới trên
địa bàn tỉnh có nhiều giải pháp cần phải thực hiện như nâng cao nhận thức về
bình đẳng giới; hoàn thiện tổ chức bộ máy hoạt động; hoàn thiện hệ thống chính
sách, văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới; tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra, giám sát. Đó là những biện pháp thiết thực nhằm quản lý nhà nước
về bình đẳng giới trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
95
KẾT LUẬN
Bình đẳng giới là nền tảng của hòa bình, ổn định, dân chủ và tiến bộ xã
hội, nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia và
toàn nhân loại. Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau,
được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của
cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển
đó. Bình đẳng giới là bình đẳng giới cho cả nam và nữ.
Vì vậy, bình đẳng giới là vấn đề đang rất được quan tâm trong giai đoạn
hiện nay không chỉ trong nước mà còn trên toàn thế giới. Kiên Giang là một
tỉnh nông nghiệp, có dân số nữ chiếm trên 50% tổng dân số, trong đó lao động
nữ chiếm 49,8% lực lượng lao động. Nữ giới góp phần tích cực vào sự phát
triển của tỉnh. Tuy nhiên, trong các lĩnh vực đời sống xã hội, phụ nữ vẫn chịu
nhiều thiệt thòi so với nam giới. Tỷ lệ nữ tham gia vào các vị trí lãnh đạo các
cấp ủy, chính quyền địa phương, quản lý trong các cơ quan nhà nước cón thấp,
họ phải chịu trách nhiệm chăm sóc người thân, ngoài xã hội thì vai trò của nữ
giới chưa được đánh giá đúng mức, áp lực định kiến giới vẫn còn tồn tại trong
nhân dân đã gây nên khó khăn trong việc triển khai thực hiện chính sách pháp
luật về bình đẳng giới.
Công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới được triển khai, bước đầu
đã mang lại một số thành công nhất định, thu hút được sự chú ý của các cấp, các
ngành, người dân về thực hiện bình đẳng giới. Một số nội dung quản lý nhà
nước về bình đẳng giới đã được thực hiện tương đối tốt, như công tác lồng ghép
giới trong việc xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; công tác
chủ động xây dựng các chương trình hành động thực hiện bình đẳng giới của
các cấp chính quyền địa phương, công tác tuyên truyền được thực hiện sâu rộng
96
trong nhân dân; công tác phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong việc tổ chức
thực hiện bình đẳng giới và vì sự tiến bộ phụ nữ.
Tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định như: kết quả thực
hiện bình đẳng giới chưa cao; một số địa phương, đơn vị chưa thật sự quan tâm
đến việc thực hiện bình đẳng giới; đội ngũ cán bộ công chức làm công tác quản
lý nhà nước về bình đẳng giới còn kiêm nhiệm đặc biệt là ở cấp cơ sở; thiếu đội
ngũ báo cáo viên, giảng viên có chất lượng trong lĩnh vực bình đẳng giới; công
tác đánh giá, quản lý các chỉ tiêu bình đẳng giới còn mang tính hình thức; tài
liệu tuyên truyền, tập huấn còn ít. Chính những điều này đã làm hạn chế hiệu
quả thực hiện công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới.
Trong thời gian tới, để công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới đạt
hiệu quả cao hơn cần thực hiện một số giải pháp về hoàn thiện hệ thống chính
sách, văn bản quy phạm pháp luật về bình đẳng giới; hoàn thiện tổ chức bộ máy
và nguồn nhân lực làm công tác quản lý nhà nước về bình đẳng giới; tăng
cường công tác tuyên truyền giáo dục và công tác thanh tra, kiểm tra việc thực
hiện bình đẳng giới.
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2008) Tài liệu nghiên cứu quán triệt Nghị quyết
số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Ban vì sự tiến bộ phụ nữ tỉnh (2013), Báo cáo tổng hợp tình hình kiểm tra
công tác Bình đẳng giới và hoạt động vì sự tiến bộ của phụ nữ năm 2013,
Kiên Giang.
3. Bộ Chính trị (2007) Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 về
công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
4. Bộ Lao động – Thương binh và xã hội (2011), Kế hoạch hành động về Bình
đẳng giới giai đoạn 2011 – 2015 của ngành lao động thương binh – xã hội,
Hà Nội.
5. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Nghị định số
70/2008/NĐ-CP ngày 4 tháng 6 năm 2008, quy định chi tiết một số điều của
Luật Bình đẳng giới.
6. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2008), Nghị định số
55/2009/NĐ-CP ngày 10 tháng 6 năm 2009, quy định xử phạt hành chính về
bình đẳng giới.
7. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Quyết định số
2351/QĐ-TTg ngày 24 tháng 12 năm 2010, về ban hành chiến lược quốc gia
về bình đẳng giới giai đoạn 2011- 2020.
98
8. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2010), Quyết định số
1696/QĐ-TTg ngày 02 tháng 10 năm 2015, phê duyệt chương trình hành
động quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2016 – 2020.
9. Công ước CED W, Cương lĩnh hành động Bắc Kinh và các mục tiêu phát
triển thiên niên kỷ, Quỹ phát triển phụ nữ Liên hiệp quốc, Hà Nội.
10. Nguyễn Thị Bình Dương (2009), Cần hiểu đúng về bình đẳng giới,
đăng ngày 28/4/2009.
11. Phạm Thị Duyên (2015), Quản lý nhà nước về bình đẳng giới tại tỉnh Đồng
Nai, Luận văn thạc sỹ Quản lý hành chính công, Học viện hành chính,
TP.HCM.
12. Lê Thị Ngân Giang (2008), Hỏi – đáp về Luật bình đẳng giới, NXB Phụ nữ,
Hà Nội.
13. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2012) Điều lệ Hội LHPN Việt Nam, NXB
phụ nữ, Hà Nội.
14. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, cơ quan hợp tác phát triển Quốc tế Thụy
Điển (2006), Giới và quyền của Phụ nữ trong pháp luật Việt Nam, NXB Phụ
nữ, Hà Nội.
15. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2010) Luật Bình đẳng giới và các văn bản
hướng dẫn thi hành, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
16. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Liên minh phòng chống buôn bán người
T (2012), Quyền của phụ nữ theo quy định của pháp luật, NXB Phụ nữ,
Hà Nội.
99
17. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2010) Hỏi, đáp pháp luật về hôn nhân gia
đình, phòng chống bạo lực gia đình và bình đẳng giới, NXB Phụ nữ, Hà Nội.
18. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (2012), Quyền của Phụ nữ theo quy định
của pháp luật và Công ước CED W về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ và pháp luật Việt Nam, tai liệu lưu hành nội bộ.
19. Liên Hiệp quốc tại Việt Nam (2010), Bạo lực trên cơ sở giới, Hà Nội.
20. Nguyễn Thị Liên, (2002), Vai trò của Hội LHPN Việt Nam đối với việc
tăng cường sự tham gia quản lý nhà nước của phụ nữ trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận văn thạc sỹ Quản lý nhà nước, học viện hành
chính, Hà Nội.
21. Nguyễn Hữu Minh (2014), Bảo đảm quyền bình đẳng giới ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay, đăng ngày 4/8/2014.
22. Niềm tin và sự lựa chọn của công chúng nữ giới lãnh đạo trong hệ thống
chính trị, NXB Hồng Đức.
23. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1946) Hiến pháp
1946.
24. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992) Hiến pháp
1992.
25. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (2013) Hiến pháp
2013.
26. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Luật Bình đẳng giới
2006.
100
27. Quốc Hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Luật Hôn nhân gia
đình 2000.
28. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Luật phòng chống
bạo lực gia đình 2007.
29. Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật lao động
2012.
30. Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Kiên Giang (2013), Báo cáo tình
hình thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2013, Kiên Giang.
31. Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Kiên Giang (2014), Báo cáo tình
hình thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2014, Kiên Giang.
32. Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Kiên Giang (2015), Báo cáo tình
hình thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2015, Kiên Giang.
33. Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Kiên Giang (2016), Báo cáo tình
hình thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới năm 2016, Kiên Giang.
34. Sở Lao động - Thương binh và xã hội tỉnh Kiên Giang (2016), tài liệu tập
huấn nghiệp vụ Bình đẳng giới tỉnh Kiên Giang, năm 2016.
35. Phạm Hạnh Sâm (2009), Định kiến giới – “rào cản” đối với sự tiến bộ và
phát triển của phụ nữ Việt Nam, đăng
ngày 13/10/2009.
36. Nguyễn Thanh Tâm (2008), Quan niệm về Bình đẳng giới, đặc san Bình
đẳng giới.
101
37. Phạm Phương Thảo (2002), Nâng cao vai trò quản lý nhà nước của phụ nữ
trong ngành y tế, Luận văn thạc sỹ quản lý nhà nước, Học viên Hành chính,
Hà Nội.
38.Bùi Ngọc Thanh (2009), Quốc hội với việc thực hiện CED W,
đăng ngày 22/8/2009.
39. Bùi Ngọc Thanh (2011), Để góp phần nâng cao tỷ lệ đại biểu Quốc hội khóa
XIII, đăng ngày 8/3/2011.
40. Tỉnh ủy (2015) Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Kiên Giang lần thứ
XII, nhiệm kỳ 2015 – 2020, Kiên Giang.
41. Tỉnh ủy (2010) Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Kiên Giang lần thứ
XI, nhiệm kỳ 2010 – 2015, Kiên Giang.
43. Ủy ban Nhân dân (2015), Báo cáo kết quả tình hình thực hiện chiến lược
quốc gia về Bình đẳng giới giai đoạn (2011 – 2015), Kiên Giang.
42. Hà Thị Thanh Vân (2012), pháp luật về Bình đẳng giới và kết quả thực hiện
Luật Bình đẳng giới, Đặc san tuyên truyền pháp Luật.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_binh_dang_gioi_tren_dia_ban_tin.pdf