Phú Thọ là vùng Đất tổ, mảnh đất thiêng liêng cội nguồn của dân tộc
Việt Nam với hàng ngàn năm lịch sử. Nơi đây lưu giữ, bảo tồn một khối
lượng lớn các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, đa dạng, phong phú và đặc
trưng, phản ánh cuộc sống của cư dân nông nghiệp trong tiến trình lịch sử
hình thành và phát triển. Đây chính là lợi thế du lịch, hấp dẫn đối với du
khách trong nước và quốc tế. Trước đây, do nhận thức chưa đầy đủ nên việc
bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể không được quan tâm
thỏa đáng, dẫn đến tình trạng nhiều giá trị bị biến dạng, mai một, thất truyền.
Công ước 2003 của UNESCO đã góp phần nâng cao nhận thức chung
về vai trò của văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội với tư cách là
“nền tảng tinh thần, mục tiêu và động lực” cho phát triển bền vững, và được
các nước thành viên trong đó có Việt Nam áp dụng nhằm mục đích bảo vệ và
từ đó phát huy các giá trị văn hóa. Thực thi trách nhiệm của một quốc gia
thành viên tham gia Công ước UNESCO 2003, Chính phủ Việt Nam đã đưa
ra các quy định pháp luật hàm chứa và phản ánh đúng các mục tiêu lớn của
Công ước này, đồng thời còn khẳng định, Nhà nước chịu trách nhiệm đầu tư
kinh phí cho việc bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Đó
là những tiền đề quan trọng đảm bảo cho việc gìn giữ di sản văn hóa phi vật
thể trên phạm vi cả nước.
Phú Thọ - một điểm đến với ba di sản văn hóa thế giới, trong nhiều
năm qua đã có những chủ trương, chính sách, biện pháp tích cực để bảo tồn
và phát huy giá trị các di sản. Ngay sau khi các di sản văn hóa phi vật thể
được UNESCO công nhận, tỉnh đã đề ra và thực hiện rất nhiều chính sách,
chương trình hành động cụ thể. Đã có những thành công bước đầu đáng khích
lệ. Điển hình trong hành trình bảo tồn di sản hát Xoan - sau 4 năm, năm 2016,103
Phú Thọ đã đệ trình hồ sơ lên UNESCO đề nghị đưa hát Xoan ra khỏi tình
trạng báo động đỏ và đưa vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện
của nhân loại - đây cũng là trường hợp đầu tiên trên thế giới xin rút khỏi Danh
sách di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp. Công tác quản lý
nhà nước về di sản văn hóa trên địa bàn đã góp phần không nhỏ trong việc
định hướng, đưa ra các chính sách, chương trình hành động thiết thực, hiệu
quả để đạt được những kết quả đó.
Tuy Phú Thọ đã đạt được những thành tựu nhất định trong quá trình
quản lý các di sản văn hóa phi vật thể của thế giới, nhưng những bất cập khó
khăn, thách thức vẫn đang hiện hữu. Trong thời gian tới, ngoài những chính
sách từ trung ương, các cấp quản lý di sản văn hóa ở Phú Thọ còn cần hoàn
thiện bộ máy quản lý di sản văn hóa, ban hành và thực thi các chính sách,
xây dựng chương trình hành động, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nhằm
bảo tồn, phát huy và quảng bá các giá trị di sản thế giới để cho tương xứng
với tiềm năng hiện có. Thêm vào đó, việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ văn hoá cũng cần được thực hiện khẩn trương, có hệ thống và toàn diện.
Tỉnh Phú Thọ cần thành lập một ban chuyên môn phụ trách quản lý các di
sản sau khi đã được UNESCO công nhận. Cấp uỷ, chính quyền địa phương
cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của di sản văn hóa, đặc biệt là di sản
phi vật thể đã được UNESCO ghi danh trong quá trình đổi mới và hội nhập
quốc tế. Những giải pháp hữu hiệu, sáng tạo, những chính sách thiết thực,
toàn diện sẽ là cơ sở vững chắc cho việc bảo tồn và phát huy giá trị các di
sản văn hóa phi vật thể đã được vinh danh trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
130 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 729 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về di sản văn hóa phi vật thể đã được Unesco công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trọng yếu trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa VIII đã ra
nghị quyết riêng về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng tiếp
tục khẳng định rõ ràng rằng: “Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội” [13, tr.114]
Quan điểm về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể của Đảng có vai trò rất
quan trọng vì nó tạo tiền đề cho việc hoạch định các cơ chế, chính sách và ban
hành các quyết định liên quan tới các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di
sản. Quan điểm đúng đắn về bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể đƣợc
UNESCO công nhận cũng sẽ có tác dụng tích cực thúc đẩy quá trình phát
triển đất nƣớc và hội nhập quốc tế.
Quan điểm bảo tồn di sản văn hóa trong chiến lƣợc phát triển văn hóa
đến năm 2020 đƣợc thiết kế dựa trên cơ sở 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo sự
82
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam đã đƣợc xác định rõ trong
Nghị quyết Trung ƣơng 5 (khóa VIII) của Đảng: “Di sản văn hóa là tài sản vô
giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng
tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa,
phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa
cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể” [11, tr.63]
Qua đó ta thấy, 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo phát triển văn hóa của Việt
Nam là tƣơng đối thống nhất với các quan điểm về chính sách văn hóa mà
nhiều quốc gia khác cũng đang theo đuổi. Đó là: “gắn văn hóa với hệ tư
tưởng - chính trị; văn hóa thể hiện đặc trưng dân tộc; sản phẩm văn hóa là
một loại hàng hóa” [3, tr.53]
Với nhận thức nhƣ trên, trong quá trình xây dựng chiến lƣợc phát triển
văn hóa đến năm 2020, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã nghiên cứu và
vận dụng sáng tạo 5 quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Trung ƣơng 5 (khóa
VIII) và xác định rõ các nhiệm vụ trọng tâm cần thực hiện, trong đó có nhiệm
vụ bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc. Trong việc phát huy di sản văn
hóa thì việc bảo vệ và quảng bá các di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam
mà đã đƣợc UNESCO công nhận là rất quan trọng và cần thiết. Các di sản sau
khi đƣợc ghi danh đã trở thành một biểu tƣợng của đất nƣớc, giúp thúc đẩy
các hoạt động phát triển kinh tế và du lịch bền vững. Với vai trò quan trọng
nhƣ vậy mà để bảo tồn và phát huy các di sản này, cơ quan quản lý cần:
- Tiếp tục sƣu tầm, xây dựng ngân hàng dữ liệu về các di sản văn hóa
phi vật thể đã đƣợc công nhận.
- Đầu tƣ trang thiết bị kỹ thuật hiện đại để bảo quản, giữ gìn lâu dài tài
liệu, hiện vật tại các bảo tàng, cơ quan lƣu trữ tƣ liệu lịch sử, văn hóa, nghệ
thuật ở trung ƣơng và địa phƣơng.
83
- Thực hiện các hình thức tôn vinh nghệ sĩ, nghệ nhân tiêu biểu và đƣa
ra cơ chế chính sách để khuyến khích các nghệ nhân phổ biến, truyền dạy
nghề cho các thế hệ sau.
- Tuyên truyền, quảng bá về các di sản thế giới mà Việt Nam đang có,
khơi dậy lòng tự hào dân tộc và trách nhiệm của ngƣời dân trong việc bảo vệ
di sản phi vật thể.
Nhƣ vậy, với tƣ cách là nhiệm vụ then chốt trong chiến lƣợc phát triển
văn hóa đến năm 2020, các hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ di sản văn hóa
phi vật thể đƣợc UNESCO công nhận đã đƣợc tiếp cận tổng thể với nhiều
hình thức hoạt động đa dạng, có tác dụng bổ trợ lẫn nhau.
3.1.2. Phƣơng hƣớng chung về việc quản lý các di sản văn hóa phi vật thể
đƣợc UNESCO công nhận
Di sản văn hóa là tài sản quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam
và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự
nghiệp dựng nƣớc và giữ nƣớc của nhân dân ta. Trong bối cảnh toàn cầu hóa
và hội nhập quốc tế hiện nay, văn hóa càng trở nên quan trọng. Toàn cầu hóa
là quá trình tất yếu không thể chối bỏ, mà ngƣợc lại, chúng ta phải chủ động
hội nhập để tranh thủ tận dụng những cơ hội mà nó đƣa lại nhằm đẩy mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Điều này càng khẳng định vai
trò, vị trí và tầm quan trọng của di sản văn hóa trong quá trình toàn cầu hóa và
hội nhập quốc tế. Nhận thức đúng đắn vấn đề phát triển chính là tiền đề cho
việc xử lý hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển.
Việt Nam đã nhận thức rõ vai trò quan trọng của ngoại giao văn hóa
trong mục tiêu lợi ích quốc gia, và có những hành động cụ thể thúc đẩy hình
thức ngoại giao tích cực và hiệu quả này. Ngoại giao văn hóa góp phần giới
thiệu đƣờng lối, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nƣớc ta, quảng bá
hình ảnh đất nƣớc, con ngƣời Việt Nam với thế giới. Ngoại giao văn hóa cũng
84
góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, tiến tới định hƣớng
phát triển cho một nền văn hóa. Thông qua các hoạt động ngoại giao văn hóa,
các giá trị, tinh hoa văn hóa và tri thức của các nƣớc trên thế giới đã đƣợc tiếp
thu có chọn lọc nhằm góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa của Việt
Nam, nâng cao chất lƣợng đời sống tinh thần của nhân dân, đồng thời chuyển
tải nhiều ý tƣởng lớn của Liên hợp quốc và UNESCO vào các chƣơng trình
hành động quốc gia, nhƣ xây dựng xã hội học tập, xã hội thông tin, giáo dục
cho mọi ngƣời.
Văn hóa chính là “sức mạnh mềm” trong sức mạnh tổng hợp quốc gia.
Việc quản lý nhà nƣớc về văn hóa đặc biệt là các di sản văn hóa phi vật thể
càng cần phải có một sự linh hoạt. “Quản lý di sản văn hóa không phải chỉ là
xuất phát từ lý thuyết, văn bản mà phải đi từ những nhu cầu của thực tiễn đời
sống. Nói khác đi, thay vì đưa chủ trương, chính sách vào cuộc sống, những
người hoạch định chính sách cần phải đưa thực tế cuộc sống vào các chủ
trương, chính sách.” [25]
Ở phạm vi toàn cầu, UNESCO là trƣờng hợp điển hình của việc tuyên
truyền ngoại giao văn hóa với vai trò trung tâm là điều phối các hoạt động
ngoại giao văn hóa tập thể, bao gồm 193 quốc gia thành viên, 5 khu vực quốc
gia thành viên là: Khu vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng, Khu vực Châu Âu,
Khu vực các nƣớc Ả-rập, Khu vực Châu Mỹ – La tinh và Khu vực Châu Phi.
Việt Nam đã tham gia vào UNESCO từ rất sớm, năm 1951. Sau khi
thống nhất đất nƣớc, ngày 12 tháng 7 năm 1976, Bộ Ngoại giao nƣớc ta gửi
công hàm cho UNESCO thông báo Nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam kế tục tham gia UNESCO. Kể từ khi gia nhập UNESCO, Việt Nam đã
nhận đƣợc sự ủng hộ và giúp đỡ quý báu của UNESCO về ý tƣởng, nhận thức
và kinh nghiệm cũng nhƣ những đóng góp về tài chính và kỹ thuật ban đầu
cho một số dự án của Việt Nam. Thời gian gần đây, quan hệ hợp tác giữa Việt
85
Nam và UNESCO có những bƣớc phát triển mới cả về lƣợng và chất, đồng
thời ngày càng thu đƣợc nhiều kết quả. Công ƣớc 2003 của UNESCO đã có
tác động thiết thực và toàn diện vào các mặt hoạt động bảo tồn di sản văn hóa
phi vật thể ở Việt Nam, từ nhận thức xã hội, hoạch định chính sách, xây dựng
chiến lƣợc phát triển văn hóa tới chƣơng trình quốc gia về di sản văn hóa và
đặc biệt là đã tạo ra động lực thu hút các nguồn lực xã hội cho hoạt động này.
Có thể nói việc nâng cao nhận thức về di sản văn hóa và bản sắc văn hóa Việt
Nam cũng tức là góp phần thức tỉnh ý thức tự tôn và lòng tự hào dân tộc - một
trong những nhân tố quan trọng cho phát triển bền vững. Ý tƣởng của
UNESCO khi thông qua Công ƣớc năm 1972 và Công ƣớc năm 2003 là nhằm
xây dựng mạng lƣới kết nối các di sản văn hóa của nhân loại, huy động nguồn
lực của các quốc gia thành viên và thông qua các hình thức hợp tác quốc tế để
hỗ trợ lẫn nhau trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa.
Nhà nƣớc cũng rất cần hình thành một mạng lƣới các tổ chức cả trong
và ngoài nƣớc để thực hiện công tác bảo tồn các di sản văn hóa phi vật thể đã
đƣợc công nhận, đồng thời tạo ra sự hợp tác liên địa phƣơng cũng nhƣ tạo lập
một diễn đàn trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm trong nƣớc và quốc tế về
bảo tồn các di sản văn hóa phi vật thể. Nếu thành lập đƣợc, mạng lƣới di sản
này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật
thể ở từng địa phƣơng và trên toàn lãnh thổ Việt Nam, đặc biệt là đối với các
di sản đã đƣợc UNESCO công nhận. Uỷ ban Quốc gia UNESCO Việt Nam và
Cục Di sản văn hóa cần trở thành đầu mối quan trọng trong lĩnh vực hoạt
động này.
Việc quản lý tốt các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc công nhận sẽ
làm tăng vị thế của Việt Nam trong các kỳ họp của Uỷ Ban di sản văn hóa và
thiên nhiên thế giới, Uỷ Ban liên chính phủ về di sản văn hóa phi vật thể.
86
3.1.3. Mục tiêu của Phú Thọ về việc quản lý các di sản văn hóa phi vật
thể đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh
Sự nghiệp bảo tồn giá trị di sản văn hóa của tỉnh Phú Thọ đã phát huy
có hiệu quả đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội; trực tiếp góp phần
xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và quảng bá
hình ảnh vùng đất Tổ trên khắp mọi miền Tổ quốc và trên thế giới.
Đối với tỉnh Phú Thọ, cần tập trung khai thác tối đa các tiềm năng, lợi
thế nguồn tài nguyên du lịch phong phú sẵn có. Đặc biệt, các di sản văn hóa
phi vật thể đƣợc UNESCO công nhận bao gồm “Ca trù”, “Hát Xoan” và
“Tín ngƣỡng thờ cúng Hùng Vƣơng” chính là bản sắc văn hóa, tiềm năng
du lịch to lớn của tỉnh. Đây là hình thức phát triển du lịch theo hƣớng bền
vững, hiệu quả cao gắn với lợi ích cộng đồng dân cƣ tại các khu, vùng, điểm
du lịch.
Thêm vào đó, cần ƣu tiên xây dựng thành phố Việt Trì thành trung tâm
du lịch trọng điểm của tỉnh, thành phố lễ hội về với cội nguồn của dân tộc
Việt Nam (Việt Trì là nơi tập trung của cả 3 di sản văn hóa phi vật thể đã
đƣợc UNESCO vinh danh). Phấn đấu xây dựng Phú Thọ trở thành địa bàn
trọng điểm du lịch của vùng và đủ điều kiện để đăng cai “Năm Du lịch quốc
gia” vào năm 2020.
Là vùng đất phát tích cội nguồn dân tộc Việt, Phú Thọ hiện có ba di sản
văn hóa phi vật thể đã đƣợc thế giới công nhận nên tỉnh cần chú trọng hơn
nữa công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di sản đó gắn với trách nhiệm cộng
đồng. Trong Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 15 tháng 7 năm 2016 của Tỉnh ủy
tỉnh Phú Thọ cũng đã nêu rõ:
- “Phấn đấu xây dựng Khu di tích lịch sử Đền Hùng trở thành Khu du
lịch quốc gia được Chính phủ công nhận;
87
- Đến năm 2020, số lượt khách du lịch lưu trú đạt 680.000 lượt; trong
đó khách du lịch quốc tế lưu trú đạt 8.000 lượt khách; tổng doanh thu từ du
lịch đạt 3.800 tỷ đồng; thu hút và giải quyết việc làm cho 14.000 lao động,
trong đó có 4.000 lao động trực tiếp”. [36]
Trong năm tới, Phú Thọ cần làm tốt hơn nữa công tác bảo tồn và phát
huy giá trị các di sản đã đƣợc công nhận. Đồng thời, hoàn thành các nhiệm vụ
và thực hiện tốt các cam kết để đề nghị UNESCO đƣa hát Xoan ra khỏi tình
trạng cần đƣợc bảo vệ khẩn cấp và trở thành di sản văn hóa phi vật thể đại
diện của nhân loại. Đặc biệt, tỉnh cần phải đƣa ra ngay các chính sách và một
chƣơng trình hành động cụ thể để bảo vệ di sản Ca trù. Việc bảo vệ và phát
huy đồng bộ cả 3 di sản là một bài toán khó, đòi hỏi sự phối hợp nhịp nhàng
giữa các cơ quan quản lý nhà nƣớc và cộng đồng lƣu giữ di sản.
Hiện nay, UBND tỉnh Phú Thọ cùng các Sở, Ban, Ngành chức năng
đang nỗ lực thực hiện các chính sách bảo tồn, gìn giữ, phát huy các di sản văn
hóa phi vật thể mà đã đƣợc công nhận; đồng thời tìm tòi phƣơng thức sáng tạo
hiệu quả trong việc đẩy mạnh quảng bá hình ảnh, nét văn hóa truyền thống
của Việt Nam đến với bạn bè thế giới. Các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc
UNESCO công nhận chính là biểu tƣợng giúp khẳng định bản sắc văn hóa
dân tộc, đồng thời là tiềm năng to lớn đối với việc phát triển du lịch của tỉnh.
3.2. HỆ THỐNG CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ ĐÃ
ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÖ THỌ
3.2.1. Hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nƣớc về các di sản văn hóa phi vật
thể đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
* Phân cấp quản lý
Tuy việc phân cấp quản lý các di sản đã đƣợc thực hiện ở Phú Thọ từ
cấp tỉnh cho đến các quận, huyện, thị xã đều có bộ phận chuyên môn phụ
88
trách quản lý di sản, nhƣng lại thiếu mất bộ phận chuyên phụ trách các di sản
văn hóa phi vật thể. Đặc biệt, do đặc thù của những di sản văn hóa phi vật thể
đã đƣợc thế giới công nhận đó là ngoài chịu sự quản lý của Chính phủ còn
chịu sự quản lý trực tiếp từ UNESCO mà Phú Thọ càng cần phải thành lập
riêng một ban chuyên trách để quản lý các di sản này.
Hiện nay, trên địa tỉnh Phú Thọ có 3 di sản thế giới thì lại do hai bên
quản lý khác nhau. Nếu nhƣ hát Xoan và hát Ca trù do Sở Văn hóa, Thể thao
và Du lịch quản lý; thì đối với Tín ngƣỡng thờ cúng Hùng Vƣơng, UBND
tỉnh lại phân công cho Ban quản lý Khu di tích lịch sử Đền Hùng - nơi trực
tiếp đang gìn giữ di sản. Do đó đã dẫn đến tình trạng các di sản đƣợc bảo tồn
riêng lẻ, không có sự thống nhất chung trong công tác quản lý ở địa phƣơng,
các bên không có các chƣơng trình hoặc dự án hỗ trợ lẫn nhau để cùng bảo vệ
và quảng bá di sản.
Các di sản sau khi đƣợc công nhận đều phải thực hiện chƣơng trình bảo
tồn và phát huy theo những cam kết của tỉnh trong hộ sơ đệ trình UNESCO.
Hàng năm thì tỉnh đều phải làm báo cáo về tình trạng và công tác bảo vệ di
sản cho Chính phủ và UNESCO. Để việc quản lý các di sản này đạt đƣợc hiệu
quả cao thì việc thành lập một ban chuyên môn am hiểu về di sản, đƣợc đào
tạo bài bản về công tác bảo tồn, thƣờng xuyên đƣợc bồi dƣỡng thông qua các
khóa tập huấn trong và ngoài nƣớc là điều cần thiết cũng nhƣ cần phải sớm
thực hiện. Ban chuyên môn này thuộc sự quản lý trực tiếp của UBND tỉnh,
làm công tác tham mƣu và giúp UBND tỉnh quản lý các di sản văn hóa phi vật
thể ngay từ giai đoạn làm hồ sơ đệ trình và sau khi đƣợc công nhận. Ban
chuyên môn này sẽ trở thành bộ phận tham mƣu chiến lƣợc giúp xây dựng hệ
thống chính sách, kế hoạch, chƣơng trình hành động cho việc quản lý các di
sản văn hóa phi vật thể của thế giới trên địa bàn tỉnh.
89
32%
68%
Có
Không
Biểu đồ 3: Tỷ lệ ngƣời đồng ý nên có một bộ phận chuyên quản lý các di
sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận (%)
Theo kết quả khảo sát thực tế, khi đƣợc hỏi, “Tỉnh Phú Thọ có cần
thành lập một bộ phận chuyên quản lý các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc
UNESCO công nhận hay không?” thì số ngƣời đồng ý lên đến 68%, trong đó
có đến 59/68 ngƣời (86.8%) là cán bộ cấp quản lý và chuyên gia tán thành
nên thành lập một phòng chuyên môn quản lý chung các di sản thế giới. Việc
này sẽ giúp công tác bảo tồn và phát huy các di sản của tỉnh đƣợc đồng bộ và
hiệu quả, giúp quảng bá tất cả các loại hình di sản thế giới mà Phú Thọ đang
có, tránh hiện trạng nhƣ hiện nay, đó là hát Xoan và Tín ngƣỡng thờ cúng
Hùng Vƣơng đƣợc quan tâm đặc biệt nhƣng lại bỏ quên mất di sản Ca trù.
* Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác quản lý nhà
nước về di sản văn hóa phi vật thể
Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị của di sản. Đặc biệt đối với các di sản đã
đƣợc UNESCO công nhận, cán bộ làm công tác quản lý càng phải nắm rõ
90
đƣợc về các luật, chính sách của Nhà nƣớc Việt Nam, Công ƣớc 2003 của
UNESCO, bản chất của di sản và biết cách cảnh báo thực trạng mai một
nghiêm trọng của các di sản này.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch nên phối hợp với Cục Di sản văn hóa
(Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam
và Văn phòng UNESCO Hà Nội, nên thƣờng xuyên tổ chức các khóa tập
huấn về kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể dựa vào cộng đồng. Khi quản lý
các di sản văn hóa thế giới, cán bộ quản lý di sản văn hóa không chỉ đòi hỏi
phải nắm rõ về các luật, nghị định, chính sách quản lý di sản văn hóa của
Việt Nam, mà còn phải có sự hiểu biết Công ƣớc quốc tế về bảo vệ di sản văn
hóa phi vật thể mà Việt Nam đã đồng ý tham gia cũng nhƣ những điều khoản
có trong hồ sơ đệ trình. Cán bộ quản lý di sản phải hiểu và biết sử dụng bộ tài
liệu của UNESCO về kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể.
Nhấn mạnh rằng việc nâng cao chất lƣợng đội ngũ cán bộ quản lý văn
hóa là rất cần thiết. Các cấp cần thực hiện tốt công tác “chuẩn hóa” cán bộ
theo tiêu chuẩn, quy chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ trong hàng ngũ lãnh đạo,
quản lý, tham mƣu cũng nhƣ công chức, viên chức ngành Văn hóa. Tổ chức
đào tạo, bồi dƣỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ cho cán bộ văn hoá
cơ sở, nhất là kiến thức về quản lý di sản văn hoá phi vật thể. Thực hiện chính
sách trọng dụng nhân tài, có chế độ đãi ngộ cán bộ phù hợp; nâng cao chất
lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ quản lý văn hóa.
Quan tâm đào tạo, bồi dƣỡng nguồn nhân lực, đặc biệt chú trọng đến
công tác giáo dục cho thế hệ trẻ, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa trong tình hình mới, nhằm đảm bảo hình
thành đƣợc nguồn nhân lực con ngƣời đủ mạnh để vƣợt qua những thách thức
và đón nhận tốt nhất thời cơ mới.
91
3.2.2. Nâng cao chất lƣợng và hiệu quả xây dựng, ban hành và tổ chức
thực thi chính sách về quản lý các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc
UNESCO công nhận
Nhà nƣớc cần ban hành quy chế quản lý cụ thể đối với các di sản văn
hóa phi vật thể sau khi đƣợc UNESCO công nhận. Xây dựng khung pháp lý
về bảo vệ và phát huy các di sản đối với từng loại danh sách:
- Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại;
- Di sản văn hóa phi vật thể cần đƣợc bảo vệ khẩn cấp.
Yêu cầu địa phƣơng soạn thảo cam kết, xây dựng chƣơng trình hành
động hàng năm về việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể sau
khi đã đƣợc ghi danh.
Chính phủ Việt Nam cũng phải đảm bảo một chính sách văn hóa chung
đối với các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc thế giới công nhận. Các chính
sách văn hóa chỉ phát huy sức mạnh thực tiễn khi chúng thực sự đi vào đời
sống xã hội, thông qua hoạt động có tổ chức và đƣợc kiểm soát bởi hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh và các quy hoạch, kế hoạch, chƣơng
trình mục tiêu quốc gia về văn hóa.
Để công tác quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc
công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ ngày càng hiệu quả thì trƣớc hết, Sở
Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần tiếp tục tích cực, chủ động làm tốt công
tác tham mƣu cho tỉnh ban hành các văn bản chỉ đạo, tăng cƣờng công tác
quản lý các di sản thế giới trên địa bàn.
UBND tỉnh Phú Thọ cần ban hành quy chế quản lý di sản văn hóa phi
vật thể với những điều khoản trong quy chế bao gồm:
- Bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hoá phi vật thể đã đƣợc
UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh.
92
- Tổ chức quản lý di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc công nhận. Quy
định nghĩa vụ và trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân trực tiếp lƣu giữ
di sản.
- Thực hiện công tác sƣu tầm, lƣu giữ và phát huy di sản thế giới;
- Giới thiệu sâu rộng với nhiều hình thức tiếp cận về việc phát huy di sản
văn hoá phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận đến mọi ngƣời, mọi tầng
lớp xã hội.
- Tổ chức bộ máy quản lý, sƣu tầm, bảo vệ và phát huy các di sản đã
đƣợc vinh danh.
- Hàng năm, tổ chức đánh giá và nghiệm thu công tác bảo tồn di sản ở
địa phƣơng.
- Quy định trách nhiệm của UBND các cấp: huyện, thị xã; xã, phƣờng,
thị trấn.
- Xây dựng khung khen thƣởng và xử phạt rõ ràng đối với việc quản lý
di sản.
Chƣơng trình hành động số 382/CTr-UBND ngày 13 tháng 02 năm
2012 của UBND tỉnh Phú Thọ về “Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa
phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp - Hát Xoan Phú Thọ (giai đoạn 2012-2015)”
đã đạt đƣợc những kết quả to lớn. UBND tỉnh cần xây dựng chƣơng trình
hành động cho các giai đoạn tiếp theo khi hát Xoan đƣợc chuyển từ Danh
sách cần đƣợc bảo vệ khẩn cấp sang Danh sách đại diện của nhân loại. Các
cán bộ quản lý của Phú Thọ cũng cần xây dựng ngay Chƣơng trình hành động
bảo vệ di sản Ca trù - di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO ghi vào
Danh sách cần bảo vệ khẩn cấp từ năm 2009 nhƣng hiện nay vẫn đang bị mai
một và quên lãng.
UBND tỉnh Phú Thọ cần ban hành chính sách đãi ngộ chung đối với tất
cả các nghệ nhân dân gian - những ngƣời đang trực tiếp nắm giữ bí quyết, có
93
công bảo vệ, trao truyền và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Quyết
định số 2743/QĐ-UBND ngày 16/10/2012 của UBND tỉnh Phú Thọ ban hành
chỉ là “Quy chế xét tặng danh hiệu Nghệ nhân hát Xoan Phú Thọ”, còn các
nghệ nhân của các loại hình di sản khác lại chƣa đƣợc quan tâm đến.
Tỉnh cần đƣa ra chính sách hỗ trợ cụ thể, chi tiết trong từng giai đoạn
đối với các câu lạc bộ đang gìn giữ di sản văn hóa, đặc biệt di sản văn hóa phi
vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận - Ca trù đang bị mai một và có nguy cơ
biến mất trên đất Tổ.
Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ cần xây dựng ngay Kế
hoạch về tổ chức lớp truyền dạy và thực hành hát Ca trù trên địa bàn tỉnh để
bảo tồn đƣợc loại hình nghệ thuật bác học này.
Tăng cƣờng nguồn lực cho phát triển văn hóa, xây dựng, bổ sung và
hoàn thiện các thiết chế văn hóa. Chú trọng chính sách đầu tƣ, chính sách sử
dụng di sản, phát triển các nguồn lực kinh tế, du lịch, văn hóa một cách bền
vững; hài hòa giữa bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị để di sản mang lại lợi
ích cả về tinh thần và vật chất cho xã hội.
Tôn trọng bảo tồn gắn với phát huy giá trị di sản trong đời sống đƣơng
đại. Đây là một việc làm hết sức cần thiết, nó đòi hỏi sự quan tâm của toàn xã
hội, trong đó có vai trò lãnh đạo của Đảng, Nhà nƣớc và các cấp chính quyền
địa phƣơng để các di sản văn hóa phi vật thể của Phú Thọ đã đƣợc UNESCO
vinh danh tiếp tục hội tụ và toả sáng, giữ vị trí quan trọng trong kho tàng di
sản văn hóa của Việt Nam, đóng góp xứng đáng vào việc giáo dục tình yêu
quê hƣơng, đất nƣớc, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và nâng cao đời sống
của nhân dân.
Xây dựng một kế hoạch tổng thể quản lý di sản, đẩy mạnh công tác
tuyên truyền nâng cao nhận thức cho du khách và ngƣời dân địa phƣơng.
Đồng thời tạo dựng mối liên kết giữa di sản vật thể và di sản phi vật thể để tạo
94
thành sức mạnh tổng hợp, tôn vinh giá trị nổi bật toàn cầu bởi Phú Thọ là địa
phƣơng có tới 3 di sản văn hóa phi vật thể đƣợc UNESCO vinh danh. Nguồn
lực kinh phí, chất xám cũng đáng đƣợc chú trọng vì thế cần tranh thủ sự ủng
hộ, chung sức của nhiều cá nhân, tổ chức trong nƣớc và quốc tế.
3.2.3. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về di sản văn hóa phi vật thể đã
đƣợc UNESCO công nhận
Để công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa trong tỉnh đạt
hiệu quả ngày càng cao, các ngành chức năng cần tiếp tục nghiên cứu, khảo
sát, đánh giá đúng thực trạng, trên cơ sở đó xây dựng quy hoạch tổng thể bảo
vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa một cách khoa học. Các cơ quan báo chí
cần phối hợp chặt chẽ tuyên truyền nội dung kế hoạch, đề án của tỉnh và các
địa phƣơng; nội dung dự án đầu tƣ trùng tu, tôn tạo, quản lý và khai thác các
di tích lịch sử văn hóa – nơi đang thực tiếp lƣu giữ di sản. Tích cực tuyên
truyền các biện pháp quản lý, nêu gƣơng cũng nhƣ kịp thời phát hiện, phản
ánh những việc chƣa tốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo tồn, phát huy giá trị di
sản văn hóa trên địa bàn.
Có chƣơng trình tuyên truyền, giáo dục một cách đồng bộ và rộng rãi
đối với tất cả các di sản đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh (mà ở
đây là 3 di sản bao gồm: hát Xoan, Ca trù và Tín ngƣỡng thờ cúng Hùng
Vƣơng) cho các tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm
bảo vệ trong cộng đồng.
Tuyên truyền, giáo dục về di sản văn hóa, những nét đẹp trong truyền
thống văn hóa của dân tộc và địa phƣơng, Luật Di sản văn hóa, cho các tầng
lớp nhân dân, chú trọng tới đối tƣợng thanh thiếu niên; triển khai có hiệu quả
khẩu hiệu của UNESCO “Di sản nằm trong tay thế hệ trẻ”.
Những hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục di sản cho thế hệ trẻ
cũng đã đƣợc ngành Giáo dục và toàn xã hội quan tâm, vào cuộc. Để việc
95
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục di sản cho thế hệ trẻ phát huy hết hiệu quả thì
cần phải có sự chỉ đạo, hƣớng dẫn của các cơ quan chức năng bằng những
chƣơng trình, hành động cụ thể. Trƣớc hết, cần nâng cao nhận thức về ý nghĩa
của giáo dục di sản. Chính việc giáo dục di sản sẽ làm tăng thêm vốn hiểu biết
của học sinh về văn hóa, xã hội, bồi đắp thêm tình yêu quê hƣơng đất nƣớc,
niềm tự hào truyền thống dân tộc, cũng nhƣ thông qua giáo dục sẽ huy
động đƣợc mọi lực lƣợng trong xã hội cùng tham gia vào việc bảo vệ và
phát huy giá trị các di sản văn hóa.
Các ngành liên quan cần phối hợp xây dựng và ban hành văn bản chỉ
đạo, hƣớng dẫn về tuyên truyền và giáo dục di sản, nhƣ hƣớng dẫn tổ chức
học tập ở các bảo tàng, di tích, thƣ viện, danh lam thắng cảnh; biên soạn tài
liệu giới thiệu di sản phi vật thể một cách hoàn chỉnh; lập website về di sản;
tập huấn giáo viên và cán bộ quản lý về giáo dục di sản; từng bƣớc đƣa nội
dung giáo dục di sản vào đào tạo giáo viên trong các trƣờng sƣ phạm, trƣờng
văn hóa nghệ thuật, Trƣờng Đại học Hùng Vƣơng; xây dựng các chƣơng trình
giới thiệu và quảng bá di sản trên các kênh thông tin đại chúng Khuyến
khích các địa phƣơng chủ động, sáng tạo xây dựng những mô hình mới, sáng
kiến mới trong việc tuyên truyền, phổ biến và đẩy mạnh giáo dục di sản; đồng
thời tổ chức tổng kết, phổ biến các kinh nghiệm hay.
Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp
luật nhằm giúp cộng đồng hiểu biết đầy đủ và sâu sắc về luật pháp gắn với
hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc
UNESCO công nhận. Để cho thế hệ trẻ hiểu đƣợc giá trị của di sản cũng
nhƣ ý thức đƣợc vai trò và trách nhiệm trong việc gìn giữ các di sản văn hóa
đặc sắc của địa phƣơng thì phải thực hiện việc “Giáo dục có hệ thống”.
96
3.2.4. Các giải pháp khác giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nƣớc về di
sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ
3.2.4.1. Thanh tra, kiểm tra và giám sát
Tăng cƣờng công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra văn hóa, gắn với
trách nhiệm của các cá nhân và tổ chức khi để xảy ra sai phạm. Đặc biệt, công
tác thanh tra, kiểm tra và giám sát rất quan trọng trong tình hình hiện nay khi
mà các hiện tƣợng, tình trạng thƣơng mại hóa lễ hội, lợi dụng lễ hội, biến hóa
tín ngƣỡng đang xẩy ra khá phổ biến.
Để công tác thanh tra có chất lƣợng thì cần phát huy vai trò giám sát,
phản biện của các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cƣ và nhân dân: đây là nội
dung đƣợc quan tâm, nhấn mạnh thêm trong công tác thanh tra văn hóa. Làm
thế nào để các tổ chức xã hội, cộng đồng dân cƣ, công dân cùng tham gia vào
công tác thanh tra để làm trong sạch, hạn chế những sai phạm trong việc quản
lý các di sản văn hóa đã đƣợc công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Làm tốt công tác thi đua, khen thƣởng, động viên kịp thời các tổ chức,
cá nhân có đóng góp hiệu quả trong công tác quản lý các di sản này. Song
hành với biện pháp trên, các cấp ủy, chính quyền địa phƣơng cần tăng cƣờng
công tác hƣớng dẫn, kiểm tra, giám sát, rà soát lại các lễ hội nhằm tìm ra và
loại bỏ các yếu tố phản cảm đồng thời hạn chế các hoạt động mang tính
thƣơng mại hóa lễ hội nhƣ chặt chém, tranh giành đi đôi với chấn chỉnh kịp
thời, xử lý nghiêm các hành vi lợi dụng lễ hội để hoạt động trái phép cũng
nhƣ các hoạt động tu bổ, tôn tạo di tích không đúng quy định của pháp luật.
Tăng cƣờng kiểm tra, thanh tra, đánh giá, báo cáo định kỳ 06 tháng, 01
năm về việc bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn
tỉnh đã đƣợc UNESCO công nhận cho Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch và
UBND tỉnh Phú Thọ. Sở có nhiệm vụ tham mƣu cho UBND tỉnh thành lập
97
đoàn kiểm tra, giám sát với các huyện, thành phố, thị xã về công tác quản lý
các di sản văn hóa phi vật thể của tỉnh mà đã đƣợc công nhận. Phòng di sản
văn hóa, đơn vị chuyên môn nghiệp vụ trực thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, kiểm tra, phối hợp thanh tra ngăn ngừa và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật trên địa bàn tỉnh.
3.2.4.2. Tăng cường xã hội hóa
Để các di sản văn hóa phi vật thể sau khi đƣợc thế giới công nhận đƣợc
bảo tồn và phát huy tích cực thì việc đầu tƣ kinh phí duy trì hoạt động là rất
cần thiết. Việc huy động các nguồn vốn từ trong và ngoài nƣớc đã trở thành
một bài toán không chỉ với riêng Phú Thọ mà còn với các địa phƣơng khác có
di sản thế giới. Sau khi đƣợc vinh danh, các di sản đã trở thành biểu tƣợng
của quốc gia và mang tầm quốc tế, tự thân di sản đã mang tính giá trị thƣơng
hiệu, việc còn lại chỉ là các cán bộ quản lý văn hóa địa phƣơng cần khéo léo
và nhanh nhạy trong việc quảng bá để thu hút các nguồn vốn đầu tƣ.
Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo tồn di sản văn hóa, nâng cao vai
trò quản lý và định hƣớng Nhà nƣớc. Triển khai các chƣơng trình kế hoạch,
theo đó gắn xây dựng văn hóa với xây dựng nông thôn mới và xây dựng nếp
sống văn minh đô thị, đặc biệt là xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Đẩy mạnh
công tác xã hội hoá, chung tay góp sức, huy động sự vào cuộc của cộng đồng
trong tôn tạo, tu bổ di tích và tổ chức lễ hội.
Việc huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội phục vụ cho sự
nghiệp bảo tồn di sản văn hóa cần đƣợc tiếp cận ở nhiều cấp độ khác nhau.
Không ỷ lại, trông chờ vào nguồn kinh phí của nhà nƣớc mà cần chủ động,
quan tâm đẩy mạnh hoạt động xã hội hóa với các hình thức phù hợp từng địa
phƣơng trong khuôn khổ pháp luật quy định, nhằm tăng cƣờng nguồn lực
trong hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị của các di sản đã đƣợc vinh danh.
Tuyên truyền, quảng bá di sản để vận động các tập thể, cá nhân trong xã hội
98
phát tâm công đức, đóng góp huy động công sức và trí tuệ, kinh phí, hiện vật,
vật chất, góp phần thiết thực động viên toàn xã hội vào công tác bảo vệ và
phát huy các di sản văn hóa.
3.2.4.3. Tư liệu hóa di sản
Tƣ liệu hóa di sản là điều cần thiết. Trên cơ sở các nguyên tắc bảo tồn
để xây dựng đƣợc một bộ công cụ hƣớng dẫn rõ ràng.
Trong các cuộc họp trƣớc đây của UNESCO, một yêu cầu đã đƣợc đƣa
ra là vấn đề bảo tồn và tiếp cận di sản dƣới dạng số nên đƣợc quy định ở tầm
quốc tế bằng công cụ Khuyến nghị. Các di sản tƣ liệu dƣới dạng số này có thể
đƣợc bảo tồn, lƣu trữ phân cấp tại các thƣ viện, bảo tàng; nó còn đƣợc đảm
bảo theo thời gian và ấn định các phƣơng pháp khai thác. Khuyến nghị về
việc bảo tồn và tiếp cận di sản tƣ liệu dƣới dạng số có tầm quan trọng và là
trách nhiệm lâu dài đối với cộng đồng.
Thực hiện tốt công tác kiểm kê, lập hồ sơ di sản văn hóa phi vật thể sau
khi đƣợc công nhận tại địa phƣơng một cách khoa học và có hệ thống thông
qua việc tƣ liệu hóa, vật thể hóa hệ thống di sản văn hóa phi vật thể nhằm
nhận diện và xác định mức độ tồn tại, giá trị và sức sống của từng loại hình di
sản văn hóa phi vật thể trong cộng đồng, trên cơ sở đó đề xuất phƣơng án bảo
tồn, phát huy một cách hiệu quả. Đƣa di sản văn hóa phi vật thể vào bảo quản
trong các kho tƣ liệu. Bên cạnh đó, cần tăng cƣờng công tác quản lý nhà nƣớc
đối với hoạt động trên, gắn trách nhiệm của các cấp chính quyền và cán bộ
thực hiện với công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, nhƣ thế mới
mang lại đƣợc hiệu quả thực tế.
3.2.4.4. Nâng cao vai trò của cộng đồng
Di sản văn hóa phi vật thể là di sản sống đƣợc xác định, ghi nhận, thực
hành và trao truyền bởi con ngƣời. Nó không thể đứng ngoài sinh hoạt của
cộng đồng dân cƣ, hoặc đứng ngoài không gian văn hóa của chính nó. Sự kết
99
hợp sức mạnh tổng hợp của nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nhân và nhân
dân, đặc biệt là từng thành viên trong cộng đồng đang lƣu giữ di sản có vai trò
quyết định sự tồn vong của các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO
công nhận. Do vậy, Nhà nƣớc chỉ nên đóng vai trò định hƣớng và chỉ dẫn,
việc nhận diện giá trị, lựa chọn cách thức, phƣơng pháp bảo vệ và phát huy
các giá trị di sản thì nên trao lại cho chính các chủ thể văn hóa - cộng đồng đã
sáng tạo và hiện đang sử dụng cũng nhƣ khai thác chúng.
Chính UNESCO cũng luôn đề cao vai trò của cộng đồng trong việc bảo
tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể. Theo Công ƣớc năm 2003 của
UNESCO, cộng đồng là chủ sở hữu di sản và cũng là ngƣời có đủ điều kiện
để bảo vệ di sản nhất. Vai trò của cộng đồng thể hiện ở điều 15 của Công ƣớc
và sau này UNESCO đã có hƣớng dẫn cụ thể hơn ở mục II điều 79-89 (Tài
liệu hƣớng dẫn thực hành Công ƣớc) cũng nhắc lại việc cộng đồng có vai trò
và biện pháp cụ thể nhƣ thế nào trong việc thực thi Công ƣớc bảo vệ di sản
văn hóa phi vật thể.
Dù là tín ngƣỡng nhƣ Tín ngƣỡng thờ cúng Hùng Vƣơng, hay các loại
hình di sản nghệ thuật nhƣ Ca trù và hát Xoan đều do quần chúng nhân dân
sáng tạo ra. Các nhà quản lý cũng nên xây dựng các chƣơng trình hoạt động
một cách khoa học, sáng tạo, thiết thực và sinh động để mỗi ngƣời dân Phú
Thọ đều có ý thức mình là chủ thể của di sản, di sản phải đƣợc cộng đồng bảo
vệ, khai thác, phát huy giá trị với nhận thức đầy đủ về ý nghĩa của nó, trách
nhiệm của mỗi ngƣời. Lợi ích của di sản đó là nhận thức về di sản tăng lên, du
lịch phát triển, ngƣời dân có thể phát triển sản phẩm hàng hóa và dịch vụ
nhƣng không đƣợc là ảnh hƣởng và đe dọa sức sống của di sản. Phải để cho
các di sản văn hóa sống trong không gian văn hóa của cộng đồng. Chính nhân
dân và các cộng đồng là ngƣời tự chủ động bảo tồn và duy trì hoạt động của
các di sản này dƣới sự hƣớng dẫn, quản lý của các cơ quan chuyên môn.
100
Tiểu kết Chƣơng 3
Di sản văn hóa phi vật thể không chỉ mang đậm tính chất dân gian mà
còn gắn bó mật thiết với các hoạt động mang tính chất tâm linh, tín ngƣỡng.
Chúng ta cần quan tâm và chủ động giải quyết thật thận trọng, thỏa đáng vấn
đề bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể gắn với không
gian văn hóa truyền thống, các hoạt động mang tính tâm linh, đa dạng văn
hóa, nhằm tạo lập sự ổn định xã hội, làm tiền đề cho sự phát triển bền vững.
Muốn bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO
công nhận, trƣớc hết cán bộ quản lý văn hóa các cấp phải nắm vững về các di
sản văn hóa thế giới và đặc biệt là phải nhận biết đƣợc những giá trị văn hóa
tiêu biểu.
Với những phƣơng hƣớng và mục tiêu đã đặt ra, Phú Thọ cần triển khai
đồng bộ một số giải pháp để nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong việc quản lý
nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận nhƣ:
hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý các di sản thế giới; xây dựng, ban hành và
tổ chức thực thi các chính sách liên quan đến việc bảo tồn, phát huy di sản
cũng nhƣ hỗ trợ, vinh danh nghệ nhân; hệ thống văn bản pháp quy về quản lý
các di sản; nâng cao chất lƣợng đào tạo, bồi dƣỡng cán bộ làm công tác quản
lý nhà nƣớc về di sản văn hóa phi vật thể; tăng cƣờng xã hội hóa; đẩy mạnh
giáo dục về di sản; tƣ liệu hóa di sản; nâng cao vai trò của cộng đồng; thanh
tra, kiểm tra và giám sát
Di sản văn hóa phi vật thể sau khi đƣợc UNESCO công nhận thì công
tác quản lý, bảo tồn và phát huy luôn phải chịu sự giám sát chặt chẽ của Nhà
nƣớc và UNESCO. Do vậy, việc quản lý các di sản văn hóa phi vật thể này
luôn đặt tỉnh trƣớc những khó khăn và thách thức. Để đạt đƣợc những bƣớc
đột phá trong công tác này theo tinh thần Nghị quyết Trung ƣơng 9 (khóa XI)
về văn hóa, thì những năm tới đòi hỏi ngành Văn hóa, từ cấp lãnh đạo đến địa
101
phƣơng, cơ sở cùng toàn thể cán bộ, công chức, viên chức Ngành, đặc biệt là
đội ngũ quản lý văn hóa ở địa phƣơng phải có những cố gắng, nỗ lực cao, làm
sao để quảng bá đƣợc các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO vinh
danh đến với bạn bè thế giới đồng thời nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trƣờng quốc tế trong xu thế hội nhập toàn cầu mạnh mẽ hiện nay.
102
KẾT LUẬN
Phú Thọ là vùng Đất tổ, mảnh đất thiêng liêng cội nguồn của dân tộc
Việt Nam với hàng ngàn năm lịch sử. Nơi đây lƣu giữ, bảo tồn một khối
lƣợng lớn các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể, đa dạng, phong phú và đặc
trƣng, phản ánh cuộc sống của cƣ dân nông nghiệp trong tiến trình lịch sử
hình thành và phát triển. Đây chính là lợi thế du lịch, hấp dẫn đối với du
khách trong nƣớc và quốc tế. Trƣớc đây, do nhận thức chƣa đầy đủ nên việc
bảo vệ và phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể không đƣợc quan tâm
thỏa đáng, dẫn đến tình trạng nhiều giá trị bị biến dạng, mai một, thất truyền.
Công ƣớc 2003 của UNESCO đã góp phần nâng cao nhận thức chung
về vai trò của văn hóa trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội với tƣ cách là
“nền tảng tinh thần, mục tiêu và động lực” cho phát triển bền vững, và đƣợc
các nƣớc thành viên trong đó có Việt Nam áp dụng nhằm mục đích bảo vệ và
từ đó phát huy các giá trị văn hóa. Thực thi trách nhiệm của một quốc gia
thành viên tham gia Công ƣớc UNESCO 2003, Chính phủ Việt Nam đã đƣa
ra các quy định pháp luật hàm chứa và phản ánh đúng các mục tiêu lớn của
Công ƣớc này, đồng thời còn khẳng định, Nhà nƣớc chịu trách nhiệm đầu tƣ
kinh phí cho việc bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể. Đó
là những tiền đề quan trọng đảm bảo cho việc gìn giữ di sản văn hóa phi vật
thể trên phạm vi cả nƣớc.
Phú Thọ - một điểm đến với ba di sản văn hóa thế giới, trong nhiều
năm qua đã có những chủ trƣơng, chính sách, biện pháp tích cực để bảo tồn
và phát huy giá trị các di sản. Ngay sau khi các di sản văn hóa phi vật thể
đƣợc UNESCO công nhận, tỉnh đã đề ra và thực hiện rất nhiều chính sách,
chƣơng trình hành động cụ thể. Đã có những thành công bƣớc đầu đáng khích
lệ. Điển hình trong hành trình bảo tồn di sản hát Xoan - sau 4 năm, năm 2016,
103
Phú Thọ đã đệ trình hồ sơ lên UNESCO đề nghị đƣa hát Xoan ra khỏi tình
trạng báo động đỏ và đƣa vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện
của nhân loại - đây cũng là trƣờng hợp đầu tiên trên thế giới xin rút khỏi Danh
sách di sản văn hóa phi vật thể cần đƣợc bảo vệ khẩn cấp. Công tác quản lý
nhà nƣớc về di sản văn hóa trên địa bàn đã góp phần không nhỏ trong việc
định hƣớng, đƣa ra các chính sách, chƣơng trình hành động thiết thực, hiệu
quả để đạt đƣợc những kết quả đó.
Tuy Phú Thọ đã đạt đƣợc những thành tựu nhất định trong quá trình
quản lý các di sản văn hóa phi vật thể của thế giới, nhƣng những bất cập khó
khăn, thách thức vẫn đang hiện hữu. Trong thời gian tới, ngoài những chính
sách từ trung ƣơng, các cấp quản lý di sản văn hóa ở Phú Thọ còn cần hoàn
thiện bộ máy quản lý di sản văn hóa, ban hành và thực thi các chính sách,
xây dựng chƣơng trình hành động, tăng cƣờng tuyên truyền, giáo dục nhằm
bảo tồn, phát huy và quảng bá các giá trị di sản thế giới để cho tƣơng xứng
với tiềm năng hiện có. Thêm vào đó, việc đào tạo, bồi dƣỡng đội ngũ cán
bộ văn hoá cũng cần đƣợc thực hiện khẩn trƣơng, có hệ thống và toàn diện.
Tỉnh Phú Thọ cần thành lập một ban chuyên môn phụ trách quản lý các di
sản sau khi đã đƣợc UNESCO công nhận. Cấp uỷ, chính quyền địa phƣơng
cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của di sản văn hóa, đặc biệt là di sản
phi vật thể đã đƣợc UNESCO ghi danh trong quá trình đổi mới và hội nhập
quốc tế. Những giải pháp hữu hiệu, sáng tạo, những chính sách thiết thực,
toàn diện sẽ là cơ sở vững chắc cho việc bảo tồn và phát huy giá trị các di
sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc vinh danh trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
104
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Văn Bài (2007), Bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể - từ góc nhìn
toàn cầu hóa, Tạp chí Di sản văn hóa, số 21.
2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Bộ Nội vụ (2015), Thông tƣ liên tịch
số 07/2015/TTLT-BVHTTDL-BNV ngày 14 tháng 9 năm 2015.
3. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2008), Quyết định số 189/QĐ-
BVHTTDL ngày 16 tháng 01 năm 2008 thành lập Cục Di sản văn hóa.
4. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2013), Quyết định số 3878/QĐ-
BVHTTDL ngày 01 tháng 11 năm 2013 quy định chức năng, nhiệm vụ
của Cục Di sản văn hóa.
5. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945), Sắc lệnh của
Chủ tịch Chính phủ lâm thời số 65 ngày 23 tháng 11 năm 1945.
6. Chính phủ, Nghị định số 171/2004/NĐ-CP ngày 29/9/2004 của Chính phủ
quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương.
7. Chính phủ (2010), Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21/9/2010 của
Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản văn hóa
và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Di sản văn hóa.
8. Chính phủ (2013), Nghị định số 76/2013/NĐ-CP ngày 16/7/2013 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức
của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
9. Hoàng Thụ Đàm, Viện Văn hóa (2008), Bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa nghệ thuật ở nước ta hiện nay, Nxb Văn hóa thông tin.
105
10. Đảng bộ tỉnh Phú Thọ (2009), Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ
lần thứ XVII nhiệm kỳ 2010-2015.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.36.
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng Toàn tập, t.43, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.316.
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, tr.114.
14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2014), Nghị quyết số 33-NQ/TW Hội nghị lần
thức chín Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa XI, Về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững
đất nước, Ban Chấp hành Trung ƣơng ngày 09 tháng 6 năm 2014.
15. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, tr.9.
16. Phan Hồng Giang, Bùi Hoài Sơn (2014), Quản lý văn hóa Việt Nam trong
tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, tr.25-26.
17. Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2008), Giáo
trình Lý luận về văn hóa và đường lối văn hóa của Đảng, Nxb Lý luận
Chính trị, Hà Nội.
18. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Hành chính công, Nxb Khoa học
và Kỹ thuật, Hà Nội.
106
19. Nguyễn Trịnh Kiểm, Lê Văn Sáng, Hà Hoa Lý (2010), Giáo trình quản lý
nhà nước về văn hóa – xã hội, giáo dục, y tế, an ninh – quốc phòng, Nxb
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
20. Nguyễn Hữu Khiển (2003), Tìm hiểu về hành chính nhà nước, Nxb Lao
động, Hà Nội.
21. Nguyễn Văn Kim (2016), Tiếp biến và hội nhập văn hóa ở Việt Nam, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.341.
22. Nguyễn Thu Linh, Bùi Văn Nhơn (2003), Quản lý nhà nước về văn hóa -
giáo dục - y tế, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
23. Ths. Nguyễn Thị Kim Loan , TS. Nguyễn Trƣờng Tân (2014), Quản lý di
sản văn hóa, Nxb Văn hóa - Thông tin và Viện Văn hóa, tr.3.
24. Lê Thị Minh Lý (2008), Tiếp cận vấn đề kiểm kê di sản văn hóa phi vật
thể, tạp chí Di sản văn hóa, số 3, tr.15-18.
25. Hồ Chí Minh (1971), Về văn hóa văn nghệ. Nxb Sự thật, Hà Nội.
26. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, T3, tr.431
27. Bùi Đình Phong (2001), Đỉnh cao tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa, Nxb
Lao Động, tr.18-19.
28. PGS.TS. Lƣơng Hồng Quang, TS. Phạm Bích Huyền, TS. Lê Thị Hiền,
Ths. Nguyễn Lâm Tuấn Anh (2014), Chính sách văn hóa, Nxb Lao Động,
tr.106.
29. Quốc Hội (2001) Luật số 28/2001/QH10 (29/6/2001), Di sản văn hóa Việt
Nam, Quốc Hội nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
107
30. Quốc Hội (2009), Luật số 32/2009/QH12 (18/6/2009), Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Di sản văn hóa, Quốc Hội nƣớc Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
31. Nguyễn Văn Tình (2009), Chính sách văn hóa trên thế giới và việc hoàn
thiện chính sách văn hóa ở Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, tr.53.
32. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (1945),
Công ước thành lập UNESCO ngày 16 tháng 11 năm 1945.
33. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc (UNESCO)
(1972), Công ước về Bảo vệ Di sản văn hóa và Thiên nhiên thế giới (Công
ước Di sản Thế giới 1972),
nn/1/2868/index.html.
34. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc (UNESCO)
(2003), Công ước quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể ngày 17
tháng 10 năm 2003.
35. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc (UNESCO),
“What is intangible culture heritage?”,
36. Tỉnh ủy tỉnh Phú Thọ (2016), Nghị quyết số 14-NQ/TU ngày 15 tháng 7
năm 2016.
37. UBND tỉnh Phú Thọ (2012), Chƣơng trình hành động số 382/CTr-UBND
ngày 13 tháng 02 năm 2012.
38. Lê Thị Bích Thuận (2016), Một số vấn đề về quản lý nhà nước về văn
hóa, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 352, tr.10.
39. Hoàng Vinh (1997), Một số vấn đề về bảo tồn và phát triển di sản văn hóa
dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, tr.16.
108
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
- Bài tham luận: “Vai trò của giới trẻ Việt Nam trong việc bảo tồn và
phát huy giá trị các di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc” trình bày trong
Hội thảo quốc tế “Vai trò của giới trẻ ASEAN trong việc bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa phi vật thể sau năm 2015”, tổ chức tại Campuchia tháng 12
năm 2015.
- Bài tạp chí: “Kim Đức: Vùng đất chứa đựng các di tích gắn với ba
phường Xoan cổ” in trong Tạp chí Thông tin và Truyền thông (cơ quan của
Bộ Thông tin và Truyền thông) trang 46 – 47, số 321 tháng 4 năm 2017.
109
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Phiếu điều tra khảo sát
Hiện tôi đang thực hiện luận văn “Quản lý nhà nƣớc về di sản văn hóa
phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận trên địa bàn tỉnh Phú Thọ”. Để phục
vụ cho công trình nghiên cứ ề
ể tôi hoàn thiện đƣợc công
trình nghiên cứ ề
ẽ
dƣới đây.
***********************
Năm sinh:
Nghề nghiệp: ..
Địa chỉ: ...
1. Ông/bà có biết di sản văn hóa phi vật thể là gì không?
Có
... một vài ví dụ...
Không
2. Trên địa bàn tỉnh Phú Thọ có bao nhiêu di sản văn hóa phi vật thể đã
đƣợc UNESCO công nhận?
1 di sản (tên di sản?)....
2 di sản (tên di sản?)....
3 di sản (tên di sản?)....
Số khác.
3. Việc UNESCO vinh danh các di sản của Phú Thọ có ý nghĩa gì không?
Có
Tại sao?...........................................................................................
Không
110
4. Theo ông/bà có cần một bộ phận chuyên phụ trách quản lý các di sản
văn hóa phi vật thể sau khi đƣợc công nhận không?
Có
Không
5. Ông/bà có biết các chính sách của Nhà nƣớc và địa phƣơng để bảo vệ và
phát huy các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc công nhận không?
Có
... một vài ví dụ
Không
6. Đánh giá hiệu quả của các chính sách đó trong việc bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa phi vật thể sau khi đƣợc UNESCO công nhận?
Tốt
Bình thƣờng
Chƣa tốt
Ý kiến khác
7.Theo ông/ bà, các di sản sau khi đƣợc công nhận có giúp phát triển kinh
tế, du lịch của địa phƣơng không?
Có
Tại sao?......................................................................................
Không
Tại sao?.....................................................................................
8. Theo ông/bà, các cấp quản lý còn cần làm những gì để bảo vệ và phát
huy các di sản văn hóa phi vật thể đã đƣợc UNESCO công nhận?
Ban hành thêm các chính sách
Tăng cƣờng đội ngũ quản lý
Hỗ trợ kinh phí
Tuyên truyền, giáo dục về di sản văn hóa
Ý kiến khác
Chân thành cảm ơn sự hợp tác của Ông/Bà!
Phụ lục 2: MỘT SỐ HÌNH ẢNH GIỚI THIỆU CÁC DI SẢN VĂN HÓA
PHI VẬT THỂ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN CỦA TỈNH PHÚ THỌ
Chƣơng trình Du lịch về cội nguồn 2012 và Vinh danh hát Xoan Phú Thọ
(Nguồn: Bảo tàng Hùng Vƣơng, TP. Việt Trì)
Chƣơng trình Du lịch về cội nguồn 2012 và Vinh danh hát Xoan Phú Thọ
(Nguồn: Bảo tàng Hùng Vƣơng, TP. Việt Trì)
Hát Xoan tại bảo tàng Dân tộc học
(Nguồn: Bảo tàng Hùng Vƣơng, TP. Việt Trì)
Các nghệ nhân hát Xoan trƣớc đình Thét, làng Thét - làng Xoan cổ
(Nguồn: tác giả)
Phƣờng Xoan Thét, làng Thét, xã Kim Đức, Thành phố Việt Trì, Phú Thọ
(Nguồn: tác giả)
Đồng chí Phạm Bá Khiêm cùng các đồng chí Lãnh đạo Phòng ban của
Sở VHTT&DL trao quà và danh hiệu nghệ nhân cho cụ Nguyễn Thị Thƣợc
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ)
Trao bằng nghệ nhân
(Nguồn: Bảo tàng Hùng Vƣơng, TP. Việt Trì)
Lãnh đạo Sở VHTT&DL Phú Thọ chụp ảnh lƣu niệm cùng
các nghệ nhân hát Xoan tại lớp tập huấn kiểm kê di sản hát Xoan
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ)
Hồ sơ nghệ nhân hát Xoan đƣợc sƣu tầm và lƣu giữ
tại Bảo tàng Hùng Vƣơng, TP. Việt Trì
(Nguồn: tác giả)
Các tài liệu của Bảo tàng Hùng Vƣơng, Tp. Việt Trì
về việc bảo tồn và phát huy hát Xoan
(Nguồn: tác giả)
Lớp truyền dạy (lớp cháu nhỏ) của nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch,
Phƣờng Xoan An Thái - phƣờng Xoan cổ
(Nguồn: Bảo tàng Hùng Vƣơng, TP. Việt Trì)
Lớp truyền dạy hát Xoan tại nhà nghệ nhân Phan Thị Diễm
(Nguồn: Bảo tàng Hùng Vƣơng, TP. Việt Trì)
Lớp tập huấn hát Xoan cho giáo viên
(Nguồn: Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Thọ)
Nghệ nhân Nguyễn Thị Lịch truyền dạy hát Xoan
cho cán bộ bảo tàng Hùng Vƣơng
(Nguồn: Bảo tàng Hùng Vƣơng, TP. Việt Trì)
Trao bằng cho các nghệ nhân trong
Lớp tập huấn kiểm kê di sản văn hóa hát Xoan Phú Thọ
(Nguồn: Bảo tàng Hùng Vƣơng, TP. Việt Trì)
Trao bằng cho các nghệ nhân trong
Lễ kỷ niệm Ngày di sản văn hóa Việt Nam
(Nguồn: Bảo tàng Hùng Vƣơng, TP. Việt Trì)
Lễ vinh danh và khen thƣởng các tập thể, cá nhân có thành tích
trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản hát Xoan Phú Thọ
(Nguồn: Bảo tàng Hùng Vƣơng, TP. Việt Trì)
Hội nghị đánh giá kết quả công tác kiểm kê hát Xoan Phú Thọ
(Nguồn: Bảo tàng Hùng Vƣơng, TP. Việt Trì)
Cổng Đền Hùng
(Nguồn: tác giả)
Chƣơng trình tổng thể hoạt động lễ hội Đền Hùng năm 2016
(Nguồn: tác giả)
Ngƣời dân dâng hƣơng ở Đền Trung - Đền Hùng
(Nguồn: tác giả)
Ngƣời dân dâng hƣơng ở Đền Hùng
(Nguồn: tác giả)
Hƣớng dẫn viên Khu di tích Đền Hùng đang hƣớng dẫn cho du khách
(Nguồn: tác giả)
Hƣớng dẫn viên Khu di tích Đền Hùng đang hƣớng dẫn cho du khách
(Nguồn: tác giả)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_di_san_van_hoa_phi_vat_the_da_d.pdf