Luận văn Quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

Giải quyết việc làm cho lao động nữ giai đoạn hội nhập kinh tế đang là vấn đề cấp bách của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương. Với Quảng Bình một tỉnh cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, thu nhập bình quân đầu người thuộc loại thấp trong cả nước thì vấn đề này càng trở nên cấp thiết. Thời gian qua Quảng Bình đã có nhiều nỗ lực để tạo việc làm cho người lao động, tỷ lệ lao động nữ có việc làm tăng hằng năm, về cơ bản đã ổn định được đời sống kinh tế, xã hội của người dân. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng những kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Việc làm của lao động nữ chưa thực sự ổn định, còn mang tính chất tạm thời, mùa vụ, vai trò của lao động nữ chưa được chú trọng. Để hiện thực hoá các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về giải quyết việc làm thì hoạt động quản lý Nhà nước về giải quyết việc làm có vai trò hết sức quan trọng, đảm bảo cho người lao động có đủ điều kiện, cơ hội để tìm kiếm việc làm ổn định thu nhập nâng cao chất lượng cuộc sống, là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững. Qua đề tài nghiên cứu “Quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” luận văn đã đạt được một số kết quả sau: Đã hệ thống hóa đầy đủ cơ sở lý luận quản lý Nhà nước về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nói chung và lao động nữ nói riêng. Đã phân tích thực trạng quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2011 - 2015; Nêu bật dược những kết quả đạt được và chỉ ra những hạn chế trong công tác giải quyết việc làm cho lao động nữ của Quảng Bình giai đoạn 2011 – 2015. Đưa ra quan điểm, phương hướng trọng tâm trong công tác giải quyết việc làm. Ngoài ra, cũng tập trung đưa ra 7 nhóm giải pháp cơ bản, cụ thể và các kiến nghị để thực thi giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quản lý Nhà nước đối với công tác giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2016-2020.

pdf124 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 861 | Lượt tải: 6download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chức sản xuất phù hợp với lao động nữ Xây dựng và phát triển mô hình phát triển sản xuất hợp lý sẽ là phương thức có hiệu quả để GQVL cho lao động, đòi hỏi các cấp chính quyền cần có các cơ chế chính sách hỗ trợ, thúc đẩy phát triển. Theo tinh thần trên, các ngành, các cấp cần tìm mọi cách khai thác tiềm năng, mở mang ngành, nghề, giúp đỡ về phương hướng sản xuất, tổ chức sản xuất, tiêu thụ sản phẩm... Xây dựng và phát triển hợp lý mô hình kinh tế trang trại, kinh tế hộ gia đình. Với lực lượng lao động nông thôn chiếm hơn 85% trong đó gần 50% là lao động nữ thì đây là mô hình phát triển kinh tế có nhiều yếu tố phù hợp cho lao động nữ, quy hoạch, đầu tư phát triển kinh tế trang trại tổng hợp kết hợp du lịch sinh thái ven biển, kết hợp nuôi trồng thuỷ sản, làm trang trại, trồng rừng và chăn nuôi... sẽ phát huy được nguồn lao động nữ tại địa phương. Hiện nay, đại bộ phận là trang trại gia đình, chuyển từ hộ nông dân tự cấp, tự túc sang sản xuất hàng hóa có quy mô lớn hơn. Do vậy tiềm năng nội lực (vốn, kinh nghiệm sản xuất hàng hóa) còn hạn hẹp nên kinh tế trang trại cần phải có định hướng để phát huy thế mạnh của từng vùng và phải có bước đi thích hợp theo phương châm: "Xây dựng quy mô trang trại từ nhỏ đến lớn, vừa xây dựng cơ bản vừa sản xuất để lấy ngắn nuôi dài, nhưng phải có quy hoạch xây dựng trang trại định hình hoàn chỉnh đảm bảo hiệu quả SXKD". 91 Phát triển bền vững các nghề, làng nghề truyền thống. Trên địa bàn toàn tỉnh có 20 làng nghề lớn, nhỏ, nhưng qui mô sản xuất nhỏ, sản phẩm của nó chỉ cung cấp cho nhu cầu trong vùng và một số địa phương lân cận. Vì vậy, cần có chính sách hỗ trợ về vốn, về thị trường tiêu thụ các sản phẩm để các làng nghề hoạt động ổn định, tăng năng suất. Đây là nguồn cung ứng LĐ nữ hiệu quả và phù hợp với đặc thù lao động. Cần có chính sách và cơ chế để các hộ gia đình, các làng nghề liên kết lại thành hiệp hội làng nghề, vừa tăng tính cạnh tranh trên thị trường, tăng quy mô sản xuất, theo đó vừa giải quyết tốt lao động thời vụ ở từng làng nghề, luân chuyển nguồn lao động hợp lý. Đẩy mạnh việc mở rộng các làng nghề mới phù hợp với đặc thù của từng địa phương. Phát huy tiềm năng từng vùng, kết hợp phát triển mô hình trang trại với dịch vụ - du lịch, tạo cơ hội cho các đối tượng lao động cùng tham gia. 3.2.3. Giải pháp về đào tạo nghề cho lao động nữ Đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách cụ thể, đồng bộ; đảm bảo chủ trương, chính sách của Trung ương phù hợp với thực tiễn của tỉnh và phù hợp với đối tượng lao động nữ. Xây dựng quy chế phối hợp giữa Sở Lao động - Thương binh và Xã hội với các cơ quan liên quan trong quản lý đầu tư phát triển đào tạo nghề. Tăng cường tuyên truyền sâu rộng trên phương tiện thông tin đại chúng các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về đào tạo nghề, về vai trò, vị trí của đào tạo nghề đối với phát triển kinh tế - xã hội, tạo việc làm, nâng cao thu nhập để người lao động biết và tích cực tham gia học nghề. Tổ chức điều tra, rà soát nguồn lao động, nắm các thông tin về nhu cầu học của lao động nữ tại các địa phương. Nghiên cứu khảo sát xây dựng các nghề đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đặc thù của lao động. Cụ thể hóa và vận dụng linh hoạt các chính sách đào tạo và tự học nghề, thực hiện chuẩn hóa đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở. Các cơ sở dạy nghề xây dựng chương trình dạy nghề trên cơ sở phân tích nghề theo công việc thực hiện; xác định mục tiêu đào tạo nghề của khóa học, môn học, bài học cho lao động; xác định nội dung, lựa chọn phương pháp thích hợp, lựa chọn và tạo 92 ra các phương tiện hỗ trợ đào tạo, lựa chọn phương pháp kiểm tra thích hợp để đánh giá kết quả đào tạo. Cần bố trí kinh phí ngân sách thỏa đáng và hợp lý để có thể đổi mới nhanh và toàn diện hệ thống đào tạo nghề đặc biệt nghề phù hợp lao động nữ. Đổi mới cơ chế phân bổ và giao dự toán ngân sách chi thường xuyên cho đào tạo nghề theo hướng tăng tỷ lệ chi ngân sách dành cho đào tạo nghề đối với lao động nữ hằng năm. Mở rộng cơ chế đặt hàng đào tạo nghề đối với những nghề đặc thù, tiến tới thực hiện cơ chế đấu thầu chỉ tiêu đào tạo do Nhà nước đặt hàng đối với những cơ sở đào tạo nghề đã kiểm định chất lượng, đủ điều kiện tham gia đào tạo. Đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy nghề, đây là chiếc cầu nối giữa khoa học giáo dục và thực tiễn sản xuất, là yếu tố căn bản tạo nên môi trường tiếp cận dần dần đến sản xuất, giúp cho người học có cái nhìn trực quan hơn về nghề mình đang học. Huy động các nhà khoa học, nghệ nhân, cán bộ kỹ thuật, kỹ sư, người lao động có tay nghề cao tại các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất kinh doanh, các trung tâm, lao động sản xuất giỏi tham gia dạy nghề cho lao động. Tăng cường bồi dưỡng chuẩn hóa, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên. Tiến hành rà soát, đánh giá thực trạng đội ngũ giáo viên để xây dựng kế hoạch đào tạo lại, bồi dưỡng chuẩn hóa về chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên hiện có. Thực hiện luân phiên bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên thường xuyên theo chu kỳ. Tiếp tục đổi mới nội dung, chương trình đào tạo giáo viên, giảng viên theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, phù hợp với thực tế Việt Nam, hội nhập với khu vực và quốc tế. Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tích cực, chủ động, sáng tạo của người học; tăng cường thực hành, thực tập; kết hợp chặt chẽ giữa đào tạo và hoạt động sản xuất. Đổi mới quy trình, nội dung phương pháp đào tạo theo hướng mềm hóa, đa dạng hóa chương trình, tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu lao động đa dạng và tạo cơ hội học tập cho lao động. Loại bỏ những nội dung không thiết thực, bổ sung những nội dung cần thiết theo hướng đảm bảo kiến thức cơ bản, cập nhật tiến bộ khoa học công nghệ, 93 tăng năng lực thực hành nghề, năng lực tự học phù hợp với nền kinh tế. Chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện và phát triển chương trình, giáo trình, học liệu dạy nghề cho lao động theo yêu cầu, thường xuyên cập nhật kỹ thuật, công nghệ mới cho đào tạo nghề, ưu tiên đặc thù của địa phương. Xây dựng mối quan hệ hợp tác thường xuyên giữa các trung tâm dạy nghề và các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp. Bắt tay nhau cùng xây dựng mục tiêu, chương trình đào tạo, cung cấp cho nhau thông tin về nhu cầu thị trường cũng như nhu cầu đào tạo và tuyển dụng hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và lâu dài của các trung tâm dạy nghề cũng như cơ sở sản xuất, doanh nghiệp tạo điều kiện thuận lợi để lao động tìm kiếm được việc làm sau đào tạo. Các trung tâm dạy nghề cần cập nhật kịp thời các thông tin khoa học kỹ thuật mới về đào tạo nghề, chủ động xây dựng nội dung chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường lao động. Phối hợp với các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp xây dựng các tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo nghề trên cơ sở kỹ năng thực hành nghề nghiệp của lao động; liên kết với các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp để tổ chức đào tạo, chủ động với các chuyên gia kỹ thuật, công nhân bậc cao có kinh nghiệm lâu năm để giảng dạy và hướng dẫn lao động thực tập sản xuất tại cơ sở sản xuất, doanh nghiệp qua đó tận dụng được các vật tư, trang thiết bị, đồng thời cơ sở sản xuất, doanh nghiệp đánh giá được tay nghề lao động và có hướng tuyển dụng. 3.2.4. Giải pháp cho vay vốn quốc gia hỗ trợ phụ nữ tạo việc làm Để phát huy hiệu quả nguồn vốn vay, các ngân hàng cần phối hợp với hội phụ nữ các cấp, thường xuyên mở lớp tập huấn bồi dưỡng kiến thức quản lý và sử dụng vốn vay cho cán bộ, hội viên được vay vốn sản xuất kinh doanh, tạo cho lao động phụ nữ có sự tự tin, mạnh dạn đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất. Kết hợp hiệu quả giữa nguồn vốn vay với đào tạo nghề, định hướng hình thức đầu tư. Đi đôi với cung cấp vay vốn, việc bồi dưỡng kiến thức cho phụ nữ là quan trọng và cần thiết. Đồng vốn chỉ có nghĩa khi người sử dụng nó biết dùng vào việc gì có lợi, dùng như thế nào và có phù hợp với khả năng của họ hay không, ở đây bao gồm 2 mặt: kiến thức khoa học kỹ thuật và kiến thức tổ chức sản xuất kinh doanh; thiếu 94 kiến thức thì đồng vốn không những không có tác dụng mà nhiều khi còn là gánh nặng thêm cho người nghèo khi không có khả năng trả nợ từ kết quả sản xuất của họ. Mở rộng và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn của Ngân hàng và các tổ chức tín dụng trên địa bàn, tạo điều kiện cho chủ cơ sở sản xuất vay đủ và kịp thời để xây dựng cơ sở, trang trại. Thời gian vay vốn phù hợp với chu kỳ sinh trưởng của cây, con, phù hợp với đặc thù của lĩnh vực sản xuất. Xác định mức vay thế chấp và tín chấp thích hợp cũng như lãi suất vay cho từng loại hình doanh nghiệp, cơ sở. Các cơ quan chức năng liên quan cần có điều tra, khảo sát về thực trạng vay vốn phát triển sản xuất của lao động nữ hằng quý để có biện pháp chỉ đạo, hỗ trợ kịp thời. Cần xây dựng quy chế vay vốn phát triển sản xuất riêng cho lao động nữ trong các tổ chức tín dụng này để phụ nữ được chủ động tìm kiếm nguồn vốn và chủ động trong tổ chức sản xuất. Cần đẩy mạnh phát triển và củng cố các tổ kiết kiệm và vay vốn để phát huy hiệu quả đầu tư thực hiện đề án củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng chính sách và vận động, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững, bảo vệ môi trường. Chỉ đạo các cấp Hội phụ nữ xây dựng kế hoạch củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ tiết kiệm và vay vốn gắn với giao chỉ tiêu thu hồi nợ quá hạn, lãi tồn đọng, xử lý nợ xấu và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để xử lý ngay các khó khăn phát sinh. Ngoài ra, cần ban hành các văn bản chỉ đạo các cấp Hội về nâng cao chất lượng hoạt động ủy thác như: đẩy mạnh công tác tuyên truyền đến người dân về các chính sách tín dụng cho vay ưu đãi của Chính phủ và các quyền lợi, nghĩa vụ của người vay vốn; nâng cao hơn nữa hiệu quả của đồng vốn đầu tư. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền về ý nghĩa, mục đích của các chương trình tín dụng ưu đãi của Chính phủ, đặc biệt là quyền và trách nhiệm của người vay vốn để các hộ vay hiểu và thực hiện tốt việc trả nợ gốc, lãi theo định kỳ đã thỏa thuận với Ngân hàng chính sách xã hội. Nâng cao chất lượng hoạt động của các tổ tiết kiệm và vay vốn trong việc thẩm định hồ sơ cho vay, thu lãi, thu hồi nợ xấu, thu lãi hàng tháng. 95 3.2.5. Giải pháp về tạo việc làm cho lao động nữ thông qua xuất khẩu lao động Chất lượng nguồn lao động xuất khẩu là “đầu vào” của xuất khẩu lao động, đóng vai trò quyết định đến sự phát triển bền vững và thành công của xuất khẩu lao động, để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tham gia xuất khẩu lao động đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động quốc tế cần áp dụng đồng bộ các giải pháp sau: Chủ động nâng cao chất lượng lao động xuất khẩu, có chiến lược phát triển nguồn nhân lực tham gia xuất khẩu lao động. Trên cơ sở đánh giá nhu cầu lao động của từng thị trường theo ngành nghề, giới tính, tay nghềvà khả năng đáp ứng các nhu cầu đó, xây dựng đề án xuất khẩu lao động cho từng thị trường cụ thể, từ đó đưa ra các chính sách hỗ trợ đầu tư cho các tổ chức xuất khẩu lao động, hỗ trợ kinh phí tối đa cho lao động nữ học nghề và ngoại ngữ nhằm nâng cao chất lượng nguồn lao động xuất khẩu, đẩy mạnh việc thực hiện dạy nghề cho lao động đi làm việc ở nước ngoài, nhất là việc đầu tư và thành lập ngay các trường dạy nghề khu vực có trang thiết bị hiện đại, chương trình giảng dạy tiên tiến, đội ngũ giáo viên trình độ cao để đào tạo lao động đáp ứng tốt nhu cầu thị trường ngoài nước. Tăng cường đào tạo nghề, dạy ngoại ngữ và giáo dục định hướng, xem đó là khâu then chốt quyết định đến chất lượng lao động xuất khẩu. Vì vậy, cần tổ chức tốt việc đào tạo lao động nhằm đáp ứng yêu cầu của đối tác nước ngoài. Đây là một công tác trọng tâm, là một vấn đề phức tạp, trong đó, mấu chốt là phải xây dựng được chiến lược đào tạo toàn diện đặc biệt là khung chuẩn về đào tạo nghề, dạy ngoại ngữ và giáo dục định hướng, bám sát yêu cầu thị trường lao động quốc tế. Việc dạy ngoại ngữ phải tiến hành song song và lồng ghép với chương trình dạy nghề, chương trình giảng dạy cần có sự đổi mới nhưng phải có tính kế thừa nền tảng của các cấp học, bậc học phổ thông, phải có thời lượng và chương trình theo từng đối tượng để người lao động sau khi kết thúc khóa học có đủ khả năng giao tiếp và sớm hòa nhập vào xã hội nước tiếp nhận. Để đạt được mục tiêu trên, cần có dự báo chính xác nhu cầu lao động và có kế hoạch chuẩn bị nguồn lao động đáp ứng nhu cầu thị trường. Do tính hai mặt của nền kinh tế thị trường nên đào tạo không chỉ là thuần túy quan tâm đến chất lượng, ngành nghề, ngoại ngữ, giáo dục ý thức và kỷ luật cho người 96 lao động mà phải xuất phát từ nhu cầu tiếp nhận của thị trường lao động quốc tế. Đòi hỏi này ngày càng gay gắt khi thị trường lao động quốc tế có xu hướng tăng tiếp nhận lao động có nghề và giảm dần nhu cầu lao động phổ thông, vì vậy việc đáp ứng nhu cầu lao động của thị trường nước ngoài không phải là việc dễ làm. Nếu không có định hướng tốt thì khó có thể xây dựng được một cơ cấu nguồn lao động phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động nước ngoài. Nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, nhận thức về quan hệ chủ thợ, ý nghĩa và mục đích đi làm việc ở nước ngoài của người lao động, muốn vậy cần sự phối hợp giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động, các cấp chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể, các cơ quan thông tấn, báo chí, đài truyền hìnhnhằm tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền giúp người lao động nâng cao hiểu biết về pháp luật, nhất là pháp luật liên quan đến xuất khẩu lao động, nhận thức rõ quyền lợi chính đáng, hợp pháp cũng như trách nhiệm và nghĩa vụ đối với bản thân, tổ chức xuất khẩu và cộng đồng, hình thành ý thức chấp hành pháp luật, biết tự bảo vệ mình và hình ảnh của lao động Việt Nam ở nước ngoài. Đồng thời làm cho người lao động thấy rõ được lợi ích, ý nghĩa và mục đích tham gia xuất khẩu lao động để có kế hoạch chủ động nâng cao tay nghề, học ngoại ngữ, rèn luyện sức khỏe, tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật, trang bị kiến thức về xã hội, văn hóa, pháp luật, phong tục tập quán, cách sống tự lập, tự quản tài chính và thu nhập, tự bảo vệ bản thân khi sống và làm việc xa Tổ quốc. Tăng cường liên kết giữa cơ sở đào tạo và tổ chức xuất khẩu lao động để nâng cao chất lượng nguồn lao động trên cơ sở hỗ trợ và quản lý của Nhà nước trong việc tạo nguồn lao động có trình độ kỹ năng nghề và ngoại ngữ. Giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp cần có sự gắn kết với nhau trong việc phân tích, dự báo nhu cầu thị trường lao động của nước ngoài, xây dựng kế hoạch đào tạo ngắn hạn và dài hạn, xây dựng chương trình đào tạo, phân công trách nhiệm cụ thể trong việc đào tạo và tạo việc làm cho người lao động. Tăng cường mô hình liên kết giữa tổ chức xuất khẩu lao động và chính quyền địa phương trong công tác đào tạo thông qua các quỹ giải quyết việc làm, quỹ xóa đói 97 giảm nghèo, ngân sách địa phương hỗ trợ tối đa cho người lao động, tổ chức đào tạo ngay tại địa phương để giảm chi phí, tạo mọi điều kiện cho người lao động tham gia học nghề và ngoại ngữ được tốt nhất. Để phát triển xuất khẩu lao động cần có đội ngũ doanh nghiệp làm công tác xuất khẩu lao động; các doanh nghiệp có nhiều mối liên kết với nhiều thị trường lao động, có khả năng khai thác thị trường, đào tạo nguồn nhân lực, làm lực lượng chủ đạo, dẫn dắt, định hướng hoạt động xuất khẩu lao động. Xây dựng các chỉ tiêu đánh giá doanh nghiệp xuất khẩu lao động làm cơ sở cho việc phân loại và quản lý hiệu quả, động viên, khuyến khích và có chính sách hỗ trợ thỏa đáng các doanh nghiệp năng động, hiệu quả, tìm kiếm và mở rộng thị trường mới, có chế độ khen thưởng thỏa đáng cho những thành tích xuất sắc mà các doanh nghiệp đạt được trong việc giải quyết việc làm cho người lao động, đưa được nhiều người lao động ra nước ngoài làm việc, nhất là các thị trường thu nhập cao, đồng thời phải kịp thời uốn nắn sai lệch của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Trong công tác thông tin, tuyên truyền cần quán triệt các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin đúng, thông tin chọn lọc, đưa các điển hình lao động đi làm việc ở nước ngoài, đồng thời đưa những trường hợp cá biệt để người lao động rút kinh nghiệm, tránh bị lừa đảo, cần phải phân tích kỹ nguyên nhân để hướng dẫn dư luận và xã hội, tránh ảnh hưởng xấu đến phong trào xuất khẩu lao động. Việc thông tin tuyên truyền phải được làm thường xuyên, có sự kết hợp giữa địa phương và các doanh nghiệp bằng nhiều hình thức khác nhau, doanh nghiệp phải công khai mọi thông tin về các khía cạnh của xuất khẩu lao động liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động như công việc, thu nhập, điều kiện ăn ở, các chế độ bảo hiểm, chế độ phúc lợi, chi phí trước khi đi, thời hạn hợp đồng, tiêu chuẩn tuyển chọnĐể người lao động nắm bắt nhằm chủ động học tập, nâng cao trình độ tay nghề, ngoại ngữ đáp ứng nhu cầu thị trường lao động quốc tế và tự quyết định việc đi làm việc ở nước ngoài của mình. Nội dung thông tin phải chính thức, chính xác, đầy đủ, kịp thời, thông tin phải có tính 2 chiều, tránh tình trạng tô hồng, phóng đại, mập mờ 98 gây hiểu nhầm cho người lao động ảnh hưởng đến quyền lợi của người lao động khi ra nước ngoài làm việc. Các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài phải có trách nhiệm thông tin đầy đủ cho doanh nghiệp xuất khẩu lao động về pháp luật, thị trường lao động, chính sách lao động, tập quán kinh doanh của các nước và đối tác nước ngoài, xem đây là công việc thường xuyên và trách nhiệm của người đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài. Tổ chức định kỳ các hội chợ việc làm, hội chợ xuất khẩu lao động, sàn giao dịch lao động, các hội thảo chuyên đề xuất khẩu lao động để đưa thông tin đến được người lao động. 3.2.5. Nâng cao công tác quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nữ 3.2.5.1. Công tác chỉ đạo điều hành, tổ chức triển khai hoạt động quản lý nhà nước về giải quyết việc làmcho lao động nữ Đẩy mạnh việc chỉ đạo triển khai thực hiện công tác giải quyết việc làm cho lao động nữ ở cấp tỉnh bằng việc ban hành Nghị quyết chuyên đề của Hội đồng nhân dân tỉnh về GQVL cho lao động nữ; Chỉ thị tăng cường công tác về việc làm của UBND tỉnh nhằm chỉ đạo các cấp, các ngành nâng cao nhận thức về vai trò của việc làm cho lao động trong việc xây dựng nông thôn mới, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động của tỉnh. Phân cấp quản lý, hoàn thiện cơ cấu tổ chức và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác QLNN về việc làm, cụ thể bằng việc tiếp tục phân cấp quản lý kinh phí, quản lý các cơ sở SXKD, doanh nghiệp và quản lý hoạt động dịch vụ việc làm cho cấp huyện, tăng thẩm quyền và trách nhiệm của cấp huyện trong quản lý, giám sát, kiểm tra. Chính quyền các cấp phải chủ động trong việc xác định ngành, nghề, phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh phù hợp trên cơ sở phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và thế mạnh của từng địa phương UBND tỉnh tăng cường chỉ đạo các cấp chính quyền có sự nhận thức đúng đắn về GQVL cho lao động , phải xem đó là cơ hội để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nâng 99 cao năng suất lao động để từ đó có sự quan tâm, chỉ đạo quyết liệt hơn trong tổ chức triển khai công tác về GQVL cho lao động và lao động nữ nói riêng. Sở LĐ-TB và XH tỉnh, UBND cấp huyện đẩy mạnh thực hiện vai trò chủ trì của cơ quan nhà nước trong việc tổ chức phối hợp với các sở ban ngành có liên quan và các địa phương trong việc GQVL. Trong đó: Doanh nghiệp có trách nhiệm trong cung cấp thông tin về nhu cầu việc làm, tuyển dụng, chế độ cho người lao động, liên kết trong đào tạo và tuyển dụng lực lượng lao động. Trong quá trình triển khai thực hiện phải luôn nhất quán nguyên tắc chỉ tổ chức ký hợp đồng khi xác định được việc làm và thu nhập cho người lao động sau đào tạo. Bên cạnh đó, cần phát hiện, tuyên truyền, nhân rộng các mô hình sản xuất kinh doanh giỏi, các hộ, cá nhân điển hình trong công tác giải quyết việc làm, vươn lên làm giàu để giúp bà con có việc làm ổn định, lựa chọn các mô hình sản xuất kinh doanh phù hợp với điều kiện địa lý, phong tục tập quán và trình độ phát triển kinh tế - xã hội của địa phương mình; phát huy lợi thế so sánh nguồn lợi, chi phí sản xuất, tiêu thụ sản phẩm để mạnh dạn đầu tư sản xuất; phê phán các hiện tượng trông chờ, ỷ lại vào sự hỗ trợ của Nhà nước, không muốn lao động sản xuất. 3.2.5.2. Sắp xếp, hoàn thiện bộ máy quản lý nhà nước và đội ngũ cán bộ quản lý về việc làm Kiện toàn lại hệ thống quản lý tổ chức từ cấp tỉnh đến địa phương đặc biệt là cấp xã phường, thị trấn. Bố trí cán bộ chuyên trách đảm nhận nhiệm vụ về việc làm, khắc phục tình trạng một cán bộ cấp xã kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ về giải quyết việc làm. Do đó, việc theo dõi, triển khai, xây dựng các kế hoạch về GQVL chưa kịp thời và sâu sát nên ảnh hưởng đến hiệu quả công tác về GQVL. Sắp xếp lại đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý nhà nước về việc làm, lựa chọn cán bộ có kiến thức chuyên môn về việc làm, có niềm đam mê với sự nghiệp, chủ động, sáng tạo trong tham mưu đề xuất những giải pháp triển khai có hiệu quả hoạt động GQVL. Thường xuyên thực hiện đào tạo bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác quản lý. Tổ chức tập huấn nghiệp vụ, hướng dẫn, trao đổi kinh nghiệm cho đội ngũ cán bộ làm công tác việc làm cấp huyện, cấp xã nhằm nâng 100 cao năng lực thực thị công vụ về giải quyết việc làm cho lao động. Từ đó hình thành nên bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về việc làm thống nhất từ cấp tỉnh đến cấp huyện, xã. Nâng cao trách nhiệm của UBND cấp huyện, cấp xã trong công tác QLNN về việc làm nói chung và GQVL cho lao động nữ nói riêng, đặc biệt là trách nhiệm của người đứng đầu trong việc quản lý tổ chức thực hiện. Đẩy mạnh phân cấp quản lý cho các địa phương để các địa phương chủ động trong việc thực hiện công tác quản lý về GQVL. Huy động sự tham gia của doanh nghiệp trong quá trình tìm kiếm và tạo việc làm. Lấy tiêu chí đánh giá, tuyển dụng của Doanh nghiệp làm mục tiêu đào tạo 3.2.5.3. Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát Hoạt động thanh tra, kiểm tra không chỉ là hoạt động của cơ quan QLNN mà cần khuyến khích sự tham gia của mọi người dân, tổ chức xã hội trong việc thực hiện đánh giá, giám sát thực hiện chính sách nhằm đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách giải quyết việc làm. Các địa phương , doanh nghiệp phải xây dựng và thực hiện nghiêm túc cơ chế thông tin công khai, minh bạch. Sở LĐ-TB và XH tỉnh cần ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể việc triển khai, đôn đốc, nhắc nhở để giải quyết kịp thời những phát sinh trong quá trình triển khai thực hiện về GQVL. Hàng năm tổ chức các đoàn công tác cấp tỉnh về làm việc với cấp huyện, cấp xã để trực tiếp trao đổi nắm rõ tình hình triển khai của địa phương, giải đáp những vướng mắc khi thực hiện. Ban hành các chỉ tiêu đánh giá và thực hiện đánh giá hiệu quả công tác GQVL, có thể đánh giá bằng phiếu khảo sát hoặc phỏng vấn trực tiếp người lao động, đơn vị sử dụng lao động. Tiếp tục điều tra khảo sát về cung - cầu lao động để có chính sách định hướng về nhu cầu lao động trên địa bàn tỉnh. Kết quả đánh giá, khảo sát hàng năm là căn cứ để điều chỉnh cách thức tổ chức đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra từ cấp tỉnh đến cấp huyện, cấp xã và các các doanh nghiệp với nhiều hình thức kiểm tra định kỳ, kiểm tra đột xuất, kiểm tra các 101 cơ sở SXKD, kiểm tra công tác tổ chức triển khai, quản lý, sử dụng kinh phí, sử dụng cơ sở vật chất, và tuyển dụng lực lượng lao động. Đặc biệt cần đẩy mạnh sự giám sát của các tổ chức đoàn thể xã hội như: UBMTTQVN, Đoàn thanh niên, Hội nông dân, Hội phụ nữ nhất là sự giám sát của nhân dân về thực hiện pháp luật lao động đối với người lao động. 3.2.6. Nhóm giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn, bất lợi của lao động nữ trong quá trình làm việc và tự tạo việc làm Nâng cao nhận thức về thực hiện Luật bình đẳng giới và chiến lược quốc gia về sự tiến bộ phụ nữ: Là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các hoạt động kinh tế, Việt Nam được xem như một trong những nước tiến bộ hàng đầu về lĩnh vực bình đẳng giới. Việt Nam có những chính sách tương đối phù hợp nhằm đảm bảo quyền bình đẳng cho phụ nữ và nam giới, có những tiến bộ đáng kể nhằm giảm khoảng cách về giới cũng như cải thiện tình hình về phụ nữ nói chung. Luật Bình đẳng giới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 29/11/2006, tiếp đến ngày 27/4/2007 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là hai văn bản quan trọng thể hiện rõ những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và sự chỉ đạo tổ chức thực hiện của Đảng và Nhà nước về bình đẳng giới và công tác phụ nữ hiện nay ở nước ta; khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với phụ nữ. Tuy nhiên, cũng như mọi văn bản pháp luật và nghị quyết khác, chỉ có thể đi vào cuộc sống và từng bước được hiện thực hóa thành công trong xã hội khi những văn bản này được quán triệt sâu sắc, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động, từ đó quyết tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý từ trung ương đến cơ sở. Trong đó các nội dung giáo dục về giới, bình đẳng giới, lao động, việc làm được đưa vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng trong các trường, học viện chính trị và cả các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. 102 Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Bình đẳng giới trên các phương tiện thông tin đại chúng và các hình thức khác để giúp mọi người dân đặc biệt là phụ nữ nông thôn hiểu và biết cách tự bảo vệ quyền lợi của mình, chủ động tiếp cận cơ hội việc làm và cải thiện cuộc sống. Ủy ban nhân dân các cấp cần ưu tiên tập trung các nguồn lực và tăng cường chỉ đạo về bình đẳng giới trong những ngành, lĩnh vực, vùng có nguy cơ mất bình đẳng giới cao nhất là trong quan hệ lao động. Nhà nước cần có những chính sách tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia học tập, lao động sản xuất mang tính xã hội, giảm bớt những gánh nặng của lao động gia đình. Sự giải phóng của người phụ nữ, địa vị bình đẳng của người phụ nữ so với nam giới không thể có được và mãi mãi không thể có được nếu người phụ nữ vẫn còn bị gạt ra ngoài lao động xã hội có tính sản xuất và còn khuôn mình trong công việc nội trợ gia đình. Chỉ có thể giải phóng được người phụ nữ khi họ tìm được việc làm tạo ra thu nhập, tham gia sản xuất trên quy mô xã hội rộng lớn. Hội Liên hiệp phụ nữ các cấp phải thường xuyên đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tăng cường các hình thức tập hợp, vận động hội viên, hướng mạnh về cơ sở, chăm lo ngày càng tốt hơn nhu cầu, nguyện vọng của phụ nữ, có nhiều biện pháp củng cố, kiện toàn tổ chức hội các cấp, phát huy vai trò nòng cốt của các cấp hội phụ nữ trong việc vận động phụ nữ học nghề, tự tạo việc làm góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới ngay trong gia đình và ngoài xã hội. Quan tâm nâng cao sức khỏe cho lao động nữ: Sức khỏe phụ nữ chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố. Để tác động tới các yếu tố này nhằm nâng cao sức khỏe cho phụ nữ phải có nhiều ngành tham gia. Bên cạnh việc phát triển kinh tế, thu nhập, trình độ văn hóa, giáo dục của phụ nữ còn phải quan tâm tới các dịch vụ y tế, phòng bệnh và chữa bệnh, các yếu tố có ảnh hưởng tới sức khỏe của phụ nữ. Phối hợp làm tốt công tác tuyên truyền vận động để các nhà hoạch định chính sách, đặc biệt nam giới quan tâm đầu tư, có trách nhiệm trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình, hỗ trợ tích cực hơn nữa trong việc bảo vệ sức khỏe bà mẹ và trẻ em. 103 Đầu tư trang thiết bị khám chữa bệnh hiện đại cho các bệnh viện đa khoa tuyến tỉnh và trung tâm y tế tuyến quận huyện, đào tạo đội ngũ y, bác sĩ chuyên sâu có chính sách thu hút bác sĩ về các trạm y tế tuyến xã phường để phục vụ tốt công tác khám chữa bệnh ngay từ ở cơ sở. Chú trọng nhiều hơn công tác y tế dự phòng và tuyền thông giáo dục sức khỏe, hoàn thiện và phát huy mạng lưới y tế cơ sở để triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình mục tiêu về chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình, chương trình phòng chống suy dinh dưỡng trẻ em, phòng chống HIV/AIDSThực hiện đa dạng hóa hình thức khám chữa bệnh cho nhân dân. Mặc dù yếu tố sức khỏe được xem là vốn quý nhiều khi là duy nhất của phụ nữ, khi tới các công ty, xí nghiệp xin việc song chưa được chị em quan tâm, chú trọng vì áp lực kinh tế, do thói quen tiết kiệm nên họ có những tính toán hết sức chi li đối với mọi chi tiêu trong cuộc sống thường nhật kể cả việc ăn uống của bản thân. Trong gia đình, thời gian làm việc của phụ nữ thường xuyên nhiều hơn nam giới bởi công việc nội trợ không có thời gian nghỉ ngơitất cả những yếu tố đó đã ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sức khỏe của lao động nữ. Vì vậy, các cấp hội phụ nữ, tổ chức công đoàn cần tuyên truyền, hướng dẫn để chị em phụ nữ phải biết tự chăm lo cho sức khỏe của mình thông qua ăn uống, lao động, nghỉ ngơi, giải trí hợp lý và tiếp cận các cơ sở dịch vụ y tế chăm sóc sức khỏe nói chung, tuyên truyền tư vấn chăm sóc sức khỏe sinh sản cho nữ vị thành niên và phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ. Phát triển mạng lưới tư vấn sức khỏe, sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình phục vụ đông đảo nhân dân nhất là lao động nữ, cung cấp đầy đủ, kịp thời dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cho các đối tượng, vận động nam giới áp dụng các biện pháp tránh thai, chia sẻ trách nhiệm với người phụ nữ. Liên đoàn lao động các cấp phối hợp với các ngành chức năng thường xuyên kiểm tra việc thực hiện các chế độ chính sách như chế độ bảo hiểm y tế, chế độ nghỉ dưỡng, chế độ thai sản, bảo hộ lao động, vệ sinh lao độngđối với người lao động, đặc biệt lao động nữ, không để phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ làm việc trong môi trường nặng nhọc, độc hại vượt quá khả năng. 104 Thực hiện nghiêm chính sách và pháp luật về dân số, duy trì mức sinh hợp lý, quy mô gia đình ít con để nuôi dạy cho tốt. Triển khai thực hiện có hiệu quả chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, tập trung ở vùng nông thôn, đẩy lùi tình trạng bạo lực trong gia đình. Tạo điều kiện để phụ nữ tham gia các phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao nâng cao đời sống tinh thần. Lồng ghép giới trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương: Với tư cách là lao động nữ, người phụ nữ đã và đang tham gia vào việc sản xuất ra của cải vật chất và những giá trị tinh thần cần thiết cho xã hội. Việc làm cho lao động nữ còn có ý nghĩa như một nhân tố tự khẳng định giá trị của người phụ nữ. Những hoạt động lao động nghề nghiệp không chỉ là phương tiện để tăng thêm thu nhập cho gia đình và để độc lập về kinh tế mà đó là một giá trị tinh thần, một nhu cầu sống còn, là nơi để thể hiện tất cả khả năng còn tiềm ẩn của người phụ nữ. Trước những biến đổi mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta như hiện nay, đặc biệt là cơ cấu của nền kinh tế có nhiều thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, phát triển công nghiệp và dịch vụ Do vậy, nhu cầu sử dụng và cơ cấu lại lực lượng lao động của nền kinh tế là điều không thể tránh khỏi. Sẽ có khá nhiều lao động nông nghiệp phải chuyển đổi sang hoạt động ở các lĩnh vực phi nông nghiệp, trong khi đó khu vực công tiếp tục thu hẹp và các đơn vị kinh tế lớn thuộc sở hữu nhà nước sẽ chuyển dần sang cổ phần hóa. Trong tương lai, có thể dự đoán được phụ nữ tiếp tục phải mang trong mình gánh nặng bất cân đối việc nhà trong khi vẫn phải cạnh tranh ở cùng một mức độ với nam giới trong tìm kiếm việc làm cũng nhu củng cố vị trí làm việc. Việc tạo ra một sân chơi bình đẳng với nam giới trong lao động - việc làm là điều rất cần thiết mà nỗ lực của nhà nước tập trung: Cần phải lồng ghép giới trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, cần phải quan tâm đến nội dung giới ngay từ khi thiết kế cũng như trong suốt quá trình thực hiện, giám sát, đánh giá chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tiếp tục thực hiện đổi mới mạnh mẽ hơn nữa khuôn khổ pháp lý nói chung, cả xây dựng chính sách, thực hiện chính sách đặc biệt là các chính sách có liên quan trực tiếp đến lao động - việc làm, đào tạo nghề, chống phân biệt đối xử với phụ nữTrước 105 mắt cũng như lâu dài vấn đề nâng cao các kỹ năng, trình độ chuyên môn kỹ thuật cho lao động nữ là yếu tố then chốt cần được ưu tiên, bởi đây là một yếu tố chính hạn chế các cơ hội kinh tế của người phụ nữ. Nếu chú trọng đến vấn đề này sẽ giúp nâng cao vị thế của lao động nữ để có thể từng bước cạnh tranh bình đẳng với nam giới. Đây là vấn đề quyền con người mà nếu được giải quyết sẽ tăng cường khả năng của phụ nữ trong việc nâng cao vị trí, quyền lực, tiếng nói của mình trong cả gia đình và xã hội. Xem xét lại tuổi tuyển dụng, đào tạo và nghỉ hưu giữa nam giới và nữ để tạo sự bình đẳng hơn trong các cơ hội nghề nghiệp, cơ hội thăng tiến của người phụ nữ để phụ nữ có khả năng cạnh tranh bình đẳng với nam giới, phát huy tối đa nguồn lực cho sự phát triển của đất nước. Thúc đẩy giáo dục, cơ hội tiếp cận giáo dục góp phần giảm bất bình đẳng giới trong nhận thức và xã hội nói chung. Vấn đề này làm cho định kiến giới tồn tại dai dẳng, là một trong những căn nguyên cơ bản của bất bình đẳng giới, cần ưu tiên giải quyết vấn đề này vì nó có tác động tới số lượng người rất lớn. 3.3. Đề xuất thực hiện giải pháp quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình đến năm 2020 3.3.1. Đối với Chính phủ Đảm bảo cân đối nguồn lực trung hạn cho các chính sách; lựa chọn chính sách ưu tiên để sử dụng nguồn lực hợp lý, công bằng; đổi mới phương thức để người dân tham gia xây dựng và tiếp cận chính sách GQVL tốt hơn. Tập trung đầu tư cho địa bàn khó khăn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, thúc đẩy kết nối phát triển kinh tế - xã hội giữa vùng khó khăn với các vùng phát triển. Tăng cường công tác QLNN về GQVL theo hướng ban hành chính sách phải gắn với bố trí nguồn lực và kết quả đạt được; đổi mới cơ chế điều hành trong tổ chức thực hiện và điều phối nguồn lực theo hướng phân cấp mạnh hơn cho địa phương. Nâng cao chất lượng bộ máy trực tiếp thực hiện chính sách GQVL trong cả nước theo hướng chuyên nghiệp, tinh gọn, lồng ghép; quan tâm đào tạo cán bộ tại chỗ đối với các địa bàn khó khăn, ĐBKK và các địa bàn có đông đồng bào DTTS; đổi mới phương thức 106 khuyến khích và vận động xã hội tham gia nhằm nâng cao hiệu quả hỗ trợ cho mục tiêu GQVL. Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định về quản lý, điều hành thực hiện Chương trình MTQG-GQVL bảo đảm phù hợp với quy định của Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước, bảo đảm tập trung, không trùng lặp về chính sách để phân bổ và sử dụng nguồn lực có hiệu quả. Xây dựng và áp dụng cơ chế đặc thù rút gọn đối với dự án đầu tư có quy mô nhỏ, kỹ thuật không phức tạp, Nhà nước chỉ hỗ trợ đầu tư một phần kinh phí, phần còn lại do nhân dân đóng góp, có sự tham gia giám sát của nhân dân. Chỉ đạo các Bộ, ngành: (1) khẩn trương xây dựng chi tiết các dự án thành phần thuộc Chương trình MTQG -GQVL giai đoạn 2016-2020, đồng thời xây dựng các tiêu chí, định mức phân bổ vốn Chương trình MTQG -GQVL giai đoạn 2016-2020, các tiêu chí rà soát, xác định huyện nghèo, xã ĐBKK vùng bãi ngang ven biển và hải đảo, xã ĐBKK, xã biên giới, xã an toàn khu, thôn, bản ĐBKK vùng dân tộc và miền núi; (2) hướng dẫn lập kế hoạch và sử dụng nguồn vốn Chương trình MTQG –GQVL hàng năm cho các tỉnh, thành phố; (3) tiếp tục rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung chính sách GQVL; (4) Tăng cường chính sách GQVL gắn với đầu tư sản xuất kinh doanh, hổ trợ nguồn vốn và cơ chế chính sách để các chủ doanh nghiệp nữ mỡ rộng quy mô sản xuất thu hút nhiều lực lượng lao động nữ. Tập trung mọi nguồn vốn cho vay ưu đãi có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước vào một đầu mối là Ngân hàng Chính sách xã hội. Xem xét giảm lãi suất cho vay đối với một số chương trình tại Ngân hàng Chính sách xã hội (vì lãi suất hiện tại là 0,75%/tháng, cao hơn mặt bằng lãi suất của các Ngân hàng thương mại), như: cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay hộ sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn, cho vay nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn. 3.3.2. Các bộ, ngành Trung ương Đề nghị lựa chọn ưu tiên, tập trung phân bổ vốn để đẩy nhanh tiến độ xây dựng CSHT phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ dân sinh, sớm đưa các hạng mục vào 107 sử dụng phát huy hiệu quả giúp giải quyết việc làm bền vững, tránh tình trạng phân bổ bình quân, dàn trải, công trình dở dang, kém hiệu quả như hiện nay. Bố trí đầy đủ, kịp thời kinh phí theo đúng các Chương trình, Đề án đã được duyệt; đảm bảo ngân sách hàng năm cho việc thực hiện chính sách GQVL cho lao động nói chung và lao động nữ nói riêng. Tăng nguồn vốn sự nghiệp bố trí hàng năm để thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập. Có hướng dẫn về lồng ghép các nguồn vốn Chương trình MTQG, việc huy động các nguồn lực khác để thực hiện một dự án triển khai trên cùng một địa bàn để có cơ chế thống nhất trong quản lý và sử dụng nguồn vốn Chương trình MTQG. Đầu tư và xây dựng hệ thống các trường nghề, các trung tâm đào tạo giới thiệu việc làm tại các vùng trọng điểm, cải tiến chương trình ĐTN theo tiêu chuẩn quốc tế, xã hội hóa đào tạo nghề kể cả liên doanh liên kết với nước ngoài. 3.3.3. Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình Đối với Ủy ban nhân dân tỉnh: Tiếp tục cụ thể hoá các mục tiêu, giải pháp GQVL vào chương trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, các nghị quyết chuyên đề của HĐND và UBND tỉnh. Triển khai thực hiện quy hoạch phát triển ngành, quy hoạch vùng nông, lâm nghiệp, thuỷ sản hình thành các vùng sản xuất chuyên canh tập trung, phát triển nông lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá; xác định và đẩy mạnh sản xuất các sản phẩm có lợi thế cạnh tranh và có thị trường tiêu thụ ổn định. Chủ động lồng ghép Chương trình MTQG GQVL với các chương trình khác, đặc biệt là Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, ưu tiên bố trí kinh phí để triển khai thực hiện Chương trình. Tăng cường chỉ đạo, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong thực hiện các chính sách, pháp luật GQVL ở các sở, ban, ngành cấp tỉnh và các địa phương; đổi mới cách thức và giải pháp tổ chức thực hiện GQVL phù hợp với đặc điểm của địa bàn; chú trọng nhân rộng các mô hình việc làm hiệu quả, phát huy sự tham gia của người dân và cộng đồng trong GQVL. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra các doanh nghiệp XKLĐ nhất là các chi 108 nhánh và cơ sở XKLĐ phụ thuộc. Xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm kể cả biện pháp hình sự đối với DN không chấp hành pháp luật, cương quyết rút giấp phép XKLĐ đối với các DN thường xuyên vi phạm. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các văn bản phát luật, chính sách có tác động đến đời sống lao động nữ. 3.3.4. Đối với mặt trận tổ quốc các tổ chức đoàn thể và cộng đồng xã hội Ủy ban MTTQ Việt Nam tỉnh và các tổ chức thành viên tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong việc vận động sự tham gia của xã hội và cộng đồng trong công tác GQVL; chú trọng việc phối hợp, cân đối các nguồn lực huy động với các chính sách của Nhà nước để tăng hiệu quả của các chính sách GQVL; các đoàn thể, tổ chức, cộng đồng dân cư quan tâm giúp đỡ cho các hộ gia đình thất nghiệp trên địa bàn, phối hợp với chính quyền cơ sở hỗ trợ giúp đỡ cho từng hộ gia đình; đồng thời tăng cường vai trò giám sát, kiểm tra tình hình thực hiện chính sách ở các cấp, các ngành để đảm bảo tính hiệu quả của các chính sách GQVL. 3.3.5. Đối với các địa phương, cơ sở Nghiêm túc quán triệt các nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, Chính phủ, Tỉnh ủy, HĐND về công tác GQVL trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Các địa phương cần nhận thức sâu sắc hơn nữa ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác GQVL ổn định đời sống. Các cấp ủy, chính quyền cần lấy hiệu quả, kết quả của công tác GQVL làm tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ ở địa phương mình. Xây dựng Kế hoạch GQVL hàng năm, theo từng nhóm lao động cụ thể để có giải pháp tác động phù hợp, trong đó tập trung chỉ đạo thực hiện tuyên truyền, vận động đối với với người lao động tự tìm kiếm việc làm, lựa chọn ngành nghề phù hợp với điều kiện vùng miền để phát huy hết khả năng lao động ở địa phương. Tạo điều kiện để người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng tham gia vào quá trình lập kế hoạch, lựa chọn các mục tiêu ưu tiên, tham gia thực hiện và giám sát thực hiện chương trình GQVL trên địa bàn. 109 Tiểu kết chương 3 Trong giai đoạn 2016-2020, Quảng Bình đứng trước rất nhiều cơ hội và thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công tác GQVL nói riêng, đòi hỏi phải tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự quản lý, điều hành của chính quyền, sự vào cuộc của các đoàn thể chính trị, xã hội, sự nỗ lực của toàn dân để thực hiện mục tiêu GQVL. Để thực hiện mục tiêu GQVL bền vững, tỉnh Quảng Bình xác định GQVL là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài, phải được thực hiện kiên trì, thường xuyên, liên tục, đặt trong chương trình tổng thể phát triển kinh tế - xã hội chung của tỉnh và của mỗi địa phương; sự hỗ trợ của Nhà nước là cần thiết và quan trọng nhưng thực hiện QGQVL là việc của bản thân người lao động, phải làm cho người lao động tự giác, chủ động thực hiện và có trách nhiệm hơn nữa để tạo việc làm ổn định thu nhập nâng cao chất lượng cuộc sống. Một trong những nhiệm vụ cơ bản mà tỉnh xác định để thực hiện mục tiêu chương trình hành động về Giảm nghèo và GQVL đó là đầu tư mọi nguồn lực để ổn định thị trường và tạo việc làm và nâng cao ý thực của người dân trong việc tìm kiếm việc làm cho lao động nó chung và lao động nữ nói riêng, việc đưa ra các giải pháp để hoàn thiện công tác QLNN về giải quyết việc làm và đề xuất thực hiện giải pháp là cần thiết. 110 KẾT LUẬN Giải quyết việc làm cho lao động nữ giai đoạn hội nhập kinh tế đang là vấn đề cấp bách của các cấp chính quyền từ trung ương đến địa phương. Với Quảng Bình một tỉnh cơ cấu kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, thu nhập bình quân đầu người thuộc loại thấp trong cả nước thì vấn đề này càng trở nên cấp thiết. Thời gian qua Quảng Bình đã có nhiều nỗ lực để tạo việc làm cho người lao động, tỷ lệ lao động nữ có việc làm tăng hằng năm, về cơ bản đã ổn định được đời sống kinh tế, xã hội của người dân. Tuy nhiên, phải khẳng định rằng những kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Việc làm của lao động nữ chưa thực sự ổn định, còn mang tính chất tạm thời, mùa vụ, vai trò của lao động nữ chưa được chú trọng. Để hiện thực hoá các chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng về giải quyết việc làm thì hoạt động quản lý Nhà nước về giải quyết việc làm có vai trò hết sức quan trọng, đảm bảo cho người lao động có đủ điều kiện, cơ hội để tìm kiếm việc làm ổn định thu nhập nâng cao chất lượng cuộc sống, là yếu tố cơ bản để đảm bảo công bằng xã hội và tăng trưởng bền vững. Qua đề tài nghiên cứu “Quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” luận văn đã đạt được một số kết quả sau: Đã hệ thống hóa đầy đủ cơ sở lý luận quản lý Nhà nước về việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nói chung và lao động nữ nói riêng. Đã phân tích thực trạng quản lý nhà nước về giải quyết việc làm cho lao động nữ trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2011 - 2015; Nêu bật dược những kết quả đạt được và chỉ ra những hạn chế trong công tác giải quyết việc làm cho lao động nữ của Quảng Bình giai đoạn 2011 – 2015. Đưa ra quan điểm, phương hướng trọng tâm trong công tác giải quyết việc làm. Ngoài ra, cũng tập trung đưa ra 7 nhóm giải pháp cơ bản, cụ thể và các kiến nghị để thực thi giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quản lý Nhà nước đối với công tác giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2016-2020. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Lao động-Thương binh và Xã hội, Tổng cục thống kê (2015), Bảng tin cập nhập Thị trường lao động Việt Nam, số 6, quý 2, tr.15. 2. Bộ Luật lao động 2012, Cổng thông tin điện tử, www.vanban.chinhphu.vn, tr.8-10- 11. 3. Chính phủ (2007), Quyết định số 101/2007/QĐ-TTg phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia việc làm đến 2010. 4. Chính phủ (2009), Nghị quyết số 57/NQ-CP Ban hành chương trình hành động của Chính phủ giai đoạn đến 2020 thực hiện Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 5. Chính phủ (2009), Quyết định số 1956/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến 2020”. 6. Chính phủ (2010), Quyết định số 295/QĐ-TTg phê duyệt đề án phụ nữ học nghề, tạo việc làm gia đoạn 2010 - 2015. 7. Chính phủ (2012), Quyết định số 1201/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc giai Việc làm và Dạy nghề giai đoạn 2012 - 2015. của Bộ Chính Trị. 8. Cục Thống kê Tỉnh Quảng Bình (2011-2015), Niên giám thống kê tỉnh Quảng Bình. 9. Đại học kinh tế quốc dân (2002), Giáo trình kinh tế tế phát triển, NXB Thống kê, Hà Nội, tr. 8. 10. Đại học kinh tế quốc dân (2002), Giáo trình Thống kê Lao động, NXB Thống kê, Hà Nội, tr.13. 11. Đảng Bộ tỉnh Quảng Bình (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2010 - 2015. 12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội, tr. 10. 13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 14. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia - sự thật, Hà Nội. 15. Đặng Tú Lan (2002), Những nhân tố tác động đến vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta hiện nay, Tạp chí lý luận chính trị, (12). 16. Hoạt động thúc đẩy Bình đẳng giới, theo Đàm An báo Lao động, www.hoilhpn.org.vn, tr.12. 17. Lê Hồng Huyên (2011), Quản lý nhà nước về di chuyển lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc, Luận án tiến sỹ Đại học Kinh tế thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội. liệu về đào tạo nghề cho lao động nữ phục vụ sơ kết Nghị quyết 11-NQ/TW 18. Luật dạy nghề (2007), nhà xuất bản Lao động –Xã hội, Hà Nội, tr.26. 19. Ngô Thế Chi và Nguyễn Văn Dần (2003), Phân tích giải pháp tài chính giải quyết việc làm trong điều kiện hội nhập kinh tế, NXB Thống kê, Hà Nội. 20. Nguyễn Thị Kim Ngân (2007), Giải quyết việc làm trong thời kỳ hội nhập, Tạp chí Cộng sản, số 23 (143). 21. Nguyễn Văn Dần (2000), Các giải pháp tài chính đối với vấn đề giải quyết việc làm ở Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội. 22. PGS.TS.Bùi Quang Bình (2012), Giáo trình kinh tế phát triển, NXB Thông tin và truyền thông, Đà Nẵng, tr.13. 23. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2012),Bộ Luật lao động, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 24. Sở Lao động - TB&XH tỉnh Quảng Bình (2011), Báo cáo về tình hình thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2011- 2015. 25. Sở Lao động - TB&XH tỉnh Quảng Bình (2015), Báo cáo về tình hình thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm tỉnh Quảng Bình 2011 - 2015. 26. Sở Lao động - TB&XH tỉnh Quảng Bình (2015), Cung cấp thông tin, số 27. Thái Ngọc Tịnh (2003), Những giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm ở nông thôn Hà Tĩnh, Luận án tiến sĩ kinh tế, trường Đại học nông nghiệp I, Hà Nội, tr. 11. 28. Thủ tướng Chính phủ (2002), Quyết định số 19/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến 2010. 29. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 2351/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ giai đoạn 2011 - 2020. 30. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định phê duyệt Chương trình quốc gia về bình đẳng giới gia đoạn 2011 - 2015. 31. Tổng cục Thống kê (2014), Báo cáo điều tra lao động việc làm, tr.13-15 32. Trần Đình Hoan và Lê Mạnh Khoa (1991), Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam, NXB sự thật, Hà Nội, tr. 11-15. 33. Trần Hưu Dũng và Trần Hữu Trung (1997), Về chiến lược giải quyết việc làm ở Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.12. 34. Trần Thị Vân Anh (2006), Toàn cầu hóa, vấn đề giới thiệu và việc làm trong nền kinh tế chuyển đổi, NXB Bộ Văn Hóa - thông tin, Hà Nội. 35. Tỷ lệ về tầm quan trọng của lao động nữ trong các doanh nghiệp ,www.careerlink.vn, tr.12. 36. UBND Tỉnh Quảng Bình (2010), Báo cáo tổng kết chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm giai đoạn 2006 - 2010 và phương hướng giai đoạn 2011 - 2015. 37. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2002), Quyết định số 5121/QĐ-UB về việc kiện toàn Ban vì sự tiến bộ phụ nữ tỉnh và ban hành kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ Quảng Bình giai đoạn 2001 - 2005 và giai đoạn 2006 - 2010. 38. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2010), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện chiến lược quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam và kế hoạch hành động vì sự tiến bộ của phụ nữ tỉnh Quảng Bình. 39. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2011), Quyết định về việc phê duyệt Kế hoạch triển khai thực hiện Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn tỉnh Quảng Bình đến 2020”. 40. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2012), Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế -xã hội tỉnh Quảng Bình đến năm 2020. 41. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2012): Báo cáo kinh tế năm2010, 2012 42. Võ Xuân Tiến (2008), Giáo trình kinh tế và quản lý đô thị, NXB Lao động, tr.13.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_giai_quyet_viec_lam_cho_lao_don.pdf
Luận văn liên quan