Quản lý nhà nước về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là toàn
bộ sự tác động có tổ chức, có mục đích của Nhà nước đến các hoạt động bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa cồng chiêng, là một hoạt động vừa mang
tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật, qua đó hướng đến mục tiêu bảo tồn
không gian văn hóa cồng chiêng trong tổng thể văn hóa bản địa truyền thống
của 47 dân tộc anh em đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Đặc biệt
tiếng cồng chiêng còn đem đến đời sống của người Tây Nguyên sự lạc quan,
là nguồn gốc của những sử thi, thơ ca đi vào đời sống tinh thần của nhân dân.
Kết quả nghiên cứu đề tài được thể hiện qua các chương như sau:
Chương 1, luận văn đã hệ thống được cơ sở lý luận quản lý nhà nước
về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Công tác quản lý di sản văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên là quá trình tác động, điều chỉnh thông qua quản lý
nhà nước bằng các quy định của pháp luật trên tất cả các hoạt động trong đời
sống xã hội nhằm bảo tồn và phát triển di sản, đáp ứng nhu cầu văn hóa của
nhân dân vùng Tây Nguyên và của tỉnh Đắk Lắk. Kết quả nghiên cứu về
phương diện lý luận ở chương 1 là cơ sở để luận văn khảo sát, đánh giá thực
trạng quản lý di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên của tỉnh Đắk Lắk trong
thời gian qua, làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng
của công tác quản lý di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên của tỉnh ở các
chương sau.
Chương 2, trên cơ sở khảo sát và tổng hợp các thông tin số liệu từ các
nguồn trên địa bàn Tây Nguyên và trong tỉnh Đắk Lắk, luận văn đã phân tích
đánh giá thực trạng và làm sáng tỏ thách thức lớn là mâu thuẫn giữa bảo tồn
và phát triển trong công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk. Những khó khăn, thách thức và kinh nghiệm-92-
trong công tác bảo tồn phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể luôn là
bài học quý giá định hướng cho các hoạt động quản lý nhà nước về bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3, từ việc quán triệt nhận thức đúng đắn những quan điểm
định hướng của Đảng và Nhà nước, cùng với sự nghiên cứu hiểu rõ về văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên, luận văn đã đề xuất các giải pháp quản lý nhà
nước về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở tỉnh
Đắk Lắk theo hướng tổng thể: từ không gian, thời gian đến các bài bản, tập
tục, sự trao truyền của các nghệ nhân., nhằm làm cho di sản trở thành một
thành tố của quá trình “Di truyền xã hội”, là trách nhiệm chung của toàn xã
hội, của các cấp, các ngành và của cả cộng đồng.
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở tỉnh
Đắk Lắk đã đạt được những thành quả quan trọng, góp phần tích cực vào việc
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, giữ vững
ổn định an ninh chính trị. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ những bất cập, cần nhanh
chóng khắc phục. Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên là một hoạt động khoa học, đòi hỏi những kiến thức chuyên sâu, sự
phối hợp của liên ngành. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và qua
khảo sát đánh giá hiện trạng, tác giả luận văn đã đề xuất những giải pháp cơ
bản nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
Tuy nhiên, trong giới hạn của một luận văn thạc sỹ, cũng như khả
năng của tác giả trước một vấn đề rất lớn của cả tỉnh Đắk Lắk và cả vùng Tây
Nguyên bao la ngút ngàn, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những hạn
chế cần bổ khuyết, để công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk đạt được kết quả như định hướng của
Đảng và Nhà nước đã đề ra.
106 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 880 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bước đầu tách
hộ, bỏ nhà dài, làm nhà từng hộ riêng, phát triển kinh tế gia đình theo
phương thức sản xuất hàng hóa (VAC, VRC, nhận khoán trồng cà phê,
trồng rừng) nhiều gia đình đã mang bán đi những bộ cồng chiêng quý để
lấy vốn sản xuất và giải quyết đời sống khó khăn của gia đình mình. Ngoài
ra, một số gia đình đồng bào dân tộc tại chỗ nghe lời xúi dục của bọn xấu
đã bỏ lễ hội, bỏ cồng chiêng, bỏ phong tục tập quán cộng đồng và mang
bán những bộ chiêng quý.
Sự phát triển của các loại hình văn hóa hiện đại, như: truyền hình,
điện ảnh, video, sân khấu, âm nhạc nhất là băng nhạc, phim ảnh nước ngoài
được đưa vào nước ta một cách thiếu chọn lọc, đã ảnh hưởng không nhỏ
đến nền văn hóa truyền thống của dân tộc, trong đó có nền văn hóa cồng
chiêng của đồng bào các dân tộc Đắk Lắk. Không ít thanh niên (con em
-69-
đồng bào dân tộc Êđê, M’nông, J’rai, Sê Đăng) tuy được giáo dục truyền
thống dân tộc, nhưng vẫn bị thu hút vào văn hóa hiện đại, coi sinh hoạt văn
hóa cồng chiêng của buôn làng mình là lạc hậu, lỗi thời, và không phù hợp
với thời đại. Do đó, họ không thiết tha với cồng chiêng và các nhạc cụ do
ông bà để lại.
Công tác kiểm tra, quản lý các hoạt động văn hóa cồng chiêng từ
trung ương đến địa phương từ trước đến nay vẫn chưa được đặt ra một cách
cụ thể, bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ quản lý chuyên trách về công tác này
chưa được đào tạo bài bản. Mặt khác, việc dựa vào nhân dân (nhất là các
già làng) để tuyên truyền cho nhân dân hiểu được giá trị văn hóa cồng
chiêng của dân tộc mình để cùng nhau gìn giữ, bảo vệ, phát huy nó trong
các sinh hoạt văn hóa cộng đồng chưa thực sự được quan tâm đúng mức.
-70-
Tiểu kết chương 2
Thực trạng công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, luôn luôn có
một thách thức lớn là mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển. Đối với di sản văn
hóa phi vật thể thì thách thức này còn lớn hơn, bởi di sản văn hóa phi vật thể
là vô hình, không nhìn thấy, nên nhiều khi có phần bị mai một, mất đi mà
không biết. Những khó khăn, thách thức và kinh nghiệm trong công tác bảo
tồn giá trị các di sản văn hóa phi vật thể trên thế giới và Việt Nam, luôn là bài
học quý giá định hướng cho các hoạt động quản lý nhà nước về bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên.
Để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống được tốt, ngoài
việc đúc rút các kinh nghiệm của bạn bè trên thế giới, phát huy những gì có lợi,
hạn chế và tránh những gì có hại cho các giá trị văn hóa truyền thống, còn phải
tạo sự phát triển bền vững cho các giá trị. Qua đó, có định hướng mang tính
chiến lược của các nhà quản lý, các nhà nghiên cứu văn hóa để cùng với cộng
đồng tìm ra lời giải là chúng ta sẽ bảo tồn cái gì, bảo tồn và phát huy thế nào để
giữ lại cho thế hệ mai sau các báu vật di sản văn hóa của dân tộc.
Để làm tốt được những điều đó, vấn đề then chốt là tỉnh Đắk Lắk phải
đổi mới và nâng cao nhận thức, xem cơ sở là địa bàn chiến lược của sự nghiệp
cách mạng văn hóa, là nơi biến những quan điểm của Đảng và Nhà nước
thành hiện thực, là môi trường sống, nơi sinh ra và đồng thời là nơi lưu giữ,
trao truyền và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Cần biết
vận dụng sáng tạo các quy định của pháp luật và các hướng dẫn chuyên ngành
về quản lý di sản văn hóa phi vật thể, phối hợp với các ban ngành, các cấp
chính quyền, cụ thể hóa các chính sách quản lý của nhà nước. Thêm nữa, nếu
địa phương có chính sách đúng đắn, hợp lòng dân, được toàn dân và các cấp,
các ngành tham gia, hưởng ứng, thì nhất định công tác bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên sẽ đạt nhiều thành tựu mới
trong thời gian tới.
-71-
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA CỒNG CHIÊNG
TÂY NGUYÊN Ở TỈNH ĐẮK LẮK
3.1. Quan điểm và định hướng về di sản văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên
3.1.1. Quan điểm của Đảng về văn hóa và di sản văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh thời đã nói: “Trong công cuộc kiến thiết
nước nhà có bốn vấn đề phải chú ý đến cùng phải coi là quan trọng ngang
nhau: chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa”. Nguyên tổng giám đốc UNESCO
Federico Mayor đã dẫn lời nhà bác học Bernard Lowl- người được giải
thưởng Nobel Hòa Bình năm 1995 – khi ông nói đại ý rằng: chỉ có những ai
nhìn thấy cái vô hình thì mới có thể thực hiện được khả thể.
Việt Nam là một trong những nước đầu tiên trên thế giới ký Công ước
năm 2003 về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể của UNESSCO [46]. Công
ước này đã được Đại hội đồng UNESSCO nhất trí thông qua vào ngày
17/10/2003 và có hiệu lực từ tháng 4/2006. Cùng với việc tham gia Công ước
là sự đảm bảo các quy định của Công ước nói trên phải được nội luật hóa vào
pháp luật của quốc gia. Trên cơ sở tiếp thu quan điểm của UNESSCO, tại lần
sửa đổi bổ sung vào năm 2009, khái niệm về di sản văn hóa phi vật thể đã xác
định lại theo hướng xúc tích và trọng tâm “di sản văn hóa phi vật thể là sản
phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá nhân, vật thể và không gian văn
hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học thể hiện bản sắc của cộng
đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác”. Cách định nghĩa này đảm bảo các tiêu chí xác định di sản văn hóa phi
-72-
vật thể của Việt Nam phù hợp với quốc tế. Qua đó, Việt Nam đã có điều kiện
thuận lợi hơn trong việc lập hồ sơ đề nghị UNESSCO công nhận di sản văn
hóa phi vật thể cần bảo vệ ở tầm quốc tế.
Năm 1993, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 25-TTg
ngày 19/01/1993 qui định về một số chính sách nhằm xây dựng và đổi mới sự
nghiệp văn hóa nghệ thuật, xác định: “Đầu tư 100% cho việc sưu tầm, chỉnh
lý biên soạn, bảo quản lâu dài phổ biến các sản phẩm văn hóa tinh thần như
văn học dân gian, các điệu múa, các làn điệu âm nhạc của các dân tộc, gìn giữ
các nghề thủ công truyền thống”[36]. Như vậy nhà nước đã xác định phải bảo
tồn di sản văn hóa nói chung, trong đó quan tâm đến di sản văn hóa phi vật
thể nói riêng.
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII, thông qua ngày 16/07/1998) về
xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: “Di
sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản
sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức
coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác
học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật
thể” [9]. Ở đây, văn hóa phi vật thể đã được nhắc đến trực tiếp và được
khẳng định vai trò cũng như giá trị quan trọng đối với dân tộc, đất nước, cần
được bảo tồn và phát huy giá trị bên cạnh di sản văn hóa vật thể.
Các văn kiện tại các kỳ Đại hội Đảng cũng có những nội dung thể
hiện phương hướng phát triển và bảo tồn di sản văn hóa. Trong Báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu: “Tiếp tục xây dựng văn hóa Việt
Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa tốt đẹp dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”. Như vậy,
trong các chính sách gần đây, Nhà nước đã đề cập đến việc bảo tồn, phát huy
-73-
di sản văn hóa như một vấn đề không thể thiếu trong quá trình xây dựng đất
nước. Các chính sách của Đảng hướng đến việc xây dựng, bảo tồn di sản văn
hóa nói chung, di sản văn hóa phi vật thể nói riêng cùng với chiến lược phát
triển đất nước.
Luật di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi bổ sung năm 2009, là cơ
sở pháp lý quan trọng nhất để bảo vệ, phát triển hệ thống di sản văn hóa. Luật
Di sản văn hóa đã dành trọn vẹn chương II, từ điều 17 đến điều 21 để đề cập
vấn đề di sản văn hóa phi vật thể từ trách nhiệm của Nhà nước, các cơ quan
nhà nước đến các nguyên tắc bảo vệ và phát huy. Điều 20 “Cơ quan Nhà nước
có thẩm quyền phải áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể, ngăn chặn nguy cơ làm sai lệch, bị mai một hoặc thất truyền”
[29]; hoặc Điều 26 “Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ
nhân, nghệ sĩ nắm giữ và có công phổ biến nghệ thuật truyền thống, bí quyết
nghề nghiệp có giá trị đặc biệt” [29].
Một trong những công cụ để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nói
chung và di sản văn hóa phi vật thể nói riêng, đó là hệ thống pháp luật. Đảng ta
cũng khẳng định chủ trương: Nhà nước cùng nhân dân giữ gìn và bảo tồn những
di sản văn hóa, hoàn thành nhiệm vụ sưu tầm vốn văn hóa văn nghệ các dân tộc.
Nghị quyết TW 5 khóa VIII, đã khẳng định: Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn
kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá
trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những
giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm
cả văn hóa vật thể và phi vật thể [9].
Các biện pháp bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể được xây dựng trên
phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Sự kết hợp này, vừa thể
hiện sự đồng thuận của Nhà nước và nhân dân, vừa mang lại hiệu quả cho
việc bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Thực hiện chủ trương đường lối của
-74-
Đảng, Luật di sản văn hóa đã đưa ra các quy định thích hợp để thúc đẩy sự
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ, phát huy di sản như: tham gia các tổ
chức và điều ước quốc tế, cho phép tổ chức, trưng bày cổ vật ở nước ngoài.
Vì vậy Nhà nước ta đã có ý thức và triển khai quá trình xây dựng một văn bản
luật thống nhất quy định về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể, cụ
thể ngày 23 tháng 11 năm 1945, hơn 2 tháng sau khi nhà nước dành được độc
lập, Chủ tịch Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 65/SL “Ấn
định nhiệm vụ của Đông Phương Bác cổ Học viện” - Sắc lệnh đầu tiên của
Nhà nước ta về việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc. Ngày 24 tháng 2 năm
2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 36/2005/QĐ – TTg về việc
hàng năm lấy ngày 23 tháng 11 là “Ngày di sản Văn hóa Việt Nam”. Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ xác định các yêu cầu của Ngày Di sản Văn
hóa Việt Nam là:
Giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức trách
nhiệm bảo vệ di sản văn hóa trong toàn dân.
Tăng cường ý thức trách nhiệm, niềm tự hào của những người làm công
tác bảo vệ, giữ gìn và phát huy di sản văn hóa dân tộc trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Động viên phong trào thi đua lao động sản xuất, nâng cao kỷ luật, đạo
đức cách mạng cho cán bộ, công chức, viên chức trong ngành văn hóa nói
chung và trong lĩnh vực di sản văn hóa nói riêng.
Biểu dương, khen thưởng kịp thời đối với tổ chức, cá nhân có thành
tích xuất sắc trong sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa theo
pháp luật về thi đua khen thưởng.
Công ước Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể UNESCO năm 2003 đặc
biệt nhấn mạnh đến sự tham gia của cộng đồng, các nhóm người và cá nhân,
theo đó khuyến nghị các quốc gia thành viên cần phải nỗ lực để đảm bảo khả
-75-
năng tham gia tối đa của các cộng đồng, nhóm người, tích cực lôi kéo họ vào
công tác quản lý. Từ đó, Việt Nam đã xây dựng biện pháp nhằm bảo vệ di sản
văn hóa phi vật thể với quy định chỉ đạo tại Điều 17 Luật Di sản văn hóa năm
2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) là: “Nhà nước khuyến khích và tạo điều
kiện cho tổ chức, cá nhân tiến hành hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản,
truyền dạy và giới thiệu di sản văn hóa phi vật thể nhằm giữ gìn, phát huy bản
sắc văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam” [29].
3.1.2. Định hướng và mục tiêu bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk
Di sản văn hóa nói chung, di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên nói
riêng là cầu nối giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và là nét đẹp trong
bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Chính vì vậy, di sản văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên cần được sưu tầm, nghiên cứu, khôi phục, gìn giữ và phát huy
trong hiện tại và tương lai.
Nghị quyết Đảng bộ tỉnh Đắk Lắk lần thứ XVI (2015-2020) đã quán
triệt sâu sắc tinh thần trên và các cấp chính quyền trong tỉnh đã nghiêm túc
thực hiện.
Trước thực trạng về hoạt động quản lý nhà nước đối với công tác bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên hiện nay.
Để khắc phục những tồn tại và phát huy mặt tốt hơn, hoạt động quản lý nhà
nước ở tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới cần chú ý những vấn đề sau:
Một là, thực hiện tốt công tác kiểm kê, lập hồ sơ khoa học di sản văn
hóa phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên một cách khoa học và có hệ thống,
thông qua việc tư liệu hóa, nhằm nhận diện và xác định mức độ tồn tại, giá trị
và sức sống của di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trong cộng đồng,
trên cơ sở đó đề xuất phương án bảo tồn, phát huy một cách hiệu quả.
-76-
Hai là, nâng cao vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước, đẩy mạnh
công tác tuyên truyền vận động nhân dân tham gia bảo vệ di sản văn hóa, gắn
hoạt động văn hóa dân tộc trong công tác xây dựng đời sống văn hóa. Chú
trọng nguyên tắc “bảo tồn sống” tức là bảo tồn ngay chính trong đời sống
cộng đồng.
Ba là, tiếp tục tổ chức nghiên cứu, sưu tầm, phục hồi nâng cao để đáp
ứng nhu cầu thực tế. Có chính sách, chế độ thích đáng cho các nghệ nhân tài
giỏi, những cá nhân và gia đình có công sức giữ gìn tài sản văn hóa dân tộc.
Bốn là, không gian diễn xướng và việc quản lý hương dẫn cũng như
việc bảo tồn nét đẹp truyền thống của di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
vẫn là những vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu trên địa bàn tỉnh.
Năm là, tăng cường hoạt động đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản
lý ở địa phương, xây dựng các tổ đội truyền thông và không ngừng nhân rộng
các mô hình điểm.
Sáu là, tăng cường việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật,
giao lưu, hợp tác với các địa phương trong và ngoài nước đối với hoạt động
quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cồng chiêng.
Tiếp tục triển khai có hiệu quả Luật Di sản văn hóa của Nhà nước, Chỉ
thị 08/CT-UB của UBND tỉnh Đắk Lắk về việc bảo tồn di sản văn hóa cồng
chiêng trong toàn tỉnh.
Xác định di sản văn hóa nói chung và di sản văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên nói riêng có khả năng điều tiết giữ cân bằng, ổn định xã hội,
thúc đẩy phát triển kinh tế, giáo dục từ đó góp phần tạo động lực thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Đắk Lắk. Căn cứ các chương trình, kế
hoạch của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Sở Văn hóa Thể thao và Du
lịch tỉnh Đắk Lắk tiến hành xây dựng đề án “Bảo tồn, phát huy văn hóa
cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016 – 2020” [45] có quy mô lớn nhất
-77-
từ trước đến nay (sau dự án Bảo tồn, phát huy di sản không gian văn hóa
cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk giai đoạn 2012 – 2015) [43]. Đề án nhằm gìn giữ
và lưu truyền cho các thế hệ mai sau những giá trị độc đáo, mang đậm tính
nhân văn của văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, những phong tục tập quán
tốt đẹp về lối sinh hoạt văn hóa Tây Nguyên với những định hướng mục
tiêu cụ thể.
Hoàn thành nội dung kiểm kê di sản văn hóa cồng chiêng của các dân
tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn tỉnh nhằm xác định giá trị, số lượng (bài
chiêng cổ, nghệ nhân truyền dạy) phục vụ quá trình bảo tồn, phát huy giá trị
văn hóa cồng chiêng trong những giai đoạn tiếp theo.
Đến năm 2020, phấn đấu trên 70% buôn có đồng bào các dân tộc bản
địa trên địa bàn toàn tỉnh có cồng chiêng.
Phục hồi và giữ gìn các sinh hoạt văn hóa, các lễ hội truyền thống để
tạo môi trường diễn xướng cho cồng chiêng và sinh hoạt văn hóa cồng chiêng.
Khuyến khích trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng và tổ chức các lễ hội truyền
thống dân gian có sử dụng cồng chiêng.
Hỗ trợ cho 15 huyện, thị xã, thành phố tổ chức các lớp truyền dạy về cách
đánh cồng chiêng và chỉnh chiêng cho thanh niên người dân tộc tại địa phương.
Mở lớp truyền dạy dân ca, dân vũ cho con em đồng bào các dân tộc
bản địa trong toàn tỉnh, nhằm khơi gợi lòng đam mê hát dân ca, dân vũ cho
các em, để lưu giữ nghệ thuật hát dân ca, dân vũ cho thế hệ kế cận.
Mở lớp truyền dạy chỉnh chiêng nhằm tìm những nghệ nhân có năng
khiếu về khả năng thẩm âm các loại chiêng trên địa bàn tỉnh, phối hợp với các
nghệ nhân truyền dạy kỹ năng chỉnh chiêng để lưu truyền kỹ năng chỉnh
chiêng cho các thế hệ kế cận.
Tổ chức lớp truyền dạy sử thi để thế hệ trẻ có điều kiện tiếp xúc với
nghệ thuật hát kể sử thi, từ đó giúp họ ý thức và yêu quý vốn văn hóa
-78-
truyền thống quý báu đang có nguy cơ mất hẳn trong đời sống sinh hoạt
cộng đồng.
Thống kê, sưu tầm, ghi chép lưu giữ các bài chiêng cổ trong nghi lễ
vòng đời người, nghi lễ nông nghiệp của đồng bào các dân tộc bản địa (ghi
âm, ghi hình, chụp ảnh tư liệu).
Thống kê số lượng nghệ nhân dân gian có khả năng truyền dạy đánh
cồng chiêng, chỉnh (sửa) cồng chiêng và nhớ được các bài chiêng hiện có.
Xuất bản sách và đĩa CD về các hoạt động bảo tồn, phát huy di sản
văn hóa cồng chiêng Đắk Lắk, giai đoạn 2016 - 2020 để phát hành đến buôn,
làng đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Đắk Lắk.
Tổ chức giao lưu văn hóa cồng chiêng ở các buôn làng trong cộng
đồng và giữa 3 cụm trong tỉnh, tạo điều kiện để cộng đồng trình diễn, giao lưu
văn hóa cồng chiêng với các cộng đồng khác ở trong và ngoài nước để đồng
bào ý thức và tự hào, yêu quý các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc
mình.
Phối hợp với ngành du lịch khai thác và phát huy giá trị di sản hóa
cồng chiêng Tây Nguyên văn một cách bền vững.
Phối hợp với các cơ quan thông tấn báo chí trong tỉnh và Trung ương
tuyên truyền sâu rộng trên các phương tiện thông tin đại chúng về giá trị
không gian văn hóa cồng chiêng.
Tổ chức các hội nghị, hội thảo chuyên đề về bảo tồn, phát huy giá trị
của di sản văn hóa cồng chiêng; đánh giá kết quả thực hiện đề án, định hướng
bảo tồn, phát huy trong giai đoạn tiếp theo.
Tiếp tục thực hiện các nội dung đã cam kết trong hồ sơ trình
UNESCO, v việc giữ gìn, bảo tồn, khai thác và phát huy có hiệu quả di sản
văn hóa cồng chiêng như việc từng bước khôi phục không gian văn hóa cồng
chiêng trong đời sống cộng đồng các dân tộc thiểu số tại chỗ trên địa bàn tỉnh
-79-
Đắk Lắk; giới thiệu, quảng bá giá trị di sản Không gian văn hóa cồng chiêng
tỉnh Đắk Lắk đến bạn bè trong và ngoài nước; gắn phát triển kinh tế với công
tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa cồng chiêng trên địa bàn tỉnh, góp
phần phát triển văn hóa - du lịch trong thời kỳ hội nhập nhằm tiếp tục thực
hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII) Về xây dựng và phát
triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và Nghị quyết
số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” trong thời kỳ công nghiệp hóa -
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về di sản văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk
3.2.1. Ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả thể chế quản lý nhà
nước về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh
Hoàn thiện hệ thống thể chế bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi
vật thể văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Cụ thể hóa các quy định pháp luật về nhận diện di sản văn hóa phi
vật thể, các quy định về biện pháp bảo vệ, sự đồng bộ trong hệ thống pháp
luật và tương thích với điều ước quốc tế theo hướng phụ hơp với lý luận và
thực tiễn. Đây là một trong những cách thức hiệu quả tác động đến quá trình
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt
trong quá trình tăng cường, hội nhập quốc tế, cần xây dựng các cơ chế nhằm
giúp các nghệ sỹ và nghệ nhân trong việc quản lý các hoạt động và củng cố
các quyền lợi của họ trên thị trường trong nước và quốc tế. Tăng cường sự
hợp tác văn hóa giữa các cơ quan công quyền, các doanh nghiệp và các tổ
chức xã hội bằng cách cấp cho các tổ chức này một quy chế hoạt động thích
hợp và điều lệ chính thức.
-80-
Đẩy mạnh hoạt động giao lưu, trao đổi giữa các buôn, làng, các câu
lạc bộ cồng chiêng, âm nhạc dân gian và để làm được điều này, trước hết các
buôn, làng, câu lạc bộ cần có những nội quy, quy chế hoạt động rõ ràng dưới
sự kiểm soát của các cơ quan quản lý văn hóa địa phương. Song song với đó,
ngành Văn hóa thể thao và Du lịch cũng khuyến khích hoặc có quy định cụ
thể cho các buôn, làng, câu lạc bộ trong việc tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về
văn hóa, những giá trị đặc trưng của di sản văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên.
Đổi mới và nâng cao chất lượng Hội thi, Liên hoan văn hóa cồng
chiêng đầu xuân hay các dịp lễ hội qua đó cần được tổ chức từ cơ sở và có sự
tham gia của các đối tượng ở ngoài tỉnh, ở nhiều tỉnh để tiến tới Hội thi, Liên
hoan toàn quốc. Cần duy trì tốt tổ chức các Liên hoan, Hội thi cho học sinh
phổ thông và thiếu nhi bằng hình thức phát động các cuộc thi thực hành về
văn hóa cồng chiêng để: Một là, tìm ra những thí sinh trẻ tuổi say mê nghiên
cứu về văn hóa cồng chiêng; Hai là, tìm ra những gương mặt trẻ có năng
khiếu đặc biệt trong hát và trình diễn cồng chiêng. Công tác tuyển chọn tài
năng trẻ thông qua các hội thi, liên hoan sẽ thu hút sự chú ý của thế hệ trẻ vào
quá trình sinh hoạt, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên nói chung, thực hành các hình thức sinh hoạt cồng chiêng hiện nay
nói riêng.
Sau khi quán triệt triển khai từng chương trình cụ thể, UBND tỉnh Đắk
Lắk cần phân công nhiệm vụ cụ thể cho các ngành, các cấp, các đơn vị có liên
quan xây dựng chương trình hành động theo từng lĩnh vực hoạt động, góp
phần làm cho di sản cồng chiêng Tây Nguyên được bảo tồn một cách khoa
học và ngày càng lan tỏa sâu rộng trong cộng đồng một cách lâu bền.
3.2.2. Cụ thể hóa và tổ chức thực hiện chính sách về di sản văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh
-81-
Hoàn thiện danh sách các nghệ nhân; xây dựng chính sách đãi ngộ với
các nghệ nhân như lương, phụ cấp, nhất là những nghệ nhân được phong tặng
“Báu vật nhân văn sống” ở các buôn, làng trên địa bàn tỉnh.
Để làm được việc này, Sở VHTT&DL cần tham mưu với UBND tỉnh
tiếp tục phát triển khai việc tổng kiểm kê, đặt ra các tiêu chí về nghệ nhân, từ
đó nghiên cứu một chính sách phù hợp. Đã đến lúc chúng ta không thể tôn
vinh kho “Di sản nhân văn sống” bằng băng rôn, khẩu hiệu và những giấy
khen mãi khi cuộc sống của nhiều nghệ nhân giỏi hiện nay đang gặp rất nhiều
khó khăn.
Trang bị cồng chiêng cho các đội chiêng ở các buôn làng nhằm khích
lệ, động viên tinh thần đối với các nghệ nhân đánh chiêng cũng như nâng cao ý
thức trách nhiệm, gìn giữ giá trị văn hóa, giá trị di sản văn hóa cồng chiêng và
góp phần phát huy hiệu quả trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng ở các buôn,
làng.
Cấp trang phục truyền thống: Chọn và cấp trang phục cho các đội
chiêng, các đội văn nghệ ở các buôn làng có nhiều thành tích trong việc bảo
tồn, phát huy gìn giữ di sản văn hóa cồng chiêng để các đội chiêng, đội văn
nghệ chủ động hơn trong việc tập luyện hoặc tham gia vào các hoạt động giao
lưu, biểu diễn tại cộng đồng cũng như trong và ngoài tỉnh.
Phục dựng một số lễ hội truyền thống có nguy cơ mai một của đồng
bào các dân tộc bản địa gắn với môi trường diễn tấu văn hóa cồng chiêng để
đồng bào phát huy những nét đẹp trong các lễ hội vào đời sống cộng đồng.
3.2.3. Kiện toàn và ổn định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về di
sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh
Thành lập hiệp hội nghệ nhân văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên
cơ sở các câu lạc bộ cồng chiêng ở các làng hiện nay, xây dựng chương trình
-82-
hoạt động cho hiệp hội, để tổ chức phi chính phủ này đóng vai trò tích cực
trong việc tuyền dạy văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên cho thế hệ trẻ.
Thành lập Trung tâm nghiên cứu di sản văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên hoặc có bộ phận nghiên cứu này trong phòng Quản lý di sản thuộc Sở
Văn hóa, Thể thao & Du lịch của tỉnh. Khai thác có hiệu quả Trung tâm vệ
tinh, các cơ quan lưu trữ tư liệu về di sản văn hóa phi vật thể và tạo điều kiện
cho mọi người tiếp cận, đảm bảo sự tiếp cận với di sản văn hóa phi vật thể
một cách nhanh chóng và thuận lợi nhất. Quản lý khai thác việc tiếp cận các
tài liệu thông qua hệ thống lưu trữ kỹ thuật số và hệ thống mạng Internet. Bên
cạnh đó, hoạt động nghiên cứu cần có sự phối hợp, giúp đỡ chuyên môn của
Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam, Học viện Âm nhạc quốc gia Việt Nam,
Cục Di sản văn hóa.
Thành lập ban bảo vệ văn hóa cồng chiêng từ tỉnh đến cơ sở trong đó
cần có các già làng và cán bộ người dân tộc có năng khiếu vào ban này đồng
thời có kinh phí và phương tiện cần thiết cho ban này hoạt động.
Tuyên truyền, vận động cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở và
đồng bào các dân tộc nhận thức một cách sâu sắc về trách nhiệm gìn giữ, phát
huy các giá trị văn hóa cồng chiêng trước xu thế phát triển của xã hội hiện
nay. Chú trọng tổ chức hoạt động giao lưu văn hóa, biểu diễn nghệ thuật
(trong nước và nước ngoài). Tổ chức các đội thông tin lưu động.
3.2.4. Nâng cao năng lực cho cán bộ quản lý và bồi dưỡng nghiệp vụ
cho viên chức chuyên môn về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên
địa bàn tỉnh
Cần xác định cán bộ dân tộc thiểu số chính là người cần phát huy khả
năng làm việc, ngôn ngữ, vốn văn hóa truyền thống để giúp đồng bào ý thức
bảo vệ, phát huy về các giá trị di sản văn hóa truyền thống.
-83-
Cần củng cố, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên
môn cao phục vụ công tác quản lý di sản văn hóa phi vật thể với sự hỗ trợ của
các cơ quan, các nhà khoa học trong nước và thế giới (kể cả đi tham quan học
tập ở nước ngoài). Cần khẳng định rằng, những người làm công tác quản lý
nói riêng ở cấp cơ sở, nếu không hiểu biết về di dản văn hóa phi vật thể di sản
cồng chiêng Tây Nguyên cũng như những giá trị, đặc trưng và các hình thức
sinh hoạt của nó, sẽ gặp nhiều khó khăn trong quản lý, định hướng và duy trì
sự phát triển của di sản cồng chiêng. Do đó, họ cần thường xuyên được trang
bị những kiến thức cơ bản về quản lý di sản, trong đó có nội dung nghiệp vụ
quản lý. Sở VHTTDL cần tổ chức nghiên cứu toàn bộ nội dung bảo tồn di sản
cồng chiêng Tây Nguyên. Tham gia tập huấn là các cán bộ quản lý và những
người làm công tác văn hóa có chuyên môn về âm nhạc, văn hóa.
Quá trình tổ chức tập huấn có thể diễn ra theo nhiều đợt, mỗi đợt sẽ
quy định đối tượng và mức độ chuyên sâu khác nhau. Đợt một, tổ chức tập
huấn cho cán bộ cấp huyện, tức là người làm văn hóa ở các phòng, trung tâm
văn hóa. Đợt hai, tổ chức cho cán bộ ở các ban văn hóa xã. Mỗi đợt như thế
có thể kéo dài từ 20 ngày cho tới 2 tháng.
Mở lớp dạy đánh cồng chiêng cho con em đồng bào các dân tộc trong
tỉnh, nhằm chuyển giao kỹ năng sử dụng chiêng từ thế hệ cha anh cho thế hệ trẻ.
Phối hợp với Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, học viên Âm nhạc
Quốc gia Việt Nam để nghiên cứu, giúp đỡ cộng đồng tổ chức tự quản lý,
thực hiện các chương trình truyền dạy, phục hồi kỹ thuật biểu diễn cồng
chiêng theo lối truyền thống, các giải pháp để văn hóa cồng chiêng thích ứng
với sự phát triển của các phương tiện truyền thông trong đời sống đương đại.
Trong công tác quản lý cần quán triệt chủ thể của việc bảo tồn và phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc ở Tây Nguyên phải là nhân dân các dân tộc Tây
Nguyên, đó là sự nghiệp của người Tây Nguyên và vì người Tây nguyên.
-84-
3.2.5. Tăng hỗ trợ từ ngân sách, huy động nguồn lực tài chính và
vật chất để bảo tồn và phát triển di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên
trên địa bàn tỉnh
Công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng cần phải có
sự tập trung các nguồn lực, đặc biệt là nguồn kinh phí đầu tư cho công tác
này. Vì thực tế, việc triển khai thực hiện Nghị quyết số 63/2012/NQ-HĐND
ngày 06/7/2012 về “Bảo tồn, phát huy di sản không gian văn hóa cồng chiêng
tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2012 - 2015” không khả thi, do nguồn kinh phí không
đảm bảo để thực hiện.
Hằng năm cần có kế hoạch huy động các nguồn kinh phí tài trợ, đầu tư
cho những công trình, tác phẩm văn hóa như sản xuất băng đĩa về văn hóa
cồng chiêng, về lễ hội dân gian, xây dựng buôn làng văn hóa cổ truyền, bảo
tàng văn hóa dân tộc, trùng tu, tôn tạo và phát huy tác dụng của các di tích
lịch sử- văn hóa và di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở địa phương.
Tăng cường xã hội hóa huy động nguồn lực bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên. Để làm tốt vấn đề này, cần phải
giao nhiệm vụ cụ thể cho các cấp và các ngành có liên quan, hoặc thành lập
một cơ quan chuyên môn đủ năng lực huy động mọi nguồn lực cho công tác
bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên.
Đa dạng hóa các hình thức hỗ trợ tài chính hoặc kỹ thuật cho công tác
bảo tồn từ mọi hình thức xã hội hóa, bao gồm cả các khoản cho vay lãi suất
thấp và viện trợ từ các tổ chức quốc tế và tổ chức phi chính phủ.
Trong khuôn khổ các hoạt động bảo vệ si sản văn hóa phi vật thể, các
cấp chính quyền cần đảm bảo khả năng tham gia tối đa của các cộng đồng,
nhóm người, các cá nhân đã sáng tạo, duy trì và chuyển giao di sản, đặc biệt
là cần phải tích cực lôi kéo họ tham gia vào công tác quản lý thông qua Hiệp
-85-
hội những người yêu thích văn hóa cồng chiêng, Hiệp hội nghệ nhân dân văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Trong hoàn cảnh không gian diễn xướng truyền thống đang bị thu hẹp
do quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa. Cần thúc đẩy việc đầu tư các dự
án bảo vệ môi trường kết hợp bảo vệ và xây dựng các không gian, cảnh quan
tự nhiên và những địa điểm gắn với ký ức thể hiện di dản văn hóa phi vật thể
cồng chiêng Tây Nguyên. Đặt văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trong mối
liên quan mật thiết với điều kiện tự nhiên và môi trường sống bên cạnh đó
hình thái kinh tế phù hợp với văn hóa cồng chiêng.
Ủy ban nhân dân các xã, phường tiếp tục thực hiện kế hoạch xây dựng
mỗi thôn, buôn có một nhà văn hóa cộng đồng để tạo điều kiện sinh hoạt văn
hóa cho đồng bào.
Hỗ trợ cộng đồng phục hồi tập quán xã hội, tín ngưỡng và các lễ hội
liên quan đến di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở các buôn, làng. Tìm
các giải pháp để văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên thích ứng với sự phát triển
của các phương tiện âm thanh trong đời sống đương đại.
Chú trọng đầu tư phát triển du lịch văn hóa, tăng thêm tính lan tỏa của
di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Ngành văn hóa, thể thao và Du lịch
phối hợp với các địa phương xây dựng phương án khai thác và phát huy giá
trị di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên một cách hiệu quả và bền vững.
Từng bước đưa văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trở thành sản phẩm du lịch
hấp dẫn với những chương trình “Về với tiếng chiêng đại ngàn”, đầu tư và
triển khai sớm hoạt động “Đêm vang vọng tiếng cồng” trong các tour của
khách du lịch, đó cũng chính là một trong những hoạt động thúc đẩy tốt hơn
nữa tính lan tỏa của di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trong cộng đồng
ngày nay.
-86-
3.2.6. Thanh tra, kiểm tra thường xuyên và xử ký nghiêm vi phạm
về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh
Công tác quản lý các hoạt động biểu diễn, trình diễn văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên góp phần bảo tồn các yếu tố gốc, bài bản, tránh làm cho
văn hóa cồng chiêng bị biến dạng, phản cảm. Do vậy phải có hội đồng nghệ
thuật, phải có quy chế cụ thể và công tác quản lý nhà nước phải được tăng
cường để các tập thể và cá nhân quản lý, sử dụng có trách nhiệm hơn đối với
di sản.
Các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan từ tỉnh đến xã phường về
bảo tồn và phát huy văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên cần sớm có quy định rõ
ràng về đối tượng nào, không gian nào, các bài chiêng nào đáp ứng tiêu chí thì
mới được biểu diễn (phải có thẻ hành nghề mới được biểu diễn), tránh tình
trạng lộn xộn như hiện nay.
Song song với đó, các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa cũng cần
sớm ban hành các chế tài cụ thể xử phạt nghiêm minh đối với các hành vi vi
phạm trong biểu diễn, như vậy mới mong công tác bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên đi đúng hướng và không làm
cho văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ngày càng bị thương mại hóa.
Ngành văn hóa cần thường xuyên phối hợp với các cấp ủy, chính
quyền địa phương với các cơ quan chức năng triển khai các nghị định 87/CP,
88/CP và chỉ thị 814 của Chính phủ về tăng cường quản lý các hoạt động văn
hóa và dịch vụ, đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội, sản phẩm văn hóa có
nội dung không lành mạnh làm ảnh hưởng đến nền văn hóa truyền thống của
dân tộc.
Ngành văn hóa cần thường xuyên phối hợp với các ngành: công an,
hải quan, quản lý thị trường, các trạm kiểm lâm có biện pháp ngăn chặn
việc mua bán cồng chiêng và xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm
-87-
hoạt động này ở các buôn làng. Tổ chức kiểm tra, kiểm soát, quản lý chặt chẽ
và xử lý những trường hợp vi phạm và âm mưu phá hoại nền văn hóa truyền
thống của các thế lực thù địch.
3.2.7. Cụ thể hóa các tiêu chí tổng kết và đánh giá hoạt động quản
lý nhà nước về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa bàn tỉnh
Công tác tổng kết, đánh giá về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên cần được thực hiện ở các cấp, các cơ quan, các ban
ngành liên quan.
Công tác tổng kết, đánh giá hàng năm về các hoạt động quản lý nhà
nước bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên trên địa
bàn tỉnh Đắk Lắk cần được thực hiện với những nội dung cụ thể.
Ngoài việc đánh giá những kết quả đã đạt được trong quản lý nhà
nước về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên theo nhiệm vụ được phân
công và trên địa bàn được phân công, cần phải so sánh với mục tiêu phương
hướng đã đề ra hoặc đã được giao trước đó.
Việc đánh giá cần bám sát nội dung đề án “Bảo tồn, phát huy văn hóa
cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016 – 2020” đã phân công, nêu cụ thể
những việc làm được, chưa làm được, lý do chủ quan, lý do khách quan,
những khó khăn thách thức. Cần thiết nêu rõ trách nhiệm cụ thể đối với những
cấp và ngành cụ thể.
Qua đó rút ra bài học kinh nghiệm để đề ra phương hướng kế hoạch,
xác định vai trò chủ đạo trong hoạch định chính sách, chủ trương, đường lối,
xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện tiếp theo nhằm đạt được những mục
tiêu bảo tồn và phát huy các giá trị của di sản văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk theo đề án đã đề ra.
-88-
Đồng thời làm công tác thi đua nhằm khen thưởng các tập thể, cá nhân
thực hiện tốt hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên của tỉnh.
Cùng với đó là việc kỷ luật đối với những tổ chức, cá nhân có vi phạm
liên quan đến các hoạt động quản lý bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi
vật thể. Việc xử lý đối với những tổ chức, cá nhân có vi phạm dựa theo những
quy định trong Điều 15 của Nghị định số 178/2010NĐ-CP về việc xử phạt
hành chính trong lĩnh vực văn hóa.
3.3. Khuyến nghị đối với cơ quan quản lý nhà nước cấp trung
ương và chính quyền địa phương tỉnh Đắk Lắk
3.3.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước cấp trung ương
Từ thực trạng những giá trị văn hóa truyền thống, các giá trị của di sản
văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên đang đứng trước những khó khăn thách thức
và trên đà biến đổi mạnh mẽ, các cơ quan quản lý Nhà nước cấp Bộ và tương
đương cần tham mưu cho Chính phủ sớm ban hành các văn bản và có hướng
dẫn cụ thể, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ, nhằm xây dựng và triển khai tổng
hợp và đồng bộ các nhóm giải pháp trên cơ sở các nguyên tắc, quan điểm bảo
tồn như bảo tồn nguyên trạng, bảo tồn trên cơ sở kế thừa, bảo tồn và phát triển
các giá trị của di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên.
Các cơ quan quản lý nhà nước cấp Bộ và tương đương cần tham mưu
cho Chính phủ để gắn nội dung bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên vào trong các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã
hội của vùng Tây Nguyên, của Quốc gia, hoặc của các nhà đầu tư các tổ chức
quốc tế triển khai tại các tỉnh Tây Nguyên và tỉnh Đắk Lắk.
3.3.2. Đối với chính quyền địa phương tỉnh Đắk Lắk
Di sản văn hóa cồng chiêng là một giá trị văn hóa của dân tộc Việt
Nam và của thế giới, có ý nghĩa thiết thực trong việc xây dựng đời sống văn
-89-
hóa của nhân dân ở cơ sở, qua đó góp phần xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc và tăng cường khối đoàn kết các dân tộc, làm động
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Văn hóa cồng chiêng ở Đắk Lắk hiện đang đứng trước những khó khăn
thách thức, đang có nguy cơ bị thất truyền, hủy hại. Việc quan tâm quản lý
văn hóa cồng chiêng có nơi còn buông lỏng. Việc bảo tồn và phát huy giá trị
di sản văn hóa cồng chiêng chưa thực sự mang lại kết quả như mong muốn.
Các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội trong tỉnh
cần quan tâm giáo dục nâng cao nhận thức việc thực hiện các giải pháp về bảo
tồn di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên không là trách nhiệm của riêng
của ngành hoặc cấp nào, mà đó là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của các
cấp, các ngành và cả cộng đồng.
Do vậy bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên phải được coi là một nhiệm vụ quan trọng đối với các cấp các ngành
trong quản lý Nhà nước, cần phải được thể hiện trong các Nghị quyết, Kế
hoạch, Chương trình hành động của các cấp, các ngành, các đoàn thể chính trị
- xã hội trong tỉnh.
UBND tỉnh Đắk Lắk căn cứ theo phân công thực hiện đề án “Bảo tồn,
phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh Đắk Lắk, giai đoạn 2016 – 2020” để hàng
năm tổng kết, đánh giá rõ trách nhiệm cụ thể đối với từng cấp từng ngành và
có giải pháp đầu tư thích hợp, cũng như có biện pháp khen thưởng, xử lý
xứng đáng.
-90-
Tiểu kết chương 3
Qua nội dung của chương 3, học viên rút ra một số kết luận sau:
Di sản văn hóa cồng chiêng Tây nguyên là một tổng thể hợp thành của
nhiều yếu tố nghệ thuật, bao gồm hàng loạt những sinh hoạt văn hóa, hoạt
động biểu diễn cồng chiêng, tập quán văn hóa, không gian văn hóa. Nhận
thức đúng và hiểu rõ về văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên sẽ có được những
định hướng đúng đắn cho việc sưu tầm, nghiên cứu và đề xuất các giải pháp
quản lý nhà nước về bảo tồn cồng chiêng Tây Nguyên theo hướng tổng thể: từ
không gian, thời gian đến bài bản, tập tục, sự trao truyền của các nghệ nhân.
Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản phi vật thể văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên là một hoạt động khoa học, đòi hỏi những kiến thức chuyên sâu,
sự phối hợp liên ngành và phải tuân thủ những nguyên tắc cao nhất là giữ
được tính nguyên gốc của di sản gắn với những điều kiện lịch sử, kinh tế - xã
hội của từng thời kỳ. Khi giải quyết mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy giá
trị của di sản, cần có sự hiểu biết đầy đủ đâu là yếu tố gốc, yếu tố nội sinh,
đâu là yếu tố ngoại sinh, yếu tố kế thừa, thậm chí cả yếu tố tân trang vay
mượn, từ đó lựa chọn hình thức bảo tồn phù hợp, phương án bảo tồn hoặc ưu
tiên cho sự phát triển. Mặt khác, cần nâng cao nhận thức coi di sản văn hóa
phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên cũng như các di sản văn hóa phi vật thể
khác của Việt Nam, không những là cội rễ của bản sắc văn hóa, mà việc bảo
tồn và phát huy nó còn là giải pháp để xây dựng bản sắc văn hóa của dân tộc
là công cụ tham gia vào toàn cầu hóa và là vốn liếng, là lợi thế có sức mạnh
cạnh tranh trên trường quốc tế. Vì vậy, việc đưa ra các giải pháp quản lý nhà
nước về bảo tồn di sản phi vật thể đại diện nhân loại văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên, để làm cho di sản trở thành một thành tố của quá trình “Di truyền xã
hội” sẽ không là trách nhiệm của riêng một ai, mà đó là trách nhiệm chung
của toàn xã hội, của các cấp, các ngành và cả cộng đồng.
-91-
KẾT LUẬN
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là toàn
bộ sự tác động có tổ chức, có mục đích của Nhà nước đến các hoạt động bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa cồng chiêng, là một hoạt động vừa mang
tính khoa học vừa mang tính nghệ thuật, qua đó hướng đến mục tiêu bảo tồn
không gian văn hóa cồng chiêng trong tổng thể văn hóa bản địa truyền thống
của 47 dân tộc anh em đang sinh sống trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Đặc biệt
tiếng cồng chiêng còn đem đến đời sống của người Tây Nguyên sự lạc quan,
là nguồn gốc của những sử thi, thơ ca đi vào đời sống tinh thần của nhân dân.
Kết quả nghiên cứu đề tài được thể hiện qua các chương như sau:
Chương 1, luận văn đã hệ thống được cơ sở lý luận quản lý nhà nước
về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên. Công tác quản lý di sản văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên là quá trình tác động, điều chỉnh thông qua quản lý
nhà nước bằng các quy định của pháp luật trên tất cả các hoạt động trong đời
sống xã hội nhằm bảo tồn và phát triển di sản, đáp ứng nhu cầu văn hóa của
nhân dân vùng Tây Nguyên và của tỉnh Đắk Lắk. Kết quả nghiên cứu về
phương diện lý luận ở chương 1 là cơ sở để luận văn khảo sát, đánh giá thực
trạng quản lý di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên của tỉnh Đắk Lắk trong
thời gian qua, làm cơ sở cho việc xây dựng các giải pháp nâng cao chất lượng
của công tác quản lý di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên của tỉnh ở các
chương sau.
Chương 2, trên cơ sở khảo sát và tổng hợp các thông tin số liệu từ các
nguồn trên địa bàn Tây Nguyên và trong tỉnh Đắk Lắk, luận văn đã phân tích
đánh giá thực trạng và làm sáng tỏ thách thức lớn là mâu thuẫn giữa bảo tồn
và phát triển trong công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa cồng chiêng
Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk. Những khó khăn, thách thức và kinh nghiệm
-92-
trong công tác bảo tồn phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể luôn là
bài học quý giá định hướng cho các hoạt động quản lý nhà nước về bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa phi vật thể cồng chiêng Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk.
Chương 3, từ việc quán triệt nhận thức đúng đắn những quan điểm
định hướng của Đảng và Nhà nước, cùng với sự nghiên cứu hiểu rõ về văn
hóa cồng chiêng Tây Nguyên, luận văn đã đề xuất các giải pháp quản lý nhà
nước về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở tỉnh
Đắk Lắk theo hướng tổng thể: từ không gian, thời gian đến các bài bản, tập
tục, sự trao truyền của các nghệ nhân..., nhằm làm cho di sản trở thành một
thành tố của quá trình “Di truyền xã hội”, là trách nhiệm chung của toàn xã
hội, của các cấp, các ngành và của cả cộng đồng.
Quản lý nhà nước về di sản văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên ở tỉnh
Đắk Lắk đã đạt được những thành quả quan trọng, góp phần tích cực vào việc
phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, giữ vững
ổn định an ninh chính trị. Tuy nhiên, vẫn còn bộc lộ những bất cập, cần nhanh
chóng khắc phục. Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên là một hoạt động khoa học, đòi hỏi những kiến thức chuyên sâu, sự
phối hợp của liên ngành. Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và qua
khảo sát đánh giá hiện trạng, tác giả luận văn đã đề xuất những giải pháp cơ
bản nhằm hoàn thiện quản lý nhà nước về bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa
cồng chiêng Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk trong thời gian tới.
Tuy nhiên, trong giới hạn của một luận văn thạc sỹ, cũng như khả
năng của tác giả trước một vấn đề rất lớn của cả tỉnh Đắk Lắk và cả vùng Tây
Nguyên bao la ngút ngàn, chắc chắn luận văn không tránh khỏi những hạn
chế cần bổ khuyết, để công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa cồng
chiêng Tây Nguyên ở tỉnh Đắk Lắk đạt được kết quả như định hướng của
Đảng và Nhà nước đã đề ra.
-93-
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1992), Việt Nam Văn hóa sử cương, NXB Tp. Hồ Chí Minh.
2. Đặng Việt Bách (2011), Tìm hiểu văn hóa Việt Nam, NXB Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
3. Bảo vệ Di sản văn hóa phi vật thể, tập 1 (2007), Cục Di sản văn hóa xuất
bản, Hà Nội.
4. Nguyễn Chí Bền, Nguyễn Tri Nguyên, Võ Hoàng Lan (2006), Các nhạc cụ
gõ bằng đồng những giá trị văn hóa, NXB Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
5. Bộ Văn hóa – Thông tin (1999). Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc: thực tiễn và giải pháp, Văn phòng Bộ
Văn hoá - Thông tin, Báo Văn hoá - Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật xuất bản,
Hà Nội.
6. Bộ Văn hóa - Thông tin (2003), Kỷ yếu tổng kết công tác văn hóa thông tin
2002, Hà Nội.
7. Đoàn Văn Chúc (1997), Văn hóa học, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
8. Thành Duy (2006), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa văn hóa Việt Nam.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ V (khóa VIII), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 8 (1945-
1947), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 11 (1950),
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
12. Nguyễn Khoa Điềm (1995), Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
Văn hóa và phát triển, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
-94-
13. Nguyễn Khoa Điềm (chủ biên) (2001), Xây dựng và phát triển nền văn
hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Phạm Duy Đức (chủ biên 2008), Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê nin về
văn hóa, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
15. Hà Minh Đức (2008), Một nền văn hóa văn nghệ đậm bản sắc dân tộc với
nhiều loại hình nghệ thuật phong phú, Viện khoa học xã hội Việt Nam, NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Phan Hồng Giang (2007), Chung quanh một số vấn đề Văn hóa nghệ
thuật, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
17. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Giáo
trình Lý luận về văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, NXB Lý luận
Chính trị, Hà Nội.
18. Học viện Hành chính Quốc gia (2009), Thuật ngữ hành chính, NXB Thế
giới, Hà Nội.
19. Học viện Hành chính Quốc gia (2011), Quản lý nhà nước đối với ngành,
lĩnh vực, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
20. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam
(1995), Từ điển bách khoa Việt Nam, T.1, Trung tâm Biên soạn từ điển bách
khoa Việt Nam xuất bản, Hà Nội.
21. Hội đồng Quốc gia Chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách khoa Việt Nam
(2003), Từ điển bách khoa Việt Nam, T.3, Trung tâm Biên soạn từ điển bách
khoa Việt Nam xuất bản, Hà Nội.
22. Dương Thị Hưởng, Đỗ Đình Hãng, Đậu Tuấn Nam (2006), Một số vấn đề
về Văn hóa – Xã hội các dân tộc thiểu số ở Tây nguyên hiện nay, NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
-95-
23. Đỗ Hồng Kỳ (2012), Văn hóa cổ truyền ở Tây Nguyên trong phát triển
bền vững, NXB Từ điển bách khoa Viện khoa học xã hội Việt Nam – Viện
phát triển bền vững vùng Tây Nguyên.
24. Linh Nga Niê Kdam (2012), Văn hóa Tây Nguyên giàu và đẹp, NXB Văn
hóa Dân tộc, Hà Nội.
25. Mai Lan, Đặng Hoành Loan (2011), Còn nhiều nghịch lý trong bảo tồn di
sản, Đại đoàn kết.
26. Nguyễn Thị Mỹ Liêm (2004), “Bảo tồn và phát huy” hay “kế thừa và
phát triển” văn hoá dân tộc trong nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, in
trong cuốn kỷ yếu hội thảo 60 năm đề cương văn hoá Việt Nam (1943-2003) -
kỷ yếu hội thảo, Viện Văn hoá - Thông tin xuất bản, tr. 267-277.
27. Luật di sản văn hóa (2001) số 28/2001/QH10 ngày 29/6/2001.
28. Luật Di sản Văn hoá và văn bản hướng dẫn thi hành (2003), NXB Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
29. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật di sản văn hóa (2009) số
32/2009/ QH12 ngày 18/6/2009.
30. Luật sở hữu trí tuệ (2005).
31. Luật sửa đổi, bổ sung Luật sở hữu trí tuệ (2009).
32. Luật Thi đua khen thưởng (2003) số 15/2003/QH11 và Luật sửa đổi bổ
xung một số điều của Luật Thi đua khen thưởng (2013) số 39/2013/QH13
ngày 16/11/2013.
33. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 3 (1995), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
34. Phạm Quang Nghị (2005), Bảo tồn phát huy di sản văn hoá phi vật thể ở
Việt Nam, Viện Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
35. Nhiều tác giả (2008), Bảo vệ không gian văn hóa cồng chiêng Tây
Nguyên, kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại, Hà Nội.
36. Quyết định số 25-TTg ngày 19/01/1993 của Thủ tướng Chính phủ.
-96-
37. Ngô Quang (2001), Văn hóa cồng chiêng Mường, NXB Văn hóa nghệ
thuật, Hà Nội.
38. Kiều Trung Sơn (2011), Cồng Chiêng Mường, NXB Văn hóa – Thông tin
và Viện Văn hóa, Hà Nội.
39. Sở Văn hóa, Thể Thao và Du lịch Đắk Lắk (2000), Báo cáo tổng kết công
tác văn hóa, thể thao và du lịch.
40. Lê Hữu Tầng (chủ biên), Đinh Gia Khánh (1993), Lễ hội truyền thống
trong đời sống xã hội hiện đại, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
41. Thành ủy Buôn Ma Thuột (2012), Báo cáo 15 năm thực hiện Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng
và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
42. Võ Thanh Tùng (2001), Nhạc Khí Dân Tộc Việt, NXB Âm Nhạc.
43. UBND tỉnh Đắk Lắk (2012), Bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh
Đắk Lắk, giai đoạn 2012 – 2015.
44. UBND Tỉnh Đắk Lắk (2016), Báo cáo Tổng kết 15 năm thực hiện Phong
trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
(2000-2015).
45. UBND tỉnh Đắk Lắk (2016), Bảo tồn, phát huy văn hóa cồng chiêng tỉnh
Đắk Lắk, giai đoạn 2016 – 2020.
46. UNESCO (2004), Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, Thông
báo khoa học Viện Văn hóa - Thông tin, số 9 -6/2004, tr. 142-165.
47. Viện văn hóa – Thông tin (2006), Kiệt tác di sản truyền miệng và phi vật
thể của nhân loại Không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, NXB Thế
giới, Hà Nội.
48. Hoàng Vinh (2006), Những vấn đề văn hóa trong đời sống xã hội Việt
Nam hiện nay, NXB Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, Hà Nội.
-97-
49. Viện Văn hóa (1998), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nghệ thuật ở
nước ta hiện nay Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
50. Viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật (1998), Văn hóa nông thôn trong
phát triển, Đề tài cấp Bộ.
51. Viện Văn hóa - Thông tin (2007), Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi
vật thể ở Việt Nam, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_di_san_van_hoa_cong_chieng_tay.pdf