Cơ quan tham mưu chủ yếu giúp UBND các cấp trong quản lý đất đai là ngành Tài
nguyên và Môi trường. Ngoài ra có một số nội dung được giao cho cơ quan khác tham
mưu hoặc phối hợp tham mưu như: Việc xác lập và quản lý địa giới hành chính do ngành
Nội vụ tham mưu; việc quy hoạch và quản lý quy hoạch đô thị do ngành Xây dựng tham
mưu; việc lập quy hoạch và quản lý, sử dụng đất quốc phòng và đất an ninh do Quân đội
và ngành Công an thực hiện; việc tính thuế và đơn giá thuê đất do ngành tài chính tham
mưu; việc thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo do cơ quan Thanh tra phối hợp với thanh
tra chuyên ngành thực hiện.
32 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3310 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về đất đai tại Hà Tĩnh - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a công tác quản lý nhà nước về đất đai, có thể phân thành các nhóm sau:
1.2.1 Ban hành văn bản pháp quy và tổ chức thực hiện
Đây chính là quá trình nhà nước sử dụng công cụ pháp luật trong quản lý. Nhà nước
dùng pháp luật để thực hiện quyền cai trị của mình, bằng cách tác động vào ý chí của con
người để điều chỉnh hành vi của họ.
Luật pháp là công cụ cho các công cụ quản lý khác, các chính sách chế độ của nhà
nước thực hiện có hiệu quả hơn.
Như đã nêu ở trên, đất đai là một vấn đề hết sức phức tạp, vừa mang tính kinh tế lại
vừa mang tính xã hội, trong quan hệ đất đai thường dễ nảy sinh nhiều mâu thuẫn phức tạp,
để gải quyết các mối quan hệ đó, nhà nước phải ban hành một hệ thống văn bản đầy đủ,
chặt chẽ.
Đất nước ta đang từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường, diễn biến quan hệ
về đất đai xuất hiện những vấn đề mới và phức tạp đòi hỏi cả về lý luận cũng như thực tiễn
phải tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện. Vì vậy, công tác ban hành văn bản pháp quy luôn
được quan tâm hàng đầu.
Tuy nhiên, để pháp luật đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả, cần tổ chức tốt công
tác tuyên truyền phổ biến pháp luật đến mọi đối tượng trong xã hội, bên cạnh đó việc thực
thi pháp luật cũng cần được quan tâm, phải kiên quyết xử lý những đối tượng vi phạm cả
trong quản lý và sử dụng đất.
Nội dung này bao gồm việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý sử
dụng đất, tuyên truyền phổ biến đến mọi đối tượng quản lý, sử dụng đất và tổ chức thực
hiện các văn bản đó. Thẩm quyền ban hành văn bản pháp quy trong quản lý nhà nước về
đất đai của cấp dưới thường được quy định trong văn bản pháp quy của cấp trên. Đồng
thời cũng nghiêm cấm việc các cơ quản quản lý cấp dưới ban hành trái hoặc có thêm các
quy định khác so với các văn bản của cấp trên.
Những nội dung thuộc thẩm quyền ban hành của Chính phủ được quy định rõ trong
Luật và những nội dung thuộc thẩm quyền ban hành của cấp tỉnh được quy định trong
Nghị định của Chính phủ. Theo các văn bản thi hành Luật Đất đai 2003, cấp tỉnh quy định
về một số nội dung trên địa bàn tỉnh như: giá đất hàng năm trên cơ sở khung giá của Chính
phủ; hạn mức giao đất ở mới và hạn mức công nhận đất ở; suất đầu tư đối với các dự án;
quy định quản lý một số loại đất như nghĩa địa, đất tôn giao, tín ngưỡng;…
1.2.2 Thực hiện các nghiệp vụ quản lý về đất đai
a. Xác định địa giới hành chính, lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính:
Các nội dung cụ thể bao gồm công tác hoạch định và phân định đường địa giới
hành chính các cấp (quốc gia, tỉnh, huyện, xã), cắm mốc địa giới, lập bản đồ địa giới hành
chính các cấp và lập bản đồ hành chính các cấp. Công tác phân định biên giới quốc gia
không chỉ thực hiện trên đất liền mà phải chú ý trên các vùng biển và hải đảo, vì đây là bộ
phận hết sức quan trọng của lãnh thổ mỗi nước.
Công tác hoạch định và phân định địa giới hành chính các cấp tỉnh, huyện, xã cũng
hết sức quan trọng, việc phân định không đảm bảo rất dễ nảy sinh tranh chấp về địa giới,
việc chia tách, sáp nhập các đơn vị hành chính các cấp nếu không mang tính chiến lược sẽ
gây ra những lãng phí rất lớn cho xã hội và ảnh hưởng đến sự phát triển của chính đơn vị
đó.
Các quy định về lập và quản lý hồ sơ địa giới hành chính, mốc địa giới hành chính
được quy định cụ thể tại điều 17 Luật Đất đai 2003.
b. Đo đạc, lập bản đồ địa chính; thống kê kiểm kê đất đai; đánh giá phân hạng đất;
xây dựng hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai:
- Để nắm được số lượng, chất lượng đất đai, Nhà nước phải tiến hành điều tra, khảo
sát, đo đạc để nắm được quỹ đất theo từng loại đất và từng loại đối tượng sử dụng đất. Bản
đồ địa chính là bản đồ chi tiết phản ánh hiện trạng sử dụng đất, trên đó vừa thể hiện các
yếu tố kỹ thuật về thửa đất như hình thể, vị trí (toạ độ) diện tích, kích thước các cạnh lại
vừa thể hiện các yếu tố xã hội như chủ sử dụng đất, mục đích sử dụng đất, tình trạng pháp
lý về quyền sử dụng đối với thửa đất, tình trạng quy hoạch… Đây có thể coi là nguồn tài
liệu gốc quan trọng nhất để từ đó thực hiện các nhiệm vụ khác của công tác quản lý đất đai
như thống kê đất đai, cấp GCN QSD đất, thu hồi đất, bồi thường GPMB, xây dựng hồ sơ
địa chính và hệ thống thông tin đất đai… Điều 19 Luật Đất đai 2003 quy định cụ thể về
bản đồ địa chính.
- Thống kê, kiểm kê đất đai cung cấp số liệu về thực trạng sử dụng đất tại một thời
điểm nhất định trong năm, qua đó cho biết cơ cấu đất đai về loại đất cũng như đối tượng
sử dụng đất, đây là nguồn số liệu giúp cho công tác đánh giá tình tình quản lý sử dụng,
mức độ thực hiện quy hoạch để từ đó có biện pháp bổ sung chấn chỉnh kịp thời những
những lệch lạc so với định hướng sử dụng đất ở tầm vĩ mô và dài hạn. Điều 53 Luật Đất
đai 2003 quy định cụ thể về công tác thống kê, kiểm kê đất đai.
- Đánh giá phân hạng đất là đánh giá về mặt chất lượng đất thông qua việc phân
tích tính chất lý hoá đất, đánh giá các điều kiện tự nhiên xã hội ảnh hưởng đến việc sử
dụng đất (chủ yếu khả năng sử dụng trong nông nghiệp). Tài liệu phân hạng đất là căn cứ
để đánh giá tiềm năng và khả năng thích nghi đất đai, là cơ sở khoa học trong định hướng
sử dụng đất hợp lý.
- Xây dựng hồ sơ địa chính và cơ sở dữ liệu đất đai là việc thiết lập ban đầu và cập
nhật biến động hệ thống hồ sơ ở dạng giấy và dạng số về toàn bộ nguồn lực đất đai, tình
hình phân bổ sử dụng, tình trạng pháp lý trong quản lý và sử dụng đất, thông tin về người
sử dụng đất…, nhằm mục đích phục vụ công tác tra cứu, quản lý, hoạch định chính sách.
c. Quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất:
Quy hoạch đất đai là sự tính toán, phân bổ đất đai một cách cụ thể về số lượng, chất
lượng, vị trí, không gian trên cơ sở khoa học nhằm phục vụ cho các mục đích kinh tế xã
hội. Kế hoạch hoá đất đai là sự xác định các chỉ tiêu về sử dụng đất đai, các biện pháp và
thời hạn thực hiện theo quy hoạch đất đai.
Trong công tác quản lý đất đai, quy hoạch, kế hoạch hoá là một công cụ hết sức hữu
hiệu, nhất là trong nền kinh tế thị trường. Nó giúp cho việc sử dụng đất đai và các nguồn
tài nguyên thiên nhiên khác một cách tiết kiệm, có hiệu quả, giữ gìn cảnh quan môi
trường. Quy hoạch còn là công cụ để phân bổ nguồn lực (kể cả vốn, lao động và công
nghệ) đồng đều ở các vùng miền trong cả nước.
Quy hoạch dài hạn về đất đai được công bố sẽ giúp các nhà đầu tư chủ động hơn
trong việc hoạch định chiến lược sản xuất kinh doanh của mình.
Thông qua công cụ quy hoạch, nhà nước sẽ góp phần điều tiết cung, cầu một số loại
đất trên thị trường, đặc biệt là trên thị trường sơ cấp của thị trường bất động sản.
Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được duyệt là căn cứ và là điều kiện bắt buộc để
thực hiện việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất.
Quy hoạch là công cụ quản lý khoa học, vì trong công tác lập quy hoạch phải đảm
bảo tính thống nhất, tính đồng bộ, tính khoa học và tính dự báo. Một quy hoạch tốt cần
đảm bảo tính chiến lược và tính thực thi. Trong công tác thực thi cần tuân thủ theo các nội
dung đã quy hoạch, hạn chế tối đa việc điều chỉnh bổ sung.
Quy hoạch, kế hoạch là công cụ quan trọng của quản lý, tuy nhiên, không được lạm
dụng quy hoạch, kế hoạch hoá nếu không sẽ rơi vào tình trạng hành chính hoá các quan hệ
về đất đai, điều này trái với sự vận động của nền kinh tế thị trường.
Luật Đất đai 2003 từ điều 21 đến điều 30 đã quy định đầy đủ về nguyên tắc, căn cứ,
nội dung, trách nhiệm lập và thẩm quyền phê duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất,
ngoài ra còn quy định việc công bố, thực hiện và điều chính quy hoạch.
Ngoài quy hoạch sử dụng đất, còn có các quy hoạch khác hỗ trợ cho công tác quản lý
nhà nước về đất đai như quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội, quy hoạch ngành, quy hoạch
vùng, hoạch xây dựng đô thị và khu dân cư nông thôn …
d. Giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất:
Giao đất và cho thuê đất là những hình thức nhà nước giao quyền sử dụng cho người
sử dụng đất. Chuyển mục đích sử dụng đất và thu hồi đất là việc nhà nước thực hiện quyền
định đoạt của mình đối với đất đai, nhà nước cho phép chủ sử dụng đất chuyển từ mục
đích sử dụng này sang mục đích khác hoặc thu hồi của chủ sử dụng này để giao cho chủ sử
dụng khác hay sử dụng vào mục đích công cộng. Việc giao quyền sử dụng đất được đi
kèm với một số công cụ quản lý khác, đó là hạn mức đất và thời hạn sử dụng đối với từng
loại đất và từng nhóm chủ thể sử dụng đất. Về bản chất, giao đất và cho thuê đất không có
gì khác biệt. Hiện nay nhà nước ta đang áp dụng hình thức giao đất có thu tiền và không
thu tiền, giao đất có thời hạn và giao lâu dài (vô thời hạn). Trong giao đất có thu tiền lại có
thể thông qua hình thức thu theo giá nhà nước quy định hoặc thông qua đấu giá đất (giá
sàn không được thấp hơn giá nhà nước quy định). Đối với hình thức thuê đất thì có thể trả
tiền thuê hàng năm hoặc trả tiền thuê một lần cho toàn bộ thời gian thuê, trong đó hình
thức trả tiền một lần chỉ áp dụng cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Việc thu hồi đất của nhà nước chỉ thực hiện trong một số trường hợp nhất định như
thu hồi để sử dụng vào mục đích công cộng, khu dân cư nông thôn, quỹ đất phát triển đô
thị, khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu chế xuất hoặc các dự án phát triển kinh tế
thuộc nhóm A, hoặc trường hợp vi phạm trong quá trình sử dụng đất… Các trường hợp
còn lại áp dụng hình thức tự thoả thuận giữa các đối tượng sử dụng đất (về bản chất là
chuyển nhượng quyền sử dụng đất). Trong một số trường hợp đặc biệt, khẩn cấp nhà nước
có thể áp dụng hình thức trưng dụng đất.
Từ điều 31 đến điều 45 Luật Đất đai 2003 quy định chi tiết về việc giao đất, cho thuê
đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất và trưng dụng đất.
đ. Đăng ký đất đai, cấp GCN QSD đất:
Đăng ký đất đai là quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Sau khi phát sinh
quyền sử dụng đất (được giao đất, thuê đất, nhận chuyển quyền QSD đất…), hoặc có
những thay đổi trong sử dụng đất thì người sử dụng phải đăng ký với cơ quan nhà nước để
được công nhận quyền sử dụng đất hợp pháp và làm thủ tục cấp GCN QSD đất.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chứng thư pháp lý xác nhận quan hệ hợp pháp
giữa Nhà nước với người sử dụng đất. Được cấp GCN là quyền đầu tiên của người sử
dụng đất, là cơ sở để thực hiện các quyền khác của người sử dụng đất, là căn cứ để giải
quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất. Giấy chứng nhận QSD đất cũng là điều kiện để
giao dịch trên thị trường.
Từ điều 46 đến điều 52 Luật Đất đai 2003 quy định chi tiết về đăng ký đất đai và cấp
GCN QSD đất.
1.2.3 Quản lý, giám sát việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất
Đây là nội dung hết sức quan trọng, nó diễn ra thường xuyên, liên tục, phản ánh các
vận động chủ yếu của các quan hệ về đất đai trong thị trường.
Để thực hiện nội dung này, trước hết phải ban hành hệ thống văn bản pháp quy về
quyền hạn và trách nhiệm của nhà nước, quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất, quy
định các thủ tục hành chính về quản lý sử dụng đất và các chế tài xử lý vi phạm.
Trong nền kinh tế thị trường, khi nhà nước vừa là đại diện chủ sở hữu đất đai, có
quyền định đoạt đối với đất đai, vừa là chủ thể sử dụng đất lớn nhất vừa là người quản lý
giám sát việc sử dụng, nếu quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên không rõ ràng và
không được luật hoá thì rất dễ nảy sinh bất bình đẳng giữa các chủ thể sử dụng đất. Lúc
này quan hệ đất đai sa vào cơ chế xin cho, mang nặng tính hành chính, không theo quy
luật thị trường.
Quá trình đảm bảo thực thi các quyền của người sử dụng đất, nhà nước nên giảm dần
các biện pháp hành chính, thực hiện phân quyền gắn với phân cấp và uỷ quyền cho các cơ
quan chuyên môn về một số nghiệp vụ cụ thể. Cần có sự tham gia của các thành phần khác
ngoài nhà nước trong một số công đoạn (xã hội hoá một số hoạt động quản lý).
Về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất không chỉ được quy định trong Luật Đất
đai mà còn được quy định trong các văn bản luật khác như Bộ Luật Dân sự, Luật Nhà ở,
Luật Kinh doanh bất động sản…
Luật Đất đai 2003 đã có 17 điều, từ điều 105 đến điều 121 quy định về quyền và
nghĩa vụ chung cũng như quy định chi tiết quyền và nghĩa vụ của các nhóm đối tượng sử
dụng đất. Về các thủ tục hành chính trong quản lý sử dụng đất được quy định từ điều 122
đến điều 131.
Theo luật hiện hành, tuy giữa các nhóm đối tượng sử dụng đất khác nhau thì có
quyền và nghĩa vụ khác nhau, nhưng nhìn chung, người sử dụng đất có các quyền và nghĩa
vụ cơ bản sau:
Người sử dụng đất có các quyền chung như: được cấp GCN QSD đất; được hưởng
kết quả đầu tư trên đất; được Nhà nước bảo hộ khi bị người khác xâm phạm đến quyền sử
dụng đất của mỡnh; được khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm quyền sử
dụng đất và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai.
Ngoài ra, người sử dụng đất cũn cú cỏc quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho
thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất; quyền thế chấp, bảo lónh, gúp vốn
bằng quyền sử dụng đất; quyền được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất
Về nghĩa vụ, người sử dụng đất có các nghĩa vụ chung sau đây: sử dụng đất đúng
mục đích, đúng quy định về chế độ sử dụng đất và các quy định khác của pháp luật; đăng
ký quyền sử dụng đất, làm đầy đủ thủ tục khi thực hiện các quyền của mỡnh; thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ tài chính; thực hiện các biện pháp bảo vệ đất, bảo vệ môi trường; không làm
tổn hại đến lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất có liên quan;
1.2.4 Quản lý tài chính về đất đai và thị trường quyền sử dụng đất trong thị
trường bất động sản
a. Quản lý tài chính về đất đai:
Quản lý tài chính về đất đai là việc sử dung hệ thống công cụ tài chính như giá đất,
thuế, tiền thuê đất (địa tô)…, nhằm điều tiết các quan hệ về đất đai để đạt mục tiêu trong
quản lý.
Quản lý tài chính về đất đai là công cụ hết sức hữu hiệu trong nền kinh tế thị
trường, có tác dụng kích thích việc sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu quả. Chính sách ưu đãi
về thuế hay tiền thuê đất sẽ có tác dụng khuyến khích hay hạn chế trong đầu tư, qua đó sẽ
có tác dụng phân phối nguồn lực của xã hội. Cũng qua công cụ tài chính, nhà nước thực
hiện nhiệm vụ điều tiết thu nhập và đảm bảo đời sống cho đại bộ phận dân cư đang sống
bằng nghề nông.
Trong hệ thống tài chính về đất đai, yếu tố cơ bản là giá đất, theo lý luận của Mác,
giá đất là giá trị của địa tô trên tỷ suất lợi nhuận của sản xuất kinh doanh trên đất, giá đất
phản ánh khả năng sinh lợi từ hoạt động kinh tế trên đất và nó quyết định giá cho cả những
loại đất không có hoạt động kinh tế. Trong thực tế, giá đất còn bị ảnh hưởng bởi sự kỳ
vọng vào khả năng sinh lợi trong tương lai (cũng tương tự như giá cổ phiếu trên thị trường
chứng khoán).
Đối với bất kỳ quốc gia nào cũng tồn tại hai hệ thống giá: một là giá do nhà nước
quy định, dùng để điều chỉnh quan hệ kinh tế giữa nhà nước và người có quyền đối với đất
(sở hữu đất); hai là giá hình thành trên thị trường trong mối quan hệ về đất đai giữa những
người có quyền về đất đai hoặc là giữa người có quyền về đất và người sử dụng đất, giá
này phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường. Một nền kinh tế ổn định, hai hệ thống
giá này sẽ tương đương nhau và phản ánh chân thực giá đất. Ngược lại, trong một nền
kinh tế không ổn định, giá đất có xu hướng cao hơn giá trị thực của nó. Nếu hai hệ thống
giá trên chênh lệch nhau quá lớn sẽ tạo môi trường cho những tiêu cực trong quản lý và
đầu cơ trong sử dụng.
Đối với nước ta, do đặc điểm sở hữu đất đai nên giá đất thực chất là giá quyền sử
dụng đất. Hiện tại, hệ thống giá của chúng ta được xác định chủ yếu dựa trên mục đích sử
dụng (khả năng sinh lợi hiện tại) chứ ít phụ thuộc vào vị trí cũng như khả năng sinh lợi
tiềm năng.
Điều 56 Luật đất đai 2003 và các Nghị định 188/2004/NĐ-CP và Nghị định
123/2007/NĐ-CP quy định chi tiết về nguyên tắc, phương pháp xác định giá và khung giá
các loại đất.
Thuế: Theo quan điểm kinh tế học hiện đại, thuế đất là khoản thuế của chính phủ
đánh vào địa tô tức là đánh vào chủ sở hữu đất. Nước ta, nhà nước là đại diện chủ sở hữu
đất nên thuế chỉ đánh vào một số đối tượng được hưởng các quyền lợi như là chủ sở hữu
đất, chủ yếu là cá nhân, hộ gia đình, tập thể không thuộc diện thuê đất (không phải nộp
tiền sử dụng đất). Ngoài thuế sử dụng đất, hiện tại chúng ta đang thực hiện thu thuế
chuyển quyền sử dụng đất, tuy nhiên việc thu thuế này là không có cơ sở. Theo quy định,
thuế đánh vào người chuyển quyền, nhưng trong thực tế giá cả trên thị trường là do thoả
thuận nên về bản chất đây như là một loại thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào người mua.
Tiền thuê đất: Đơn giá thuê đất (khoản tiền thuê trên 1 đơn vị diện tích, trong 1
năm) chính là địa tô mà người sử dụng phải trả cho nhà nước.
Đơn giá thuê đất là yếu tố chi phí cấu thành nên giá thành sản phẩm hàng hoá, dịch
vụ nên nó ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Vì vậy, việc xác
định giá đất cũng như đơn giá thuê đất sát đúng với giá trị thực của nó có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh hội nhập và cạnh tranh toàn cầu.
Theo quy định hiện hành, đang có sự khác nhau giữa hộ gia đình, cá nhân, tổ chức
trong nước với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, cá nhân, tổ chức nước ngoài trong
việc trả tiền thuê đất. Theo đó, nhà đầu tư trong nước phải trả tiền thuê hàng năm, trong
khi nhà đầu tư có yếu tố nước ngoài có thể lựa chọn hình thức trả tiền thuê hàng năm hoặc
trả tiền một lần cho cả thời hạn thuê. Tuy nhiên, tổ chức, cá nhân nước ngoài lại không
được nhà nước giao đất.
Nghị định 142/2005/NĐ-CP quy định cụ thể việc cho thuê đất và đơn giá thuê đất
đối với các đối tượng.
b. Quản lý thị trường quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản:
Khi quyền sử dụng đất trở thành hàng hoá thì việc tạo lập và quản lý thị trường là
điều kiện bắt buộc. Thị trường phát triển sẽ đảm bảo cho quyền sử dụng đất chuyển thành
hàng hoá một cách thuận lợi, lúc đó đất đai thực sự trở thành nguồn vốn quan trọng cho
phát triển kinh tế xã hội.
Quản lý thị trường quyền sử dụng đất là việc nhà nước tạo lập khung pháp lý, sử
dụng các công cụ vĩ mô như quy hoạch, tài chính đất để điều tiết thị trường và đảm bảo
các điều kiện dịch vụ công như cung cấp thông tin, tư vấn… nhằm định hướng thị trường
phát triển lành mạnh.
Thị trường quyền sử dụng đất là bộ phận không thể thiếu trong thị trường bất động
sản. Đất đai là yếu tố gắn liền với bất động sản, như vậy, về bản chất thị trường quyền sử
dụng đất cũng chính là thị trường bất động sản. Phát triển thị trường quyền sử dụng đất
nói riêng và thị trường bất động sản nói chung có tầm quan trọng đặc biệt đối với hoạt
động của các doanh nghiệp. Tiêu chuẩn xếp hạng cạnh tranh của các quốc gia do các tổ
chức kinh tế trên thế giới thực hiện đều đề cao vai trò tính minh bạch của thị trường bất
động sản.
Luật Đất đai 2003 (từ điều 61 đến điều 63) và Nghị định 181/2004/NĐ-CP (từ điều
59 đến điều 67) quy định cụ thể về quyền sử dụng đất trong thị trường bất động sản và
quản lý thị trường quyền sử dụng đất.
1.2.5 Thanh tra đất đai; giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm
trong quản lý và sử dụng đất
Đây là nội dung thể hiện chức năng kiểm tra, giám sát của nhà nước đối với quản lý
sử dụng đất.
Thanh tra đất đai nhằm đảm bảo cho việc quản lý, sử dụng đất được tuân thủ theo
đúng pháp luật. Quá trình thanh tra, kiểm tra ngoài việc phát hiện các sai phạm để xử lý
còn có tác dụng chấn chỉnh lệch lạc, ngăn ngừa những sai phạm có thể xảy ra. Ngoài ra,
cũng có thể phát hiện những điều bất hợp lý trong chủ trương chính sách, pháp luật để có
kiến nghị bổ sung chỉnh sửa kịp thời. Thanh tra, kiểm tra có thể thực hiện thường xuyên
hoặc đột xuất, có thể khi có hoặc không có dấu hiệu vi phạm.
Giải quyết khiếu nại, tố cáo là việc các cơ quan chức năng giải quyết các kiến nghị
của cá nhân, tập thể hoặc tổ chức trong trường hợp không chấp thuận quyết định hành
chính hoặc hành vi hành chính của cơ quan quản lý nhà nước hoặc tố cáo những sai phạm
trong quản lý, sử dụng đất.
Xử lý vi phạm là biện pháp giải quyết của cơ quan nhà nước khi có hành vi vi phạm
trong quản lý và sử dụng đất. Xử lý vi phạm có thể bằng biện pháp hành chính hoặc truy
cứu trách nhiệm hình sự.
Từ điều 132 đến điều 144 Luật Đất đai 2003 quy định cụ thể về công tác thanh tra,
giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong quản lý và sử dụng đất.
1.3 Đổi mới quản lý, sử dụng đất đai ở Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền
kinh tế thị trường
1.3.1 Các mốc đổi mới quản lý nhà nước về đất đai
Nước ta là một nước nông nghiệp nên vấn đề quản lý đất đai gắn với sự ra đời của
nhà nước từ thời phong kiến đến thời kỳ nhà nước bảo hộ thuộc Pháp, chính quyền nguỵ
tại miền nam Việt Nam cũng như Nhà nước Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám. Tuy
nhiên, ở đây chúng ta chỉ tập trung phân tích các mốc đổi mới về quản lý sử dụng đất đai ở
Việt Nam trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường.
a. Thời kỳ trước Luật Đất đai năm 1987.
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, đặc biệt là sau thời kỳ cải cách ruộng đất
1953 - 1956, chính quyền cách mạng đã tịch thu ruộng đất của địa chủ để chia cho nhân
dân. Đến năm 1959 - 1960, Đảng và Nhà nước vận động toàn dân hưởng ứng phong trào
hợp tác hoá, đại bộ phận nhân dân đã đóng góp ruộng đất vào HTX. Công tác quản lý đất
đai thời kỳ này chủ yếu là nắm quỹ đất để phục vụ xây dựng kế hoạch sản xuất của các
HTX và tập đoàn sản xuất.
Tại Miền Nam, sau khi thống nhất đất nước, nhà nước thực hiện chính sách xoá bỏ
các hình thức tư hữu đất đai của tầng lớp địa chủ và tư sản, ruộng đất được tịch thu và giao
cho các tập đoàn sản xuất, đưa nông dân vào làm ăn tập thể. Một số hộ chưa có hoặc
không có điều kiện vào tập đoàn vẫn tiếp tục sử dụng đất theo hình thức cá thể.
Năm 1980, có hai văn bản quan trọng đánh dấu cho những quan hệ mới về đất đai
cũng như việc quản lý sử dụng đất. Văn bản thứ nhất là Hiến pháp năm 1980, đã khẳng
định: ‘‘đất đai thuộc sở hữu toàn dân’’. Văn bản thứ hai là Quyết định số 201/CP ngày
01/7/1980 của Hội đồng Chính phủ về việc “Thống nhất quản lý ruộng đất và tăng cường
công tác quản lý ruộng đất trong cả nước”, đây được coi là văn bản đầu tiên quy định chế
độ thống nhất quản lý đất đai trong cả nước sau khi đất nước thống nhất. Quyết định 201
đã quy định khá đầy đủ về các nội dung quản lý nhà nước về đất đai cũng như trách nhiệm
quản lý của các cấp chính quyền và cơ quan chuyên môn tham mưu về lĩnh vực đất đai.
b. Thời kỳ thực hiện Luật Đất đai năm 1987 và Luật Đất đai năm 1993 (từ 1988 -
2003):
Ngày 22/12/1987, Luật Đất đai đầu tiên của nước ta được Quốc hội thông qua. Sự
ra đời của Luật Đất đai đã đánh dấu mốc quan trọng trong công tác quản lý sử dụng đất, đó
là các quan hệ về đất đai đã được luật hoá.
Những nội dung cơ bản của Luật Đất đai 1987 là: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do
nhà nước thống nhất quản lý; nhà nước giao đất cho tổ chức, tập thể, cá nhân sử dụng ổn
định lâu dài hoặc có thời hạn; người sử dụng đất hợp pháp tạm thời được cấp GCN QSD
đất; quy định chế độ quản lý đất đai (trong đó có 7 nội dung quản lý nhà nước về đất đai)
và chế độ sử dụng đất (gồm 5 loại đất); quy định về quyền và nghĩa vụ của người sử dụng
đất; ngoài ra Luật còn quy định nghiêm cấm việc mua bán (thực chất là chuyển nhượng),
phát canh thu tô (thực chất là cho thuê đất).
Điểm mới về chính sách đất đai của Luật Đất đai 1987 là bên cạnh việc giao đất cho
tập thể thì nhà nước nhà nước còn giao đất nông nghiệp cho cá nhân sử dụng ổn định lâu
dài. Tuy nhiên, chủ trương này cũng chưa thực hiện được. Đến năm 1988, Nghị quyết 10
của Bộ Chính trị về đổi mới cơ chế quản lý kinh tế mới cho phép thực hiện giao khoán
ruộng đất cho hộ gia đình xã viên HTX. Đây được coi là sự “cởi trói” cho người nông dân.
Việc giao quyền chủ động cho người sử dụng, mặc dù chưa hoàn toàn, nhưng cũng đã giải
phóng sức sản xuất, tạo ra sự phát triển kỳ diệu trong ngành nông nghiệp trong những năm
sau đó và tạo tiền đề cho sự ra đời của Nghị định 64/NĐ-CP của Chính phủ về giao đất
nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài.
Sau khi có Luật và các văn bản pháp quy dưới luật, công tác quản lý nhà nước về
đất đai được chú trọng và dần đi vào nền nếp. Cơ quan quản lý chuyên ngành được tăng
cường ở cả 4 cấp, ở cấp tỉnh thành lập Sở Địa chính, ở cấp huyện thành lập phòng Địa
chính và cấp xã có cán bộ địa chính chuyên trách.
Trong thời kỳ này, nền kinh tế từng bước chuyển sang cơ chế thị trường, sau 5 năm
thực hiện, những quy định của Luật Đất đai 1987 không đáp ứng được những yêu cầu của
quá trình đổi mới, vì thế, năm 1993, Luật Đất đai lần thứ 2 được ban hành.
Điểm mới của Luật Đất đai 1993 là: Nhà nước cho doanh nghiệp trong nước và tổ
chức, cá nhân người nước ngoài thuê đất; người sử dụng đất nông nghiệp và đất ở được
nhà nước giao cho 5 quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp và cho thuê
quyền sử dụng đất; nhà nước quy định giá đất; ngoài ra luật còn quy định hạn mức và thời
hạn giao một số loại đất.
Sau năm 1994, thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo tinh thần
Nghị quyết TW 7 khoá VII (tháng 7/1994), nhiều vấn đề về sử dụng đất phi nông nghiệp,
nhất là đất sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước được đặt ra
nhưng chưa được điều chỉnh trong Luật Đất đai 1993.
Để giải quyết những vấn đề đó, trong thời gian từ 1994 đến đầu năm 2003, nhà
nước đã ban hành nhiều văn bản để kịp thời điều chỉnh các quan hệ về đất đai phát sinh
trong thực tế. Tháng 10/2004, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đó ban hành hai Pháp lệnh là:
Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức trong nước được Nhà nước giao đất, cho thuê
đất và Pháp lệnh về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân nước ngoài thuê đất tại Việt
Nam. Chính phủ cũng đã ban hành nhiều Nghị định quy định về các vấn đề quan trọng như
đầu tư xây dựng hạ tầng khu công nghiệp, khu đô thị; sử dụng quỹ đất để tạo vốn xây dựng
cơ sở hạ tầng; đấu giá QSD đất, đấu thầu công trình có gắn với QSD đất; đền bù thiệt hại
khi nhà nước thu hồi đất; quy định giá đất, xác định tiền sử dụng đất, tiền thuê đất. Trong
thời gian này, Quốc hội cũng đã 2 lần thông qua Luật sửa đổi bổ sung Luật Đất đai vào các
năm 1998 và 2001.
Có thể nói, trong giai đoạn này hàng trăm văn bản liên quan đến việc quản lý và sử
dụng đất đai đã được ban hành, phần nào đáp ứng những vấn đề thực tế đặt ra trong trong
một giai đoạn khá dài. Pháp luật về đất đai đó trở thành một trong những động lực chủ yếu
để đưa nước ta vào nhóm những nước hàng đầu thế giới về xuất khẩu nông sản và thủy sản.
Kinh tế nông nghiệp đó thoỏt khỏi tỡnh trạng tự cấp, tự tỳc và chuyển sang sản xuất hàng
hóa; bộ mặt kinh tế - xó hội nụng thụn được cải thiện. Cơ cấu sử dụng đất được chuyển đổi
cùng quá trỡnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Diện tích đất dành cho phát triển công nghiệp,
dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng đô thị tăng nhanh, đáp ứng phần lớn nhu cầu
sử dụng đất ở giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, trước tỡnh hỡnh phỏt
triển nhanh chúng về kinh tế - xó hội, Luật Đất đai 1993 dù đã qua 2 lần sửa đổi vẫn đó bộc
lộ nhiều hạn chế. Hệ thống văn bản đồ sộ vừa chồng chéo vừa gây khó khăn trong quá trình
thực thi. Việt Nam lại đang đứng trước yêu cầu phải hoàn thiện các thể chế, chính sách
pháp luật để gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Trước tình hình đó, Hội nghị lần
thứ 7 BCH TW khoá IX đã ra nghị quyết về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất
đai trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đây là cơ sở để tháng 11/2003, Quốc hội
lần thứ ba thông qua Luật Đất đai.
Trong giai đoạn này, về cơ cấu tổ chức của cơ quan tham mưu thuộc lĩnh vực đất
đai đã có một sự thay đổi lớn, đó là sự ra đời của ngành Tài nguyên và Môi trường, thực
hiện các chức năng quản lý nhà nước về đất đai, khoáng sản, nước, môi trường, khí tượng
thuỷ văn và đo đạc bản đồ. Bộ Tài nguyên và Môi trường được thành lập theo Nghị quyết
số 02/2002/QH11 ngày 05/8/2002 của Quốc hội, trên cơ sở hợp nhất Tổng cục Địa chính,
Tổng cục Khí tượng Thuỷ văn và các tổ chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tài
nguyên nước, khoáng sản và môi trường thuộc các bộ ngành khác.
- Thời kỳ thực hiện Luật Đất đai 2003 (từ tháng 7/2004 đến nay).
Luật Đất đai 2003 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2004, là một văn bản luật khá độ
sộ, gồm 7 chương với 146 điều, trong đó có nhiều điều khoản được quy định chi tiết có thể
thực thi ngay.
Luật mới đã quán triệt những quan điểm đổi mới của Đảng về đất đai theo tinh thần
Nghị quyết 7 BCH TW khoá IX, thể hiện qua 4 điểm cơ bản sau: một là, nhà nước là đại
diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai, có quyền định đoạt và hưởng lợi từ đất đai; hai là, coi
đất đai là nguồn nội lực và là nguồn vốn to lớn của đất nước; ba là, khẳng định quyền sử
dụng đất là hàng hoá đặc biệt, nhà nước đảm bảo các điều kiện để hàng hoá đó được trao
đổi trên thị trường; bốn là, trong mối quan hệ về đất đai phải đảm bảo hài hoà lợi ích giữa
nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng, đồng thời hướng tới sự bình đẳng giữa các chủ thể
sử dụng thuộc mọi thành phần kinh tế.
Về các quy định cụ thể, Luật Đất đai 2003 đã kế thừa những nội dung vẫn còn phù
hợp của các văn bản pháp luật về đất đai hiện hành và bổ sung nhiều điểm mới về nội dung
quản lý nhà nước về đất đai, chế độ quản lý sử dụng các loại đất, quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất và các thủ tục hành chính trong quản lý sử dụng đất. Những điểm đổi
mới theo hướng: thực hiện cải cách thủ tục hành chính; bổ sung quyền và giảm các điều
kiện khi thực thi quyền của người sử dụng đất; thực hiện phân cấp trong quản lý; nâng cao
trách nhiệm của nhà nước trong việc lập và thực hiện quy hoạch để hạn chế quy hoạch treo;
quy định chi tiết về quản lý tài chính đất đai và thị trường quyền sử dụng đất, giá đất phải
sát với giá thị trường… Về mặt tổ chức, quy định thành lập mới 2 tổ chức sự nghiệp công
thuộc lĩnh vực đất đai là Trung tâm Phát triển quỹ đất tại cấp tỉnh và Văn phòng Đăng ký
quyền sử dụng đất tại cấp tỉnh và cấp huyện.
Sau khi có Luật, Chính phủ đã ban hành khá đồng bộ các Nghị định hướng dẫn thi
hành và nhiều văn bản chỉ đạo triển khai thực hiện Luật (gồm10 Nghị định, 1 Nghị quyết
của Chính phủ và 1 chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ): Nghị định 181/2004/NĐ-CP về
hướng dẫn thi hành luật; Nghị định 182/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm trong quản lý, sử
dụng đất; Nghị định 188/2004/NĐ-CP về phương pháp xác định giá và khung giá các loại
đất; Nghị định 197/2004/NĐ-CP về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi
đất; Nghị định 198/2004/NĐ-CP về thu tiền sử dụng đất; Nghị định 142/2005/NĐ-CP về
thu tiền thuê đất; Nghị định 13/2006/NĐ-CP về xác định giá trị quyền sử dụng đất đối với
các tổ chức được nhà nước giao đất không thu tiền; Nghị định 17/2006/NĐ-CP và Nghị
định 84/2007/NĐ-CP bổ sung Nghị định 181/2004 NĐ-CP.
Theo số liệu của Bộ Tài nguyên và Môi trường, từ tháng 11/2004 đến hết năm
2007, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở Trung ương đó ban hành hơn 200 văn bản;
trong đó có 58 văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và 142 văn bản liên quan đến pháp
luật về đất đai [20, tr 4].
Luật Đất đai 2003 ra đời đã có tác động tích cực đối với nền kinh tế như: từng bước
đơn giản hoá thủ tục hành chính, góp phần cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư,
nhất là các nhà đầu tư nước ngoài; kích thích thị trường bất động sản phát triển; giải quyết
được một số vấn đề tồn tại trong thời gian trước đó như việc công nhận và cấp GCN QSD
đất ở, tháo gỡ một số vướng mắc trong bồi thường GPMB… Bên cạnh những mặt được,
sau hơn 3 năm thực hiện, hệ thống pháp luật đất đai hiện hành vẫn bộc lộ nhiều hạn chế,
khiếm khuyết cần khắc phục như: quan hệ đất đai vẫn mang tính hành chính; có sự mâu
thuẫn, chồng chéo giữa các luật (Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Kinh doanh bất
động sản, Luật Nhà ở…); chưa đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ sử dụng đất thuộc các
thành phần kinh tế; giá đất còn bất cập, giá đất sản xuất kinh doanh và đất ở đô thị quá cao
so với thực tế đang làm hạn chế sức cạnh tranh của nền kinh tế; thị trường bất động sản
không kiểm soát được; sự minh bạch về đất đai còn thấp, tiêu cực trong quản lý còn nhiều;
tình trạng khiếu kiện ngày càng nhiều, nhất là trong bồi thường GPMB… Một số nguyên
nhân khách quan cũng đòi hỏi Luật Đất đai phải được bổ sung sửa đổi như: Việt Nam đang
trong giai đoạn hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường sau khi gia nhập tổ chức thương mại
thế giới WTO, trong đó hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật là yêu cầu số một; sự ra đời
của các bộ luật khác liên quan chặt chẽ với luật đất đai như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu
tư, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở…, đòi hỏi Luật Đất đai phải điều chỉnh để
đảm bảo tính đồng bộ; quá trình vận động của các quan hệ đất đai là liên tục, các mâu
thuẫn luôn phát sinh và đòi hỏi phải có những chuẩn mực để giải quyết.
Quốc hội khoá XII đã có Nghị quyết về việc bổ sung sửa đổi Luật Đất đai 2003
(Nghị quyết số 11/2007/QH12 ngày 12/11/2007), hiện đang giao cho các cơ quan chức
năng soạn thảo và tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong xã hội, dự kiến báo cáo QH và thông
qua vào năm 2009.
1.3.2 Chế độ sử dụng một số loại đất hiện nay
Chế độ sử dụng đất là các quy định của nhà nước về việc sử dụng đối với từng
nhóm đất hoặc từng loại đất cụ thể, bao gồm các quy định về hạn mức đất, thời hạn sử
dụng, hình thức nhận quyền sử dụng đất, nghĩa vụ tài chính, trách nhiệm của người sử
dụng đất và các điều kiện trong quá trình sử dụng.
Luật đất đai 2003 và các Nghị định hướng dẫn thi hành Luật của Chính phủ quy
định chế độ sử dụng đất như sau:
a. Về thời hạn sử dụng đất:
- Người sử dụng đất được sử dụng đất ổn định lâu dài trong các trường hợp: đất
rừng phũng hộ, đất rừng đặc dụng; đất ở; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở sản xuất, kinh
doanh của hộ gia đỡnh, cỏ nhõn đang sử dụng ổn định; đất xây dựng trụ sở cơ quan, xây
dựng cụng trỡnh sự nghiệp; đất quốc phũng, an ninh; đất tôn giáo, tín ngưỡng; đất công
trỡnh công cộng như giao thông, thuỷ lợi, văn hoá, y tế, giáo dục và đào tạo, thể dục thể
thao…; đất có di tích lịch sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh; đất làm nghĩa trang, nghĩa
địa.
- Người sử dụng đất được sử dụng đất có thời hạn theo các quy định sau:
(1) Thời hạn giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối
cho hộ gia đỡnh, cỏ nhõn sử dụng là 20 năm; thời hạn giao đất trồng cây lâu năm, đất rừng
sản xuất cho hộ gia đỡnh, cỏ nhõn sử dụng là 50 năm. Thời hạn cho thuê đối với các loại
đất quy định tại điểm này là không được vượt quá thời hạn giao. Thời hạn được tính từ
ngày có quyết định giao đất, cho thuê đất, trường hợp đất được giao, cho thuê trước ngày
15/10/1993 thỡ thời hạn được tính từ ngày 15/10/1993. Thời hạn sử dụng đối với diện tích
đất nông nghiệp vượt hạn mức do được giao trước ngày 01/01/1999 bằng một phần hai
thời hạn giao đất trong hạn mức, sau đó phải chuyển sang thuê đất;
(2) Thời hạn cho thuê đất để xây dựng trụ sở làm việc của tổ chức nước ngoài có
chức năng ngoại giao là không quá chín mươi chín năm.
(3) Thời hạn cho thuê đất nông nghiệp thuộc đất công ớch của xó, phường, thị trấn
là không quá 5 năm; trường hợp cho thuê đất trước ngày 01/01/1999 thỡ thời hạn thuờ đất
được xác định theo hợp đồng thuê đất.
(4) Thời hạn giao đất, cho thuê đất đối với tất cả các loại đất cũn lại là không quá
50 năm; đối với dự án có vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn chậm, dự án đầu tư vào địa bàn
có điều kiện kinh tế - xó hội khú khăn thỡ thời hạn không quá 70 năm.
Khi hết thời hạn, người sử dụng đất được Nhà nước xem xét gia hạn sử dụng đất
nếu có nhu cầu tiếp tục sử dụng, chấp hành đúng pháp luật về đất đai trong quá trỡnh sử
dụng và việc sử dụng đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đó được xét duyệt;
- Thời hạn sử dụng đất khi chuyển mục đích sử dụng:
(1) Trường hợp chuyển nội bộ trong nhóm đất nông nghiệp thỡ thời hạn tính theo
thời hạn của loại đất sau khi chuyển mục đích sử dụng nhưng phải nằm trong thời hạn đó
được xác định giao đất trước đó, trừ trường hợp chuyển từ mục đích khác sang mục đích
rừng phòng hộ, đặc dụng thì được sử dụng ổn định lâu dài.
(2) Trường hợp chuyển đất nông nghiệp sang sử dụng vào mục đích phi nông
nghiệp thỡ thời hạn sử dụng đất được xác định theo thời hạn của loại đất sau khi được
chuyển mục đích sử dụng. Thời hạn sử dụng đất được tính từ thời điểm được chuyển mục
đích sử dụng đất;
(3) Tổ chức kinh tế, hộ gia đình khi chuyển mục đích sử dụng từ đất phi nông
nghiệp sử dụng ổn định lâu dài sang đất phi nông nghiệp sử dụng có thời hạn hoặc ngược
lại thỡ được sử dụng ổn định lâu dài.
(4) Tổ chức kinh tế, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước
ngoài thực hiện dự án đầu tư không thuộc khu công nghiệp, khu công nghệ cao khi chuyển
mục đích sử dụng đất được xác định theo thời hạn giao đất, cho thuê đất ở trên.
- Thời hạn sử dụng đất khi nhận chuyển quyền sử dụng đất: là thời gian sử dụng đất
cũn lại của thời hạn sử dụng đất trước khi chuyển quyền sử dụng đất.
b. Chế độ sử dụng đối với nhóm đất nông nghiệp:
- Hạn mức giao đất:
(1) Hạn mức giao đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối
cho mỗi hộ gia đỡnh, cỏ nhõn khụng quỏ 3 ha đối với mỗi loại đất đối với các tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương thuộc khu vực Đông Nam bộ và khu vực đồng bằng sông Cửu
Long; không quá 2 ha cho mỗi loại đất đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
khác.
(2) Hạn mức giao đất trồng cây lâu năm cho mỗi hộ gia đỡnh, cỏ nhõn khụng quỏ
10 ha đối với các xó, phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá 30 ha đối với các xó,
phường, thị trấn ở trung du, miền núi.
(3) Hạn mức giao đất rừng phũng hộ, đất rừng sản xuất cho mỗi hộ gia đỡnh, cỏ
nhõn khụng quỏ 30 ha đối với mỗi loại đất.
(4) Trường hợp hộ gia đỡnh, cỏ nhõn được giao nhiều loại đất bao gồm đất trồng
cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối thỡ tổng hạn mức giao đất không quá
5 ha.
Trường hợp hộ gia đỡnh, cỏ nhõn được giao thêm đất trồng cây lâu năm thỡ hạn
mức đất trồng cây lâu năm là không quá 5 ha đối với các xó, phường, thị trấn ở đồng bằng;
không quá 25 ha đối với các xó, phường, thị trấn ở trung du, miền núi. Trường hợp hộ gia
đỡnh, cỏ nhõn được giao thêm đất rừng sản xuất thỡ tổng hạn mức giao đất rừng sản xuất
là không quá 25 ha.
(5) Hạn mức giao đất trống, đồi núi trọc, đất có mặt nước thuộc nhóm đất chưa sử
dụng cho hộ gia đỡnh, cỏ nhõn đưa vào sử dụng theo quy hoạch để sản xuất nông nghiệp,
lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối không quá hạn mức giao đất quy định tại các
điểm (1), (2) và (3) mục này và không tính vào hạn mức giao đất nông nghiệp cho hộ gia
đỡnh, cỏ nhõn. Hạn mức cụ thể do UBND tỉnh, TP trực thuộc trung ương quy định.
- Hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp: Theo Nghị quyết số
1126/2007/NQ-UBTVQH11 ngày 21/6/2007 của UBTVQH thì hạn mức nhận chuyển
quyền sử dụng đất (gồm chuyển nhượng, nhận tặng, cho, thừa kế, xử lý nợ…) đối với hộ
gia đình, cá nhân được quy định như sau:
(1) Đất trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản và đất làm muối: không quá sáu
(06) ha đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thuộc khu vực Đông Nam bộ và
khu vực Đồng bằng sông Cửu Long; không quá bốn (04) ha đối với các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương cũn lại.
(2) Đất trồng cây lâu năm: không quá hai mươi (20) ha đối với các xó, phường, thị
trấn ở đồng bằng; không quá năm mươi (50) ha đối với các xó, phường, thị trấn ở trung du,
miền núi.
(3) Đất rừng sản xuất là rừng trồng: không quá năm mươi (50) ha đối với các xó,
phường, thị trấn ở đồng bằng; không quá một trăm (100) ha đối với các xó, phường, thị
trấn ở trung du, miền núi.
(4). Trường hợp nhận chuyển quyền bao gồm nhiều loại đất thỡ hạn mức được xác
định theo từng loại đất.
- Về hình thức giao quyền sử dụng đất và nghĩa vụ tài chính: nhà nước giao đất
không thu tiền sử dụng đất đối với hộ gia đình, cá nhân và cộng đồng dân cư theo hạn
mức; nhà nước giao đất có thu tiền hoặc cho thuê đất trả tiền hàng năm đối với tổ chức
kinh tế; nhà nước giao đất có thu tiền hoặc cho thuê đất trả tiền hàng năm hoặc trả tiền một
lần đối với các chủ thể có yếu tố nước ngoài.
- Về quỹ đất công ích: mỗi xã, phường thị trấn được để lại không quá 5% tổng diện
tích đất sản xuất nông nghiệp để sử dụng cho các mục dích công ích của địa phương như:
dùng để xây dựng hoặc bồi thường khi sử dụng đất khác để xây dựng các công trình phúc
lợi công cộng của địa phương.
Ngoài các quy định trên, pháp luật cũng quy định chế độ sử dụng các loại đất cụ thể
như: đất trồng lúa, các loại đất rừng, đất nuôi trồng thuỷ sản, đất làm muối, đất cho phát
triển trang trại, nhằm đảm bảo việc sử dụng đất hợp lý, bổ sung nguồn quỹ đất, cải tạo bồi
bổ đất và bảo vệ môi sinh môi trường. Riêng đối với đất trồng lúa phải hạn chế việc
chuyển sang các mục đích khác nhằm đảm bảo an ninh lương thực quốc gia.
b. Chế độ sử dụng đối với đất phi nông nghiệp:
Luật đất đai 2003 đã có 20 điều, từ điều 83 đến điều 102 quy định chế độ sử dụng đất
phi nông nghiệp, bao gồm: đất ở tại nông thôn, đất ở tại đô thị, đất xây dựng trú sở cơ
quan, công trình sự nghiệp, đất quốc phòng, an ninh; đất khu công nghiệp, khu công nghệ
cao, khu kinh tế; đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở SXKD; đất khai thác khoáng sản, làm
NVL xây dựng; đất sử dụng cho mục đích công cộng và các loại đất chuyên dùng khác.
Các quy định chung trong sử dụng đất phi nông nghiệp là: việc quy hoạch phải đảm
bảo tính tổng thể, đồng bộ; sử dụng đất đúng quy hoạch, đúng mục đích đã được giao; đảm
bảo giữ gìn môi trường và không được làm ảnh hưởng đến người khác; nhà nước khuyến
khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng đô thị, khu
công nghiệp, khu kinh tế.
Chế độ sử dụng một số loại đất chủ yếu như sau:
- Đất ở tại nông thôn: là đất dùng để xây dựng nhà ở và các công trình phục vụ đời
sống ở tại nông thôn; hạn mức giao đất ở tại nông thôn do UBND tỉnh quy định; nhà nước
có chính sách tạo điều kiện cho người dân có chỗ ở; nhà nước công nhận quyền sử dụng
đất ở hợp pháp và cấp GCN cho người dân trên cơ sở hiện trạng sử dụng có từ trước ngày
1/7/2004 và phù hợp với quy hoạch kể cả có hay không có giấy tờ, trong đó nếu sử dụng
đất trước ngày 15/10/1993 thì không phải nộp tiền sử dụng đất.
- Đất ở tại đô thị: các quy định về công nhận quyền sử dụng hợp pháp tương tự như
đất ở nông thôn; nhà nước khuyến khích các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế thực
hiện các dự án phát triển nhà ở hiện đại, đồng bộ về cơ sở hạ tầng, đảm bảo vệ sinh môi
trường và cảnh quan đô thị hiện đại. Trong đó: (1) Giao đất ở cho tổ chức kinh tế, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài thực hiện theo dự án đầu tư xây dựng nhà ở để bán hoặc
cho thuê; (2) Cho thuê đất ở thu tiền thuê đất hàng năm đối với người Việt Nam định cư ở
nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà ở để cho
thuê; (3) Cho thuê đất ở thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê đối với người Việt
Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài thực hiện dự án đầu tư xây dựng
nhà ở để bán hoặc cho thuê. Ngoài ra nhà nước có thể giao đất cho hộ gia đình, cá nhân tự
làm nhà ở trong trường hợp chưa đủ điều kiện để giao đất theo dự án đầu tư xây dựng nhà
ở.
- Đất khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế:
(1) Khu công nghệ cao và khu kinh tế do Chính phủ quyết định thành lập, nhà nước
thành lập các Ban quản lý và giao đất 1 lần cho BQL để thực hiện việc giao lại đất, cho
thuê đất đối với các nhà đầu tư.
(2) Nhà nước (bao hàm cả BQL khu kinh tế, BQL khu công nghệ cao) thực hiện giao
đất, cho thuê đất đối với các nhà đầu tư trực tiếp sản xuất hoặc giao đất, cho thuê đất để
nhà đầu tư đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng trong KCN, khu CN cao, khu kinh tế theo
quy định: nhà đầu tư trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài được giao đất
có thu tiền hoặc thuê đất nộp tiền hàng năm; nhà đầu tư có yếu tố nước ngoài được thuê
đất trả tiền hàng năm hoặc trả một lần cho cả thời hạn thuê; nhà đầu tư được giao đất thì
được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất gắn với cơ sở hạ tầng trên đất, nhà đầu tư
thuê đất để đầu tư kinh doanh kết cấu hạ tầng thì được cho thuê lại đất.
- Đất làm mặt bằng xây dựng cơ sở SXKD ngoài KCN, khu CN cao, khu kinh tế:
Nhà đầu tư trong nước có thể lựa chọn hình thức giao đất có thu tiền, thuê đất trả tiền hàng
năm, nhận chuyển quyền, nhận góp vốn bằng QSD đất, thuê lại đất của nhà đầu tư khác.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài thì ngoài các sự lựa chọn như trên còn có thể xin
thuê đất trả tiền một lần cho cả thời hạn thuê. Đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài được
thuê đất của nhà nước trả tiền hàng năm hoặc một lần, thuê đất, thuê lại đất của nhà đầu tư
khác.
- Đất khai thác khoáng sản và khai thác làm nguyên vật liệu xây dựng: Nhà nước chỉ
áp dụng hình thức cho thuê đất trả tiền thuê hàng năm đối với mọi đối tượng.
- Hạn mức sử dụng đất phi nông nghiệp (trừ đất ở) được quy định dưới dạng suất đầu
tư (giá trị vốn đầug tư tối thiểu trên một đơn vị diện tích) đối với từng lĩnh vực, ngành
nghề kinh doanh, cụ thể do UBND tỉnh quy định.
1.3.3 Phân cấp quản lý nhà nước về đất đai
Phân cấp quản lý nhà nước là việc phân định trách nhiệm, chức năng nhiệm vụ,
quyền hạn cho các cấp, các ngành thuộc hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về một lĩnh
vực nào đó.
- Quy định chung về trách nhiệm của các cấp trong việc quản lý nhà nước về đất đai
là: Nhà nước thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu toàn dân về đất đai và thống nhất quản
lý nhà nước về đất đai:
(1) Quốc hội ban hành pháp luật về đất đai, quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất của cả nước; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với việc quản lý và sử dụng đất đai
trong phạm vi cả nước.
(2). Chính phủ quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương và quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phũng, an ninh;
thống nhất quản lý nhà nước về đất đai trong phạm vi cả nước. Bộ Tài nguyên và Môi
trường chịu trách nhiệm trước Chớnh phủ trong việc quản lý nhà nước về đất đai.
(3) Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền giám sát việc thi hành pháp luật về
đất đai tại địa phương.
(4) Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quyền đại diện chủ sở hữu về đất đai và quản
lý nhà nước về đất đai tại địa phương theo thẩm quyền quy định tại Luật này.
- Cơ quan tham mưu chủ yếu giúp UBND các cấp trong quản lý đất đai là ngành Tài
nguyên và Môi trường. Ngoài ra có một số nội dung được giao cho cơ quan khác tham
mưu hoặc phối hợp tham mưu như: Việc xác lập và quản lý địa giới hành chính do ngành
Nội vụ tham mưu; việc quy hoạch và quản lý quy hoạch đô thị do ngành Xây dựng tham
mưu; việc lập quy hoạch và quản lý, sử dụng đất quốc phòng và đất an ninh do Quân đội
và ngành Công an thực hiện; việc tính thuế và đơn giá thuê đất do ngành tài chính tham
mưu; việc thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo do cơ quan Thanh tra phối hợp với thanh
tra chuyên ngành thực hiện.
- Về việc ban hành văn pháp quy để cụ thể hoá các quy định của Luật chủ yếu do
Chính phủ ban hành. Uỷ ban nhân cấp tỉnh được quy định một số nội dung áp dụng trong
địa bàn tỉnh như sau: giá đất hàng năm; hạn mức giao đất ở và hạn mức công nhận đất ở;
suất đầu tư đối với các dự án đầu tư; chính sách bồi thường, hỗi trợ GPMB và tái định cư;
thời hạn trong giải quyết các thủ tục hành chính về đất; đền bù việc quản lý và sử dụng đất
tôn giáo, đất tín ngưỡng; hạn mức và chế độ sử dụng đất nghĩa trang, nghĩa địa;
- Về thẩm quyền của UBND các cấp trong quản lý đất đai:
(1) Thẩm quyền quyết định, xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất: UBND cấp
tỉnh xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của cấp huyện, phường, thị trấn; UBND
cấp huyện xét duyệt quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của xó.
(2) Thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất:
UBND cấp tỉnh quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất
đối với tổ chức; giao đất đối với cơ sở tôn giáo; giao đất, cho thuê đất đối với người Việt
Nam định cư ở nước ngoài; cho thuê đất đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài; UBND cấp
huyện quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đối với hộ
gia đỡnh, cỏ nhõn; giao đất đối với cộng đồng dân cư; UBND cấp xó cho thuờ đất thuộc
quỹ đất công ích. Cơ quan có thẩm quyền quyết định giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất không được ủy quyền.
(3) Thẩm quyền thu hồi đất: Cấp nào có thẩm quyền giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất thì có thẩm quyền thu hồi đối với loại đất đó, trừ trường hợp
đất của người Việt nam định cư ở nước ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền
với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam thì do UBND cấp huyện thu hồi. Cơ quan nhà nước
có thẩm quyền thu hồi đất không được uỷ quyền.
(4) Thẩm quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: Cấp nào có thẩm quyền
giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất thì có thẩm quyền cấp GCN
QSD đất đối với đối tượng đó, trừ trường hợp đất của người Việt nam định cư ở nước
ngoài thuộc đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam thì
do UBND cấp huyện cấp GCN QSD đất. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp GCN QSD
đất có thể uỷ quyền cho cho cơ quan quản lý đất đai cùng cấp theo quy định của Chính phủ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LUẬN VĂN- Quản lý nhà nước về đất đai tại Hà Tĩnh - thực trạng và giải pháp.pdf