Trong những năm qua, nền kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang có nhiều
chuyển biến tích cực, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững, ổn định; đã đào tạo và tạo được nhiều việc làm cho lao động nông
thôn nói chung và lao động người dân tộc thiểu số nói riêng, góp phần nâng
cao thu nhập và nâng cao mức sống của người dân, dần dần từng bước xóa hộ
đói, giảm hộ nghèo trên toàn tỉnh.
Tuy nhiên, trình độ lao động người dân tộc thiểu số trên địa bàn vẫn
còn thấp, vì vậy vấn đề đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động dân tộc
thiểu số, tạo việc làm cho họ đang là vấn đề bức xúc hiện nay.
Để triển khai thực hiện công tác đào tạo lao động người dân tộc thiểu
số, trước mắt hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm
cho người dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh việc đào tạo nghề để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực; ưu tiên việc dạy nghề, đào tạo lao động tại chỗ, tạo
điều kiện cho lao động người dân tộc thiểu số có nghề, có việc làm ổn định.
Chỉ khi nào người dân tộc thiểu số có được một trình độ học vấn, trình độ dân
trí cao thì khi đó họ mới có đủ điều kiện vượt qua nghèo nàn, lạc hậu và góp
phần vào sự nghiệp chung của tỉnh. Với các đặc điểm của tỉnh, chúng ta cũng
nên hiểu rằng để thực hiện thành công công cuộc đổi mới đối với vùng đồng
bào dân tộc thiểu số là phải đào tạo được đội ngũ lao động người dân tộc
thiểu số đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và có việc làm ổn định.
Tạo nguồn lực người dân tộc thiểu số là chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước, vì thế cần có sự quan tâm đặc biệt, tạo sự công bằng, bình đẳng,
tạo cơ hội, điều kiện cho các dân tộc thiểu số tiếp cận với tri thức khoa học,
nâng cao trình độ, làm chủ bản thân, làm chủ buôn làng, phum sóc, làm chủ
đất nước.98
Những vấn đề đặt ra trong đề tài này là rất rộng, trong đó một phần nhờ
vào kết quả tiếp thu bài giảng của Thầy, Cô giáo, từ những tư liệu tham khảo
như sách, báo, các Nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Hội đồng nhân dân
tỉnh, Kế hoạch của Uỷ ban nhân dân tỉnh về phát triển nguồn nhân lực của
tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2001-2005, 2006-2010, 2010-2015 và tầm nhìn đến
năm 2020; thông tin, báo cáo của các sở ngành có liên quan, và dựa vào thực
tế công tác của bản thân, đặc biệt là nhờ sự hướng dẫn tận tình của cô TS.
Nguyễn Thị Hường trong suốt thời gian qua. Những kết luận rút ra từ đề tài
hy vọng sẽ góp phần tạo thêm giải pháp đào tạo cho lao động người dân tộc
thiểu số, giúp thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh.
Do trình độ, kiến thức của bản thân còn hạn chế và thời gian nghiên
cứu chưa nhiều, nên luận văn không tránh khỏi những sai sót. Kính mong
nhận được những ý kiến đóng góp của Quý Thầy Cô giáo, bạn bè, đồng
nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn./.
110 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 549 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp ở Trung ương chịu trách
nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp,
xây dựng trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền
và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển
giáo dục nghề nghiệp.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
thực hiện quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp theo phân cấp của Chính
phủ; xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục nghề nghiệp phù hợp
với nhu cầu nhân lực của địa phương; kiểm tra việc chấp hành pháp luật về
giáo dục nghề nghiệp của các cơ sở hoạt động giáo dục nghề nghiệp, các tổ
73
chức, cá nhân có tham gia giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn theo thẩm
quyền; thực hiện xã hội hóa giáo dục nghề nghiệp; nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục nghề nghiệp tại địa phương.
Trong những năm qua, hệ thống quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại
tỉnh Kiên Giang được tổ chức một cách thống nhất, Uỷ ban nhân dân tỉnh
chịu trách nhiệm chung và giao cho Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Lao động –
Thương binh và Xã hội tỉnh là cơ quan chủ trì, phối hợp với các sở ngành có
liên quan trong việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ được giao. Sự phối hợp
bước đầu đã mang lại nhiều hiệu quả tích cực, tạo ra cơ chế trách nhiệm của
mỗi cơ quan trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
Trong công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề tại tỉnh Kiên Giang
hiện nay, được sự quan tâm rất lớn từ các cấp các ngành cũng như sự quan
tâm chỉ đạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh Kiên Giang, hệ thống
chính sách, pháp luật hiện nay đã qui định khá đầy đủ, tạo hành lang pháp lý
cho hoạt động quản lý nhà nước về đào tạo nghề.
2.3.2. Những tồn tại trong công tác quản lý nhà nƣớc về đào tạo
nghề cho ngƣời dân tộc thiểu số
- Hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo nghề nói chung còn thấp, dẫn
đến việc nguồn lực sử dụng lãng phí, vì cả hai ngành (Giáo dục – Đào tạo và
Lao động – Thương binh và xã hội) cùng làm những công việc như nhau
trong quản lý đào tạo nghề cho người lao động trong tỉnh và thậm chí đến các
cơ sở đào tạo. Ban Dân tộc tỉnh chưa xây dựng được đề án đào tạo nghề riêng
để tham mưu Uỷ ban nhân dân tỉnh áp dụng cho vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, cũng như đào tạo nghề cho lao động là người dân tộc thiểu số để có sự ưu
tiên, quan tâm và tập trung hơn đối với đối tượng này...sự phân tán trong quản
lý là bởi hệ thống giáo dục nhà nước ở nước ta nói chung và tại tỉnh Kiên
Giang nói riêng hiện nay khá phức tạp, chưa tinh gọn. Bên cạnh các trường
74
trung cấp chuyên nghiệp, trường Cao đẳng, trường Đại học có tham gia đào
tạo nghề do Bộ Giáo dục - Đào tạo quản lý, còn có các trường nghề do Bộ
Lao động – Thương binh và xã hội quản lý, hoặc có những cơ sở dạy nghề
trực thuộc tỉnh...tham gia đào tạo bao gồm ba trình độ sơ cấp nghề, trung cấp
nghề và Cao đẳng nghề. Khi còn tách bạch và cục bộ về quản lý đào tạo nghề
ắt dẫn đến sự phình ra bộ máy hành chính, nguồn lực phân bổ không hợp lý.
- Trách nhiệm của Nhà nước đối với quản lý đào tạo nghề có nguy cơ
giảm sút, chính sách xã hội hóa đào tạo nghề của nhà nước có một số biểu
hiện tư nhân hóa cực đoan, phủ nhận giáo dục với tư cách lợi ích công biến nó
thành một thứ hàng hóa thuần túy, thuận mua vừa bán theo cung cầu của thị
trường hàng hóa.
- Trong việc quản lý khung chương trình đào tạo, sự mất cân đối trong
xây dựng nội dung, chương trình đào tạo giữa lý thuyết và thực tiễn thực hiện
tồn tại khoảng cách ngày càng gia tăng, làm cho học sinh – sinh viên ra
trường phải đào tạo lại mới có thể sử dụng được gây lãng phí không nhỏ cho
xã hội.
- Tổ chức và hoạt động dạy nghề giữa các vùng, các huyện trong tỉnh
còn mất cân đối, bên cạnh đó là sự mất cân đối giữa trường tư và trường công,
sự phối hợp giữa các cơ sở dạy nghề chưa thực sự toàn diện, hoạt động phân
tán, rời rạc, mà mỗi đơn vị tuân theo lợi ích cục bộ nhiều hơn là quan tâm đến
lợi ích cơ bản và lâu dài trong việc thực hiện mục tiêu chiến lược đào tạo
nghề chung của tỉnh.
- Chế độ chính sách đối với giáo viên dạy nghề còn nhiều bất cập, trong
khi hệ thống giáo dục nhà nước trực thuộc Bộ Giáo dục và đào tạo quản lý là
các trường trung cấp chuyên nghiệp, Cao đẳng, Đại học và nhiều trung tâm
giáo dục thường xuyên, Trung tâm giáo dục kỹ thuật tổng hợp và hướng
nghiệp, với đội ngũ giáo viên đông đảo cũng tham gia đào tạo nghề nhưng
75
không được hưởng lợi từ chương trình ưu tiên cho dạy nghề từ nhà nước.
- Công tác dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động
trong quản lý nhà nước trong tỉnh còn kém hiệu quả, đặc biệt chưa có một cơ
quan chuyên môn nào làm công tác dự báo nhu cầu nhân lực. Tính sơ bộ hiện
nay, chi phí mỗi chương trình tốn từ 150 - 200 triệu đồng và hàng trăm tỷ
đồng từ nguồn ngân sách được chi ra để làm chương trình đào tạo để rồi một
vài năm sau lại phải chỉnh sửa điều chỉnh do nhu cầu thị trường thay đổi. Con
số chi phí để làm chương trình sẽ lớn theo cấp số nhân do mỗi cơ sở đào tạo
phải xây dựng thêm chương trình riêng của mình theo quy định của Luật Giáo
dục.
2.4. Đánh giá chung
2.4.1. Những thành tựu đạt đƣợc trong công tác quản lý nhà nƣớc
về đào tạo nghề
- Về việc ban hành thể chế, chính sách: Công tác quản lý nhà nước về
đào tạo nghề cho người DTTS, được sự quan tâm rất lớn từ các cấp các ngành
cũng như sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp ủy Đảng, chính quyền tỉnh
Kiên Giang, hệ thống chính sách, pháp luật hiện nay đã khá đầy đủ, tạo hành
lang pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho người
DTTS.
- Về tổ chức bộ máy quản lý: Bộ máy quản lý nhà nước về đào tạo nghề
cho người DTTS trên địa bàn tỉnh Kiên Giang hiện nay được tổ chức thống
nhất, trong đó Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Lao động – Thương binh và Xã hội
tỉnh là các cơ quan chủ trì, phối hợp với nhau trong việc thực hiện các mục
tiêu, nhiệm vụ được giao. Sự phối hợp bước đầu đã mang lại nhiều hiệu quả
tích cực, tạo ra cơ chế trách nhiệm của mỗi cơ quan trong việc thực hiện
nhiệm vụ của mình.
76
2.4.2. Những tồn tại hạn chế trong công tác quản lý đào tạo nghề
cho ngƣời dân tộc thiểu số
- Những tồn tại trong công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề:
Trong thời kỳ phát triển công nghiệp như hiện nay hiện nay, nhu cầu
nguồn nhân lực của tỉnh Kiên Giang là rất lớn, trong khi số lượng trường,
trung tâm dạy nghề trên địa bàn tỉnh quá ít. Cơ sở vật chất trang thiết bị còn
thiếu, lạc hậu, đội ngũ giáo viên cơ hữu (được quy đổi) theo chuẩn của Bộ
quy định chưa đảm bảo tỷ lệ 01 GV lý thuyết/20 hs và 01 GV thực hành /18
hs, dẫn đến chất lượng đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu sử dụng của các doanh
nghiệp và thị trường lao động đang cần.
Với quy mô tuyển sinh và khả năng đào tạo của các cơ sở dạy nghề
hiện nay so với nhu cầu sử dụng lao động có trình độ tay nghề các Khu công
nghiệp của tỉnh, của Thành phố Hồ chí Minh và khu Công nghiệp Bình
Dương, cũng như xuất khẩu lao động... Phần lớn lực lượng lao động người
dân tộc thiểu số chưa có trình độ chuyên môn, chủ yếu là lao động phổ thông,
số lao động qua đào tạo nghề chung trong dân tộc thiểu số chỉ đạt khoảng
42,82%, trong khi đó tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề chung của tỉnh là
50,45%. Tỷ lệ lao động người DTTS qua đào tạo nghề chiếm 32,40 % so với
tổng số lao động người DTTS đang làm việc trong ngành kinh tế quốc dân
của tỉnh, trong khi đó lao động qua đào tạo nghề của tỉnh chiếm 40,7 %, cao
hơn lao động đào nghề người DTTS là 8,3%. Trong công tác quản lý nhà
nước về đào tạo nghề tại tỉnh Kiên Giang còn những tồn tại:
+ Trách nhiệm của Nhà nước đối với quản lý giáo dục đào tạo nghề có
nguy cơ giảm sút, chính sách xã hội hóa đào tạo nghề của nhà nước có một số
biểu hiện tư nhân hóa cực đoan, phủ nhận giáo dục với tư cách lợi ích công
77
biến nó thành một thứ hàng hóa thuần túy, thuận mua vừa bán theo cung cầu
của thị trường hàng hóa.
+ Hiệu quả quản lý nói chung còn thấp còn do sự chồng chéo về quản
lý nhà nước về đào tạo nghề, dẫn đến việc nguồn lực sử dụng lãng phí, vì cả
hai ngành (Giáo dục-đào tạo và Lao động TB&XH) cùng làm những công
việc như nhau trong quản lý đào tạo nghề cho người lao động trong tỉnh; có
sự phân tán trong quản lý, nguồn lực phân bổ không hợp lý - nơi có điều kiện
giáo viên thuộc ngành giáo dục quản lý lại rất thiếu nguồn tài chính, nơi thiếu
giáo viên, cơ sở hạ tầng lại được "rót” tiền vào dẫn đến sự thiếu đồng bộ trong
đầu tư gây lãng phí.
Dù hai ngành Giáo dục-Đào tạo và Lao động TB&XH đã chính thức
"bắt tay” phối hợp nhằm nâng cao chất lượng học sinh trung cấp nghề, đảm
bảo đáp ứng yêu cầu mới của xã hội, nhưng khó khăn tồn tại vẫn là vấn đề
không thống nhất cơ quan quản lý nhà nước về GDNN dẫn đến thiếu cơ chế
về trách nhiệm và nhiều lãng phí khác.
+ Tổ chức và hoạt động dạy nghề giữa các vùng, các huyện trong tỉnh
còn mất cân đối; sự phối hợp giữa các cơ sở dạy nghề chưa thực sự toàn diện,
hoạt động phân tán, rời rạc, mà mỗi đơn vị tuân theo lợi ích cục bộ nhiều hơn
là quan tâm đến lợi ích cơ bản và lâu dài trong việc thực hiện mục tiêu chiến
lược chung của tỉnh.
+ Việc quản lý khung chương trình đào tạo, sự mất cân đối trong xây
dựng nội dung, trương trình đào tạo giữa lý thuyết và thực tiễn thực hiện tồn
tại khoảng cách ngày càng gia tăng, làm cho HS – SV ra trường phải đào tạo
lại mới có thể sử dụng được gây lãng phí không nhỏ cho xã hội.
+ Công tác dự báo nhu cầu nhân lực và thông tin thị trường lao động
trong quản lý nhà nước của tỉnh có mặt còn kém hiệu quả, đặc biệt chưa có
một cơ quan chuyên môn nào làm công tác dự báo nhu cầu nhân lực, nhu cầu
78
thị trường lao động. Tính sơ bộ hiện nay, chi phí mỗi chương trình tốn từ 100
- 150 triệu đồng và hàng trăm tỷ đồng từ nguồn ngân sách được chi ra để làm
chương trình đào tạo để rồi một vài năm sau lại phải chỉnh sửa điều chỉnh do
nhu cầu thị trường thay đổi. Con số chi phí để làm chương trình sẽ lớn theo
cấp số nhân do mỗi cơ sở đào tạo phải xây dựng thêm chương trình riêng của
mình theo quy định của Luật Giáo dục.
- Những tồn tại trong quản lý đào tạo nghề tại các cơ sở dạy nghề:
Mục đích công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề về bản chất là
nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả đào tạo nghề của các cơ sở dạy nghề.
Chính vì vậy, để có thể nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về đào tạo nghề
cho người DTTS cũng cần nhìn nhận và hiểu rõ những tồn tại, hạn chế nói
chung của các cơ sở dạy nghề trên địa bàn tỉnh đề từ đó công tác quản lý nhà
nước có thể đưa ra các biện pháp quản lý phù hợp, thiết thực, có hiệu quả đối
với các cơ sở đào tạo nghề. Nhìn chung, các cơ sở dạy nghề cũng còn tồn tại
nhiều hạn chế bất cập như:
+ Đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên còn hạn chế về trình độ chuyên
môn, nghiệp vụ đặc biệt là ứng dụng Tin học, Ngoại ngữ trong công việc.
+ Một số nội dung công việc xử lý giải quyết không thống nhất giữa
các bộ phận trong Nhà trường ít nhiều gây khó khăn cho cán bộ, giáo viên và
học sinh, hạn chế việc công khai chương trình, thời gian đào tạo với người
học. Việc tiếp thu ý kiến học sinh và giáo viên còn chế chưa có phương pháp
cụ thể để điều chỉnh, khắc phục.
+ Kiểm soát quá trình đào tạo và đánh giá kết quả đào tạo còn hạn chế
chế phương thức, phương pháp và nội dung. Phân chia nhiệm vụ đào tạo
thành nhiều công đoạn do các Phòng, Khoa và cá nhân thực hiện, khả năng
phối kết hợp giải quyết công việc rất hạn chế, các công việc tập trung vào một
79
số bộ phận: Phòng đào tạo và các Khoa; Công tác phối hợp giảng dạy với các
hoạt động giáo dục toàn diện chưa được quan tâm.
+ Chưa cụ thể hoá được trách nhiệm của các Phòng, Khoa, cá nhân
trong nhiệm vụ được giao. Chưa xác định được hiệu quả, chất lượng của các
nội dung công việc.
+ Chưa phát huy được tính chủ động sáng tạo của đội ngũ cán bộ quản
lý trong điều hành công việc, Cán bộ giáo viên còn phần nào thụ động với
nhiệm vụ của mình, triển khai là việc mang tính hành chính hoá.
+ Chưa có biện pháp kiểm soát quá trình thực thi nhiệm vụ đào tạo
như: Chất lượng giảng dạy, chất lượng vật tư, điều kiện thực tập còn chưa đáp
ứng được với mục tiêu đào tạo.
+ Tuyển sinh chưa đạt chỉ tiêu được giao.
+ Tình trạng học sinh bỏ học vẫn còn nhiều, tỷ lệ học sinh ra trường
không đúng nghề còn cao, nhất là đào tạo nghề ở lĩnh vực nông nghiệp và phi
nông nghiệp tổ chức ở các địa phương.
Tóm lại, những năm qua tuy nguồn ngân sách Nhà nước của tỉnh đầu tư
cho các cơ sở dạy nghề trong tỉnh tương đối lớn, nhưng so với nhu cầu sử
dụng lao động có tay nghề của các doanh nghiệp tại các Khu công nghiệp
trong tỉnh và nhu cầu học nghề của người lao động rất lớn và không ngừng
đòi hỏi nâng cao về chất lượng, thì các cơ sở dạy nghề hiện nay trên địa bàn
tỉnh chưa đáp ứng được đầy đủ về quy mô, số lượng, chất lượng của thị
trường lao động trong tỉnh đặt ra.
2.4.3. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
2.4.3.1. Nguyên nhân chủ quan
- Những tồn tại hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về đào tạo
nghề cho người DTTS trên địa bàn tỉnh Kiên Giang hiện nay có nhiều nguyên
nhân, về chủ quan là do quan niệm, tư duy về giáo dục xơ cứng, cũ kỹ mà qua
80
nhiều năm vẫn chưa thể chấm rứt hẳn, đó là cái gốc của phần lớn những tồn
tại hiện nay. Tư duy quản lý mang nặng thời bao cấp, tình trạng xin - cho
trong giáo dục đào tạo nghề vẫn còn nặng nề, sự cục bộ giữa nhóm lợi ích chi
phối các hoạt động giáo dục.
- Trong khi xã hội và môi trường quốc tế đã biến đổi rất mạnh mẽ mà
tư duy giáo dục, nhà trường vẫn dựa vào kinh nghiệm mà chưa bám sát thực
tiễn để đào tạo theo nhu cầu của thị trường.
- Một số cơ sở dạy nghề trong tỉnh chỉ chú trọng chạy theo số lượng mà
chưa thực sự quan tâm đến chất lượng. Bất chấp mọi quy định của nhà nước,
khiến cho học sinh sau khi tốt nghiệp không làm được việc và phải qua đào
tạo lại dẫn đến lãng phí lớn cho các doanh nghiệp tuyển dụng.
- Một nguyên nhân nữa cũng không kém phần quan trọng và khó khắc
phục là năng lực yếu kém của bộ máy tham mưu, quản lý và điều hành. Xây
dựng nền giáo dục nghề nghiệp toàn diện, hiệu quả để đáp ứng yêu cầu đòi
hỏi của phát triển KT-XH trong tỉnh thời kỳ toàn cầu hoá và kinh tế tri thức
đòi hỏi một trình độ chuyên nghiệp cao và một tinh thần trách nhiệm lớn của
bộ máy tham mưu, quản lý điều hành.
2.4.3.2. Nguyên nhân khách quan
- Do tỉnh Kiên Giang cũng giống như các tỉnh trong cả nước còn chịu
nhiều ảnh hưởng của chiến tranh để lại, kinh tế chưa phát triển mạnh so với
các tỉnh bạn, các nước trong khu vực và trên thế giới.
- Trong một thời gian dài, kinh tế hộ gia đình chiếm tỷ trọng chủ yếu và
phổ biến tại các huyện trong tỉnh. Do đó việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, cơ cấu lao động trong tỉnh còn gặp nhiều khó khăn, nhất là việc cơ
cấu lao động người DTTS.
- Tổng ngân sách đầu tư cho giáo dục nói chung và cho dạy nghề nói
riêng vẫn còn ở mức thấp và chưa tương xứng. Chính sách chi trả lương cho
81
thầy cô giáo dạy nghề còn thấp, dưới mức sống, mà nguyên nhân là do nguồn
ngân sách chi trả lương còn quá hẹpdẫn đến GV dạy nghề không thể sống
được bằng nghề và phải tìm cách kiếm thêm thu nhập bằng mọi cách như dạy
thêm, làm thêmvà cái giá phải trả đó là chất lượng giáo dục bị hy sinh.
- Mặt bằng dân trí nói chung còn thấp, người dân còn chưa thực sự mặn
mà với các chương trình, dự án đào tạo nghề của Chính phủ nên việc tham gia
hưởng ứng chưa nhiệt tình.
- Những khó khăn về hạ tầng kinh tế - xã hội, giao thông vận tải, mặt
bằng dân trícũng ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng phát triển các chương
trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn, khả năng của người dân trong việc
tiếp cận các chính sách của nhà nước cũng như khả năng triển khai các chính
sách xuống từng hộ dân tại các vùng miền núi, hải đảo, vùng kinh tế xã hội
đặc biệt khó khăn.
82
Chƣơng 3
MỤC TIÊU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
ĐÀO TẠO NGHỀ CHO NGƢỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ TRÊN
ĐỊA BÀN TỈNH KIÊN GIANG
3.1. Một số quan điểm chủ đạo
Để đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đào
tạo nghề cho người dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh kiên Giang theo hướng XHH đào
tạo nghề, phù hợp với chủ trương đổi mới quản lý giáo dục của nhà nước ta phải căn cứ
vào một số quan điểm sau đây:
3.1.1. Quán triệt chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nƣớc về đào tạo nghề
Trong quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho người dân tộc thiểu số cần
thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng; trong sự nghiệp xã
hội hóa công tác đào tạo nghề được xem là nền tảng, định hướng cho các cơ
quan quản lý nhà nước thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình theo đúng định
hướng của Đảng và Nhà nước. Thực hiện đổi mới quản lý nhà nước về đào tạo
nghề, chuyển đổi từ quản lý kiểu hành chính, sự vụ theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, quan liêu truyền thống sang quản lý chất lượng theo cơ chế thị trường.
Các giải pháp phải góp phần thực hiện chủ trương xã hội hóa đào tạo nghề của
Nhà nước ta trong bối cảnh mới, đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động
trong nước, khu vực và thế giới.
3.1.2. Công tác đào tạo nghề phải có tính kế thừa
Công tác quản lý nhà nước về giáo dục nói chung và quản lý nhà nước về
đào tạo nghề nói riêng cần không ngừng được đổi mới nhằm hoàn thiện và nâng
cao hiệu quả quản lý. Đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng đòi hỏi phải thực hiện
trong một quá trình lâu dài và thay đổi linh hoạt tùy vào từng thời điểm cụ thể,
do đó các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về đào tạo nghề phải thực
83
hiện trên cơ sở kế thừa những thành tựu đã đạt được đồng thời phải biết chọn lọc
những cái mới, phù hợp hơn để đổi mới từng bước, từng bộ phận, không thể
nóng vội, xóa bỏ hết cái cũ để làm lại mới từ đầu. Đề tài xây dựng trên cơ sở kế
thừa và phát triển các thành tựu trong nhiệm vụ quản lý nhà nước về đào tạo
nghề nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho người dân
tộc thiểu số ở tỉnh Kiên Giang từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo.
3.1.3. Công tác đào tạo nghề phải có tính khả thi
Các giải pháp quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho người dân tộc
thiểu số ở tỉnh Kiên Giang được đề xuất phải có khả năng áp dụng vào thực
tiễn để đổi mới quản lý nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở dạy
nghề trong tỉnh một cách thuận lợi, trở thành hiện thực và có kết quả. Để bảo
đảm tính khả thi, các giải pháp được đề xuất phải căn cứ vào khả năng và
điều kiện cụ thể của tỉnh, của từng địa phương để thực hiện các giải pháp
một cách có hiệu quả nhất.
3.2. Mục tiêu đào tạo
3.2.1. Mục tiêu tổng quát
- Từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo, đào tạo nghề đáp ứng
được nhu cầu của thị trường lao động cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu
ngành nghề và trình độ đào tạo; hình thành đội ngũ lao động có tay nghề, góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh (PCI ) cấp tỉnh; đào tạo nghề cho người
lao động, góp phần thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động, nâng cao thu
nhập, giảm nghèo bền vững, đảm bảo an sinh xã hội.
- Thực hiện đào tạo nghề theo nhu cầu của doanh nghiệp và yêu cầu
của thị trường lao động, tập trung đào tạo theo hướng chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, đáp ứng nhu cầu phát triển nguồn nhân lực; đào tạo gắn với giải quyết
việc làm cho các khu, cụm công nghiệp, khu du lịch, các doanh nghiệp và gắn
với sản xuất nông nghiệp của nông dân; gắn đào tạo với chiến lược, kế hoạch
84
phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch xây dựng xã nông thôn mới, đáp ứng
nhiệm vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp.
- Tập trung đẩy mạnh phát triển đa ngành nghề đào tạo gắn với quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở các tiểu vùng trong tỉnh, nhu cầu sử dụng
lao động của các doanh nghiệp và cung ứng lao động cho các khu, cụm công
nghiệp và khu du lịch trong thời gian tới.
- Đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã có bản
lĩnh chính trị, có trình độ năng lực, có phẩm chất đáp ứng yêu cầu công việc
quản lý hành chính, quản lý điều hành kinh tế - xã hội phục vụ nhân dân.
- Tạo môi trường thuận lợi để người lao động có cơ hội lựa chọn ngành
nghề, phát huy được năng lực sở trường của người lao động.
- Công tác đào tạo, dạy nghề phải tạo ra đội ngũ lao động có trình độ
chuyên môn kỹ thuật cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
3.2.2. Mục tiêu cụ thể
Giai đoạn 2016 - 2020, đào tạo mới lao động người dân tộc thiểu số là
24.300 người, bình quân hàng năm đào tạo 4.860 người/năm; đưa tỷ lệ lao
động người DTTS qua đào tạo chung từ 32,40% năm 2015 lên 50-55% vào
năm 2020. Trong đó, đào tạo nghề cho lao động nông thôn giai đoạn 2016-
2020 là 9.734 người (bình quân 1.946 người/năm), gồm hai lĩnh vực:
+ Lao động đào tạo nghề thuộc lĩnh vực phi nông nghiệp: 5.620 người;
+ Lao động đào tạo nghề thuộc lĩnh vực nông nghiệp: 4.114 người;
Sau đào tạo tỷ lệ lao động người DTTS có việc làm mới hoặc việc làm
cũ có thu nhập cao hơn đạt từ 72-80%.
3.3. Những giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về đào tạo
nghề cho ngƣời dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
Để công tác đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh Kiên Giang đạt được hiệu
quả cao, vai trò quản lý của nhà nước về đào tạo nghề là không thể thiếu, và
85
đòi hỏi phải có giải pháp khoa học, phù hợp và không ngừng được hoàn thiện.
Hiện nay, phạm vi của các chương trình đào tạo nghề và đào tạo nâng cao đều
chưa thể đáp ứng được nhu cầu và định hướng trong tương lai, và có xu
hướng không linh hoạt. Trong quá trình quản lý nhà nước về đào tạo nghề nói
chung và quản lý nhà nước về đào nghề cho người DTTS nói riêng, chúng ta
cần nhận thức được những vấn đề này và nỗ lực nhằm cải cách, hoàn thiện và
mở rộng hệ thống đào tạo nghề, trong đó các biện pháp cần được chú trọng là:
3.3.1. Nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành và xã hội về đào
tạo nghề cho ngƣời dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
Tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức về xã hội hóa dạy nghề
thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: Đài phát thanh - Truyền
hình tỉnh, Báo tỉnh và các cơ quan thông tin đại chúng, các tổ chức chính trị -
xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp trong tỉnh và các cở dạy nghề tuyên
truyền sâu rộng chủ trương, chính sách về xã hội hóa dạy nghề để các cấp
chính quyền, các cơ quan, đơn vị, các thành phần kinh tế và nhân dân có nhận
thức đúng, đầy đủ và tham gia thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hóa
trong lĩnh vực dạy nghề cho người lao động trong tỉnh nói chung lao động
người DTTS nói riêng. Tuyên truyền, nhân rộng các mô hình hay, các điển
hình tiên tiến về xã hội hóa dạy nghề nhằm mục đích:
+ Trước hết giúp cho xã hội nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của đào
tạo nghề đối với sự phát triển KT-XH, thấy rõ thực trạng dạy nghề của địa
phương, bộ ngành, nhận thức rõ trách nhiệm xã hội đối với sự nghiệp đào tạo
nghề cho lao động người DTTS;
86
+ Tạo sự quan tâm và thu hút nhiều nguồn lực xã hội để mở rộng đối
tượng, các thành phần kinh tế và các lực lượng xã hội cộng đồng trách nhiệm
cùng nhà nước tham gia phát triển đào tạo nghề.
+ Tạo điều kiện để mọi người trong xã hội tham gia quản lý, giám sát
các tổ chức, cơ sở dạy nghề, các cơ quan quản lý nhà nước về đào tạo nghề.
3.3.2. Tiếp tục hoàn thiện thể chế chính sách về đào tạo nghề trên
địa bàn tỉnh Kiên Giang
Trong quản lý nhà nước về đào tạo nghề, Thể chế chính sách có vai trò
quan trọng trong việc khuyến các cơ sở dạy nghề phát triển, do đó nhà nước
cần tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế chính sách của nhà nước
về đào tạo nghề, bên cạnh các thể chế chính sách hiện có cần được tiếp tục
hoàn thiện bổ sung, trong đó các giải pháp cơ chế chính sách cụ thể cần được
xem xét là:
- Hoàn thiện môi trường pháp lý và chính sách cho hoạt động giáo dục
đào tạo nghề cũng như hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về dạy nghề,
xây dựng chiến lược phát triển đào tạo nghề cho người DTTS thiểu số giai
đoạn 2015 - 2020, xây dựng và chỉ đạo thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát
triển đào tạo nguồn nhân lực người DTTS thiểu số nhằm đáp ứng nhu cầu
của người học và nhân lực của tỉnh trong từng giai đoạn; triển khai hệ thống
đảm bảo chất lượng, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra giáo dục.
- Đổi mới cơ chế quản lý nhà nước về đào tạo nghề theo hướng phối
hợp với các Bộ, ban ngành và địa phương trong quản lý các cơ sở giáo dục.
Thực hiện phân cấp quản lý mạnh đối với các địa phương và các cơ sở giáo
dục; nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ sở đào tạo về nội
dung đào tạo, tài chính, nhân sự; hoàn thiện mô hình, cơ chế hoạt động và
87
nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ sở dạy nghề, thực hiện quyền tự chủ
và trách nhiệm xã hội của các cơ sở dạy nghề. Triển khai thực hiện Thông tư
liên tịch số 35/2008/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 14/7/2008 của Bộ GDĐT và
Bộ Nội vụ quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Sở GDĐT và Phòng GDĐT đối với tất cả 63/63 tỉnh, thành phố và Thông
tư liên tịch số 07/2009/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 15/4/2009 về hướng dẫn
thực hiện quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức
bộ máy, biên chế đối với đơn vị sự nghiệp công lập giáo dục và đào tạo;
- Cải cách, tinh giảm các thủ tục hành chính nhằm tạo ra cơ chế quản
lý gọn nhẹ, hiệu quả. Thực hiện công khai hoá về chất lượng đào tạo, nguồn
lực cho đào tạo nghề và tài chính của các cơ sở dạy nghề, thực hiện giám sát
xã hội đối với chất lượng và hiệu quả của các cơ sở đào tạo nghề. Triển khai
Quy chế thực hiện công khai đối với các cơ sở đào tạo nghề.
- Thực hiện chuẩn hoá trong giáo dục nghề nghiệp, chuẩn nghiệp vụ
giáo viên trung cấp chuyên nghiệp. Tiếp tục hoàn thiện việc đánh giá giáo
viên và cán bộ trong ngành.
3.3.3. Đánh giá, dự báo, lập quy hoạch, kế hoạch và nghiên cứu về
đào tạo nghề gắn với thực tiễn ở tỉnh Kiên Giang
Năng lực dự báo thị trường lao động trong tỉnh thời gian qua được nâng
cao, các kết quả dự báo thị trường lao động đã được sử dụng rộng rãi, phục vụ
việc hoạch định chính sách phát triển KT – XH trong tỉnh, song công tác đánh
giá, dự báo về nhu cầu nhân lực hiện tại vẫn còn rất yếu do chưa có cơ quan
chuyên môn độc lập thực hiện nhiệm vụ này mà chủ yếu do các đơn vị sử
dụng lao động, các cơ sở dạy nghề, các khu công nghiệpdự báo trên cơ sở
các tiêu chí của tổ chức mình, các thông tin dự báo còn thiếu nghiêm trọng
88
các dự báo cụ thể về nhu cầu nguồn nhân lực theo số lượng, ngành nghề, trình
độ, kỹ năng chưa có phương pháp dự báo thống nhất, khoa học về tình hình
cũng như nhu cầu lao động trong trong tương lai. Điều này gây khó khăn cho
công tác sắp xếp, quy hoạch và phát triển các cơ sở dạy nghề cũng như việc
phân bổ các nguồn lực trong từng giai đoạn nhất định, làm ảnh hưởng đến
chất lượng và hiệu quả đào tạo đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động
Do đó, trong thời gian tới cần thành lập một cơ quan chuyên trách có
đầy đủ các công cụ, phương tiện cũng như các chuyên gia giỏi làm công tác
dự báo, điều này giúp công tác đánh giá, dự báo được chính xác hiệu quả hơn,
làm cơ sở để ra các quyết sách phù hợp. Nâng cao trình độ, năng lực cho cán
bộ làm công tác dự báo; phối hợp với các tổ chức, chuyên gia quốc tế trong
thực hiện phân tích, xây dựng mô hình dự báo thị trường lao động phù hợp
với điều kiện KT-XH của tỉnh Kiên Giang. Bên cạnh đó, cũng cần thành lập
mạng thông tin quản lý nguồn nhân lực tổng hợp về thị trường lao động trong
tỉnh, gồm hệ thống thông tin về giáo dục đào tạo, hệ thống thông tin thị
trường lao động; đẩy mạnh xã hội hóa để tăng cường huy động các nguồn vốn
cho phát triển đào tạo nghề, tăng đầu tư phát triển cả về giá trị tuyệt đối và tỷ
trọng trong tổng nguồn vốn đầu tư toàn tỉnh.
Ngoài ra, cần xây dựng kế hoạch tổ chức và triển khai Chiến lược phát
triển giáo dục và Chiến lược phát triển dạy nghề của tỉnh, thời kỳ 2015-2020.
Chiến lược phát triển giáo dục và Chiến lược phát triển dạy nghề của tỉnh
phải thể hiện yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo theo nhu
cầu phát triển của các ngành kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế xuất trong
tỉnh; nâng cao chất lượng đào tạo theo yêu cầu chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp CNH –
HĐH của tỉnh cũng như của cả nước.
89
3.3.4. Đào tạo và nâng cao năng lực cho cán bộ công chức làm công
tác quản lý nhà nƣớc về đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
Xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về đào tạo nghề đủ về số
lượng và đáp ứng yêu cầu về chất lượng là nhiệm vụ trọng tâm xuyên suốt
mọi thời kỳ phát triển KT-XH của tỉnh, do đó phải tiến hành thực hiện đồng
bộ, từng bước nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý. Tiếp tục đổi mới
phương pháp quản lý. Chuẩn hóa trong đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn và sử
dụng cán bộ quản lý đào tạo nghề. Đảm bảo chính sách, chế độ đối với cán
bộ làm công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề cho người DTTS thiểu số.
Các giải pháp cụ thể cần thực hiện là:
- Xây dựng khung chế độ chính sách đặc thù cho đội ngũ cán bộ làm
công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề, đảm bảo mức thu nhập khá để họ
yên tâm thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
- Có chính sách cụ thể nhằm thu hút người có năng lực vào làm việc tại
các cơ quan chuyên môn thực hiện chức năng quản lý nhà nước về đào tạo
nghề cho người DTTS thiểu số;
- Thường xuyên trao đổi, học tập kinh nghiệm quản lý giữa các địa
phương trong nước, cử các đoàn cán bộ quản lý đi tham quan, học tập ngoài
nước.
3.3.5. Đổi mới và phát triển chƣơng trình dạy nghề tại các cơ sở
dạy nghề trong tỉnh
Phát triển nhân lực trong tỉnh phải kết hợp hài hòa đảm bảo công bằng
và lợi ích chung của xã hội. Đặc biệt, phải chuyển nhanh hệ thống đào tạo
nhân lực sang hoạt động theo cơ chế đào tạo theo nhu cầu của xã hội và thị
trường lao động của tỉnh, nhất là các ngành kinh tế trọng điểm. Do vậy, về nội
dung, chương trình đào tạo cũng cần bám sát các nội dung:
90
- Tiếp tục phát triển chương trình giảng dạy theo Modul và đưa chương
trình, giáo trình giảng dạy tiên tiến vào các cơ sở dạy nghề. Thu hút, tuyển
chọn, đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ giáo viên dạy nghề đủ về số lượng, phù hợp
với cơ cấu ngành nghề đào tạo, đảm bảo chất lượng, có khả năng tiếp thu và
ứng dụng khoa học và công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng dạy nghề.
- Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, chú trọng giáo dục
đạo đức, lối sống, tác phong lao động, năng lực làm việc độc lập, sáng tạo, kỹ
năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo
dục, đào tạo ở các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp
chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình, nhà nước và xã hội.
- Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình và phương pháp dạy và học
ở tất cả các cơ sở dạy nghề, các cấp độ đào tạo.
- Tăng quy mô giáo dục trung học phổ thông và phát triển mạnh mẽ dạy
nghề, nhất là các huyện có đông người DTTS thiểu số sinh sống.
- Đối với những ngành nghề có chuyên môn sâu, phức tạp cần có
phương pháp đào tạo thích hợp, thực hiện “cầm tay chỉ việc” để người DTTS
thiểu số có thể nhận thức nắm bắt được nội dung một cách nhanh chóng.
- Tăng thời lượng thực hành tại doanh nghiệp, cơ sở sản xuất. Để làm
được điều này cần đẩy mạnh công tác hợp tác với các doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh nhằm thu hút sự quan tâm, ủng hộ của các doanh nghiệp tham gia
vào đào tạo nghề cho người DTTS thiểu số.
91
3.3.6. Đa dạng và tăng cƣờng các nguồn lực đầu tƣ, đổi mới cơ chế
chính sách, tài chính đối với công tác đào tạo nghề cho ngƣời dân tộc
thiểu số trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
Để đảm bảo tài chính cho hoạt động dạy nghề, cần thực hiện thông qua:
+ Nguồn từ NSNN: Đây là nguồn tài chính giữ vai trò chủ đạo và tăng
dần tỷ lệ % qua các năm trong tổng ngân sách chi cho Giáo dục, đồng thời với
đó cần đẩy mạnh huy động các nguồn tài chính khác: Vốn vay ODA, viện trợ
nước ngoài...
+ Nguồn từ huy động sự tham gia đầu tư xây dựng của các tổ chức, cá
nhân và các doanh nghiệp trong xã hội trong sự nghiệp XHH đào tạo nghề
của tỉnh.
+ Nguồn thu từ học phí: Đây là nguồn thu quan trọng đối với các cơ sở
dạy nghề, đặc biệt là đối với các cơ sở dạy nghề ngoài công lập. Việc xác định
mức thu, cơ chế quản lý sử dụng phải được thực hiện theo quy định của Chính
phủ ban hành khung học phí đối với từng năm học cụ thể, đồng thời cần được
tiếp tục nghiên cứu bổ sung, sửa đổi các cơ chế chính sách phù hợp nhằm tạo
điều kiện cho lao động người DTTS thiểu số nghèo và cận nghèo có cơ hội
được học nghề.
+ Động viên các khoản đóng góp tự nguyện, từ thiện cho hoạt động dạy
nghề của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
3.3.7. Đẩy mạnh xã hội hóa về đào tạo nghề tại tỉnh Kiên Giang
Phát triển nhân lực người DTTS là sự nghiệp, là trách nhiệm của toàn
xã hội. Đó vừa là quy luật khách quan vừa là nguyên tắc phát triển nguồn
nhân lực người DTTS có tay nghề, huy động các nguồn lực xã hội, thực hiện
công bằng và bình đẳng về cơ hội hưởng thụ, góp phần làm cho mọi người,
mọi thành phần xã hội có cơ hội học nghề thường xuyên, liên tục, suốt đời với
những mục đích, yêu cầu và hình thức khác nhau.
92
Xã hội hóa giáo dục đào tạo nói chung và đào tạo nghề cho người
DTTS thiểu số nói riêng là một tư tưởng chiến lược, một bộ phận của đường
lối phát triển giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước. Khái niệm xã hội hóa
(XHH) được dùng trong nhiều lĩnh vực với nhiều ý nghĩa. XHH dạy nghề là
việc huy động nguồn lực của toàn xã hội tham gia vào lĩnh vực đào tạo nghề
để hình thành nền giáo dục nghề nghiệp trong xã hội. XHH đào tạo nghề giúp
huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội tham gia và công tác xã hội hóa
trong đào tạo nghề tại tỉnh Kiên Giang.
Thực hiện chính sách khuyến khích XHH hoạt động dạy nghề theo
Nghị định 69/2008/NĐ-CP ngày 30/5/2008 của Chính phủ về chính sách
khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy
nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường và Thông tư 135/2008/TT-BTC ngày
31/12/2008 hướng dẫn thực hiện Nghị định 69/2008/NĐ-CP;
Hội đồng nhân dân tỉnh đã có Nghị quyết 22/2011-NQ-HĐND đẩy
mạnh phát triển nguồn nhân lực tỉnh Kiên Giang, đẩy mạnh XHH trong công
tác đào tạo nghề cho người lao động trong tỉnh. Nhà nước thực hiện chức
năng quản lý vĩ mô, định hướng, dẫn dắt bằng hệ thống khung khổ pháp lý và
chính sách khuyến khích phát triển nhân lực, thực hiện các chương trình phổ
cập giáo dục bắt buộc, hỗ trợ bồi dưỡng phát triển nhân tài và thực hiện công
bằng xã hội trong phát triển nhân lực, hỗ trợ phát triển các nhóm nhân lực đặc
thù, nhất là đối với những đối tượng chính sách xã hội, người dân tộc thiểu số,
các nhóm dân cư dễ bị tổn thương (người tàn tật, người nghèo, cận nghèo,
nông dân chuyển đổi việc làm ). Mỗi công dân, mỗi tổ chức kinh tế, xã hội
trong tỉnh cần có trách nhiệm tham gia tích cực vào phát triển nhân lực của
tỉnh. Thu hút các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh tham gia mạnh vào phát
triển nhân lực của tỉnh.
93
Hiện nay, số lượng các cơ sở đào tạo nghề trên địa bàn tỉnh vẫn còn ít,
phần lớn quy mô còn nhỏ, năng lực về cơ sở vật chất, trang thiết bị, giáo viên
còn thiếu và yếu... Nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước của tỉnh vẫn
chiếm tỷ lệ rất cao trong cơ cấu tổng đầu tư cho dạy nghề, chưa huy động
được hết tiềm năng của các tổ chức, cá nhân trong xã hội tham gia đầu tư vào
lĩnh vực dạy nghề.. Để khắc phục tình trạng trên đồng thời đáp ứng được yêu
cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển KT-XH của tỉnh trong thời gian
tới, cần phải tăng cường nguồn lực đầu tư cho dạy nghề. Trong điều kiện ngân
ngân sách có hạn so với yêu cầu đòi hỏi của phát triển đào tạo nghề cho lao
động người DTTS trong tỉnh rất lớn. Do đó việc thực hiện Đề án phát triển xã
hội hoá dạy nghề nhằm huy động các nguồn lực trong xã hội đầu tư hoạt động
dạy nghề là một đòi hỏi khách quan và cần thiết.
Các giải pháp cụ thể cần thực hiện là:
- Xây dựng quy hoạch phát triển xã hội hóa dạy nghề trên cơ sở củng
cố các cơ sở dạy nghề hiện có, thành lập mới Trung tâm dạy nghề công lập ở
các huyện miền núi, khuyến khích thành lập các cơ sở dạy nghề ngoài công
lập, các hình thức dạy nghề bên cạnh doanh nghiệp và dạy nghề tại các làng
nghề.
- Nghiên cứu từng bước sáp nhập Trung tâm Hướng nghiệp tổng hợp -
Dạy nghề (do ngành Giáo dục và Đào tạo quản lý) với Trung tâm Dạy nghề ở
các huyện.
- Khuyến khích việc hợp tác, liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo có
chất lượng cao kể cả trong và ngoài nước. Thực hiện thí điểm cho các tổ chức
và cá nhân thuê cơ sở dạy nghề do nhà nước đầu tư với giá ưu đãi, nhằm hỗ
trợ quá trình xã hội hóa ở những nơi kinh tế chưa phát triển hoặc có những
94
biện pháp chuyển đổi cơ chế hoạt động của cơ sở dạy nghề công lập hoạt
động kém hiệu quả. Kêu gọi và khuyến khích các cơ sở dạy nghề 100% vốn
nước ngoài đầu tư vào trong tỉnh.
- Làm cho đào tạo nghề phù hợp với quá trình phát triển KT-XH của
đất nước cũng như của mỗi tỉnh. Kế hoạch đào tạo nghề phải nằm trong kế
hoạch phát triển KT-XH của cả nước, của từng ngành và từng lĩnh vực. Mục
tiêu đào tạo nghề trước hết phải xuất phát từ mục tiêu phát triển KT-XH của
đất nước và giải quyết các vấn đề xã hội.
3.3.8. Kiểm tra, kiểm định chất lƣợng đối với các cơ sở dạy nghề
trên địa bàn tỉnh Kiên Giang
Mục tiêu của kiểm tra, kiểm định chất lượng đối với các cơ sở dạy nghề
trong tỉnh nhằm đánh giá, xác định mức độ thực hiện mục tiêu, chương trình,
nội dung dạy nghề đối với cơ sở dạy nghề. Do đó cần được thực hiện định kỳ
đối với cơ sở dạy nghề trong tỉnh. Kết quả kiểm định được cơ quan quản lý
nhà nước dùng làm căn cứ đánh giá, quản lý, và đưa ra các quyết định phù
hợp trong công tác quản lý nhà nước về đào tạo nghề nhằm nâng cao chất
lượng hiệu quả của công tác đào tạo nghề trong tỉnh. Mặt khác kết quả đó cần
được công bố công khai để người học nghề, xã hội biết và giám sát.
Để thực hiện có hiệu quả việc kiểm tra, kiểm định chất lượng đối với
các cơ sở dạy nghề, từ phía các cơ quan quản lý nhà nước về đào tạo nghề
trong tỉnh cần:
- Tăng cường quản lý Nhà nước về xã hội hóa dạy nghề, công tác thanh
tra, kiểm tra, kiểm định chất lượng đào tạo nghề tại các cơ sở dạy nghề.
95
- Xây dựng chương trình và có biện pháp quản lý chặt chẽ hoạt động
của cơ sở dạy nghề công lập, ngoài công lập, bảo đảm đúng mục đích, nội
dung hoạt động và chất lượng dịch vụ theo quy định của từng chuyên ngành.
- Thực hiện nghiêm túc việc kiểm định chất lượng dạy nghề; kiểm tra
đánh giá cấp văn bằng, chứng chỉ nghề.
- Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra đối với các cơ sở dạy nghề
theo đúng quy định của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ban hành về
hoạt động dạy nghề.
- Quy định chế độ và trách nhiệm thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm của
các cấp, đồng thời phát huy dân chủ ở cơ sở để giám sát công tác quản lý dạy
nghề của các cấp.
Nhiệm vụ của cơ sở dạy nghề trong việc thực hiện kiểm định chất
lượng dạy nghề:
- Xây dựng và thực hiện kế hoạch dài hạn, kế hoạch hàng năm về nâng
cao chất lượng dạy nghề.
- Tổ chức tự kiểm định chất lượng dạy nghề theo tiêu chuẩn, quy trình
kiểm định chất lượng dạy nghề.
- Cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ hoạt động kiểm định chất lượng
dạy nghề khi cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề thực hiện kiểm định tại
cơ sở mình.
3.3.9. Tăng cƣờng hợp tác quốc tế về đào tạo nghề
Hợp tác quốc tế về dạy nghề được thực hiện theo quy định tại Điều 108
và Điều 109 của Luật giáo dục.
96
Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển nhân lực, trong
đó tập trung ưu tiên xây dựng các cơ sở đào tạo đạt trình độ quốc gia và phấn
đấu vươn tầm khu vực, đào tạo đội ngũ nhân lực trình độ cao, đặc biệt trong
các ngành trọng điểm các nghề mới hiện đại đạt trình độ của các nước tiên
tiến,. Tăng cường công nhận tương đương bằng cấp giữa Việt Nam và các
nước. Tăng cường hợp tác quốc tế về công tác kiểm định và đảm bảo chất
lượng. Tiếp tục triển khai các chương trình đào tạo tiên tiến với chất lương
cao, đảm bảo tính khả thi, hiệu quả.
Thực hiện hợp tác quốc tế về phát triển nhân lực theo các hướng chủ
yếu sau:
- Hợp tác đào tạo nhân lực chung: Tăng cường gửi người trong tỉnh đi
đào tạo ở nước ngoài (bằng nguồn ngân sách nhà nước, khuyến khích du học
tự túc, khuyến khích các cơ sở đào tạo nghề trong tỉnh mở rộng hợp tác, liên
kết đào tạo với các cơ sở đào tạo ở nước ngoài và tranh thủ các nguồn viện trợ
quốc tế) gắn với nâng cao hiệu quả và định hướng ngành nghề (tập trung vào
những ngành nghề mới, hiện đại và ngành nghề trong nước chưa đào tạo được
và có đào tạo nhưng chất lượng còn thấp). Đồng thời, chú trọng mở rộng đào
tạo ở trong tỉnh bằng các nguồn lực ở nước ngoài (vốn, công nghệ, đội ngũ
giảng viên ) để nhanh chóng đào tạo các nhóm nhân lực đáp ứng yêu cầu
đỏi hỏi phát triển KT – XH của tỉnh
- Hợp tác trong các lĩnh vực đào tạo chuyên gia quản lý: Mở rộng hợp
tác quốc tế để đào tạo đội ngũ nhân lực quản lý hành chính công, quản trị
doanh nghiệp, kiểm toán đối với cán bộ làm công tác quản lý nghề trong
tỉnh, đáp ứng yêu cầu đổi mới hành chính nhà nước và nâng cao năng lực
quản lý nhà nước cho cán bộ công thức quản lý đào tạo nghề.
97
KẾT LUẬN
Trong những năm qua, nền kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang có nhiều
chuyển biến tích cực, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được
giữ vững, ổn định; đã đào tạo và tạo được nhiều việc làm cho lao động nông
thôn nói chung và lao động người dân tộc thiểu số nói riêng, góp phần nâng
cao thu nhập và nâng cao mức sống của người dân, dần dần từng bước xóa hộ
đói, giảm hộ nghèo trên toàn tỉnh.
Tuy nhiên, trình độ lao động người dân tộc thiểu số trên địa bàn vẫn
còn thấp, vì vậy vấn đề đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động dân tộc
thiểu số, tạo việc làm cho họ đang là vấn đề bức xúc hiện nay.
Để triển khai thực hiện công tác đào tạo lao động người dân tộc thiểu
số, trước mắt hoàn thiện chính sách phát triển nguồn nhân lực, tạo việc làm
cho người dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh việc đào tạo nghề để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực; ưu tiên việc dạy nghề, đào tạo lao động tại chỗ, tạo
điều kiện cho lao động người dân tộc thiểu số có nghề, có việc làm ổn định.
Chỉ khi nào người dân tộc thiểu số có được một trình độ học vấn, trình độ dân
trí cao thì khi đó họ mới có đủ điều kiện vượt qua nghèo nàn, lạc hậu và góp
phần vào sự nghiệp chung của tỉnh. Với các đặc điểm của tỉnh, chúng ta cũng
nên hiểu rằng để thực hiện thành công công cuộc đổi mới đối với vùng đồng
bào dân tộc thiểu số là phải đào tạo được đội ngũ lao động người dân tộc
thiểu số đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng và có việc làm ổn định.
Tạo nguồn lực người dân tộc thiểu số là chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước, vì thế cần có sự quan tâm đặc biệt, tạo sự công bằng, bình đẳng,
tạo cơ hội, điều kiện cho các dân tộc thiểu số tiếp cận với tri thức khoa học,
nâng cao trình độ, làm chủ bản thân, làm chủ buôn làng, phum sóc, làm chủ
đất nước.
98
Những vấn đề đặt ra trong đề tài này là rất rộng, trong đó một phần nhờ
vào kết quả tiếp thu bài giảng của Thầy, Cô giáo, từ những tư liệu tham khảo
như sách, báo, các Nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Hội đồng nhân dân
tỉnh, Kế hoạch của Uỷ ban nhân dân tỉnh về phát triển nguồn nhân lực của
tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2001-2005, 2006-2010, 2010-2015 và tầm nhìn đến
năm 2020; thông tin, báo cáo của các sở ngành có liên quan, và dựa vào thực
tế công tác của bản thân, đặc biệt là nhờ sự hướng dẫn tận tình của cô TS.
Nguyễn Thị Hường trong suốt thời gian qua. Những kết luận rút ra từ đề tài
hy vọng sẽ góp phần tạo thêm giải pháp đào tạo cho lao động người dân tộc
thiểu số, giúp thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội của tỉnh.
Do trình độ, kiến thức của bản thân còn hạn chế và thời gian nghiên
cứu chưa nhiều, nên luận văn không tránh khỏi những sai sót. Kính mong
nhận được những ý kiến đóng góp của Quý Thầy Cô giáo, bạn bè, đồng
nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn./.
99
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
01. Bộ trưởng Bộ Lao động – thương binh và xã hội, 2011, Quyết định
Số 826/QĐ-LĐTBXH, phê duyệt nghề trọng điểm và trường được lựa chon
nghề trọng điểm để hỗ trợ đầu tư từ chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn
2011 – 2015;
02. Bộ Lao động- thương binh và xã hội, 2011, Thông tư số
15/2011/TT-BLĐTBXH, quy định tổ chức và quản lý việc đánh giá, cấp
chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia;
03. Bộ trưởng Bộ lao động – Thương binh và xã hội, 2006, Quyết định
Số 07QĐ-BLĐTBXH Phê duyệt "Quy hoạch phát triển mạng lưới trường cao
đẳng nghề, trường trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề đến năm 2010 và định
hướng đến năm 2020;
04. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2008, Nghị
định 69/2008/NĐ-CP, chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt
động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hoá, thể thao, môi trường;
05. Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 2005, Nghị
quyết 05/NQ-CP đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá
và thể dục thể thao;
06. Nguyễn Tiến Dũng (2013), Chiến lược, chính sách phát triển dạy
nghề, Nxb. Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội.
07. Đại hội đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Kiên Giang lần thứ I (
2009-2014) lần thứ II (2014-2019).
08. Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực
trong thế kỷ XXI, Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
09. Lê Thị Thanh Hà (2009), Hoàn thiện chính sách đào tạo nghề ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận văn Thạc sỹ Hành chính công, Học
viện Hành chính quốc gia, Hà Nội.
100
10. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và Nguồn nhân lực
đi vào Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Học viện Hành chính Quốc gia (2005), Quản lý nguồn nhân lực xã
hội, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
12. Hội thảo Thực trạng hướng nghiệp, dạy nghề và xây dựng Mô hình
đào tạo nghề cho phụ nữ dân tộc thiểu số khu vực Tây Nam Bộ, tổ chức tại thị
xã Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang Ngày 29/1/2016. Cơ quan Viện Dân tộc - Ủy ban
Dân tộc phối hợp với Vụ Địa phương III và Ban Dân tộc tỉnh Kiên Giang tổ
chức. PGS.TS Ngô Quang Sơn, Viện trưởng Viện Dân tộc, Chủ nhiệm đề tài.
13. Hội thảo khoa học “Mối quan tâm của doanh nghiệp với công tác
đào tạo nghề, giải quyết việc làm và giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao
động” Ths. Võ Ngọc Thứ, Giám đốc Sở Lao động – thương binh vả xã hội,
chủ nhiệm Đề tài.
14. Hội thảo: “Đào tạo nhân lực – những thuận lợi và trở ngại”do Hội
Khoa học Phát triển nguồn nhân lực - nhân tài Việt Nam tổ chức, Hà Nội,
ngày 1-7-2011.
15. Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang, 2007, Nghị quyết số 44/NQ-
HĐND Chương trình phát triển nguồn nhân lực tỉnh Kiên Giang đến năm
2020;
16. Hội đồng nhân dân tỉnh Kiên Giang, 2010, Nghị quyết số 149/NQ-
HĐND, việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Kiên Giang giai đoạn
2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020;
17. Ninh Văn Anh/Một số vấn đề
lý luận về quản lý đào tạo và quản lý chất lượng đào tạo nghề trong các cơ sở
đào tạo nghề.
18. Kiên Giang: Chú trọng đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số (
tin được đưa ngày: 28-6-2016).
101
19. Kiên Giang chú trọng đào tạo nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số
(Tin được đưa 11:18, 27/06/2016).
20. Luật Dạy nghề ngày 29 tháng 11 năm 2006;
21. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang đến
năm 2020 - Phần 1 cập nhật thứ tư, ngày 02 tháng 11 năm 2011 16:09.
22. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang đến
năm 2020 - Phần 2 cập nhật thứ sáu, ngày 18 tháng 11 năm 2011 16:20.
23. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang đến
năm 2020 - Phần 3 cập nhật thứ ba, ngày 22 tháng 11 năm 2011 16:30
24. Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Kiên Giang đến
năm 2020 - Phần 4 cập nhật thứ năm, ngày 24 Tháng 11 năm 2011 16:54.
25. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
2015, Quyết định số 48/QĐ-TTg phê duyệt quy hoạch mạng lưới trường dạy
nghề giai đoạn 2002 – 2010;
26. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
2015, Quyết định số 267/QĐ-TTg chính sách dạy nghề đối với học sinh dân
tộc thiểu số nội trú;
27. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
2008, Quyết định số 1466/QĐ-TTg, danh mục chi tiết các loại hình, tiêu chí
quy mô, tiêu chuẩn các cơ sở thực hiện xã hội hoá trong lĩnh vực Giáo dục -
đào tạo, dạy nghề, y tế, văn hoá , thể thao, môi trường;
28. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
2009, Quyết định số 1956/QĐ-TTg, phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao
động nông thôn đến năm 2020”;
29. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
2011, Quyết định số 579/QĐ-TTg, Chiến lược phát triển Nguồn nhân lực Việt
Nam thời kỳ 2011–2020”;
102
30. Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
Quyết định số 1255/QĐ-TTG, Phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội tỉnh Kiên Giang thời kỳ đến năm 2020;
31. Ủy ban nhân dân tỉnh Kiên Giang, 2007, Quyết định Số: 34/QĐ-
UBND, ban hành Chương trình phát triển nguồn nhân lực tỉnh Kiên Giang
đến năm 2020;
32. Ủy ban nhân tỉnh Kiên Giang, 2011, Quyết định số 2459/QĐ-
UBND, phê duyệt chi phí lập dự án quy hoạch phát triển mạng lưới trường,
lớp học thuộc ngành giáo dục - đào tạo tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2011 -
2020;
33. Ứng dụng nhiều đề tài khoa học góp phần phát triển kinh tế - xã hội
vùng đồng bào Khmer của Lê Huy Hải TTXVN.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_dao_tao_nghe_cho_nguoi_dan_toc.pdf