Nói tóm lại, với mong muốn “đảm bảo giữ vững tốc độ phát triển kinh
tế liên tục, nâng cao đời sống nhân dân gấp 3 lần so với hiện nay, đưa đất
nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2020” được đề cập trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011- 2020, thì việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế là một nhiệm vụ cấp thiết của nước CHDCND Lào nói
chung và các địa phương nói riêng. Điều này cũng không phải là ngoại lệ với
tỉnh Ắt tạ pư. Hơn nữa, Ắt tạ pư là một tỉnh có nhiều lợi thế chuyển dịch
CCKT đa ngành, đa lĩnh vực so với các địa phương khác chỉ có thế mạnh về
phát triển nông nghiệp, việc chuyển dịch CCKT thành công không những
đảm bảo cho tỉnh Ắt tạ pư một nền kinh tế có đa ngành, đa lĩnh vực, mà nó
còn giải quyết cho địa phương này về nhiều vấn đề có liên quan như vấn đề
ngân sách, vấn đề thu nhập, vấn đề việc làm, vấn đề thu hút đầu tư và các vấn
đề xã hội khác.
Tuy nhiên, như luận văn đã trình bày ở phần trên, vấn đề chuyển dịch
CCKT ở tỉnh Ắt tạ pư chỉ đạt được hiệu quả như mong muốn khi có sự quản
lý đúng đắn, kịp thời và hiệu quả của chính quyền địa phương, dựa trên
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước Lào về chuyển dịch CCKT.
Thông qua việc phân tích và đánh giá thực trạng QLNN về chuyển dịch
CCKT ở tỉnh Ắt tạ pư có thể thấy vấn đề này còn rất nhiều yếu kém, trong
thời gian tới cần phải xây dựng giải pháp, đẩy mạnh thực hiện giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả QLNN về chuyển dịch CCKT, có như thế thì vấn đề
chuyển dịch CCKT ở tỉnh Ắt tạ pư mới phát huy hết được hiệu quả./.
97 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 591 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở tỉnh Ắt Tạ Pư, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của tỉnh, trong đó phải kết hợp với vốn đầu tư
từ Trung ương không dưới 12%, từ các thành phần khác không dưới 20% và
tất cả số vốn đầu tư này sẽ chia cho đầu tư giáo dục và y tế 10%. Tỉnh cần
phải điều hành và quản lý việc xây dựng dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, văn hóa
- xã hội cần thiết để tạo điều kiện cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại
hóa như: Mạng lưới giao thông, điện, nước, mạng lưới viễn thông và các cơ
sở hạ tầng cần thiết khác cho sự phát triển hiện nay của tỉnh” [24; tr 25].
3.1.3. Mục tiêu
3.1.3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu phát triển đến năm 2021 như sau:
Một là: Tăng cường hơn nữa về việc QLNN trên phương diện kinh tế
thật sự có hiệu quả và có thể đảm bảo cho sự phát triển liên tục về mặt kinh
tế, bằng cách hướng quản lý kinh tế vào hệ thống trật tự và tổ chức thực hiện
pháp luật thành hiện thực;
Hai là: Phải đảm bảo kinh tế vĩ mô có thể phát triển được ở mức độ cao
nhất nhưng vẫn phải giữ được sự ổn định;
Ba là: Nâng cao hơn nữa chất lượng QLNN bằng cách là củng cố hoàn
thiện tổ chức nhà nước được vững mạnh;
Bốn là: Cần phải điều chỉnh và hoàn thiện hơn nữa các công tác xây
dựng cơ sở phát triển nông thôn được toàn diện ở cả cấp tỉnh và cấp huyện,
cần phải lên kế hoạch để đi thu thập thông tin và vận động thúc đẩy phong
trào tổ chức thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo ở tỉnh và các huyện
nghèo; quan tâm hơn nữa đến việc phát triển và thành lập quỹ phát triển ở các
cấp mà đặc biệt nhất là ở cấp bản và cần có các hoạt động cấp tín dụng cho
nhân dân nghèo khó bằng lãi suất thấp, hoạch định các kế hoạch xóa đói giảm
nghèo theo mô hình có nhiều thành phần tham gia, huy động vốn từ trong và
ngoài nước để sử dụng vào các dự án xóa đói giảm nghèo.
Năm là: Tiếp tục hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác chế biến
các khoáng sản những dự án mà đã được nhà nước thông qua, theo dõi quản
lý sát sao và thúc đẩy tiến hành đúng theo pháp luật và thực hiện theo hợp
đồng đã ký kết với Chính phủ; quan tâm thúc đẩy công tác khai thác khoáng
sản đạt được theo kế hoạch và chế biến khoáng sản theo khả năng thực tế, cần
phải tiếp tục hoàn thiện hơn nữa các cơ sở pháp lý, đặc biệt là Luật Khoáng
sản và Nghị định về xuất khẩu khoáng sản; ban hành văn bản và các chế tài
đồng bộ làm chỗ dựa trong quản lý theo dõi kiểm tra để việc khai thác khoáng
sản hoạt động có hiệu quả.
Sáu là: Đẩy mạnh khuyến khích dự án “một huyện một sản phẩm” dưới
chính sách phát triển sản xuất các loại hàng hóa ở cấp huyện nhanh chóng trở
thành hiện thực.
Bảy là: Việc chuyển dịch CCKT, cơ cấu lao động trên địa bàn tỉnh theo
hướng xây dựng nền kinh tế sản xuất hàng hóa, tạo được đa dạng sản phẩm;
phát triển kinh tế phải xứng tầm với sự phát triển xã hội và bảo vệ môi
trường.
Tám là: Tiếp tục hoàn thiện và xây dựng văn bản pháp luật cần thiết để
làm cơ sở cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoài ra tỉnh còn xác định các mục tiêu tổng quát như sau:
+ Mục tiêu tổng quát của chuyển dịch CCKT ở tỉnh Ắt tạ pư là nhằm
tạo ra được các cơ sở vững chắc cho việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế dài
hạn. Chỉ duy nhất với một CCKT hiện đại và hợp lý nhất thì mới đảm bảo
được cho sự phát triển vững chắc và lâu dài.
+ Với tình hình thực tế như bây giờ của tỉnh thì cần phải tổ chức quản
lý chặt chẽ quy các hoạt động sản xuất theo một sư hướng phát triển nhất
định, đề ra các chính sách phát triển phải có được năng suất cao, hiệu quả, có
chất lượng, không gây ra việc ô nhiễm môi trường và sản phẩm làm ra phải có
khả năng để cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường cả trong
nước lẫn ngoài nước; quy hoạch hợp lý hơn nữa mạng lưới chợ.
+ Cần phải đề ra các chính sách khuyến khích phát triển các ngành dịch
vụ, trong vấn đề chuyển dịch CCKT quan trọng nhất là sự phát triển của khu
vực II và khu vực III. Vì vậy mà cần phải dành sự quan tâm phát triển khu vực
III mà trọng điểm của ngành là phát triển du lịch như khách sạn, nhà hàng, nhà
nghỉ,và những ngành dịch vụ về thương mại, ngân hàng, tỉnh cần phải chú
ý đến những ngành mà dễ phát sinh những tệ nạn xã hội thì cần hạn chế phát
triển và có chính sách quản lý phù hợp. Từ đó mà công khai chính sách thu hút
đầu tư phát triển kinh tế theo kế hoạch mà đã đề ra từ trước.
+ Tạo điều kiện phát triển nhanh các cụm, các vùng kinh tế trọng điểm
đạt nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao. Với việc hình thành các cụm bản, vùng
kinh tế là để khai thác các lợi thế sẵn có của tỉnh, và chủ động hơn trong việc
phát huy tính năng động của các đơn vị kinh doanh, cùng với đó là phong trào
sản xuất hàng hóa của nhân dân với sự định hướng của chính quyền địa
phương nhằm nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế của tỉnh.
Bảng 2. Dự kiến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tỷ trọng của các
ngành trong GDP
Cơ cấu của các ngành trong GDP 2016 2025
Nông nghiệp 43 – 45% 35 – 40%
Công nghiệp 27 – 30% 30 – 35%
Dịch vụ 25 – 28% 30 – 35%
(Nguồn: phòng nghiên cứu và tổng hợp, văn phòng tỉnh Ắt tạ pư năm 2016)
Mục tiêu tăng trưởng kinh tế của tỉnh căn cứ vào xu hướng phát triển
hiện nay và những yếu tố khác tác động đến trong tương lai. Ngành nông
nghiệp vẫn sẽ là một ngành giữ được vai trò mũi nhọn trong nhiều năm tới,
nhưng giảm dần tỷ trọng trong GDP. Ngược lại các ngành công nghiệp và
dịch vụ vẫn sẽ tiếp tục phát triển và tăng tỷ trọng song hành với nhau.
3.1.3.2. Mục tiêu cụ thể cho năm 2016 và năm 2017
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển sản xuất, kinh doanh gắn với tái cơ cấu
kinh tế, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn năm 2015. Cải thiện
mạnh mẽ môi trường đầu tư, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, tháo gỡ khó khăn
cho doanh nghiệp; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng có trọng tâm, trọng
điểm. Phát triển toàn diện các lĩnh vực văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ
bảo vệ môi trường, thực hiện tốt các mục tiêu an sinh xã hội, phúc lợi xã hội
và cải thiện đời sống nhân dân. Thực hiện có hiệu quả công tác cải cách hành
chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực bộ máy QLNN. Tăng cường quốc phòng
an ninh, đảm bảo an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Nâng cao hiệu
quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Phải đảm bảo đào tạo, nâng cao
được năng lực cho 80% số lượng cán bộ trong việc quản lý và phát triển các
dự án về kinh tế. Hoàn thành các hệ thống luật hỗ trợ cho việc chuyển dịch
CCKT. Xây dựng thành công 90% các dự án phát triển kinh tế.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về chuyển dịch
cơ cấu kinh tế ở tỉnh Ắt tạ pư
3.2.1 Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và tổ chức thực hiện
quy hoạch
Quy hoạch là một khâu không thể thiếu trong việc nâng cao hiệu quả
chuyển dịch CCKT. Trong quá trình thực hiện chuyển dịch CCKT không thể
tránh khỏi được những bất cập, vì vậy để khắc phục được những mặt bất cập
và nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả xây dựng quy hoạch, nâng cao tính
khoa học và tính khả thi của quy hoạch, trong thời gian tới thì tỉnh cần quan
tâm thực hiện một số giải pháp sau đây:
Thứ nhất: Đối với việc quy hoạch tổng thể, dựa trên những cơ sở đã
phân tích thông qua quá trình chuyển dịch CCKT và đánh giá lại một cách
tổng thể các nguồn lực, các tiềm năng, ưu điểm của tỉnh, thông qua sự tác
động của những cơ chế, chính sách mới nhất liên quan đến sự chuyển dịch
CCKT thì tỉnh cần rà soát lại các chính sách đó, thông qua đó để cập nhật
mới, tiến hành bổ xung, điều chỉnh quy hoạch đã lập. Đồng thời với việc phân
tích, đánh giá cần phải đặt trong bối cảnh tỉnh đang tích cực chuyển dịch
CCKT theo hướng giảm dần tỷ trọng trong lĩnh vực nông nghiệp và đồng thời
tăng dần tỷ trọng trong 2 lĩnh vực là công nghiệp và dịch vụ; ngoài ra để đẩy
mạnh hơn nữa việc chuyển dịch CCKT thì tỉnh cần phải hội nhập phát triển
thương mại với các tỉnh lân cận và các nước láng giềng, khuyến khích đầu tư
vào các ngành thế mạnh của tỉnh,
Ngoài ra cũng có thể thấy được, trong quy hoạch tổng thể cũng cần đề
cập ít nhất là về định hướng, đến loại hình cụm liên kết hoạt động kinh doanh
sản xuất hàng hóa trong đó, ngoài các doanh nghiệp kinh doanh thương mại,
sản xuất và dịch vụ còn có các cơ sở nghiên cứu, triển khai, đào tạo, cung ứng
nguyên liệu.
Trong quy hoạch tổng thể tỉnh cần đặc biệt quan tâm và lưu ý tới khả
năng sử dụng đất, đây là một nguồn tài nguyên để phát triển sản xuất, và ngoài
ra nó còn có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triển các ngành thương mại,
dịch vụ của Tỉnh. Chính vì thế mà tỉnh cần có một kế hoạch bố trí, sử dụng đất,
hàng năm theo quy hoạch mặt bằng và dự kiến quy hoạch quỹ đất.
Hai là: Đối với công tác xây dựng quy hoạch chi tiết, đối với việc xây
dựng quy hoạch chi tiết, để làm được vấn đề này trước hết cần phải gắn chặt
việc quy hoạch với việc phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển dân
cư, đô thị, sử dụng tài nguyên, phát triển mạng lưới giao thông của tỉnh.
Trong quá trình xây dựng quy hoạch, điều quan trọng là phải dự kiến được
nhà đầu tư và kinh doanh hạ tầng kỹ thuật, đồng thời đi liền với việc đó là đề
ra các giải pháp cụ thể để chuẩn bị cho nguồn nhân lực, vì trong quá trình các
nhà đầu tư đầu tư vào, điều mà họ quan tâm trước hết chính là nguồn nhân
lực, đây chính là một trong những yếu tố quyết định khả năng thu hút các dự
án đầu tư, nhất là đầu tư ở nước ngoài vào.
Riêng đối với các dự án mà đã có sự quy hoạch chi tiết, tuy là đã được
phê duyệt nhưng cũng cần phải rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch đó với
mục đích là làm sao cho phù hợp với tình hình thực tế và xu hướng phát triển
của tỉnh.
Ba là: Đối với công tác quy hoạch các ngành nghề sản xuất kinh doanh,
cần phải tập trung xây dựng và ban hành quy hoạch phát triển tất cả các
ngành, lĩnh vực cụ thể. Để làm tốt được các mục tiêu đề ra thì văn phòng tỉnh
cần phải thực hiện kế hoạch tham mưu cho lãnh đạo tỉnh về việc xây dựng
quy hoạch ngành thích ghợp trên cơ sở thống nhất quan điểm phát triển toàn
diện chuyển đổi CCKT theo một xu hướng chung là đẩy mạnh sự tăng trưởng
của tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ, và đặc biệt hơn là phải có kế
hoạch phát triển thương mại, dịch vụ. Theo đó tỉnh cần tập trung cụ thể hóa
những quy hoạch chi tiết bằng những quy hoạch, đề án cụ thể hơn, trong đó
cần phải xây dựng và lên kế hoạch chi tiết cho sự phát triển của thương mại
và dịch vụ, các đề án phát triển du lịch với mục đích chính là làm cơ sở cho
việc cung cấp những thông tin, định hướng cũng như giải pháp để phát triển
thương mại, dịch vụ và du lịch. Để làm tốt được việc này thì đề án quy hoạch
phát triển thương mại, du lịch, dịch vụ cần phải chủ yếu tập trung vào các nội
dung sau đây: cần quy hoạch, xắp xếp các loại hình thương mại, dịch vụ và
các địa điểm kinh doanh, quy hoạch phát triển hệ thống chợ lầm sao cho phù
hợp nhất với tình hình thực tế thị trường của tỉnh, tỉnh cần tập trung vào các
thế mạnh mà vùng sẵn có để xây dựng và phát triển các đề án điển hình có thể
kể ra như khu du lịch, địa điểm du lịch, đây chính là thế mạnh sẵn có của tỉnh,
quy hoạch và nâng cấp hệ thống cơ sở lưu trú và phát triển các hoạt động kinh
doanh có liên quan đến du lịch.
Tỉnh cũng cần phải đặc biệt dành sự quan tâm đến các ngành nghề kinh
doanh mà dễ phát sinh ra các tệ nạn xã hội, tỉnh cần đẩy mạnh sự dụng các
công cụ ĐKKD để có thể dễ dàng định hướng được ngành nghề kinh doanh.
Đặc biệt tỉnh cũng cần kiên quyết không cấp mới giấy chứng nhận ĐKKD
cho các hộ kinh doanh không đủ điều kiện, không phù hợp với quy hoạch mà
tỉnh đã đề ra. Riêng đối với các loại hình doanh nghiệp, để không phải đi vào
các sai phạm thì tỉnh cần phải tham khảo ý kiến với Bộ Kế hoạch và Đầu tư
khi cấp phép hoạt động kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Đối với những ngành nghề mà tỉnh đang ưu tiên phát triển, tỉnh cần
phải đề ra các chính sách để đẩy mạnh công tác mời gọi những nhà kinh
doanh mang tầm chiến lược, đầu đàn để đầu tư vào các ngành nghề đã được
quy hoạch để phát triển. Với sự có mặt của các nhà kinh doanh hàng đầu này
sẽ góp phần nào đó vào việc lôi kéo những nhà kinh doanh khác đến đầu tư và
phát triển theo quy hoạch đã đề ra.
Tỉnh cần phải đẩy mạnh hơn nữa các công tác tuyên truyền, ký cam kết
để xây dựng nền văn minh thương mại và phải có những thiết chế để sử phạt
nghiêm minh đối với những hộ kinh doanh đã không kinh doanh đúng ngành
nghề mà họ đã đăng ký hoặc kinh doanh các ngành nghề đó sai với quy định
của pháp luật. Đồng thời, các hộ gia đình không có điều kiện kinh doanh cũng
cần đổi mới tư duy, nhận thức của mình để liên kết, phối hợp với những
người có điều kiện để phát triển mạnh mẽ hơn nữa ngành nghề kinh doanh
dịch vụ của mình. Chỉ có như vậy mới thu hút được nhiều hộ kinh doanh đầu
tư kinh doanh.
Chuyển dịch CCKT là một nhiệm vụ tất yếu trong quá trình đẩy mạnh
CNH - HĐH đất nước. Quá trình chuyển dịch CCKT phải gắn với chiến lược,
quy hoạch, kế hoạch và tình hình phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp với
quy hoạch, kế hoạch khai thác tài nguyên thiên nhiên. Quy hoạch phải có tầm
nhìn dài hạn, lấy hiệu quả kinh tế - xã hội, môi trường để quyết định phương
án quy hoạch theo định hướng phát triển bền vững, gắn mục tiêu tăng trưởng
kinh tế kết hợp bảo đảm quốc phòng - an ninh và bảo vệ môi trường.
Về việc tổ chức thực hiện quy hoạch:
Sau khi các việc xây dựng thành công các đề án quy hoạch thành công
và được thông qua, thì cần phải công bố rộng rãi và công khai để giúp các
doanh nghiệp cả trong và ngoài nước, các tổ chức cũng như các cá nhân có
những thông tin cần thiết, trên cơ sở đó phần nào giúp họ tìm kiếm được cơ
hội đầu tư, cũng như đầu tư đúng hướng theo quy hoạch đầu tư mà tỉnh đã đề
ra. Các cơ quan chức năng của tỉnh cần công khai hơn nữa những thông tin về
quy mô, ngành nghề hoạt động, khu vực dự kiến phát triển phát triển các
ngành nghề kinh tế (theo các vùng kinh tế). Trên cơ sở đó có định hướng phát
triển sản xuất kinh doanh, đầu tư cơ sở hạ tầng và dành quỹ đất để phát triển
các ngành được quy hoạch.
Tỉnh phải đề xuất nghiên cứu thành lập một bộ phận với mục đích quản
lý thực hiện quy hoạch và quản lý các dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh, nhằm theo
dõi và thực hiện thống nhất các quy hoạch mà tỉnh đã đề ra, đồng thời đảm bảo
việc đầu tư xây dựng thật sự đồng bộ và quan trọng hơn là có trọng điểm.
3.2.2. Tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi
Trong một nền kinh tế thị trường với định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà
nước với chức năng tạo lập và quản lý đồng bộ các yếu tố trên thị trường,
đồng thời bằng hiệu lực quản lý kinh tế định hướng phát triển theo các nguyên
tắc không can thiệp bằng các biện pháp hành chính, không được áp đặt ý chí
chủ quan đối với các quy luật vận động khách quan của thị trường. Nhà nước
quản lý hoạt động của các chủ thể chủ yếu bằng pháp luật, với những tiêu chí
công khai, bình đẳng, điều tiết các hoạt động và phân phối lợi ích một cách
công bằng qua các công cụ hữu ích về thuế, tài chính, tín dụng. Việc hoạch
định ra những kế hoạch cũng mang những tính chất định hướng có tính chiến
lược lâu dài, tạo ra được các môi trường pháp lý - kinh tế - xã hội thuận lợi
cho các chủ thể hoạt động có hiệu quả, trên cơ sở đó mà phát huy được tối đa
khả năng đầu tư phát triển. Với tình hình thực tế hiện nay tỉnh Ắt tạ pư với
định hướng chuyển dịch CCKT theo hướng tăng dần tỷ trọng trong những
ngành lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng trong lĩnh vực nông
nghiệp thì vấn đề thu hút đầu tư để xây dựng các chương trình, dự án phát
triển thương mại, dịch vụ cũng đóng góp những vai trò quan trọng không
kém. Để đạt được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu như trên, điều cần làm nhất
bây giờ là phải có những chính sách để tạo điều kiện thuận lợi về môi trường
kinh doanh cho các doanh nghiệp và hộ kinh doanh hơn nữa - như một yếu tố
để hấp dẫn các nhà đầu tư trong và ngoài nước, góp phần hỗ trợ hiệu quả hơn
nữa trong quá trình chuyển dịch CCKT trên địa bàn tỉnh.
+ Môi trường pháp lý: Để thực hiện tốt hơn nữa chính sách chuyển dịch
CCKT thì việc tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi là một chủ trương vô
cùng quan trọng và đúng đắn để cho doanh nghiệp phát triển theo đúng định
hướng mà tỉnh đã đề ra. Cùng với các văn bản pháp luật khác như Luật Doanh
nghiệp, Luật Thuế giá trị gia tăng, Luật khuyến khích đầu tư và cùng với hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các Nghị định, Nghị quyết và
Thông tư của Chính phủ và các Bộ ngành để tạo môi trường SXKD thuận lợi,
công bằng cả trong quản lý SXKD và phân phối lợi nhuận. Do đó, hệ thống
khuôn khổ pháp lý này cần phải thường xuyên được rà soát, điều chỉnh, bổ
xung đi dần tới đồng bộ và hoàn thiện hơn nữa.
Trên cơ sở những quy định của các văn bản pháp luật trên, để đạt được
những hiệu quả cao hơn nữa thì tỉnh cần phải có những chính sách thuế phù
hợp để tạo điều kiện hỗ trợ cho các doanh nghiệp tích lũy vốn để phát triển,
đầu tư về chiều sâu, hỗ trợ phần nào đó để các doanh nghiệp đổi mới các công
cụ sản xuất như thiết bị máy móc đủ mạnh để đủ sức cạnh tranh và hội nhập
trong điều kiện CNH - HĐH. Cho vay hỗ trợ vốn đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ thành lập, hoạt động theo quy định của Luật Doanh nghiệp, các hộ kinh
doanh cá thể hoạt động theo Nghị định số 300 của Chính phủ về đăng kí kinh
doanh.
Tỉnh cũng cần phải tiếp tục đẩy mạnh việc thi hành Luật Khuyến khích
đầu tư trong nước và Luật Doanh nghiệp, góp phần vào việc tạo điều kiện để
hai luật này tiếp tục phát huy đầy đủ tác dụng tích cực của nó, mà cụ thể nó
cần được thể hiện qua các nội dung sau đây:
Đối với Luật Doanh nghiệp: Điều quan trọng trước hết là cần khắc
phục được những chồng chéo hiện đang xảy ra trong các văn bản luật và dưới
luật và cần phải áp dụng đúng đối tượng và phạm vi điều chỉnh của luật.
Trong quá trình thi hành Luật Doanh nghiệp cần phải hạn chế tối đa việc nảy
sinh sự thiếu đồng bộ giữa các văn bản pháp luật hiện tại, một số quy định
hướng dẫn thi hành luật cũng cần phải được quy định rõ ràng hơn và phù hợp
hơn với thực tế của tỉnh.
Hệ thống các văn bản pháp luật trên trực tiếp điều chỉnh hoạt động của
Doanh nghiệp nói chung và tại tỉnh Ắt tạ pư nói riêng, do đó điều quan trọng
hơn hết là cần phải tạo điều kiện môi trường kinh doanh thuận lợi nhất để các
chủ thể kinh tế có thể tự mình chủ động, sáng tạo, bình đẳng phát triển theo
định hướng chung.
Đối với Luật Khuyến khích đầu tư trong nước: Cần phải khẳng định
quan điểm rõ ràng về việc hỗ trợ đầu tư ưu đãi theo quy mô doanh nghiệp, số
nguồn nhân lực lao động mà các doanh nghiệp sử dụng, trong từng lĩnh vực
ngành nghề mà doanh nghiệp kinh doanh, các doanh nghiệp mới thành lập.
Qua thực tế thực hiện, thủ tục xét xử ưu đãi cho doanh nghiệp còn nhiều phức
tạp và tốn kém, việc quy định các ngành nghề đầu tư vẫn còn tồn tại nhiều
hạn chế, chưa được rõ ràng và không cụ thể.
+ Môi trường tâm lý - xã hội: Đây là một yếu tố cũng khá là quan
trọng, môi trường tâm lý - xã hội đối với các chủ thể xã hội đối với các chủ
thể kinh tế cần đòi hỏi các cách ứng xử bình đẳng, đúng mực của bộ máy
công quyền và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong quá trình ban hành
và thực hiện chính sách pháp luật của nhà nước. Cần phải có các phương pháp
kiến nghị tỉnh nên thông qua các phương tiện thông tin đại chúng và tuyên
truyền thật tốt các chủ trương chính cách khuyến khích đầu tư phát triển kinh
tế, hướng dẫn ý thức hỗ trợ các doanh nghiệp, hộ kinh doanh phát triển. Đồng
thời phải mạnh mẽ hơn nữa các phương thức về QLNN từ mệnh hành chính
sang hành chính công để phục vụ tạo ra tâm lý thoải mái tự tin cho các nhà
đầu tư.
+ Môi trường cộng đồng doanh nghiệp: Cần phải có các phương pháp
để phát huy hơn nữa vai trò của tổ chức cộng đồng doanh nghiệp (Hiệp, Hội,
Chi nhánh thương mại và công nghiệp) để các doanh nghiệp tham gia hỗ trợ
lẫn nhau về vốn, kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất kinh doanh. Hiện nay, thông
qua tình hình thực tế cho thấy hệ thống các Hiệp hội, Hội ngành nghề trên
phạm vi tỉnh chưa thật sự đủ mạnh và chưa có điều kiện để phát huy được hết
khả năng vốn có của họ. Do đó, cần phát huy chức trách công tác đào tạo
huấn luyện nghề nghiệp của các Hội kể cả việc tỉnh hỗ trợ cơ sở vật chất và
giáo viên.
Các tổ chức cộng đồng doanh nghiệp là cơ quan đầu mối đại diện cho
các doanh nghiệp và các ngành nghề thuộc các thành phần kinh tế cung cấp
thông tin hai chiều phải là một trong những tiềm năng và thế mạnh của các
hội nghề nghiệp và doanh nghiệp thành viên thúc đẩy SXKD, tiêu thụ sản
phẩm.
Ngoài ra, các tổ chức cộng đồng doanh nghiệp cũng cần nên tổ chức
các hoạt động liên kết, môi giới góp phần gắn kết các tổ chức, doanh nghiệp
thành viên lại với nhau.
Các hội, liên hiệp hội cần xây dựng các mối quan hệ thân thiết với
chính quyền địa phương, tích cực tham gia đóng góp ý kiến cho việc xây
dựng điều chỉnh các cơ chế chính sách, nêu ra các vấn đề mà các doanh
nghiệp hội viên bức xúc, tiếp tục xây dựng các mối quan hệ với các hội doanh
nghiệp ngoài tỉnh.
Tăng cường hơn nữa các hoạt động cung cấp thông tin hai chiều giữa
các cấp chính quyền với doanh nghiệp, thông qua đó mà các doanh nghiệp có
thể tự mình trình bày được các kiến nghị của mình về các chính sách và biện
pháp có liên quan đến phát triển sản xuất kinh doanh và quan trọng hơn là vấn
đề chuyển dịch CCKT.
3.2.3. Kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực
Thứ nhất, kiện toàn cơ cấu tổ chức bộ máy. Trong quá trình chuyển
dịch CCKT một yếu tố rất quan trọng là cần có sự phối hợp thống nhất giữa
các cấp, các đơn vị, các ban, ngành, đoàn thể. Chính vì như vậy mà tỉnh cần
sớm hoàn thiện về quy chế tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính,
cơ chế phối hợp giữa các đơn vị để hoàn thành nhiệm vụ được giao, từ đó sẽ
góp phần làm nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính
quyền, đặc biệt là trên lĩnh vực kinh tế. Để làm tốt nhiệm vụ này các cơ quan
có thẩm quyền cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, tổng kết các hiệu quả tổ chức
và hoạt động để có sự đánh giá về mặt tích cực và hạn chế trong công tác
QLNN về chuyển dịch CCKT.
Việc cần thiết và quan trọng là tỉnh cần sớm thành lập Ban chỉ đạo thực
hiện chuyển dịch CCKT để thống nhất quản lý để từ đó đưa ra được các định
hướng cụ thể và mang lại hiệu quả cao nhất về chuyển dịch CCKT. Đối với
việc tổ chức bộ máy, việc làm cần thiết là chính quyền tỉnh cần phân công bộ
phận chuyên trách về chuyển dịch CCKT và thực hiện các công tác như:
Công tác mời gọi đầu tư cả ở bên trong lẫn bên ngoài, hỗ trợ phát triển thương
mại và dịch vụ. Để làm tốt được những việc đó thì cũng cần phải có một hệ
thống các giải pháp với mục đích là củng cố và nâng cao trình độ chuyên
môn, chuyên trách về chuyển dịch CCKT, góp phần vào hạn chế tình trạng
biến động nhân sự như hiện nay.
Bên cạnh đó, cũng cần phải phát huy vai trò, thẩm quyền và trách
nhiệm của chính quyền các cấp mà đặc biệt là cấp huyện, để thực hiện việc
này lãnh đạo tỉnh cần giao cho họ những thẩm quyền nhất định để họ có thể
chủ động nhất trong việc tổ chức bộ máy. Việc phân cấp rõ ràng về chuyển
dịch CCKT cho các tuyến ở cấp cơ sở để phần nào các đơn vị này phát huy
được vai trò và tính chủ động, sáng tạo trong việc xây dựng lên các kế hoạch
và thực hiện các kế hoạch đó trong việc chuyển dịch CCKT. Ngoài ra thì cũng
cần phát huy được vai trò là hạt nhân lãnh đạo chính trị của các cơ sở tổ chức
đảng nhằm có thể đảm bảo và thực hiện đúng những đường lối và chính sách
của tỉnh, nâng cao hiệu quả quản lý sản xuất, kinh doanh, hiệu quả quản lý
của các cơ quan nhà nước, đảm bảo lợi ích của các doanh nghiệp, nhà đầu tư,
hộ kinh doanh,
Thứ hai, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức. Thực tế
hiện nay đã cho thấy đội ngũ cán bộ làm việc công tác QLNN về kinh tế và
đặc biệt hơn là QLNN về chuyển dịch CCKT vẫn còn chưa tương xứng với sự
phát triển kinh tế - xã hội. Vì Vậy, nếu như tỉnh muốn nâng cao năng lực quản
lý của đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay, thì cần phải có các kế hoạch nhất
định và triển khai một số giải pháp sau đây:
+ Về quy hoạch: Việc cần làm bây giờ là cấp ủy đảng các cấp cùng
với các cơ quan chức năng trước hết cần nhận thức đầy đủ về mục đích, yêu
cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, chú trọng đến chất lượng
hơn là số lượng. Dựa vào cơ sở đó để làm tốt công tác quy hoạch cũng như kế
hoạch thực hiện việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng cán bộ một cách hiệu quả
nhất. Hơn nữa là cần phải chú ý trong việc gắn kết, xấy dựng và thực hiện quy
hoạch với kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng phải đạt hiệu quả, cụ thể từng chức
danh.
Trong quá trình xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ, công chức
tỉnh cần quan tâm và phải vận dụng, thực hiện tốt các quy chế về công tác cán
bộ, công chức, trong đó cần thực hiện tốt các quy chế về đánh giá, tuyển
chọn, sử dụng, đề bạt; quan trọng hơn là phát huy được vai trò của tập thể với
đề cao trách nhiệm của cá nhân người đứng đầu, mở rộng dân chủ với nhân
dân.
+ Về tuyển dụng: Việc tuyển dụng cán bộ, công chức phải thực sự xuất
phát từ yêu cầu, đòi hỏi của công việc, công việc nào cần tuyển người vào để
làm việc có hiệu quả, công việc nào cần cắt bớt người để hoạt động được tốt
hơn, và việc tuyển dụng phải theo tiêu chí công khai, thông qua cơ sở phân
tích, đánh giá, dự báo nguồn nhân lực của tỉnh trong thời điểm hiện tại và
tương lai. Không những vậy việc tuyển dụng còn phải gắn với việc tinh giản
biên chế theo hướng đổi mới về vật chất, những người không đáp ứng được
đòi hỏi của công việc trong nền hành chính chuyên nghiệp thì cần phải thay
thế những người khác để thực hiện công việc đó được tốt hơn, mang lại
những hiệu quả cao nhất. Khâu tuyển dụng cần triển khai theo hướng “cung -
cầu”, có nhu cầu thì mới cung cấp chứ không được cung cấp tùy tiện dễ gây
ra việc hàng hóa sản xuất ra mà không tiêu dùng đến.
Cần phải thực hiện thật tốt các quy chế về tuyển dụng đang hiện hành,
thông qua đó cần xem xét xem các quy chế đó có còn phù hợp với thời điểm
hiện tại không, nếu như không còn phù hợp thì cần thay đổi để cho phù hợp
với xu thế mới. Ngoài ra tỉnh cũng cần tổ chức thực hiện tốt và có hiệu quả
quy chế tuyển dụng cán bộ, công chức đã được các cơ quan có thẩm quyền
ban hành, để đáp ứng cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển của kinh tế
- xã hội.
+ Về đào tạo, bồi dưỡng: Thực hiện chính sách đào tạo theo tiêu chí
đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng, năng lực, tính chuyên nghiệp của đội
ngũ cán bộ, công chức. Đặc biệt là cần phải quán triệt phương châm đào tạo
cơ bản, thiết thực, vững chắc. Bên cạnh đó, với việc chất lượng của đội ngũ
cán bộ, công chức chưa được cao nên cần phải chú trọng vào việc đào tạo lại
cán bộ, công chức theo định kỳ, và với các hình thức đa dạng, phong phú, phù
hợp với từng đối tượng. Khi đào tạo, bồi dưỡng cần phải quan tâm đến việc
đạt chuẩn chức danh về lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, quản lý nhà
nước, tin học, trong đó cần phải chú ý tăng cường bồi dưỡng kiến thức cho
các cán bộ, công chức về việc quản lý kinh tế để cho phù hợp với yêu cầu của
CNH - HĐH.
Trên địa bàn tỉnh các cơ sở chuyên ngành quản lý về kinh tế phải có sự
phối hợp chặt chẽ với các ban mà đặc biệt là Ban tổ chức tỉnh chỉ đạo cấp
huyện thuộc thẩm quyền theo ngành dọc (các phòng, ban chuyên quản lý kinh
tế), việc cung cấp thông tin thực trạng về hoạt động của cán bộ, công chức
cho cấp tỉnh để có được những thông tin cần thiết, dựa vào đó mà tỉnh có kế
hoạch về đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ cho các cán bộ, công chức
về quản lý kinh tế; không chỉ dừng lại ở đó mà còn phải nâng cao hơn nữa
khả năng tác nghiệp cụ thể và trình độ chuyên môn nghiệp vụ để thực hiện tốt
công tác quản lý. Để thực hiện tốt được kế hoạch này thì cần phải tăng cường
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức các cấp theo hướng chuẩn hóa gắn với
quy hoạch, và đặc biệt phải quan tâm hơn hết là đội ngũ cán bộ, công chức
của cấp huyện.
Cần phải nâng cao hơn nữa chất lượng đào tạo các cán bộ, công chức
theo hướng nâng cao kiến thức, kỹ năng hành chính, vì lẽ đó nên cần phải đào
tạo theo hướng chuyên sâu đối với từng loại công chức theo từng quy trình
thống nhất đào tạo và bồi dưỡng công chức, không dễ để thực hiện được yêu
cầu như vậy, vì đây là một chương trình đạo tạo về chất lượng nên nó có
những đòi hỏi nhất định, cần phải có những nguồn lực đủ mạnh mà chủ yếu là
trên ba phương diện: nhân lực, vật lực và tài lực.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng các cán bộ lãnh đạo, quản lý của tỉnh cũng
cần phải được đổi mới mãnh mẽ hơn nữa, nếu như muốn có một đội ngũ lãnh
đạo mãnh mẽ về chất lượng thì cần phải đổi mới không chỉ về nội dung
chương trình, phương thức đào tạo, phương pháp giảng dạy và học mà còn
phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý dào tạo, đề ra những chính sách
quy hoạch đào đạo cụ thể, rõ ràng và dễ thực hiện.
+ Về sử dụng: Gắn công tác đào tạo, bồi dưỡng với bố trí, sử dụng cán
bộ. Cần phải mạnh dạn hơn nữa trong việc trẻ hóa đội ngũ lãnh đạo bằng việc
tích cực sử dụng các cán bộ trẻ, có triển vọng phát triển, phù hợp với công
việc đã được thông qua đào tạo đạt chuẩn chức danh giữa các chức vụ phù
hợp với chuyên môn đào tạo và yêu cầu xây dựng bộ máy chính quyền các
cấp chuyên nghiệp để giải quyết công việc một cách nhanh chóng, chủ động.
Song song với việc đó thì cần phải quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, trách
nhiệm và thẩm quyền để giải quyết công việc, để khi vào làm việc tại cơ quan
của tỉnh không bị lúng túng và hoạt động sai thẩm quyền của mình.
3.2.4. Tăng cường đầu tư và thu hút, sử dụng có hiệu quả các nguồn
vốn
Để thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình chuyển dịch CCKT, phát triển
nông nghiệp, nông thôn, đẩy mạnh quá trình phát triển lĩnh vực công nghiệp
và dịch vụ, yêu cầu đặt ra lúc này là cần phải nâng cao hơn nữa hệ thống cơ
sở hạ tầng kỹ thuật. Hiện nay, hệ thống hạ tầng nhất là mạng lưới giao thông
của tỉnh đã không theo kịp tốc độ đô thị hóa và phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoại trừ một số tuyến đường do nhà nước quản lý đã trực tiếp nâng cấp và
mở rộng thành những tuyến đường có tính chất quan trọng hơn trong chiến
lược phát triển kinh doanh thương mại dịch vụ trên địa bàn tỉnh nói riêng và
phạm vi toàn quốc nói chung, còn lại thì đa số các tuyến đường do tỉnh quản
lý bao gồm tất cả các con đường nội bộ thì vẫn chưa đảm bảo được yêu cầu
sản xuất kinh doanh, vận chuyển hàng hóa từ các vùng nông thôn đến thành
thị hay đến chợ cũng đang còn gặp rất nhiều khó khăn. Do đó để phát triển
được các ngành kinh tế, điều quan trọng là cần thiết phải nhanh chóng mở
rộng và xây dựng các tuyến đường, mà đặc biệt là cần lưu ý đến các tuyến
đường chuyên nghiệp tập trung kinh doanh một loạt hàng hóa và dịch vụ để
phục vụ cho nhu cầu của người dân.
Ngoài vốn ngân sách nhà nước ra thì điều thiết yếu là cần phải đẩy
mạnh thực hiện công tác xã hội hóa để thu hút được sự đầu tư từ các doanh
nghiệp trong và ngoài nước, hộ kinh doanh cùng tham gia. Tạo điều kiện cho
các thành phần kinh tế tư nhân có thể tự mình tham gia vào các hoạt động
phát triển kinh tế - xã hội, dịch vụ công ích, đấu thầu dưới các hình thức như
khoán thầu, đấu thầu, hợp đồng dịch vụ Cần thiết phải mở rộng hình thức
“nhà nước và nhân dân cùng làm”, “nhà nước và doanh nghiệp cùng làm để
đầu tư vào các dự án hạ tầng quy mô nhỏ, phục vụ phát triển đô thị mới, nhất
là các tuyến đường giao thông nội bộ trong khu vực dân cư hiện hữu”.
Nhu cầu cải tạo, chỉnh trang nâng cấp đô thị để tạo cho tỉnh một bộ mặt
hoàn toàn mới là rất lớn và cần thiết, nhưng để làm được việc này thì nguồn
vốn cần thiết cho việc đầu tư phát triển lại không hề nhỏ, trong khi đó nguồn
vốn của nhân sách lại có hạn, tỉnh không thể chỉ tập chung nguồn vốn vào
một vấn đê được mà có quá nhiều vấn đề mà tỉnh cần có vốn để làm, và đặc
biệt hơn là quá trình chuyển dịch CCKT trên địa bàn tỉnh lại cần rất nhiều vốn
từ các thành phần kinh tế để phát triển đồng bộ các ngành nghề, lĩnh vực
SXKD.
Đối với nguồn ngân sách của tỉnh thì tỉnh cần chú trọng xây dựng các
công trình dự án của tỉnh nhằm tao ra nguồn động lực thúc đẩy trọng tâm. Do
nguồn vốn ngân sách không phải là vô hạn vì vậy cần đặc biệt tập chung sự
quan tâm cho các công trình, dự án mà nó có khả năng thu hút vốn để thực
hiện quyền đấu thầu sử dụng, khai thác với mục đích nhằm thu hồi vốn ngân
sách nhanh chóng cho các dự án khác hoặc thu hồi vốn dần cho việc thuê,
khoán. Mặt khác cũng cần phải đẩy mạnh các hình thức liên kết, liên doanh
giữa các nguồn vốn ngân sách với nguồn vốn các doanh nghiệp, các quỹ phát
triển, các hội, vốn của dân với phương châm “Nhà nước - doanh nghiệp -
nhân dân cùng làm”.
Đối với nguồn vốn xuất phát từ vốn của doanh nghiệp, vốn của hộ cá
thể: cần phải có các chính sách khuyến khích đầu tư chọn gói hoặc hình thức
khách hàng ứng trước vốn để được quyền sử dụng, khai thác. Cần phải chú ý
hơn nữa cơ chế, chính sách bảo đảm lợi ích hợp lý, thỏa đáng cho các nhà đầu
tư, đơn vị kinh doanh.
Đối với nguồn vốn tín dụng: Cho xây dựng các cơ sở vật chất để phục
vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh được xem là vật để thế chấp (băng hình
thức các công trình và dự án) để có thể được vay vốn tín dụng, góp phần nào
đó vào việc tạo thuận lợi cho các nhà đầu tư thực hiện tiến độ hơn nữa và đưa
vào sử dụng khai thác có hiệu quả.
Để thực hiện tốt được các việc đó thì các cơ quan có thẩm quyền về
quản lý nhà nước cần lập rõ danh mục, đầu tư, lộ trình thực hiện, quyền và
nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể của đầu tư để quảng bá rộng rãi, điều
đó giúp các nhà đầu tư có điều kiện thuận lợi để lựa chọn, quyết định nhanh
chóng, trực tiếp triển khai các công trình, dự án. Đặc biệt hơn là phải tập
trung vào các dự án mang tính chiến lược, có khả năng lớn trong việc làm
chuyển biến rõ rệt và là động lực cho sự phát triển kinh tế của tỉnh.
Tỉnh cần quan tâm nhiều hơn nữa trong việc đề ra các chính sách ưu
đãi các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước để họ đầu tư trực tiếp vào các
công trình, dự án được xem là trọng điểm trong việc chuyển dịch CCKT. Vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài nên được đầu tư vào các công trình trọng điểm và
có ý nghĩa, mang tầm chiến lược đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh, mà tỉnh
chưa hoặc là không có khả năng đầu tư.
Cần phải tăng cường công tác đầu tư vào việc phát triển thông tin và
cung cấp các thông tin miễn phí và nhanh chóng để cho các nhà đầu tư biết về
cơ hội đầu tư và phát triển trên địa bàn tỉnh. Có chính sách khuyến khích và
tạo điều kiện để các ngân hàng và các loại quỹ đầu tư tích cực lập các chi
nhánh và văn phòng giao dịch trên địa bàn tỉnh.
3.2.5. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thanh tra
Cần phải tăng cường hơn nữa công tác kiểm tra, giám sát và thanh tra
đối với hoạt động chuyển dịch CCKT của tỉnh. Các chủ thể có thẩm quyền
kiểm tra các cấp được giao nhiệm vụ giám sát các tổ chức thực hiện các kế
hoạch và chương trình chuyển dịch CCKT, nâng cao nhận thức của các cấp,
tổ chức, ủy ban chuyên về chuyển dịch CCKT, để làm được việc này thì
người đứng đầu về công tác kiểm tra, giám sát và thanh tra của các chủ thể
phải thực hiện tốt chức năng và nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức chuyên về
lĩnh vực chuyển dịch CCKT và chấp hành nghiêm chỉnh khi được kiểm tra,
giám sát và thanh tra.
Xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật về công tác phục vụ
kiểm tra, giám sát và thanh tra của nhà nước: Tiếp tục sửa đổi, bổ xung các
luật khiếu nại, luật thanh tra.
Đổi mới, tăng cường, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả kiểm tra,
giám sát, kỉ luật của các cấp, các ban ngành hoạt động bên lĩnh vực chuyển
dịch CCKT, xử lý kịp thời, nghiêm minh với những tổ chức và các thành viên
trong công tác phát triển kinh tế vi phạm pháp luật. Chú trọng kiểm tra giám
sát người đứng đầu nhà nước, các đoàn thể xã hội tham gia vào các hoạt động
phát triển kinh tế. Tăng cường kiểm tra, giám sát đối với các ban cán sự ở các
cơ quan nhà nước, cơ quan tư pháp trong việc lãnh đạo chỉ đạo và thể chế hóa
đường lối, chủ trương nghị quyết của đảng, việc tổ chức và thực hiện nhiệm
vụ chính trị, quy chế làm việc. Coi trọng và tăng cường kiểm tra, giám sát,
thanh tra đối với các tổ chức đảng và nhà nước về quản lý và sản xuất kinh
doanh. Đổi mới tăng cường phối hợp thực hiện công tác kiểm tra, giám sát,
thanh tra của các cơ quan trên địa bàn tỉnh. Thông qua việc kiểm tra, giám sát,
thanh tra để kịp thời phát hiện ra những sơ hở, bất cập của các chủ trương,
chính sách, nghị quyết của Đảng để từ đó chủ động hơn trong việc phòng
ngừa ngăn chặn xảy ra vi phạm của các tổ chức hoạt động trong việc chuyển
dịch CCKT, đồng thời giáo dục, ngăn chặn, chấn chỉnh kịp thời các khuyết
điểm, xử lý nghiêm minh vi phạm của các tổ chức này nếu có.
Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn để đề xuất bổ sung, hoàn thiện phương pháp, quy trình, kỹ năng về
công tác kiểm tra, giám sát.
Kiểm tra, giám sát và thanh tra là nội dung rất quan trọng trong quá
trình lãnh đạo của nhà nước đối với quá trình chuyển dịch CCKT. Công tác
kiểm tra, giám sát, thanh tra phải được tiến hành thường xuyên, công khai và
chặt chẽ theo đúng nguyên tắc, phương pháp mà pháp luật đã quy định. Thực
hiện công tác kiểm tra, giám sát và thanh tra phải gắn chặt với công tác tư
tưởng, công tác tổ chức và đổi mới phương thức lãnh đạo của các cơ quan có
thẩm quyền của tỉnh, thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác
giám sát phải mở rộng, kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm để chủ động
phòng ngừa vi phạm, kịp thời phát hiện ra những nhân tố mới để phát huy,
khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm từ khi còn manh nha.
3.2.6. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý
Công nghệ thông tin đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển
kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đặc biệt là trong hoạt động quản lý
nhà nước. Do đó mà việc nghiên cứu, dự định ứng dụng công nghệ thông tin
là một hoạt động rất quan trọng cần thiết và là xu hướng phát triển của thời
đại ngày nay. Đó là nhằm giúp nâng cao hơn nữa việc điều hành quản lý của
các cơ quan nhà nước và đảm bảo việc phục vụ cho người dân và doanh
nghiệp. Để giúp cho công tác quản lý nhà nước nói chung, và đặc biệt hơn là
quản lý nhà nước về chuyển dịch CCKT nói riêng ở tỉnh Ắt tạ pư, các cơ
quan có thẩm quyền có thể tham khảo theo mô hình 4 mức độ phát triển của
các dịch vụ hành chính công trực tiếp được áp dụng đối với chính phủ điện tử
đã và đang được triển khai, bao gồm những nội dung sau:
+ Mức độ 1: Cổng thông tin điện tử có đầy đủ các thông tin về các quy
trình và thủ tục để thực hiện các dịch vụ, các giấy tờ cần thiết, các bước tiến
hành, thời gian thực hiện cụ thể và chi phí thực hiện dịch vụ.
+ Mức độ 2: Ngoài các thông tin đầy đủ như đã nêu ở mức độ 1, cổng
thông tin điện tử cũng cần nên cho phép người sử dụng có thể tải về các mẫu
đơn, hồ sơ để người sử dụng có thể in ra giấy hoặc điền các thông tin cụ thể
hơn vào mẫu đơn.
+ Mức độ 3: Khi đã có các thông tin đầy đủ như ở mức độ 1 và các mẫu
đơn, hồ sơ cho phép tải về giống với ở mức độ 2, cổng thông tin điện tử cho
phép người sử dụng đã trực tiếp vào các mẫu đơn, hồ sơ và gửi lại trực tuyến
các mẫu đơn, hồ sơ sau khi người sử dụng đã điền xong tới các cơ quan và
người có thẩm quyền về xử lý hồ sơ. Các giao dịch trong quá trình thụ lý hồ
sơ và cung cấp dịch vụ đều được thực hiện qua mạng.
+ Mức độ 4: Ngoài thông tin đã có đầy đủ như ở mức độ 1, các mẫu
đơn và hồ sơ đã được cho phép tải về giống như ở mức độ 2 và việc gửi trực
tuyến hồ sơ, thực hiện các giao dịch qua mạng ở mức độ 3 thì việc tiếp theo là
thanh toán chi phí, công việc này cũng sẽ được thực hiện trực tuyến, việc trả
kết quả có thể được thực hiện trực tuyến hoặc có thể là linh hoạt hơn là gửi
qua đường bưu điện.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin, và đặc biệt hơn là trong quá trình
quản lý nhà nước về kinh tế là một trong những biện pháp để nâng cao hiệu
quả trong hoạt động QLNN. Do đó tỉnh Ắt tạ pư cũng có thể tham khảo và
thực hiện thêm một số những biện pháp sau:
+ Để đảm bảo cho việc phục vụ cho người dân và doanh nghiệp, tỉnh
cần quan tâm xây dựng và hoàn thiện hơn nữa các cổng thông tin điện tử hoặc
trang thông tin điện tử của đơn vị mình với mục đích chính là để cung cấp
thông tin vụ công trực tuyến phục vụ cho người dân và doanh nghiệp, cung
cấp biểu mẫu điện tử qua cổng điện tử hoặc trang thông tin điện tử, áp dụng
cung cấp dịch vụ công trực tuyến đối với cấp Giấy chứng nhận ĐKKD. Việc
xây dựng mạng nội bộ giữa các sở, ban, ngành, việc nghiên cứu phần mềm
chuyên dụng trong việc cập nhật thông tin dùng chung liên quan đến lĩnh vực
kinh tế giữa các sở, ban, ngành là rất cần thiết, chẳng hạn như phần mềm
chuyên dụng trong việc cập nhật thông tin giữa Sở Kế hoạch và Đầu tư và
Kho bạc nhà nước tỉnh, cơ quan thuế của tỉnh sẽ giúp cho kết quả cấp Giấy
ĐKKD và cấp mã số thuế, kết quả đóng - phạt được cập nhật dễ dàng và
thuận lợi hơn.
Một vấn đề nữa là tỉnh cần xây dựng và hoàn thiện về vấn đề quản lý
website của tỉnh theo hướng thông tin được công khai, phổ biến và cập nhật
thường xuyên nhưng cũng phải gắn với yêu cầu công tác quản lý. Công tác
triển khai cấp Giấy chứng nhận ĐKKD hộ cá thể qua mạng đối với ngành,
nghề kinh doanh không bị cấm được tiến hành nhằm cung ứng dịch vụ công
nhanh chóng, thuận tiện.
Khi xây dựng ứng dụng công nghệ thông tin điều quan trọng là cần
phải dựa trên cơ sở nghiên cứu thực tế gắn với yêu cầu của công dân và các
doanh nghiệp, hộ kinh doanh. Hình thức ứng dụng cấp Giấy chứng nhận
ĐKKD qua mạng nên được xem xét, so sánh để mang lại hiệu quả tốt nhất,
tránh tình trạng xây dựng rồi nhưng lại không được công dân ứng dụng thì lại
gây lãng phí.
+ Bên cạnh đó, tỉnh cần phải có kế hoạch kết hợp với Sở Kế hoạch và
Đầu tư cùng với các đơn vị liên quan để thực hiện tốt hơn việc hình thành
kênh tiếp nhận ý kiến đóng góp trên môi trường mạng tổ chức đối thoại trực
tuyến, chuyên mục hỏi đáp trực tuyến về hoạt động của các cơ quan nhà nước
để phục vụ tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp.
Sự liên hệ giữa các cơ quan nhà nước với các tổ chức, đoàn thể và
doanh nghiệp để thực hiện tốt các dịch vụ trực tuyến và các hệ thống thông
tin, đảm bảo việc ứng dụng công nghệ thông tin ổn định, thường xuyên.
TÓM TẮT CHƯƠNG 3
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh Ắt tạ pư và vấn đề
QLNN về chuyển dịch CCKT trên địa bàn tỉnh không thể tránh khỏi được
những sai sót và hạn chế, để cho công tác chuyển dịch CCKT và hoạt động
QLNN về chuyển dịch CCKT trong thời gian tới được tốt hơn thì luận văn
này đã giành chương 3 để nêu ra các quan điểm và phương hướng chỉ đạo để
nâng cao hiệu quả QLNN về chuyển dịch CCKT, từ đó mà tác giả xin đưa ra
giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả QLNN về chuyển dịch CCKT ở tỉnh
Ắt tạ pư trong giai đoạn tiếp theo.
KẾT LUẬN
Nói tóm lại, với mong muốn “đảm bảo giữ vững tốc độ phát triển kinh
tế liên tục, nâng cao đời sống nhân dân gấp 3 lần so với hiện nay, đưa đất
nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển vào năm 2020” được đề cập trong
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011- 2020, thì việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế là một nhiệm vụ cấp thiết của nước CHDCND Lào nói
chung và các địa phương nói riêng. Điều này cũng không phải là ngoại lệ với
tỉnh Ắt tạ pư. Hơn nữa, Ắt tạ pư là một tỉnh có nhiều lợi thế chuyển dịch
CCKT đa ngành, đa lĩnh vực so với các địa phương khác chỉ có thế mạnh về
phát triển nông nghiệp, việc chuyển dịch CCKT thành công không những
đảm bảo cho tỉnh Ắt tạ pư một nền kinh tế có đa ngành, đa lĩnh vực, mà nó
còn giải quyết cho địa phương này về nhiều vấn đề có liên quan như vấn đề
ngân sách, vấn đề thu nhập, vấn đề việc làm, vấn đề thu hút đầu tư và các vấn
đề xã hội khác.
Tuy nhiên, như luận văn đã trình bày ở phần trên, vấn đề chuyển dịch
CCKT ở tỉnh Ắt tạ pư chỉ đạt được hiệu quả như mong muốn khi có sự quản
lý đúng đắn, kịp thời và hiệu quả của chính quyền địa phương, dựa trên
đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước Lào về chuyển dịch CCKT.
Thông qua việc phân tích và đánh giá thực trạng QLNN về chuyển dịch
CCKT ở tỉnh Ắt tạ pư có thể thấy vấn đề này còn rất nhiều yếu kém, trong
thời gian tới cần phải xây dựng giải pháp, đẩy mạnh thực hiện giải pháp nhằm
nâng cao hiệu quả QLNN về chuyển dịch CCKT, có như thế thì vấn đề
chuyển dịch CCKT ở tỉnh Ắt tạ pư mới phát huy hết được hiệu quả./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tài liệu tiếng Việt:
1. Đinh Văn Ân (Chủ biên) (2005), Quan niệm và thực tiễn phát triển
kinh tế - xã hội tốc độ nhanh, bền vững, chất lượng cao ở Việt Nam,
Nxb Thống kê, Hà Nội.
2. Đinh Văn Ân, Nguyễn Thị Tuệ Anh (2008), Tăng trưởng năng suất lao
động Việt Nam từ góc độ của các ngành kinh tế và chuyển dịch cơ cấu
ngành, NXB Lao động, Hà Nội.
3. Đỗ Đức Định (2004), Kinh tế học phát triển về công nghiệp hóa và cải
cách nền kinh tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Chi Fulin (2009), Điểm xuất phát lịch sử đối với các cải cách của
Trung Quốc, Viện nghiên cứu Cải cách và Phát triển, Diễn đàn Quốc tế
về chuyển đổi kinh tế.
5. Phạm Kim Giao (chủ biên) (2005), Giáo trình quản lý nhà nước về
nông nghiệp và nông thôn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6. Huỳnh Thị Thanh Hiền (2005), Những giải pháp quản lý nhà nước
nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh,
Luận văn thạc sĩ Quản lý hành chính công, Học viện Hành chính, TP.
Hồ Chí Minh.
7. Học viện Hành chính Quốc gia (2009), Quản lý hành chính nhà nước
(Tập 3), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Học việc Hành chính Quốc gia (2000), Một số thuật ngữ hành chính,
Nxb Thế giới, Hà Nội.
9. Nguyễn Thị Bích Hường (2005), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
10. Đặng Hữu (2005), Khoa học - công nghệ với sự phát triển kinh tế - xã
hội bên thềm thế kỷ XXI, Nxb Thống kê, Hà Nội.
11. Đặng Thị Loan, Lê Du Phong, Hoàng Văn Hoa (Đồng chủ biên)
(2006), Kinh tế Việt Nam 20 năm đổi mới (1986 - 2006) thành tựu và
những vấn đề đặt ra, Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
12. Ngân hàng Thế giới (2009), “Tái định dạng địa kinh tế”, Báo cáo phát
triển thế giới 2009, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
13. Nguyễn Trần Quế (2004), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam trong
những năm đầu thế kỷ 21, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. Nguyễn Quang Thái (2004), “Sự phát triển bền vững trong tư duy kinh
tế về chuyển dịch cơ cấu kinh”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế (05), tr. 32-
34.
15. Bùi Tất Thắng (Chủ biên) (2006), Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế ở
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Trung tân Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia - Viện Kinh tế Thế
giới (2003), Điều chỉnh cơ cấu kinh tế Hàn Quốc, Malaysia và Thái
Lan, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
17. Nguyễn Minh Tú (1997), Về mô hình chuyển đổi kinh tế của một số
nước và định hướng vận dụng ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
18. Nguyễn Kế Tuấn (2009), “Tái cơ cấu ngành công nghiệp theo yêu cầu
phát triển bền vững”, Tạp chí Kinh tế & Phát triển (145), tr. 13-16.
19. Ngô Doãn Vịnh (Chủ biên) (2005), Bàn về phát triển kinh tế (Nghiên
cứu con đường dẫn tới giàu sang), (Sách tham khảo), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
20. Viện Chiến lược phát triển (2004), Quy hoạch phát triển kinh tế - xã
hội một số lý luận và thực tiễn (Sách tham khảo), Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
B. Tài liệu dịch từ tiếng Lào:
21. Chiến lược phát triển tỉnh Ắt Tạ Pư giai đoạn 2005 - 2025.
22. Chính quyền tỉnh Ắt Tạ Pư (2015), Tổng kết đánh giá việc tổ chức
thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ IX (2011-
2015) và dự thảo kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ X
(2016-2020).
23. Chính quyền tỉnh Ắt Tạ Pư (2014), Báo cáo tình hình phát triển kinh tế
- xã hội của những năm từ 2005 - 2013 của tỉnh Ắt Tạ Pư.
24. Đảng ủy tỉnh Ắt Tạ Pư (2010), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Ắt Tạ
Pư lần thứ IX nhiệm kỳ 2011-2015.
25. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (1986): Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ IV, Nxb Nhà nước.
26. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2001): Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VII, Nxb Nhà nước.
27. Đảng Nhân dân cách mạng Lào (2006): Văn kiện Đại hội Đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Nhà nước.
28. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2011-2015) lần thứ VII của
Chính phủ nước CHDCND Lào.
29. Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2013 - 2014 của tỉnh Ắt Tạ Pư.
30. Kết quả khảo sát của tác giả tại tỉnh Bo kẹo tháng 8 năm 2013.
31. Kết quả khảo sát của tác giả tại tỉnh Bo li khăm sai tháng 12 năm 2013.
32. Kết quả khảo sát của tác giả tại tỉnh Chăm pa sắc tháng 3 năm 2014.
33. Kết quả khảo sát của tác giả tại tỉnh Xiêng khoản tháng 10 năm 2015.
34. Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 2004.
35. Luật Khuyến khích đầu từ nước ngoài năm 2004.
36. Nghị định 300/2004/NĐ-CP, ngày 12/10/2005 của Chính phủ về tổ
chức thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư trong nước năm 2004.
37. Nghị định 301/2004/NĐ-CP, ngày 12/10/2005 của Chính phủ về tổ
chức thực hiện Luật Khuyến khích đầu tư nước ngoài năm 2004.
38. Nghị định 35/2006 ngày 18/01/2006 của Chính phủ về khuyến khích
phát triển công nghiệp nông thôn.
39. Quyết định số 114/2006/QĐ-TTg, ngày 23/6/2006 của Thủ tướng
Chính phủ về cơ chế hỗ trợ vốn ngân sách Trung ương để đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật khu công nghiệp tại các địa phương có
điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_chuyen_dich_co_cau_kinh_te_o_ti.pdf