Luận văn Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh

1. Hộ tịch là những những vấn đề cơ bản, liên quan đến nhân thân của con người. 2. Quản lý nhà nước về hộ tịch là sự thực hiện chức năng quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, hiện nay hoạt động quản lý về hộ tịch ở nước ta được quy định trực tiếp trong Luật Hộ tịch 2014, hiệu lực 01/01/2016. Thẩm quyền quản lý và đăng ký hộ tịch hiện nay theo pháp luật Việt Nam được giao cho Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an và cơ quan Đại diện ngoại giao, Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Phòng Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp xã và cán bộ Tư pháp – hộ tịch. Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ra đời với việc phân cấp mạnh mẽ theo hướng chuyển giao một số loại việc trước đây thuộc thẩm quyền đăng ký hộ tịch của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cho Sở Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Uỷ ban nhân dân cấp xã. Nghị định này đã tạo nhiều thuận lợi cho người dân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ về đăng ký hộ tịch được nhanh hơn, thuận tiện hơn. Tuy nhiên, sau gần 10 năm thực hiện, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã xuất hiện những bất cập lớn, từ bản thân các quy định, tới quá trình tổ chức thực hiện của nhiều địa phương.Từ những bất cập của Nghị địn 158/2005/NĐ-CP Luật Hộ tịch đã ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2016. 3. Trong bối cảnh đó, Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động quản lý của chính quyền và ngành tư pháp quận 10 đối với hoạt động quản lý, đăng ký hộ tịch ở quận với đề tài “Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10, TP.Hồ Chí Minh”.

pdf100 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 848 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10 thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện toàn đội ngũ công chức trong công tác quản lý và phối hợp tổ chức quản lý hộ tịch. Giấy tờ hộ tịch do cơ quan đại diện Ngoại giao, cơ quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi là cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam) cấp có giá trị như giấy tờ hộ tịch được cấp ở trong nước”. Theo quy định trên thì các giấy có liên quan về nhân thân của một người phải có nội dung phù hợp với giấy khai sinh và giấy khai sinh được xem như là giấy tờ gốc để điều chỉnh các giấy tờ khác khi có sự sai sót hoặc nhầm lẫn các yếu tố về nhân thân. Chính vì vậy, công tác quản lý hộ tịch liên quan mật thiết đến 73 nhiều công tác quản lý nhà nước khác, điều đó đòi hỏi phải tăng cường phối hợp các cơ quan, tổ chức trong quản lý hộ tịch, cụ thể như: Đối với ngành Công an trong quản lý Hộ khẩu, chứng minh nhân dân khẳng định rằng các giấy tờ hộ tịch do cơ quan có thẩm quyền cấp cho cá nhân là căn cứ pháp lý để xác định nhân thân của người đó, nên khi thực hiện nhập khẩu cho một người thì phải yêu cầu xuất trình giấy khai sinh để xác định nhân thân của người đó trong hộ khẩu và khi thực hiện làm chứng minh nhân dân thì xuất trình hộ khẩu và các giấy tờ hộ tịch có liên quan để xác định nhân thân của người đó trong giấy chứng minh nhân dân. Ngoài ra, công tác xây dựng cơ sở dữ liệu căn cứ trên tàng thư hộ tịch, căn cước công dân và tàng thư hộ khẩu luôn được sự quan tâm của ngành Công an và đang phát huy tác dụng rất tốt trong quản lý nhà nước ở địa phương đã và đang có mối quan hệ tốt với cơ quan đăng ký hộ tịch trong việc cung cấp thông tin về nhân thân của công dân trong thời gian qua. Vì vậy, cần tăng cường phối hợp để trao đổi, cung cấp thông tin và hỗ trợ nhau để xác định chính xác nhân thân của công dân. Ngành Nội vụ trong quản lý hồ sơ cán bộ, công chức: Khi thực hiện tuyển dụng cán bộ, công chức, ngành Nội vụ thiết lập hồ sơ cá nhân của công chức trên cơ sở các giấy tờ về hộ tịch, các loại giấy tờ về hộ tịch phải đảm bảo tính thống nhất, đầy đủ và đúng quy định nhưng hiện nay trong quản lý hồ sơ cán bộ, công chức có nhiều loại giấy tờ ghi ngày, tháng, năm sinh khác nhau, nên việc xác định tuổi để thực hiện các bước quy trình bổ nhiệm, ứng cử, bầu cử cho cán bộ và thực hiện chế độ nghĩ hưu còn gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, cần tăng cường phối hợp để trao đổi, cung cấp thông tin để thống nhất về các loại giấy tờ của cán bộ, công chức. Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong việc tuyên truyền, nâng cao nhận thức của cá nhân trong thực hiện quyền và 74 nghĩa vụ đăng ký hộ tịch. Trong thời gian qua Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh các cấp đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền các văn bản pháp luật về hộ tịch và các quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân trong thực hiện đăng ký hộ tịch rất đa dạng và phong phú với nhiều phương pháp và hình thức thích hợp tuỳ vào từng đối tượng như xây dựng tủ sách pháp luật, tuyên truyền miệng, phát hành tờ rơi, áp phích, băng, đĩa CD, tổ chức thi, phát hành bản tin, website, trợ giúp pháp lý lưu động Từ đó góp phần nâng cao nhận thức của công dân về lĩnh vực này, qua công tác thống kê hàng năm thì tỷ lệ đăng ký quá hạn, sự kiện hộ tịch phát sinh không đến cơ quan có thẩm quyền đăng ký đều giảm. Tuy nhiên, công tác tuyên truyền trong thời gian qua còn gặp nhiều khó khăn như các văn bản pháp luật về quyền và nghĩa vụ của công dân về đăng ký hộ tịch còn nằm rải rác tại nhiều văn bản, việc tìm kiếm tra cứu còn hạn chế, người thực hiện tuyên truyền chưa nghiên cứu đầy đủ nên việc tuyên truyền chưa sâu, thiếu đồng bộ, chưa đạt hiệu quả cao, nội dung tuyên truyền chưa phong phú, chưa sát với thực tế của từng đối tượng, tài liệu tuyên truyền còn ít. Trong thời gian tới cần có sự phối hợp thường xuyên của cơ quan đăng ký hộ tịch với các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh để thực hiện tốt hơn công tác tuyên truyền các văn bản pháp luật có liên quan về lĩnh vực hộ tịch đến với nhân dân. Ngoài ra, còn liên quan đến một số đến lĩnh vực khác như: tế để dễ dàng xác định độ tuổi, giới tính trong việc cấp thẻ bảo hiểm và khi khám chữa bệnh tại các tuyến bệnh viện, đánh giá được tỷ lệ về dân số một cách chính xác từ đó giúp cho địa phương cũng như Trung ương có những hoạch định phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với tình hình thực tế; Kế hoạch hoá gia đình: Thông qua việc đăng ký khai sinh, chúng ta có thể đánh giá tình hình 75 dân số của đất nước, qua đó có hoạch định cụ thể cho việc thực hiện kế hoạch hoá gia đình; Giáo dục và đào tạo: Nhằm giúp cho ngành giáo dục quản lý tốt hơn và chặt chẽ về học bạ, lý lịch học sinh, sinh viên của các cấp học, việc quản lý độ tuổi học sinh đến trường, phổ cập giáo dục chặt chẽ hơn; Ngành Lao động – Thương binh và xã hội: Tạo điều kiện cho ngành thương binh và xã hội trong việc quản lý hồ sơ về độ tuổi lao động, chế độ chính sách đối với những người công tác trong cơ quan nhà nước, những người có công với cách mạng cũng như có những quy hoạch đào nguồn nhân lực lao động cho xã hội. 3.2.2. Nâng cao phẩm chất và năng lực thực thi công vụ của công chức quản lý hộ tịch trên địa bàn quận và nâng cao rõ trách nhiệm phân cấp quản lý Hộ tịch Hiện nay bộ máy đăng ký, quản lý hộ tịch ở nước ta gồm 04 cấp trung ương, Tỉnh, Huyện, Xã; trong đó việc giao đồng thời cho 03 cấp (Tỉnh, Huyện, Xã) trực tiếp đăng ký hộ tịch như hiện nay: Uỷ ban nhân dân tỉnh, Sở Tư pháp thực hiện đăng ký các việc hộ tịch có yếu tố nước ngoài; Uỷ ban nhân dân cấp huyện đăng ký việc thay đổi, cải chính hộ tịch cho người từ 14 tuổi trở lên, xác định lại dân tộc, xác định lại giới tính, cấp lại bản chính giấy khai sinh, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch cho mọi trường hợp không phân biệt độ tuổi; Uỷ ban nhân dân cấp xã đăng ký việc thay đổi cải chính hộ tịch cho người dưới 14 tuổi, bổ sung hộ tịch cho mọi trường hợp không phân biệt độ tuổi và đăng ký các sự kiện hộ tịch trong nước. Việc quy định như trên dẫn đến tình trạng cồng kềnh về bộ máy, phức tạp về xác định thẩm quyền, thủ tục đăng ký. Do vậy trong một số trường hợp cơ quan đăng ký hộ tịch không phân biệt được thẩm quyền hoặc về phía 76 người dân đi đăng ký thì khó phân biệt được yêu cầu của mình do cấp nào giải quyết. Mặt khác, hiệu quả quản lý hộ tịch phụ thuộc rất lớn vào năng lực hoạt động của hệ thống cơ quan quản lý và đăng ký hộ tịch, công chức Tư pháp - hộ tịch chuyên trách. Vì vậy, trong xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung và xây dựng đội ngũ công chức Tư pháp - hộ tịch nói riêng phải luôn nắm vững quan điểm, nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, chính sách của Đảng, nhất là những quan điểm về xây dựng đội ngũ cán bộ được xác định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khóa IX về "Đổi mới và nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn", theo đó cần: Một là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức bộ máy quản lý hộ tịch trong hệ thống quản lý nhà nước ở cơ sở, đồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ cơ sở; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng vào phục vụ dân, sát với dân, được dân tin cậy. Hai là, thực hành dân chủ thực sự trong các tổ chức quản lý hộ tịch của hệ thống hành chính ở địa phương, theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của dân trên cơ sở thực hiện quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền dân chủ đại diện. Quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân giám sát tổ chức và công chức Tư pháp - hộ tịch ở cơ sở và thay thế người không đủ tín nhiệm. Phát huy dân chủ phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật. 77 Ba là, xây dựng đội ngũ công chức Tư pháp - hộ tịch có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không cửa quyền, hách dịch; trẻ hóa đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với công chức Tư pháp - hộ tịch. Năng lực thực thi công vụ của đội ngũ công chức quản lý hộ tịch chuyên trách hiện nay ở quận 10 nói riêng và ở cả TP.HCM nói chung vẫn còn nhiều bất cập. Để nâng cao năng lực thực thi công vụ của công chức quản lý hộ tịch cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau: Thứ nhất, cần tiêu chuẩn hóa công chức hộ tịch tương xứng với tính chất công việc, chức năng, nhiệm vụ mà họ đảm nhiệm cũng như yêu cầu, đòi hỏi xu thế phát triển xã hội. Luật Cán bộ, công chức đã “công chức hóa” đội ngũ cán bộ cấp xã, trong đó công chức Tư pháp - hộ tịch là “người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã”. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc để nâng cao tính chuyên nghiệp của đội ngũ cán bộ Tư pháp - hộ tịch bằng việc tiêu chuẩn hóa tương xứng với tính chất công việc, chức năng, nhiệm vụ mà họ đảm nhiệm cũng như yêu cầu, đòi hỏi của xu thế phát triển xã hội. Để đảm bảo ổn định và nâng cao công tác hộ tịch đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới, Luật Hộ tịch cần quy định về chức danh Hộ tịch viên trên cơ sở tách riêng công tác hộ tịch khỏi công tác tư pháp khác theo hướng chuyên nghiệp hoá, Hộ tịch viên có thẩm quyền thực hiện các giấy tờ hộ tịch theo từng cấp và chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ của mình và chịu sự giám sát, kiểm tra của Uỷ ban nhân dân cùng cấp (hiện nay, Tư pháp – hộ tịch là một công chức giúp việc cho Chủ tịch Uỷ ban nhân dân 78 cấp xã, không trực tiếp ký các loại giấy tờ hộ tịch, do đó không chịu trách nhiệm trực tiếp đối với các loại giấy tờ hộ tịch do công chức Tư pháp – hộ tịch lập ra). Vậy, Hộ tịch viên cần được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ hộ tịch như các chức danh tư pháp khác (Công chứng viên, Đấu giá viên). Trên cơ sở đó, yêu cầu về tiêu chuẩn, điều kiện bổ nhiệm Hộ tịch viên, quyền hạn và trách nhiệm của Hộ tịch viên nên quy định một cách cụ thể trong Luật Hộ tịch. Tiêu chuẩn hoá chức danh Hộ tịch viên ở từng cấp nhằm hướng đến việc chuyên nghiệp hoá công tác hộ tịch. Đồng thời tương ứng với các chức danh Hộ tịch viên từng cấp là chế độ chính sách đãi ngộ hợp lý nhằm thu hút và bảo đảm cho họ gắn bó lâu dài với công việc. Hộ tịch viên phải có các tiêu chuẩn của cán bộ, công chức nói chung theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và các tiêu chuẩn riêng phù hợp yêu cầu nhiệm vụ của từng cấp dựa trên cơ sở quy định về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thâm niên công tác, khả năng xử lý công việc, kỹ năng tác nghiệp. Qua thực trạng đội ngũ công chức Tư pháp - hộ tịch ở Quận 10 hiện nay cho thấy là ở một số phường công chức Tư pháp - hộ tịch thường xuyên bị thay đổi, chính vì vậy công chức Tư pháp - hộ tịch còn mới, chưa có kinh nghiệm trong công tác (thâm niên công tác Tư pháp - hộ tịch có 16 đ/c công tác trên 05 năm và 14 đ/c công tác dưới 05 năm); năng lực hoạt động của đội ngũ công chức Tư pháp - hộ tịch ở một số phường hiện nay vẫn còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu, tính chất công việc nhiều và phức tạp (còn 04 đ/c chưa qua đào tạo chuyên môn luật; có 35% công chức chưa đáp ứng được công việc, trong đó cần phải đào tạo, bồi dưỡng tiếp 22% công chức, cần phải điều chuyển công việc khác cho phù hợp 20% công chức). Mặt khác, chúng ta có thể thấy việc thay thế những cán bộ không đủ tiêu chuẩn này hoàn toàn không phải là vấn đề dễ giải quyết vì hai lý do: thứ 79 nhất, trước đây công tác quản lý hộ tịch chưa được quan tâm đúng mức nên có quan niệm phiến diện cho rằng đây là một loại hoạt động nghiệp vụ đơn giản, bất kỳ ai cũng có thể đảm nhận được, điều này dẫn đến thực tế là tại một số phường chức danh công chức Tư pháp - hộ tịch thường xuyên bị thay đổi hoặc được bố trí những người không có chuyên môn đúng lĩnh vực đảm nhận; thứ hai, hầu hết những cán bộ này là người địa phương, sống gần dân, hiểu được phong tục, lối sống, tâm tư, nguyện vọng được người dân tín nhiệm. Thứ hai, cần sớm kiện toàn 100% công chức Tư pháp - hộ tịch chuyên trách phường có trình độ chuyên môn phù hợp theo quy định, đồng thời thực hiện việc quy hoạch, tạo nguồn cán bộ kế cận bảo đảm sự phát triển ổn định của đội ngũ này ở các địa phương. Thứ ba, để kịp thời động viên, khuyến khích công chức Tư pháp – hộ tịch ở cơ sở phát huy được khả năng và trí tuệ phục vụ công việc được giao, Nhà nước cần có những chế độ chính sách đãi ngộ cho phù hợp, có như vậy mới bảo đảm được quyền lợi cho cán bộ làm công tác Tư pháp – hộ tịch hiện nay. Thứ tư, hằng năm tiến hành đánh giá, phân loại chất lượng công chức Tư pháp – hộ tịch; kiên quyết đưa ra khỏi vị trí công tác những cán bộ có năng lực chuyên môn yếu, thiếu tinh thần trách nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân kém, vi phạm đạo đức nghề nghiệp. *Nâng cao nhận thức về hộ tịch 80 Đây là giải pháp cơ bản mang tính quyết đinh. Bởi vì nhận thức về hộ tịch và quản lý nhà nước về hộ tịch có vai trò hết sức quan trọng đối với công tác quản lý nhà nước về hộ tịch. Phải trên cơ sở nhận thức đúng và đầy đủ mới tự giác, tích cực và chủ động tham gia và thực thi có hiệu quả. Nhất là trong điều kiện hiện nay nhận thức của một số cán bộ và một bộ phận không nhỏ cán bộ và nhân dân về quản lý hộ tịch còn hạn chế. Để nâng cao nhận thức về hộ tịch, quản lý nhà nước về hộ tịch cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau: Một là, đối với cấp ủy, chính quyền và cơ quan các cấp (nhất là cấp xã và cơ quan quản lý hộ tịch) cần nhận thức rõ công tác quản lý nhà nước về hộ tịch có tác động ảnh hưởng trực tiếp đến mọi hoạt động của địa phương, là nhiệm vụ quan trọng của chính quyền, từ đó tăng cường lãnh đạo, quản lý công tác này, chủ động áp dụng các giải pháp cần thiết nhằm bảo đảm hiệu quả quản lý hộ tịch. Hai là, đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác hộ tịch cần thấy rõ chức trách nhiệm vụ của mình đối với công tác quản lý nhà nước về hộ tịch. Cần chủ động theo dõi tình hình phát sinh các sự kiện hộ tịch trong địa bàn để thực hiện việc đăng ký kịp thời, đầy đủ. Đối với một số hộ dân khó khăn như: tàn tật, già yếu thì cán bộ Tư pháp – Hộ tịch cần chủ động thực hiện việc định kỳ xuống địa bàn để đăng ký hộ tịch. Đối với công chức Tư pháp – Hộ tịch, tính chủ động trong thực hiện nhiệm vụ gắn liền với tính chịu trách nhiệm trong các hoạt động tác nghiệp. Ba là, đối với người dân, tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền phổ biến rộng rãi, thường xuyên các văn bản liên quan đến nhân thân con người, đặc biệt là Luật Hộ tịch vừa được ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2016 bằng nhiều hình thức như lồng ghép vào các phong trào ở địa phương cơ sở; thông qua sinh hoạt, hoạt động; phát huy các phương 81 tiện thông tin, truyền thanh pa nô, áp phích, khẩu hiệu để tuyên truyền giáo dục; tuyên truyền giáo dục trong trường học để người dân hiểu rõ được vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công tác hộ tịch. 3.2.3. Đầu tƣ cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ vào quản lý nhà nƣớc về hộ tịch trên địa bàn quận 10. Cơ sở vật chất là một yếu tố quan trọng đảm bảo cho các hoạt động nói chung và hoạt động quản lý hộ tịch nói riêng được thực hiện một cách hiệu quả. Hoạt động quản lý hộ tịch hiện nay được thực hiện tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo quy chế một cửa được quy định tại Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ban hành Quy chế thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Sự đảm bảo cơ sở vật chất, trang bị cho hoạt động quản lý hộ tịch nói riêng không nằm ngoài những yêu cầu của cơ chế một cửa. Ngày 18-12-2009 Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành quyết định số 3924/QĐ-BTP về việc phê duyệt Đề án “Cải cách thủ tục hành chính trong đăng ký hộ tịch và phân cấp việc in, phát hành sổ, biểu mẫu hộ tịch” trong đó Đề án cũng xác định được mục tiêu lâu dài là “Xây dựng lộ trình đăng ký hộ tịch qua mạng Internet, theo đó, cơ quan đăng ký hộ tịch chỉ lưu trữ hồ sơ gốc quan hệ thống mạng và hệ thống sổ hộ tịch; sau khi đăng ký hộ tịch, người có yêu cầu đăng ký hộ tịch chỉ nhận bản sao các giấy tờ hộ tịch (bỏ việc cấp bản chính). Thực hiện kết nối thông tin giữa các trung tâm đăng ký hộ tịch, người dân có thể yêu cầu được cấp bản sao ở bất kỳ Trung tâm đăng ký hộ tịch nào”. Như vậy, việc trang bị máy tính có kết nối Internet phục vụ cho công tác quản lý hộ tịch là quy định cứng của pháp luật, chứ không phải là tuỳ điều kiện từng địa phương. Công tác quản lý hộ tịch hiện nay đựa trên rất nhiều biểu mẫu, giấy tờ theo quy định tại Thông tư số 08.a/2010/TT ngày 02-3-2010 của Bộ Tư pháp, 82 kể từ ngày 01-7-2010, hệ thống các sổ đăng ký hộ tịch từ 16 loại sổ giảm còn 05 loại sổ, giảm số lượng biểu mẫu bản chính từ 34 biểu mẫu còn 18 biểu mẫu, giảm số lượng biểu mẫu bản sao từ 32 biểu mẫu còn 20 biểu mẫu, số lượng biểu mẫu tờ khai đăng ký hộ tịch giảm từ 25 biểu mẫu còn 04 biểu mẫu, số biểu mẫu hộ tịch khác giảm từ 16 biểu mẫu còn 09 biểu mẫu. Mặc dù đã có sự tinh giảm nhưng trên thực tế việc đăng ký và quản lý hộ tịch tại các cấp vẫn được thực hiện theo công tác thủ công truyền thống, chủ yếu được thực hiện bằng phương pháp viết tay trực tiếp vào các sổ đăng ký và biểu mẫu hộ tịch khiến mất nhiều thời gian, công sức. Hơn nữa, sổ và biểu mẫu hộ tịch thường hay thay đổi dẫn đến việc ghi chép các thông tin trong sổ còn thiếu, ghi chép không rõ ràng, ghi nội dung bản chính với bản sao không thống nhất với nhau dẫn tới việc yêu cầu cải chính là tất yếu, do vậy đã gây khó khăn cho cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý, cung cấp thông tin, khai thác cơ sở dữ liệu, xác minh, xử lý về nhân thân và tình trạng hiện tại của công dân. Đồng thời, việc bảo quản hồ sơ cũng chưa được bảo đảm nên gặp rất nhiều khó khăn cho việc tra cứu, tốn nhiều thời gian, tiền bạc và công sức khi trích lục hồ sơ cho công dân có yêu cầu. Trong suốt một thời gian ở nước ta nói chung, các phường của quận 10 nói riêng thực hiện việc quản lý sổ sách hộ tịch chủ yếu bằng phương pháp thủ công và đã gặp nhiều bất cập như bị mờ chữ, mối mọt... Do đó, cải tiến phương thức quản lý hộ tịch, xây dựng, triển khai Đề án Cơ sở dữ liệu điện tử sẽ tạo nhiều thuận lợi cho công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, việc thống kê, tra cứu hộ tịch được thực hiện một cách nhanh chóng kịp thời, phục vụ đắc lực cho việc xây dựng, hoạch định chính sách, phát triển kinh tế - xã hội cũng như phúc đáp yêu cầu của người dân. Đây là phương hướng hiện đại hóa quản lý nhà nước về hộ tịch, hướng đến sự phát triển lâu dài, ổn định. Bên cạnh đó, cơ sở dữ liệu hộ tịch điện tử cần phải có bảo mật phần cứng, bảo mật đường 83 truyền và có mật khẩu, tài khoản cho công chức có nhiệm vụ quản lý, sử dụng cơ sở dữ liệu. Phương hướng này cần được triển khai đồng bộ với các nội dung cơ bản sau: Một là, nghiên cứu và tính toán bước đi phù hợp để thực hiện việc cấp sổ hộ tịch thay thế cho việc sử dụng giấy tờ hộ tịch rời như hiện nay. Có thể nói, hệ thống chứng thư hộ tịch hiện hành ở nước ta khá phức tạp và thể hiện rõ dấu ấn của mô hình hành chính quan liêu, giấy tờ. Việc sử dụng các chứng thư lẻ về từng sự kiện hộ tịch hiện đang bộc lộ không ít bất cập xét cả hai phương diện cơ bản là hiệu quả sử dụng và yêu cầu quản lý. Thứ nhất, hiệu quả sử dụng của các loại chứng thư này bị hạn chế do sự cô lập thông tin về từng sự kiện hộ tịch riêng lẻ, trong khi đó, mục đích quan trọng mà quản lý hộ tịch hướng tới là xâu chuỗi và phản ánh đầy đủ các sự kiện hộ tịch của một người theo thứ tự thời gian từ khi sinh ra đến khi chết. Sự cô lập thông tin này có thể đưa đến tình trạng tham gia vào một số quan hệ pháp luật nhất định, có khi người dân cùng lúc phải sử dụng nhiều loại giấy tờ khác nhau để chứng minh về tình trạng nhân thân của mình. Thứ hai, nếu đặt các chứng thư hộ tịch của một cá nhân cạnh nhau để so sánh có thể thấy, tuy nội dung của từng loại chứng thư đều phản ánh những thông tin đặc trưng về từng loại sự kiện hộ tịch khác nhau, nhưng đây chỉ là một phần thông tin thể hiện trên chứng thư, bên cạnh đó, phần lớn nội dung các chứng thư này đều trùng lắp các thông tin về họ tên; ngày, tháng, năm sinh; dân tộc; quốc tịch; giới tính; quê quán; nơi cư trú của cá nhân đó. Những thông tin trùng lắp nói trên chính là những thông tin được xác lập lần đầu tiên trên giấy khai sinh. Nói cách khác, giấy khai sinh là chứng thư gốc xác lập các dấu hiệu nhân thân của một người, các chứng thư khác là sự bổ sung các dấu hiệu nhân thân khác hình thành từ các sự kiện hộ tịch xảy ra sau đó. Như vậy, các chứng thư hộ tịch về cùng một người có mối liên hệ hết sức mật thiết 84 với nhau. Vậy có thể kết hợp các loại chứng thư hộ tịch với nhau và giản lược những thông tin trùng lắp. Thứ ba, việc sử dụng quá nhiều loại chứng thư hộ tịch riêng lẻ rất bất tiện đối với người dân. Nếu tính trên một hộ gia đình hạt nhân (gồm hai thế hệ cha, mẹ và con) thì tổng số chứng thư hộ tịch của các cá nhân trong gia đình không phải là nhỏ. Về nguyên tắc, các chứng thư hộ tịch bản chính chỉ được cấp một lần, do đó, đòi hỏi người dân phải có ý thức cất giử, bảo quản chứng thư hộ tịch một cách cẩn thận. Tuy nhiên, với một số lượng giấy tờ hộ tịch như vậy thì việc giữ gìn chúng hoàn toàn không dễ dàng, thuận tiện, đặc biệt là đối với bộ phận dân cư thuộc các khu vực dễ xảy ra thiên tai, lũ lụt hoặc bộ phận dân cư còn hạn chế nhận thức về tầm quan trọng của các giấy tờ hộ tịch. Thứ tư, việc các hộ gia đình thay đổi địa bàn cư trú theo yêu cầu của công việc trở nên phổ biến hơn. Công tác quản lý hộ tịch đối với người di dân cũng như vấn đề sử dụng giấy tờ hộ tịch của đối tượng này theo phương thức quản lý hiện nay làm nảy sinh nhiều bất cập. Ví dụ: việc xin cấp bản sao chứng thư hộ tịch từ sổ gốc, tình trạng người cư trú tại một nơi, cơ quan quản lý hộ tịch ở một nơi. Thứ năm, việc sử dụng giấy tờ hộ tịch như hiện nay cũng góp phần làm khó sửa chữa căn bệnh quan liêu, đặt niềm tin quá lớn vào thủ tục, giấy tờ khi giải quyết công việc của dân trong nền hành chính, khó tạo ra bước đột phá trong cải cách hành chính trong lĩnh vực quản lý và đăng ký hộ tịch. Bên cạnh đó, việc quản lý và sử dụng giấy tờ rời cũng đặt ra gánh nặng về chi phí xã hội, trong khi việc in ấn, phát hành, thậm chí cả việc sử dụng giấy tờ giả mạo lại có thể thực hiện không mấy khó khăn. Hai là, tổ chức việc tổng rà soát, lập lại hệ thống sổ bộ hộ tịch trên các phường sau khi được mở rộng 85 Đây là tiền đề để tiến tới việc xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về hộ tịch. Hiện nay, cùng với việc phân cấp thẩm quyền đăng ký hộ tịch cho Uỷ ban nhân dân cấp huyện, chế độ lưu trữ “sổ kép” trong quản lý hộ tịch cũng như có sự thay đổi cơ bản, từ chỗ lưu trữ tại Uỷ ban nhân dân cấp xã và Sở Tư pháp chuyển thành lưu trữ tại Uỷ ban nhân dân cấp xã và Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Những sổ bộ hộ tịch này chỉ có một bộ duy nhất, do việc chia tách địa giới hành chính nên không thể thực hiện được việc chuyển giao sổ cho cấp huyện. Giải quyết vấn đề này, Bộ Tư pháp đã hướng dẫn không thực hiện việc chuyển giao đối với các bộ sổ đó, mà tiếp tục lưu trữ và thực hiện chế độ tra cứu thông tin tại Sở Tư pháp hoặc Uỷ ban nhân dân cấp huyện. Về lâu dài, để tạo nên cơ chế thống nhất trong tổ chức lưu trữ sổ hộ tịch, cần tổ chức việc in sao các sổ bộ này theo từng đơn vị hành chính cấp huyện có cơ sở thực hiện tốt các nghiệp vụ đăng ký và quản lý hộ tịch theo thẩm quyền được phân cấp. Chương trình cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2010-2020 tiếp tục thực hiện mục tiêu hiện đại hoá nền hành chính nhà nước. Trong xu hướng này, cần tích cực nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin vào việc xây dựng hệ thống thông tin và kho dữ liệu điện tử về quản lý hộ tịch với tính chất là kho dữ liệu chuyên ngành để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời, từng bước tin học hoá các quy trình phục vụ nhân dân đăng ký hộ tịch được thuận tiện, nhanh chóng, chính xác theo kinh nghiệm của các nước có nền pháp luật phát triển. Trên địa bàn quận nói riêng, TP.HCM nói chung, thời gian qua, việc thiếu điều kiện về cơ sở vật chất, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào quản lý nhà nước về hộ tịch là một trong những nguyên nhân làm cho hoạt động quản lý hộ tịch chậm, mất nhiều thời gian công sức và gây nên nhiều khó khăn, tiềm ẩn nguy cơ sai sót. 86 Hiện nay, khó khăn lớn nhất mà hầu hết các phường ở quận 10 gặp phải là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước về hộ tịch chưa được đồng bộ hóa, việc đăng ký, quản lý hộ tịch, báo cáo và chuyển tải thông tin về hộ tịch vẫn thực hiện bằng phương pháp thủ công ghi chép vào sổ lưu, theo chế độ báo cáo định kỳ sáu tháng và một năm, cũng như kết nối Internet để cập nhật các thông tin liên quan đến hộ tịch. Do đó, khả năng cập nhật thông tin về số liệu hộ tịch phục vụ cho các hoạt động kinh tế, xã hội, yêu cầu của người dân còn rất hạn chế. Để khắc phục bất cập này, cần sớm đặt ra việc đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào quản lý hộ tịch. Kinh nghiệm của một số nước có hệ thống quản lý hộ tịch, phân cấp tương tự như nước ta như: Thái Lan, Đài Loan, cho thấy, khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào quản lý hộ tịch thì cấp huyện luôn được xác định là nơi tích hợp thông tin về hộ tịch rất quan trọng trong cả hệ thống. Áp dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý hộ tịch đây là cơ sở dữ liệu hết sức quan trọng trong việc quản lý hộ tịch và quản lý nhà nước trên các lĩnh vực khác. Để làm được việc đó, thì phải nâng cao nhận thức của chính quyền các cấp về đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ trong quản lý nhà nước về hộ tịch. Một số giải pháp cụ thể, đó là: Đưa chủ trương ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hộ tịch thành mục tiêu, chương trình hành động của ngành Tư pháp thành phố. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra trực tiếp và gián tiếp qua hệ thống quản lý công nghệ thông tin trong công tác quản lý nhà nước về hộ tịch. 3.2.4. Triển khai pháp luật về Hộ tịch và phổ biến Luật Hộ tịch trên địa bàn Quận Xây dựng kế hoạch, tổ chức hội nghị triển khai quán triệt, thực hiện đầy đủ và chính xác nội dung Luật Hộ tịch và các văn bản hướng dẫn thi hành 87 cho cán bộ, công chức làm công tác tư pháp, tư pháp hộ tịch từ thành phố đến Ủy ban nhân dân phường; cán bộ, công chức của các đơn vị có liên quan và toàn thể nhân dân được biết. Xác định cụ thể các nội dung công việc, thời hạn, tiến độ hoàn thành các nhiệm vụ tổ chức triển khai thi hành Luật Hộ tịch theo kế hoạch triển khai thi hành Luật hộ tịch của trung ương, của tỉnh, bảo đảm tính kịp thời, đồng bộ, thống nhất và hiệu quả; đồng thời xác định rõ trách nhiệm của UBND các phường và cơ quan, tổ chức có liên quan trong quá trình triển khai thi hành Luật Hộ tịch trên địa bàn thành phố. Việc tổ chức triển khai thi hành Luật Hộ tịch phải bám sát kế hoạch triển khai thi hành Luật Hộ tịch của Chính phủ, UBND tỉnh; bảo đảm tính kịp thời, đồng bộ, thống nhất, hiệu quả, tiết kiệm; bảo đảm sự phối hợp chặt chẽ, thường xuyên, hiệu quả giữa UBND các phường và các cơ quan, tổ chức có liên quan trong triển khai thi hành Luật Hộ tịch; nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần tận tụy phục vụ nhân dân của đội ngũ công chức làm công tác hộ tịch. Xác nhận tình trạng hôn nhân là khá nhiều, do đó, việc in sổ bộ xác nhận tình trạng hôn nhân 100 trang là không phù hợp và lãng phí, đề nghị Bộ Tư pháp in sổ bộ 200,300 trang. Cấp bản sao hộ tịch rất nhiều, việc ghi sổ bằng tay là không cần thiết, đề nghị cơ quan hộ tịch cấp trên cho phép nhập dữ liệu vào vi tính và tự in sổ để tiết kiệm thời gian và công sức. Các hình thức, biện pháp tuyên truyền được vận dụng linh hoạt, sáng tạo, chú trọng ứng dụng công nghệ hiện đại, sáng kiến hình thức tuyên truyền mới phù hợp. Tiếp tục sử dụng các hình thức tuyên truyền truyền thống như tuyên truyền miệng, tuyên truyền thông qua phương tiện thông tin đại chúng, thông qua tài liệu tuyên truyền (Đề cương giới thiệu, phổ biến các văn bản 88 luật, pháp lệnh; Sách hỏi - đáp pháp luật; Tờ rơi, tờ gấp pháp luật; Đặc san tuyên truyền pháp luật; Các loại băng tiếng, băng hình với các nội dung pháp luật đơn giản, ngắn gọn và các cuộc nói chuyện về pháp luật) và khéo léo kết hợp với các hình thức tuyên truyền khác như các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, các hình thức thi sân khấu hoá, lồng ghép trong các cuộc giao lưu văn hoá, văn nghệ, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý. Bên cạnh đó, nhân rộng các hội thi "Chủ tịch phường giỏi", "Hoà giải viên giỏi", "Tuyên truyền viên pháp luật giỏi", "Công chức Tư pháp -hộ tịch giỏi",... cùng với 100% phường có tủ sách pháp luật và sự hoạt động có hiệu quả của các câu lạc bộ pháp luật, trợ giúp pháp lý. Với nhiều hình thức tuyên truyền phong phú như trên, các phường có thể áp dụng nhiều hình thức để triển khai, phổ biến Luật Hộ tịch đến tận người dân, đáp ứng nhu cầu thiết yếu của cuộc sống dân cư. Thực tiễn quản lý hộ tịch của Nhà nước ta 60 năm qua cho thấy, những yếu tố trì trệ, bất cập của hệ thống pháp luật về quản lý hộ tịch chính là một trong những nguyên nhân trực tiếp lý giải về sự hạn chế hiệu quả của lĩnh vực công tác này. Từ bài học kinh nghiệm đó, để giải quyết bài toán đổi mới quản lý hộ tịch, vấn đề quan trọng hàng đầu là cần xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý quản lý hộ tịch. Trong khoảng thời gian hơn một thập kỷ qua, có thể nói hoạt động xây dựng pháp luật về hộ tịch ở nước ta đã có sự vận động tích cực và đạt được những bước tiến quan trọng. Với việc ban hành nhiều văn bản chứa đựng các quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch, hoạt động xây dựng pháp luật về hộ tịch đã mang một sắc thái khác hẳn so với sự trì trệ (thậm chí có thể nói là “đóng băng” của hoạt động xây dựng pháp luật về hộ tịch trong thời gian từ năm 1995 trở về trước. 89 Xét từ khía cạnh hiệu quả tác động xã hội, có thể thấy các văn bản như Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày 10-10-1998 của Chính phủ về quản lý hộ tịch, Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22-10-2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị định số 35/2000/QH10 của Quốc hội về thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27-3-2002 của Chính phủ quy định việc áp dụng Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đối với các dân tộc thiểu số, Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP (thay thế Nghị định số 83/1998/NĐ-CP) và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP (thay thế Nghị định số 68/2002/NĐ-CP), Luật Hộ tịch thay thế Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đạt hiệu quả điều chỉnh xã hội rất cao, đánh dấu bước phát triển về chất của hệ thống quy phạm pháp luật về quản lý hộ tịch, là một lý do quan trọng thúc đẩy hoạt động quản lý hộ tịch đi vào nề nếp với những chuyển biến mạnh mẽ. Điều này có ý nghĩa pháp lý quan trọng, thống nhất điều chỉnh và bổ sung kịp thời nhiều quy định mới, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức từ Trung ương đến các cấp địa phương trong việc tổ chức, triển khai thực hiện nhằm xây dựng, củng cố và phát triển mô hình đăng ký, quản lý hộ tịch khoa học và hiệu quả nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính, bảo đảm quyền và lợi ích của cá nhân, công dân phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo. Trong đó, điểm đáng ghi nhận là những văn bản được ban hành trong thời gian gần đây đã được xây dựng một cách năng động, linh hoạt, phù hợp với đặc thù của đối tượng điều chỉnh cũng như thực trạng hoạt động quản lý hộ tịch, đồng thời ngày càng thể hiện sâu sắc xu hướng cải cách hành chính trong thủ tục đăng ký hộ tịch và mới đây là Luật Hộ tịch đã được Quốc hội 90 khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua, có hiệu lực từ ngày 01-01-2016. Đây là lần đầu tiên các quy định điều chỉnh hoạt động đăng ký, quản lý hộ tịch đối với các sự kiện liên quan đến nhân thân một cá nhân như: sinh, tử, kết hôn, nhận cha, mẹ, con, giám hộ được nâng lên thành Luật. Luật Hộ tịch 2014 ngày 01-01-2016 đã có hiệu lực thi hành, theo lộ trình trong thời gian dài như: Công tác đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng, kiện toàn nguồn nhân lực đáp ứng tiêu chuẩn công chức hộ tịch theo Luật hộ tịch; vấn đề rà soát, đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ công tác đăng ký, quản lý hộ tịch; vấn đề ứng dụng công nghệ thông tin, kết nối đăng ký, quản lý hộ tịch giữa các cấp trong tỉnh, giữa tỉnh với các địa phương khác trong cả nước; vấn đề phối hợp đăng ký hộ tịch với quản lý dân cư bằng số định danh cá nhân; vấn đề tiếp nhận việc chuyển giao thẩm quyền đăng ký hộ tịch từ Ủy ban nhân dân tỉnh về Ủy ban nhân dân các huyện, thành, thị để có thể thực hiện ngay khi Luật có hiệu lực và đảm bảo đến hết ngày 31-12- 2019 phải đáp ứng đủ điều kiện thực hiện thống nhất, đầy đủ các quy định của Luật Hộ tịch năm 2014. Văn bản quy phạm phải có tính ổn định, hạn chế thay đổi nhiều, nếu có thay đổi thì phải thống kê những danh mục, nội dung còn hiệu lực và những những danh mục, nội dung được thay thế để thuận tiện cho việc áp dụng pháp luật vào thực tế. Đồng thời việc ban hành văn bản phải đảm bảo tiến độ, tránh để chậm trễ hoặc khi Luật có hiệu lực thi hành rồi mà văn bản hướng dẫn vẫn chưa được ban hành. Từ những văn bản của Trung ương và Thành phố, thì Quận 10 trong các năm đã gửi nhiều văn bản xây dựng trên cơ sở pháp lý chỉ đạo và hướng dẫn xuống cơ sở thực hiện. Như trong năm 2015, nhằm thực hiện Kế hoạch số 5065/KH-UBND ngày 27/8/2015 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về tổ chức “Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” 91 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh và Kế hoạch số 8462/KH-UBND ngày 25/9/2015 của Ủy ban nhân dân Quận 10 về tổ chức Ngày pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” trên địa bàn Quận 10, Ủy ban nhân dân Quận 10 đã ban hành Kế hoạch số 9533/KH-UBND tổ chức “Ngày hội pháp luật” năm 2015. Ngày hội pháp luật diễn ra với nhiều hoạt động, chương trình phong phú, đặc sắc, với sự tham dự của các đồng chí trưởng phó các ban, ngành, đoàn thể của Quận ủy, Ủy ban nhân dân Quận 10, các đồng chí lãnh đạo của 15 phường, các đoàn viên, thanh niên, công nhân lao động, người sử dụng lao động và Nhân dân trên địa bàn quận 10 cùng đại diện các cơ quan thông tấn báo chí như: Đài truyền hình TP.HCM, truyền hình Thanh niên Thành đoàn TP.HCM, Báo Sài Gòn Giải Phóng, Báo Pháp Luật.. 3.2.5. Đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quản lý nhà nƣớc về hộ tịch Thực tế, trong thời gian qua công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch đôi khi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, việc phát hiện những sai sót trong vấn đề quản lý hộ tịch cón ít, chỉ khi những giấy tờ hộ tịch ấy phát sinh những hệ quả mới thì mới tiến hành kiểm tra. Lúc đó cơ quan thanh tra mới vào cuộc. Về công tác lưu trữ Sổ, hồ sơ hộ tịch: Qua báo cáo kết quả kiểm tra công tác đăng ký, quản lý hộ tịch hằng năm của Uỷ ban nhân dân các phường trên địa , thì lưu trữ Sổ, hồ sơ hộ tịch là khâu được các phường thực hiện chưa đúng quy định pháp luật. Sổ lưu hộ tịch ghi chép các thông tin còn thiếu, không rõ ràng, lưu trữ hồ sơ hộ tịch không ngăn nắp, thất lạc, mối mọt xâm hại. Thực trạng này cần phải được chấm dứt, bởi lẽ công tác lưu trữ có vai trò hết sức quan trọng trong công tác hộ tịch. Hồ sơ lưu trữ sẽ là cơ sở pháp lý để tiến hành trích lục hồ sơ cho công dân khi có yêu cầu; đồng thời qua việc lưu trữ cán bộ lãnh đạo có thể kiểm soát được các hoạt động quản lý hộ tịch của cơ 92 quan, đánh giá được trách nhiệm pháp lý của người yêu cầu và người thực hiện quản lý hộ tịch. Thời gian, quy trình lưu trữ phải được thực hiện dựa trên các quy định của pháp luật. Tất cả những đều trên sẽ được giải quyết nếu thực hiện tốt công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra. Hiện nay, công tác thanh tra, kiểm tra của phòng Tư pháp đối với công tác hộ tịch ở các phường gặp phải trở ngại lớn do sự bố trí cán bộ. Ngoài lãnh đạo phòng (trưởng và 02 phó trưởng phòng), Phòng Tư pháp có 05 cán bộ phụ trách các mảng việc, trong đó có một cán bộ được phân công phụ trách theo dõi công tác hộ tịch trên địa bàn thành phố. Đây cũng là những trở ngại lớn. Tuy nhiên, có thể tăng cường công tác thanh tra theo hướng sau: Tôn trọng sự phân cấp, tập trung và đề cao trách nhiệm của người phụ trách hộ tịch (Chủ tịch, hay Phó chủ tịch UBND các phường), theo đó, quy trách nhiệm chính trị và trách nhiệm pháp lý đối với người phụ trách trực tiếp. Sai phạm cũng cần được truy cứu trách nhiệm đối với công chức hộ tịch, vừa ở khía cạnh trách nhiệm pháp lý, vừa ở khía cạnh kinh tế, ví dụ như trừ đi các khoản thưởng. Điều này đảm bảo nguyên tắc phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước và tạo ra cơ chế kiểm soát ngay từ khâu đầu tiên ở cơ sở đối với tổ chức thực hiện quản lý hộ tịch. Hằng quý, tiến hành kiểm tra đột xuất đối với một vài phường, từ đó tổng kết, đánh giá và phổ biến kết quả kiểm tra tới các phường khác để các phường này kịp thời chấn chỉnh công tác. Các kết luận kiểm tra cần đưa ra những dự báo, khuyến cáo về các vấn đề có thể gặp phải trong thời gian tới. Quán triệt thực hiện quy chế một cửa, kết hợp với rà soát, bãi bỏ các quy định trái pháp luật, đi ngược lại quy chế dân chủ ở cơ sở: Hộ tịch ở các phường nói chung, trên địa bàn quận nói riêng được thực hiện theo mô hình “một cửa”. Do vậy, khuyến nghị: các cấp lãnh đạo phải quan tâm chỉ đạo và giám sát thực hiện chặt chẽ; phân công trách nhiệm cụ thể, 93 rõ ràng cho công chức trực bộ phận một cửa; xây dựng cơ chế giám sát sự tuân thủ quy chế của công chức thực hiện hộ tịch; nâng cao năng lực nghiệp vụ và văn hoá phục vụ nhân dân cho công chức hộ tịch; trang bị thêm cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của bộ phận một cửa nhằm phục vụ không chỉ cho bộ phận hộ tịch, đó là máy tính, bảng tin để niêm yết các thủ tục hộ tịch, tủ lưu sổ, hồ sơ hộ tịch và các phương tiện văn phòng phẩm cần thiết khác. Bên cạnh quán triệt thực hiện cơ chế một cửa, cần tăng cường công tác kiểm tra, rà soát, bãi bỏ các quy định sai pháp luật, đi ngược lại quy chế dân chủ, gây phiền hà cho người dân có yêu cầu. Cần phải khẳng định nhất quán rằng, việc công dân yêu cầu hộ tịch là họ đang tham gia vào một quan hệ pháp luật nhất định (quan hệ thủ tục hành chính). Đây là quyền của họ và tại đây họ cũng có những nghĩa vụ tương ứng, tách biệt với các quan hệ pháp luật khác. Để thực hiện tốt điều này, cùng với quá trình công khai hoá các thủ tục, tuyên truyền pháp luật cho người dân, thiết nghĩ, sẽ hợp lý và hiệu quả nhất là phát huy cơ chế giám sát của nhân dân. Tiểu kết Chương 3 1. Hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về hộ tịch là một đòi hỏi tất yếu của quá trình phát triển. Việc hoàn thiện pháp luật và công tác quản lý nhà nước trên lĩnh vực này phải được thực hiện trong bối cảnh tổng thể của cải cách hành chính nhà nước, cải cách tư pháp và xây dựng nền dân chủ pháp quyền ở Việt Nam, với những cơ sở vững chắc, những lộ trình phù hợp, nhằm tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao năng lực quản lý nhà nước. Đây không chỉ là nhiệm vụ của Nhà nước, mà còn là một vấn đề cần sự quan tâm, hỗ trợ tích cực từ xã hội, công dân. 2. Mỗi giải pháp có vị trí, vai trò nhất định không giống nhau, tuỳ thuộc vào bối cảnh và mối quan hệ của các cơ quan hữu quan. Những định hướng và giải pháp được đề cập, hướng tới hoàn thiện ba yếu tố cơ bản của một hệ 94 thống, đó là: đảm bảo một hệ thống thể chế tốt, một lực lượng nhân sự hợp lý, đủ tâm, đủ tầm và một cơ chế vận hành tốt, để công tác quản lý nhà nước về hộ tịch trở thành một lĩnh vực trọng yếu của nền hành chính của mọi quốc gia. 95 KẾT LUẬN 1. Hộ tịch là những những vấn đề cơ bản, liên quan đến nhân thân của con người. 2. Quản lý nhà nước về hộ tịch là sự thực hiện chức năng quản lý của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật, hiện nay hoạt động quản lý về hộ tịch ở nước ta được quy định trực tiếp trong Luật Hộ tịch 2014, hiệu lực 01/01/2016. Thẩm quyền quản lý và đăng ký hộ tịch hiện nay theo pháp luật Việt Nam được giao cho Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Ngoại giao, Bộ Công an và cơ quan Đại diện ngoại giao, Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Phòng Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp xã và cán bộ Tư pháp – hộ tịch. Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ra đời với việc phân cấp mạnh mẽ theo hướng chuyển giao một số loại việc trước đây thuộc thẩm quyền đăng ký hộ tịch của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh cho Sở Tư pháp, Uỷ ban nhân dân cấp huyện và Uỷ ban nhân dân cấp xã. Nghị định này đã tạo nhiều thuận lợi cho người dân trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ về đăng ký hộ tịch được nhanh hơn, thuận tiện hơn. Tuy nhiên, sau gần 10 năm thực hiện, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã xuất hiện những bất cập lớn, từ bản thân các quy định, tới quá trình tổ chức thực hiện của nhiều địa phương.Từ những bất cập của Nghị địn 158/2005/NĐ-CP Luật Hộ tịch đã ra đời và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2016. 3. Trong bối cảnh đó, Luận văn tập trung nghiên cứu về hoạt động quản lý của chính quyền và ngành tư pháp quận 10 đối với hoạt động quản lý, đăng ký hộ tịch ở quận với đề tài “Quản lý nhà nước về hộ tịch ở Quận 10, TP.Hồ Chí Minh”. 96 Để tạo luận cứ cho việc đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân, đề xuất phương hướng, giải pháp, tác giả tiến hành khảo sát kết quả thực hiện quản lý, đăng ký hộ tịch trên địa bàn quận 10. Cùng với việc tổng hợp, phân tích các số liệu. trong các báo cáo của phòng tư pháp, Uỷ ban nhân quận, quan sát thực tiễn tình hình quản lý, đăng ký hộ tịch ở một số địa phương, kết quả cho thấy, bên cạnh những kết quả đạt đạt được như: đã có sự chuẩn bị và triển khai tốt, từ việc bố trí nhân sự, phổ biến giáo dục pháp luật về hộ tịch, đầu tư cơ sở vật chất, tới việc chế độ làm việc, chế độ báo cáo, công tác lưu trữ, tổng kết, thanh tra, kiểm tra, thì công tác quản lý, đăng ký hộ tịch của chính quyền và ngành tư pháp quận còn nhiều hạn chế, bất cập. Đó là về trình độ, ý thức pháp luật và đạo đức công vụ của đội ngũ công chức hộ tịch; sự thiếu hụt về trang thiết bị phục vụ cho công tác hộ tịch; chưa kịp thời niêm yết đầy đủ, công khai thủ tục, trình tự đăng ký sự kiện hộ tịch; công tác tuyên truyền chưa sâu rộng. Mỗi khía cạnh hạn chế, bất cập có nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau, tuỳ phạm vi và mức độ. Tuy nhiên có thể khái quát thành những nguyên nhân cơ bản: Một là, từ hệ thống pháp luật về hộ tịch, bất cập giữa các quy định giữa các văn bản liên quan với nhau, điều này đã đồng thời khiến cho công tác quản lý, đăng ký hộ tịch ở cấp xã còn nhiều vướng mắc, vi phạm. Hai là, những yếu kém trong năng lực và trách nhiệm của công chức về quản lý hộ tịch. Ba là, tính không hợp lý của hệ thống tổ chức các cơ quan đăng ký hộ tịch. Bốn là, cơ sở vật chất, kinh phí cấp cho hoạt động đăng ký và quản lý hộ tịch chưa quan tâm kịp thời. 97 Năm là, công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch còn yếu kém. 4. Trên cơ sở phân tích các nguyên nhân và những yêu cầu đặt ra đối với công tác quản lý nhà nước về hộ tịch, tác giả luận văn đề xuất và luận giải một số phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao chất lượng quản lý nhà nước về hộ tịch ở các phường trên địa bàn quận. Các giải pháp đó là: Một là, tăng cười phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức trong quản lý hộ tịch. Hai là, nâng cao phẩm chất và năng lực thực thi công vụ của công chức quản lý hộ tịch trên địa bàn quận và nâng cao rõ trách nhiệm phân cấp quản lý hộ tịch. Ba là, đầu tư cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ vào quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn quận 10. Bốn là, triển khai pháp luật về hộ tịch và phổ biến Luật Hộ tịch trên địa bàn quận. Năm là, đẩy mạnh công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện quản lý nhà nước về hộ tịch. Đất nước ta đang trong quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế, mọi cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương trong đó có Quận 10 đang đứng trước những thời cơ và đối mặt với những thánh thức mới. Vấn đề đổi mới và nâng cao quản lý nhà nước về hộ tịch ở các phường trên địa bàn quận có vị trí đặc biệt quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu và nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Việc thực hiện các giải pháp trong khuôn khổ đề tài luận văn nêu ra sẽ góp phần hữu ích vào việc quản lý nhà nước về hộ tịch trên địa bàn quận ngày một hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó góp phần vào việc giải quyết những việc cụ thể, bức xúc trong thực tế về công tác đăng ký hộ tịch. 98 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ********** 1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02-6-2005 về Chiến lược cải cách Tư pháp đến năm 2020. 2. Bộ Tư pháp (2007), Số chuyên đề về “Công chứng, hộ tịch và quốc tịch”, phần 2 hộ tịch và quốc tịch, Hà Nội. 3. Bộ Tư pháp (2010), Số chuyên đề về “Nội dung tóm tắt các đề tài nghiên cứu khoa học pháp lý”, Hà Nội. 4. Bộ Tư pháp (2010), Thông tư số 08.a/2010/TT-BTP ngày 25-3-2010 về việc ban hành và hướng dẫn việc ghi chép, lưu trữ, sử dụng số, biểu mẫu hộ tịch. 5. Bộ Tư pháp và Bộ Nội vụ (2014), Thông tư Liên tịch số 23/2014/TTLT-BTP-BNV ngày 22-12-2014 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Tư pháp thuộc uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, phòng Tư pháp thuộc uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và công tác Tư pháp của uỷ ban nhân dân cấp xã. 6. Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp (2014), Thông tư liên tịch số 01/2009/TTLT-BNV-BTP quy định cán bộ Tư pháp - hộ tịch cấp xã. 7. Bộ Tư pháp (2014), Tài liệu Hướng dẫn nghiệp vụ tư pháp xã, phường, thị trấn, nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội. 8. Nguyễn Văn Bảy (2012) “Công tác hộ tịch ở KonTum những khó khăn, vướng mắc cần tháo gỡ” Tạp chí Dân chủ và pháp luật. 9. Chính phủ (1998), Nghị định số 83/1998/NĐ-CP ngày 10-10-1998 về đăng ký hộ tịch. 10. Luật Hộ tịch số 60/2014/QH13 ban hành ngày 20 tháng 11 năm 2014, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2016. 99 11. Chính phủ (2009), Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, ngày 22-10-2009 về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. 12. Chính phủ (2011), Quyết định số 1374/QĐ-TTg, ngày 12-8-2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2011-2015. 13. Chính phủ (2011), Nghị định số 112/2011/NĐ-CP, ngày 05-12- 2011 về công chức xã, phường, thị trấn. 14. Chính phủ (2014), Nghị định số 37/2014/NĐ-CP ngày 05-5-2014 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh. 15. Phạm Trọng Cường (2006) “Kỳ vọng về một nề nếp mới trong công tác hộ tịch” Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. 16. Phạm Trọng Cường (2007) “Từ quản lý Đinh đến quản lý hộ tịch”, Nxb Tư pháp Hà Nội. 17. Nguyễn Thị Chính (2013) “Quản lý nhà nước về hộ tịch của UBND phường ở Quận Đống Đa, Thành phố Hà Nội”, Luận văn thạc sĩ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính, Thành phố Hà Nội. 18. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2003), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 100 22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 23. Học viện Hành chính (2009), Chuyên đề “Quản lý công tác hành chính tư pháp” trong chương trình bồi dưỡng về quản lý hành chính nhà nước (chương trình chuyên viên chính), Nxb khoa học và kỹ thuật. 24. Học viện Chính trị - hành chính quốc gia (2011), Chuyên đề quản lý Hành chính - tư pháp ở cơ sở trong giáo trình Trung cấp lý luận chính trị -hành chính, Nxb Chính trị - hành chính (tập 2). 25. Học viện hành chính (2007), Giáo trình “Quản lý Hành chính - tư pháp”, Nxb khoa học kỹ thuật (dùng cho đào tạo trung cấp hành chính). 26. Phạm Hồng Hoàn (2011), “Quản lý nhà nước về hộ tịch ở cấp xã, huyện Đan Phượng, thành phố Hà Nội” Luận văn thạc sỹ Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính, Thành phố Hà Nội. 27. Đàm Thị Kim Hạnh (2008), “Tư pháp Hà Nội không vì khó khăn mà từ chối đăng ký khai sinh” Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. 28. Nguyễn Thị Lan (2014) “Một số ý kiến về Dự thảo Luật Hộ tịch” Tạp chí Dân chủ và pháp luật. 29. Phạm Thị Tuyết Mai (2007) “Phân cấp thẩm quyền với vấn đề cán bộ tư pháp - hộ tịch cấp xã trong đăng ký, quản lý hộ tịch” Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. 30. Trần Văn Quảng (2006) “Nâng cao năng lực đội ngũ công chức tư pháp – hộ tịch trong giai đoạn hiện nay” Tạp chí Dân chủ và Pháp luật. 31. Nguyễn Thị Vũ Thuỷ (2011) “Quản lý nhà nước về đăng ký hộ tịch bằng công nghệ thông tin ở thành phố Hà Nội” Luận văn thạc sỹ Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính, Thành phố Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_ho_tich_o_quan_10_thanh_pho_ho.pdf
Luận văn liên quan