Luận văn Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam

Thực trạng ngành công nghiệp khai thác khoáng sản trong những năm qua đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, tồn tại. Gây ra những tác động bất lợi cho nền kinh tế, môi trường sinh thái và ổn định xã hội. Nguyên nhân chủ yếu của các tồn tại này là do trong những năm qua chúng ta vẫn còn quá chú trọng vào phát triển kinh tế, nhất là tăng trưởng GDP, ít chú ý tới môi trường thiên nhiên nên tình trạng khai thác khoáng sản bừa bãi gây suy thoái môi trường và mất cân bằng hệ sinh thái đang diễn ra ở nhiều nơi. Nghiêm trọng nhất là hoạt động của các mỏ khai thác than, quặng kim loại và vật liệu xây dựng. Các khu mỏ đang khai thác hầu hết nằm ở vùng núi và trung du cùng với công nghệ khai thác hiện nay chưa hợp lý, đặc biệt đối với các mỏ kim loại nên mức độ gây ô nhiễm và suy thoái rừng: phá rừng, hủy hoại không khí, phá vỡ các khu sinh thái, hệ thống thủy văn, ô nhiễm nguồn nước ảnh hưởng đến các ngành kinh tế khác như nông nghiệp, du lịch Nếu không có chiến lược và chính sách rõ ràng, trong khoảng thời gian tương lại gần thế hệ con cháu chúng ta sẽ phải nhập khẩu trở lại các quặng thô, hoặc sản phẩm đã qua chế biến của các loại khoáng sản mà chúng ta đã xuất đi với giá cao hơn Để đảm bảo tính ổn định và bền vững cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, việc quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản phải được nâng cao và chất cũng như về lượng; trước mắt chúng ta phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản. Có như vậy, chúng ta mới có thể đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan; sử dụng tài nguyên khoáng sản hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả về kinh tế và hài hòa về vấn đề môi trường, cũng như có khả năng giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển và bảo vệ môi trường, công bằng xã hội.

pdf98 trang | Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1147 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệt để, tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên khoáng sản v.v... - Tình trạng khai thác khoáng sản trái phép vẫn còn diễn ra Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong công tác giải tỏa các tụ điểm khai thác khoáng sản trái phép thời gian qua nhưng hoạt động khai thác khoáng sản trái phép, nhất là đối với khai thác trái phép cát sỏi lòng sông, lòng hồ tại nhiều địa phương vẫn còn diễn ra khá công khai, quy mô đáng kể như đã nêu trên. Hậu quả của hoạt động khai thác khoáng sản trái phép là: gây mất trật tự an ninh, xã hội; gây thất thoát tài nguyên khoáng sản của quốc gia; gây hậu quả khá nghiêm trọng về môi trường mà không được xử lý như: thiếc sa khoáng (Quỳ Hợp - 64 Nghệ An), vàng sa khoáng (Cao Bằng), vàng sa khoáng Thần Sa - Khắc Kiệm (Thái Nguyên), crômit sa khoáng Cổ Định (Thanh Hóa), vàng sa khoáng, vàng gốc (Quảng Nam), vàng gốc (Lào Cai), vàng sa khoáng (Lai Châu), than (Hải Dương, Quảng Ninh ) v.v... - Công tác thanh tra, kiểm tra Công tác này thời gian qua đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại hạn chế đó là: lực lượng cán bộ làm công tác thanh tra ở Trung ương cũng như địa phương còn thiếu, chưa đáp ứng yêu cầu cả về số lượng, chất lượng; phương tiện, thiết bị, kinh phí còn thiếu không đáp ứng yêu cầu công tác thanh tra chuyên ngành. Do đó, kết luận thanh tra , kiểm tra thường chung chung, chưa cụ thể. Nội dung thanh tra chủ yếu tập trung vào các vấn đề về pháp lý, hồ sơ mà chưa quan tâm đến nội dung quản trị tài nguyên khoáng sản của các chủ thể khai thác khoáng sản như: công tác quản lý ranh giới mỏ; công tác lập bản đồ hiện trạng, mặt cắt hiện trạng; công tác thống kê, kiểm kê trữ lượng khoáng sản đã khai thác; tổn thất khoáng sản đã khai thác; việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm, tối đa khoáng sản trong khai thác.... - Nguồn thu cho ngân sách Nhà nước trực tiếp từ hoạt động khoáng sản còn hạn chế Tài nguyên khoáng sản là một trong những nguồn lực để phát triển đất nước, cần phải được khai thác, sử dụng hợp lý, có hiệu quả để phát huy sức mạnh của nó. Tuy nhiên, nguồn thu của Nhà nước từ tài sản tài nguyên khoáng sản chưa nhiều, ngoài các khoản thuế như thuế doanh thu, thuế thu nhập doanh nghiệp thì Nhà nước chỉ có nguồn thu thông qua thuế tài nguyên. Trong thực tế, khi có giấy phép khai thác khoáng sản, các doanh nghiệp, nhất là Công ty TNHH, doanh nghiệp tư nhân...dễ dàng chuyển nhượng quyền khai thác với nguồn thu đáng kể mà Nhà nước không thu được khoản phí hoặc thuế nào. Trong khi đó, nguồn thu của Nhà nước thông qua 65 việc cấp giấy phép khai thác không đáng kể, chưa thực sự phát huy được giá trị thực của nguồn tài sản này. Điều này gây khó khăn cho việc tăng thu ngân sách Nhà nước từ hoạt động khai thác khoáng sản nhằm điều tiết lợi ích trở lại cho người chủ thực sự của tài sản này là người dân. Mặt khác, các Doanh nghiệp đứng ra khai thác khoáng sản và nộp ngân sách nhà nước như thuế tài nguyên, phí bảo vệ môi trường, tiền cấp quyền khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, hiện nay các nguồn thu ngân sách từ các khoản này chủ yếu là do doanh nghiệp tự khai báo sản lượng, trữ lượng mà nhà nước chưa có cơ chế để kiểm soát được việc kê khai này. Nguồn thu từ khoáng sản chưa kiểm soát được dẫn đến thất thu. 2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế * Về thể chế, chính sách - Một số văn bản quy phạm pháp luật về khoáng sản do yêu cầu về tiến độ soạn thảo đã bỏ qua bước khảo sát thực tế đã làm giảm tính thực tiễn của những văn bản quy phạm pháp luật này, gây khó khăn khi thi hành. - Do trải qua nhiều giai đoạn, chuyển qua nhiều Bộ quản lý nên hệ thống văn bản pháp luật về khoáng sản hiện hành bộc lộ nhiều tồn tại. Hoạt động khoáng sản của các tổ chức, cá nhân còn bị điều chỉnh bởi một số văn bản pháp luật khác như: Bảo vệ môi trường, Đất đai, Tài nguyên nước, Tài nguyên rừng, v.v... Trong khi các văn bản luật nêu trên đều đã được sửa đổi để ban hành mới hoặc đã được sửa đổi, bổ sung thì một số quy định của pháp luật về khoáng sản chưa kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp gây khó khăn cho công tác quản lý, nhất là tại các địa phương. - Xuất phát từ thực tiễn hoạt động khai thác khoáng sản (chủ yếu là cát, sỏi, sét gạch ngói, đá chẻ v.v...) theo hình thức thủ công, nhỏ lẻ vì mục đích mưu sinh của hộ gia đình, cá nhân diễn ra khá phổ biến, không thể ngăn cấm nhưng không áp dụng quy định thủ tục hành chính hiện hành, chưa có quy 66 định quản lý hoạt động này trong pháp luật về khoáng sản nên một số địa phương đã “linh hoạt” quy định phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, cho Sở Tài nguyên và Môi trường như đã nêu trên. - Cơ chế bảo vệ tài nguyên khoáng sản chưa khai thác, ngăn chặn hoạt động khai thác khoáng sản trái phép chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính như hiện nay kém hiệu quả, chưa phù hợp với đặc điểm và thực trạng công tác quản lý nhà nước về khoáng sản. Do đó, hoạt động khai thác khoáng sản trái phép chỉ được ngăn chặn mang tính tức thời, không giải quyết triệt để, nguy cơ tái diễn cao như đã xảy ra trong thời gian qua. Trên thực tế, các địa phương vẫn chưa nghiên cứu, đề xuất được cơ chế, chính sách, giải pháp bảo vệ tài nguyên khoáng sản hữu hiệu theo hướng gắn trách nhiệm của Ủy ban nhân dân cấp huyện, xã và quyền lợi của người dân địa phương nơi có khoáng sản. * Về công tác lập, phê duyệt, triển khai quy hoạch khoáng sản, khoanh định và phê duyệt khu vực cấm, tạm thời cấm hoạt động khoáng sản - Hầu hết các quy hoạch (trừ quy hoạch khoáng sản làm nguyên liệu xi măng) chỉ nêu tên mỏ, khu vực mỏ hoặc địa danh có mỏ đưa vào quy hoạch mà không có tọa độ, diện tích cụ thể, điều này gây khó khăn khi xem xét, cấp giấy phép hoạt động khoáng sản, cũng như xác định các khu vực nằm ngoài quy hoạch của Trung ương (để xác định thẩm quyền cấp phép của UBND cấp tỉnh). - Một số quy hoạch ngay thời điểm phê duyệt đã không cập nhật các thông tin mới nhất về các dự án thăm dò, khai thác đã và đang triển khai (không có phương án xử lý đối với các dự án đang triển khai trước thời điểm phê duyệt quy hoạch); việc xác định sản lượng quặng tinh theo từng giai đoạn nêu trong quy hoạch không có giai đoạn “quá độ” chuyển tiếp (titan), chưa phù hợp với thực tế hoạt động khai thác của các doanh nghiệp (quy hoạch titan, chì - kẽm v.v..). Một số quy hoạch chưa có sự thống nhất, đồng bộ về tiến độ thực hiện dự án giữa giai đoạn thăm dò và khai thác (nêu trong quy hoạch dự án sẽ 67 khai thác giai đoạn 2008 – 2015 nhưng giai đoạn trước đó không có trong danh mục thăm dò, hoặc ngược lại như quặng sắt, đá ốp lát v.v...). Dẫn đến tình trạng, ngay sau khi phê duyệt đã có nhu cầu điều chỉnh quy hoạch. - Phần lớn khoáng sản có tính đa công dụng, vừa sử dụng làm vật liệu xây dựng, vừa sử dụng được để làm khoáng chất công nghiệp và các lĩnh vực khác cùng tồn tại trong một mỏ khoáng sản (đá hoa trắng, caolin - fensat, đá vôi, điatomit, bentonit v.v...). Nhưng nội dung quy hoạch thăm dò, khai thác một mỏ khoáng sản lại được thể hiện trong 02 Quy hoạch nên khó có sự đồng bộ và khó khăn khi thực hiện quy hoạch sau khi phê duyệt. - Quy hoạch các khoáng sản nêu trên sau khi được Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Công Thương phê duyệt, các địa phương cũng lập và phê duyệt đối với các khu vực ngoài quy hoạch Trung ương. Tuy nhiên, phần lớn trước khi phê duyệt Quy hoạch không có ý kiến của Bộ quản lý chuyên ngành. Do đó, nhiều quy hoạch địa phương đã duyệt có bất cập (công suất khai thác, chế biến như titan, quặng sắt, magan, chì - kẽm lớn hơn nhiều so với quy hoạch của Trung ương) như Cao Bằng, Bắc Kạn v.v... - Sau khi quy hoạch khoáng sản của Trung ương phê duyệt, việc công bố công khai nội dung quy hoạch cũng như hướng dẫn thực hiện quy hoạch gần như chưa thực hiện. Dẫn tới tình trạng mỗi địa phương hiểu theo một cách khác nhau và thực hiện cũng khác nhau, không đúng nội dung quy hoạch. - Do phải chờ kết quả rà soát 3 loại rừng, khoanh định diện tích khu vực cấm, tạm cấm về an ninh - quốc phòng nên công tác khoanh định, phê duyệt khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản tại nhiều địa phương còn chậm. Dễ dẫn tới việc sau khi cấp giấy phép hoạt động khoáng sản thì khu vực cấp phép lại thuộc diện tích khu vực cấm, tạm cấm hoạt động khoáng sản; * Về bộ máy, cán bộ làm công tác quản lý - Trước năm 1996, khi hoạt động khoáng sản chưa sôi động, hoạt động khai thác khoáng sản trái phép còn ít, công tác quản lý nhà nước về khoáng sản 68 chưa phức tạp; Bộ Công nghiệp nặng có Cục Quản lý tài nguyên khoáng sản Nhà nước và 02 Chi cục khu vực thuộc Cục thực hiện nhiệm vụ quản lý chuyên ngành về khai thác khoáng sản. Hiện nay, hoạt động khoáng sản sôi động với số lượng doanh nghiệp gấp hàng chục lần so với năm 1996; hoạt động khai thác khoáng sản trái phép ngày một tinh vi và phức tạp; phạm vi quản lý nhà nước về khoáng sản rộng (gồm cả hoạt động khảo sát, thăm dò, khai thác, chế biến); yêu cầu công tác quản lý nhà nước về khoáng sản ngày càng cao nhưng lực lượng làm công tác quản lý nhà nước ở Trung ương còn thiếu về số lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý; - Lực lượng cán bộ, công chức thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường trực tiếp là công tác quản lý nhà nước về khoáng sản của các tỉnh, thành phố còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Theo số liệu thống kê của năm 2009 (số liệu từ 40/63 tỉnh, thành phố) chỉ có khoảng 30% cán bộ đang làm công tác quản lý nhà nước về khoáng sản có chuyên ngành về địa chất - mỏ. Cán bộ tại phòng Tài nguyên và Môi trường cấp quận/huyện còn thiếu về số lượng, hầu hết làm công tác kiêm nhiệm, gần như không có chuyên môn về địa chất - mỏ. Thực trạng trên đã làm giảm hiệu quả của công tác quản lý nhà nước về khoáng sản tại địa phương và là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn tới công tác quản lý nhà nước về khoáng sản tại các địa phương còn nhiều yếu kém, bất cập nhất là trong thẩm định hồ sơ cấp giấy phép hoạt động khoáng sản. * Về hệ thống cơ quan thanh tra chuyên ngành khoáng sản Cho đến nay, mô hình tổ chức thanh tra chuyên ngành khoáng sản chưa có một hệ thống thống nhất từ Trung ương đến địa phương. Lực lượng thanh tra chuyên ngành khoáng sản hiện còn quá mỏng, chưa đáp ứng yêu cầu về chuyên môn cũng như nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành, nhất là chuyên ngành khai thác khoáng sản, chức danh thanh tra viên chuyên ngành khoáng sản chưa được xây dựng để bổ nhiệm đã làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác này. 69 Do hạn chế về lực lượng, thiết bị, kinh phí cũng như đặc thù của quản lý khoáng sản với địa bàn quản lý rộng, phần lớn các mỏ nằm ở vùng sâu, vùng xa, hạ tầng giao thông thấp kém nên công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động khoáng sản đối với các doanh nghiệp khai thác khoáng sản của các địa phương chưa được tiến hành thường xuyên; các biện pháp xử lý, chế tài chưa đủ mạnh để buộc doanh nghiệp hoạt động khoáng sản phải thực hiện đúng đề án, thiết kế khai thác mỏ; thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản. * Nguyên nhân về phía các doanh nghiệp hoạt động khoáng sản Mặc dù số lượng doanh nghiệp lên tới gần 2000 doanh nghiệp, nhưng ngoài các doanh nghiệp lớn của Nhà nước như Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam, Tổng công ty Thép Việt Nam, Tổng công ty Hóa chất, Tổng công ty công nghiệp Xi măng, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, một số doanh nghiệp lớn tại một số địa phương thì phần lớn các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản trên địa bàn các tỉnh, thành phố có quy mô trung bình và nhỏ, năng lực tài chính, kinh nghiệm còn hạn chế, chưa đầu tư thích đáng để lựa chọn công nghệ, thiết bị hiện đại nhằm thu hồi triệt để, sử dụng hợp lý tài nguyên khoáng sản trong khai thác, chế biến; Nhiều doanh nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản, nhất là trong khai thác khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường, khai thác khoáng sản kim loại theo quy mô nhỏ có tâm lý đầu tư ngắn hạn, thu hồi vốn nhanh, chỉ quan tâm đến lợi nhuận, không quan tâm nhiều đến thực hiện nghĩa vụ bảo vệ môi trường, trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội trong khai thác, chế biến khoáng sản; Lãnh đạo doanh nghiệp, Giám đốc điều hành mỏ chưa chú trọng nghiên cứu các quy định của pháp luật về khoáng sản; ý thức tuân thủ pháp luật của một số doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân còn thấp nên tình trạng vi phạm pháp 70 luật nhất là về bảo vệ môi trường, tuân thủ quy trình, quy phạm kỹ thuật, an toàn lao động trong khai thác, chế biến khoáng sản vẫn còn tồn tại. * Về phân cấp quản lý, cấp giấy phép, bảo vệ tài nguyên khoáng sản và sự phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản - Chủ trương tăng cường phân cấp cho các địa phương là chủ trương đúng đắn. Thực tế thời gian qua việc phân cấp thẩm quyền cấp giấy phép hoạt động khoáng sản cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, thúc đẩy phát triển sản xuất, cái cách thủ tục hành chính. Tuy nhiên, năng lực của cơ quan tham mưu thực hiện nhiệm vụ phân cấp tại nhiều địa phương còn hạn chế nên nhiều giấy phép, hồ sơ giấy phép đã cấp còn những tồn tại như đã nêu trên. - Hệ thống quản lý nhà nước về khoáng sản được tổ chức vừa theo ngành từ Trung ương xuống địa phương vừa theo quản lý hành chính các cấp. Việc phân cấp này có thuận lợi cho việc thống nhất quản lý theo chức năng và ngành kinh tế nhưng cũng gặp trở ngại nếu không có cơ chế điều hành phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành và địa phương liên quan. Một số trở ngại trong thực tế về vấn đề này gồm: + Chức năng quản lý nhà nước về tài nguyên khoáng sản vừa bị chồng chéo, vừa bị gián đoạn do có nhiều Bộ ngành cùng tham gia công tác quản lý; một số quy định có mâu thuẫn và không rõ ràng với các luật liên quan và liên bộ; có những quy định dẫn đến việc phê duyệt chồng chéo của các Bộ và ngành khác nhau. Ví dụ trong quá trình xin giấy phép đầu tư (Luật đầu tư), giấy phép hoạt động khoáng sản (Luật Khoáng sản), cấp phép xây dựng công trình (Luật Xây dựng), đánh giá tác động môi trường (Luật Bảo vệ môi trường) làm phức tạp và lâu dài quá trình cấp phép. + Việc phân cấp quản lý chưa khoa học, sự phối hợp quản lý, trao đổi thông tin giữa các Bộ ngành chưa hiệu quả. Sự phối hợp rất hạn chế do sự 71 phân công trách nhiệm và phân công quyền hạn giữa các Bộ ngành không rõ ràng, chặt chẽ; + Các cấp quản lý hành chính lồng ghép nhiều chức năng nhiệm vụ vào một phòng chuyên môn, gây nhiều hạn chế cho công tác quản lý. Ví dụ Phòng Tài nguyên và Môi trường thuộc UBND cấp huyện có chức năng tham mưu, giúp UBND cấp huyện QLNN về tài nguyên và môi trường gồm: đất đai, tài nguyên nước, khoáng sản, môi trường, biến đổi khí hậu, biển và hải đảo. Do đó, mỗi cán bộ có thể kiêm nhiệm một số lĩnh vực, dẫn đến tình trạng cán bộ quản lý không có chuyên môn sâu về lĩnh vực được giao quản lý - Chưa có sự trao đổi thường xuyên về mặt chuyên môn, nghiệp vụ trong quá trình thẩm định, cấp giấy phép hoạt động khoáng sản theo thẩm quyền giữa cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh với cơ quan quản lý nhà nước ở Trung ương. Ngoài một số địa phương thực hiện khá thường xuyên việc gửi giấy phép thăm dò, khai thác đã cấp cho Bộ Tài nguyên và Môi trường (kèm theo bản đồ khu vực thăm dò, khai thác) như Lạng Sơn, Hòa Bình, Đồng Nai, Sơn La, Hải Phòng, Đồng Tháp, An Giang v.v... vẫn còn nhiều tỉnh, thành phố không thực hiện. Đã gây khó khăn trong việc phối hợp kiểm tra, giám sát công tác cấp phép và không xử lý kịp thời những trường hợp cấp phép chưa đúng quy định của pháp luật. - Sự phối hợp giữa các Sở, ngành có liên quan tại một số địa phương với chính quyền địa phương trong quản lý tài nguyên khoáng sản chưa khai thác còn chưa hiệu quả; chính quyền địa phương, nhất là cấp xã chưa thực sự cương quyết xử lý lực lượng khai thác khoáng sản trái phép. Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về khoáng sản còn hạn chế, chưa sâu rộng, nhất là đối với nhân dân nơi có mỏ khoáng sản. 72 Tiểu kết Chương 2 Ở Chương 2, tác giả đã nêu tổng quát về hoạt động khai thác tài nguyên khoán sản, về loại hình khoáng sản được khai thác, loại hình doanh nghiệp tham gia khai thác khoáng sản; Hệ thống thể chế chính sách liên quan đến quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản hiện nay: hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản.Tác giả đã làm rõ được thực trạng QLNN đối với khai thác tài nguyên khoáng sản giai đoạn 2002-2016 đồng thời đánh giá về những kết quả đạt được, những tồn tại hạn chế trong QLNN về khai thác tài nguyên khoáng sản đồng thời tìm ra nguyên nhân của những hạn chế đó để từ đó nghiên cứu, đề xuất các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản Việt Nam. 73 Chương 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KHAI THÁC TÀI NGUYÊN KHOÁNG SẢN VIỆT NAM 3.1. Bối cảnh sắp tới Việt Nam đang thay đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh hội nhập, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ hợp tác trên tất cả các lĩnh vực về kinh tế-xã hội. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã nêu rõ: "Mô hình tăng trưởng trong thời gian tới kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, đổi mới và sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững (hướng tới các mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030 của Liên hợp quốc); giải quyết hài hòa giữa mục tiêu trước mắt và lâu dài, giữa phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng, an ninh giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân”. Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập trên nhiều phương diện, coi hội nhập như là một động lực quan trọng cho sự phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực khai thác sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường đang tạo ra những ràng buộc cho Việt Nam và làm cho Việt Nam ngày càng phải hài hòa với các quy tắc và tiêu chuẩn quốc tế được thừa nhận rộng rãi. Điều đó cũng góp phần thúc đẩy Việt Nam phải có một chiến lược quản lý và sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững và hợp lý để đảm bảo nguồn 74 lực phát triển lâu dài. Do vậy, các chính sách pháp luật về tài nguyên khoáng sản cũng như QLNN cần có những quy định cụ thể đối với các hoạt động kinh tế trong nước nhằm đảm bảo và thúc đẩy việc sử dụng tối ưu, hiệu quả và đồng thời bảo vệ được các nguồn tài nguyên. Hợp tác quốc tế trong quản lý tài nguyên, khoáng sản nhằm tranh thủ các cơ hội hỗ trợ về tài chính, công nghệ từ các hoạt động hợp tác đa phương và song phương nhằm góp phần giải quyết những thách thức về cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm và suy thoái môi trường; thực hiện có hiệu quả các điều ước, thỏa thuận quốc tế liên quan đến lĩnh vực khoáng sản mà Việt Nam đã ký kết, phê chuẩn và tham gia, qua đó nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. 3.2. Quan điểm, mục tiêu Quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản là trách nhiệm không chỉ đối với nhà nước (đại diện chủ sở hữu) mà còn là trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản (trực tiếp quản lý, khai thác) nhằm đạt mục tiêu “Khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, có hiệu quả tài nguyên khoáng sản”. Nhằm phát huy nguồn lực tài nguyên khoáng sản trong thời kỳ đổi mới, Ngày 25/4/2011, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 02-NQ/TW về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến 2030. Căn cứ Nghị quyết của Bộ Chính trị, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Chính phủ đã ra Quyết định số 2427/QĐ-TTg ngày 22 tháng 12 năm 2011 về việc Phê duyệt Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Căn cứ Luật Khoáng sản năm 2010 được thông qua tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XII và Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25 tháng 4 năm 2011 75 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan hoàn thành Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. 3.2.1. Các quan điểm cơ bản Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản ở các văn bản trên là đúng đắn và hợp lý. Tác giả luận văn đồng ý với các quan điểm đó, mà các nội dung chính được thể hiện ở: - Khoáng sản là tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do nhà nước thống nhất quản lý, là nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội đất nước, phải được điều tra, thăm dò, đánh giá đúng trữ lượng và có chiến lược, quy hoạch, kế hoạch sử dụng hiệu quả, góp phần vào tăng trưởng chung và bền vững của nền kinh tế. Là đại diện chủ sở hữu về khoáng sản, Nhà nước phải thể hiện đầy đủ quyền của chủ sở hữu, nhất là quyền định đoạt đối với khoáng sản khi giao cho tổ chức, cá nhân quản lý, khai thác. - Tài nguyên khoáng sản nước ta đa dạng về chủng loại; một số khoáng sản có tài nguyên, trữ lượng lớn, do vậy cần phải hình thành một số ngành công nghiệp khai thác chế biến quy mô công nghiệp với thời gian lâu dài như: dầu khí, bô-xit, titan - zircon, đất hiếm, a-pa-tit, đá nguyên liệu xi măng, đá ốp lát v.vTuy nhiên, khoáng sản là tài nguyên không tái tạo nên phải được quản lý, bảo vệ, khai thác sử dụng hết sức hợp lý, triệt để tiết kiệm, sự thật có hiệu quả cao. - Việc khai thác tài nguyên khoáng sản phải tính đến nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài của đất nước, có tính đến xu hướng tiến bộ của khoa học công nghệ trong lĩnh vực sử dụng công nghệ mới và vật liệu thay thế. - Nhanh chóng đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân lành nghề, từng bước làm chủ việc thăm dò và khai thác, chế biến khoáng sản, 76 đầu tư thêm thiết bị và công nghệ tiến tiến cho công tác địa chất, khai khoáng và chế biến khoáng sản. - Phát triển công nghiệp khai khoáng phải đi đôi với đảm bảo an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường, bảo vệ cảnh quan, di tích lịch sử, văn hóa; bảo đảm hài hòa lợi ích thu được từ khai thác và chế biến khoáng sản giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân nơi có khoáng sản được khai thác, chế biến. 3.2.2. Các mục tiêu Chính sách, văn bản pháp luật của nhà nước về quản lý sử dụng tài nguyên khoáng sản đã được điều chỉnh, bổ sung theo từng giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của đất nước và bối cảnh quốc tế. Chính sách, các văn bản quy phạm pháp luật về tài nguyên khoáng sản từng bước được điều chỉnh từ quan điểm khai thác phục vụ phát triển kinh tế trước mắt (nhu cầu nguyên liệu, nhiên liệu, chất đốt), chuyển sang quan điểm khai thác vì mục tiêu lâu dài, bảo vệ môi trường và đảm bảo hài hòa vì lợi ích xã hội, quyền lợi người dân vùng khai thác khoáng sản a) Phấn đấu đến năm 2020 hoàn thành công tác lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỷ lệ 1:50.000 và các diện tích biển ven bờ sâu đến 30m nước. Xây dựng chuyên ngành điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản ở mức hiện đại, đủ năng lực tìm kiếm, phát hiện mỏ mới với độ sâu đến 1.000m nhằm đánh giá đầy đủ, toàn diện tiềm năng khoáng sản trên đất liền, ở đáy biển và thềm lục địa của đất nước. b) Nâng tỉ trọng ngành công nghiệp khai khoáng trong GDP từ khoảng 10% hiện nay lên 15-20% vào năm 2020 và tiếp tục tăng vào những năm tiếp theo; tăng tỉ trọng công nghiệp khai khoáng trong sản xuất công nghiệp. Hình thành và phát triển một số ngành công nghiệp khai thác, chế biến sâu như lọc, hóa dầu, sắt, thép, đồng, chì - kẽm, phân bón, hóa chất, chế biến kim loại quý hiếm (titan, đất hiếm), alumin – nhôm, điện (điện than, điện khí, điện nguyên tử, điện địa nhiệt), xi măng, vật liệu xây dựng có tầm cỡ trong khu vực. c) Tăng dự trữ một số khoáng sản chiến lược vì lợi ích lâu dài của quốc gia. 77 3.2.3. Mục tiêu cụ thể a) Đối với công tác điều tra cơ bản địa chất về khoáng sản - Lập bản đồ địa chất và điều tra khoáng sản tỉ lệ 1:50.000 đạt 90% diện tích phần đất liền, diện tích biển ven bờ sâu đến 30m nước, diện tích các đảo; làm rõ hơn về cấu trúc địa chất, mức độ phân bố khoáng sản và phát hiện, khoanh định các diện tích có triển vọng về khoáng sản. - Điều tra, đánh giá ở độ sâu 500m để làm rõ tiềm năng một số loại khoáng sản quan trọng, chiến lược, có quy mô lớn như: chì, kẽm, đồng, thiếc, vàng, sắt, đất hiếm, urani và đầu tư điều tra, đánh giá tổng thể một số khoáng sản có tiềm năng lớn chưa được đánh giá như: bo xit, than, nước khoáng- nước nóng, đá hoa trắng, cát thủy tinh, đá ốp lát. - Tăng cường năng lực và đổi mới thiết bị, công nghệ tiên tiến, có độ chính xác cao, đáp ứng các yêu cầu về độ sâu điều tra, đánh giá và độ chính xác trong phân tích mẫu địa chất, khoáng sản; xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu thống nhất về địa chất khoáng sản trên phạm vi cả nước. - Xây dựng đội ngũ cán bộ điều tra, thăm dò địa chất - khoáng sản có năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu đổi mới; xây dựng chính sách thu hút cán bộ ngành địa chất; tăng cường hợp tác quốc tế về kỹ thuật trong điều tra cơ bản địa chất - khoáng sản. b) Đối với hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản - Đầu tư cải tạo, mở rộng đối với các mỏ khoáng sản đang hoạt động theo quy hoạch khoáng sản đã duyệt; đầu tư cải tạo công nghệ, thiết bị hoặc thay thế các cơ sở chế biến khoáng sản đã lạc hậu, hệ số thu hồi khoáng sản thấp, gây ô nhiễm lớn tới môi trường. - Đầu tư bằng ngân sách Nhà nước để thăm dò một số loại khoáng sản chiến lược như: urani, đất hiếm và một số mỏ khoáng sản để đấu giá quyền khai thác khoáng sản. 78 - Hình thành một số cụm công nghiệp khai khoáng - chế biến khoáng sản tập trung cho một số loại khoáng sản như than đá, đồng, thép, bô - xít - nhôm, cromit, titan-zircon, đất hiếm, chì - kẽm, đá ốp lát, cát trắng; tăng cường đầu tư các dự án chế biến sâu khoáng sản. 3.2.4. Yêu cầu công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực khai thác khoáng sản trong điều kiện hiện nay Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về khoáng sản. Rà soát các quy hoạch đã được phê duyệt, xây dựng, phê duyệt quy hoạch khoáng sản để định hướng phát triển ngành công nghiệp khai khoáng, bảo đảm sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả khoáng sản, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài; sớm hoàn thiện và công bố và công khai các quy hoạch khoáng sản theo quy định của pháp luật. Điều chỉnh việc phân công quản lý nhà nước về khoáng sản theo nguyên tắc một việc chỉ phân công cho một cơ quan chủ trì thực hiện. Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện mô hình tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản từ Trung ương đến địa phương; nâng cao vị thế, năng lực cơ quan quản lý Nhà nước về khoáng sản. Tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác quản lý Nhà nước về khoáng sản các cấp. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống cơ quan thanh tra chuyên ngành khoáng sản. Nghiên cứu áp dụng mô hình thanh tra khu vực nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả của thanh tra chuyên ngành khoáng sản. Kiểm tra và chấn chỉnh việc phân cấp cấp giấy phép khai thác khoáng sản hiện nay, khắc phục tình trạng sơ hở, gây thất thoát tài nguyên, nhiều tiêu cực trong lĩnh vực này 3.3. Các giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản Căn cứ vào các kết quả phân tích về hạn chế và nguyên nhân của hạn chế ở Chương 2, căn cứ trên các quan điểm và mục tiêu của cá́c văn bản đã 79 liệt kê ở trên, để hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản trong thời gian tới luận văn đề ra một số giải pháp như sau: 3.3.1. Nhóm giải pháp về thể chế chính sách Những tồn tại, bất cập trong quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản, hoạt động khoáng sản nêu trên đã được sửa đổi, bổ sung trong Luật khoáng sản năm 2010. Theo đó, đã làm rõ trách nhiệm bảo vệ khoáng sản chưa khai thác của các cấp chính quyền địa phương, các Bộ liên quan; quy định chặt chẽ việc phân cấp thẩm quyền cấp phép hoạt động khoáng sản cũng như điều kiện cấp phép hoạt động khoáng sản v.v... Ngày 09 tháng 3 năm 2012 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2012/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật khoáng sản. Tuy nhiên, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi hành. Cụ thể như sau: Để tăng cường quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản; chúng ta cần nâng cao hiệu quả phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ giữa cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản và các cơ quan lập quy hoạch khoáng sản ở Trung ương: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương và Bộ Xây dựng cần thống nhất nội dung phối hợp trong công tác quản lý nhà nước về khoáng sản. Các Bộ tăng cường phối hợp hành động, nhất là trong việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về lĩnh vực khoáng sản nói chung và khai thác tài nguyên khoáng sản nói riêng nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lãnh đạo các Bộ, các đơn vị trực thuộc Bộ quản lý về lĩnh vực khoáng sản thường xuyên định kỳ trao đổi, phối hợp giải quyết các vấn đề có liên quan. - Nguyên tắc phối hợp: + Quan hệ phối hợp được dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ, đảm bảo hiệu quả của công tác; tránh hình thức, chồng chéo, cản trở hoạt động bình thường giữa các bên. 80 + Việc trao đổi thông tin công tác quản lý nhà nước phải được tiến hành thường xuyên nhằm hỗ trợ việc thực hiện các nội dung về quản lý khai thác tài nguyên khoáng sản theo đúng quy định của Pháp luật. - Các Bộ thống nhất thành lập Tổ công tác liên Bộ thực hiện nhiệm vụ rà soát, đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch khoáng sản; đề xuất với Lãnh đạo các Bộ nội dung cần bổ sung, điều chỉnh, báo cáo Thủ tướng Chính phủ hoặc các Bộ trưởng xem xét quyết định điều chỉnh theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ. - Bộ Tài nguyên và Môi trường cung cấp những thông tin mới nhất liên quan tới kết quả điều tra cơ bản địa chất về tài nguyên khoáng sản để Bộ Công Thương, Bộ xây dựng tham khảo, có cơ sở đẩy nhanh công tác lập, phê duyệt Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng khoáng sản. Bộ Công Thương và Bộ Xây dựng cần sớm hoàn chỉnh Quy hoạch phát triển các ngành thăm dò khai thác, chế biến liên quan đến lĩnh vực mình quản lý. - Các Bộ phối hợp cùng làm việc với Ủy ban nhân dân các tỉnh liên quan để kịp thời tìm giải pháp, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về công tác cấp phép cũng như quản lý khoáng sản tại các địa phương trong cả nước. Thành lập Tổ công tác chung để kiểm tra, đôn đốc và xử lý các vấn đề liên quan trong lĩnh vực khoáng sản còn tồn tại ở các địa phương. - Về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng của ba Bộ liên quan đến việc giải quyết các kiến nghị của địa phương: Ba Bộ thống nhất cơ chế phối hợp trong công tác xem xét, trả lời các địa phương liên quan đến việc thăm dò, khai thác khoáng sản để tránh mâu thuẫn, chồng chéo nhằm quản lý chặt chẽ tài nguyên khoáng sản theo đúng quy định của pháp luật. Khi nhận được đề nghị của các địa phương thì các cơ quan chức năng của các Bộ được giao trách nhiệm thụ lý văn bản cần trao đổi, thống nhất ý kiến để trả lời cho các địa phương. Trường hợp không thống nhất sẽ báo cáo Lãnh đạo các Bộ xem xét, giải quyết. 81 - Bộ Xây dựng, Bộ Công thương cần hoàn thành việc đánh giá tình hình thực hiện và rà soát 14 quy hoạch khoáng sản đã phê duyệt theo quy hoạch của Luật Khoáng sản. - Đối với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phối hợp với Bộ Công Thương, Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường rà soát quy hoạch đã phê duyệt, đánh giá tình hình thực hiện quy hoạch làm cơ sở xây dựng quy hoạch khoáng sản. 3.3.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện - Nâng cao tính khả thi của quy hoạch khoáng sản: Khẩn trương rà soát nội dung các quy hoạch đã phê duyệt theo quy định của Luật khoáng sản năm 2005 để bổ sung, điều chỉnh theo đúng nguyên tắc, căn cứ, nội dung quy định trong Luật khoáng sản năm 2010, đồng thời tuân thủ định hướng trong Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; có cơ chế phối hợp hiệu quả giữa các Bộ, ngành liên quan và với Ủy ban nhân dân các địa phương trong quá trình lập, phê duyệt quy hoạch khoáng sản nhằm bảo đảm sự đồng bộ, tránh chồng chéo giữa quy hoạch của cả nước và quy hoạch của các địa phương. - Nâng cao chất lượng thẩm định hồ sơ cấp phép hoạt động khoáng sản: Luật khoáng sản năm 2010 đã đưa ra các quy định mới trong công tác thẩm định, cấp phép hoạt động khoáng sản thông qua hình thức đấu giá quyền khai thác khoáng sản; lựa chọn tổ chức, cá nhân cấp phép thăm dò khoáng sản tại khu vực không đấu giá quyền khai thác khoáng sản nhằm minh bạch hóa, công khai hóa và cải cách thủ tục hành chính trong cấp phép hoạt động khoáng sản. Đây là các quy định hoàn toàn mới nên cần có sự thống nhất trong tổ chức thực hiện. Theo đó, Bộ Tải nguyên và Môi trường phải tổ chức thêm các lớp bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ quản lý nhà nước về khoáng sản cho cán bộ làm công tác quản lý khoáng sản tại các địa phương, đặc biệt là cán bộ làm công tác tiếp nhận, thẩm định hồ sơ cấp phép hoạt động khoáng sản. 82 Tăng cường sự phối hợp trong công tác này giữa cơ quan trung ương và địa phương. Trước mắt đề nghị Ủy ban nhân dân cấp tỉnh rà soát các Giấy phép khai thác đã cấp có thời hạn dưới 5 năm để điều chỉnh thời hạn khai thác phù hợp trữ lượng khoáng sản đã phê duyệt để tổ chức, cá nhân khai thác có đủ cơ sở pháp lý và yên tâm đầu tư lâu dài cho khai thác khoáng sản theo quy định. - Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác khoáng sản; đổi mới cơ chế bảo vệ khoáng sản chưa khai thác: Bộ Tài nguyên và Môi trường triển khai đề án tăng cường năng lực cơ quan thanh tra chuyên ngành khoáng sản từ trung ương đến địa phương nhằm hoàn thiện hệ thống tổ chức cũng như lực lượng của cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành khoáng sản từ trung ương đến địa phương. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản, kiên quyết xử lý nghiêm theo quy định các hành vi khai thác không có thiết kế mỏ; khai thác gây mất an toàn lao động, gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; gây bức xúc đối với dư luận, xã hội. Bộ Tài nguyên và Môi trường tiến hành nghiên cứu, đề xuất cơ chế bảo vệ khoáng sản chưa khai thác gắn quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, địa phương nơi có mỏ khoáng sản. Theo đó có văn bản hướng dẫn việc thực hiện quy định về bảo vệ khoáng sản chưa khai thác theo hướng làm rõ trách nhiệm và mối quan hệ phối hợp giữa Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc bảo vệ khoáng sản chưa khai thác; hàng năm, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chủ động lập dự chi ngân sách của địa phương cho công tác bảo vệ khoáng sản chưa khai thác làm cơ sở thực hiện. - Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật: Các Bộ ngành, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tăng cường phối hợp thực hiện tốt và thường xuyên công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản cũng như bảo vệ môi trường trong hoạt động khai thác khoáng sản để 83 nâng cao nhận thức, trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản cũng như nâng cao năng lực hệ thống quản lý nhà nước về khoáng sản các cấp; nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền địa phương và nhân dân, nhất là người dân nơi có mỏ khoáng sản. Tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức cho cộng đồng dân cư về việc sử dụng hợp lý, tiết kiệm và bảo vệ tài nguyên khoáng sản, đồng thời khuyến khích cộng đồng dân cư tham gia vào các hoạt động bảo vệ mỏ khoáng sản, đặc biệt đối với các mỏ nhỏ, phân tán và các loại khoáng sản có độ nhạy cảm cao về kinh tế, dễ gây ô nhiễm môi trường. 3.3.3. Nhóm giải pháp về nguồn lực - Bộ Tài nguyên và Môi trường, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng tham gia phối hợp cùng các địa phương liên quan thực hiện tốt các nhiệm vụ đã xác định trong quản lý nhà nước về khoáng sản. Tiếp tục, tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ kiện toàn tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về khoáng sản từ Trung ương đến địa phương. Hằng năm, Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý nhà nước về khoáng sản, nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản cho tất cả lãnh đạo Sở Tài nguyên và Môi trường, cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước về khoáng sản tại địa phương trên phạm vi toàn quốc. - Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chỉ đạo rà soát, có giải pháp để nâng cao năng lực cả về bộ máy, cán bộ quản lý và điều kiện cơ sở vật chất cơ quan chuyên môn quản lý nhà nước về khoáng sản để có đủ năng lực thực hiện các nhiệm vụ đã phân cấp trong Luật khoáng sản năm 2010. Trong khi chưa bổ sung, tăng cường lực lượng cán bộ trực tiếp làm công tác quản lý nhà nước về khoáng sản tại Sở Tài nguyên và Môi trường, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần chủ động 84 phối hợp với cơ quan chuyên môn của Bộ Tài nguyên và Môi trường để trao đổi kinh nghiệm và nghiệp vụ trong công tác thẩm định hồ sơ cấp phép hoạt động khoáng sản, công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động khoáng sản. Tăng cường nhân lực của hệ thống quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường, đặc biệt là cán bộ quản lý tài nguyên và môi trường cấp huyện. Nghiên cứu, đề xuất biên chế cán bộ chuyên trách về khoáng sản và môi trường cấp xã, phường nhằm tăng cường năng lực thực thi của cấp huyện, xã. 3.3.4. Tham gia sáng kiến minh bạch công nghiệp khai thác khoáng sản (gọi tắt là EITI) Sáng kiến minh bạch trong ngành công nghiệp khai thác (EITI – Extractive Industries Transparency Initiative) là tiêu chuẩn toàn cầu nhằm thúc đẩy tính minh bạch nguồn thu và trách nhiệm trong ngành khai thác khoáng sản. Sáng kiến này có phương pháp luận chặt chẽ nhưng linh hoạt nhằm theo dõi và đối chiếu các khoản thanh toán của công ty và nguồn thu chính phủ ở cấp quốc gia. Quá trình thực hiện EITI được giám sát bởi các thành viên từ chính phủ, các công ty và xã hội dân sự trong nước. Ủy ban EITI và Ban Thư ký quốc tế giám sát phương pháp EITI quốc tế. Liên minh EITI được thiết lập vào tháng 10/2002, do cựu thủ tướng Anh Tony Blair giới thiệu đề xuất tại Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tại Johanesburg, Nam Phi. Đến tháng 06//2003, Hội nghị toàn thể lần 1 khởi động EITI tại Anh. Năm 2005, trong phiên họp toàn thể EITI lần thứ hai tại Luân Đôn, Tập đoàn Tư vấn Quốc tế (IAG) đã đề xuất phương hướng hoạt động và cơ chế quản lý EITI. Đến nay, thế giới có 51 quốc gia đã thực thi EITI, gồm các quốc gia phát triển như Anh, Mỹ, Nauy và quốc gia đang phát triển như Indonesia, Phillipines, Nigieria. Hiệu quả của EITI cũng đã được chứng minh ở nhiều quốc gia như Nigieria đã tránh thất thu 1 tỷ đô la Mỹ hàng năm từ lĩnh vực khai khoáng nhờ thực thi sáng kiến này. 85 Tại Diễn đàn Doanh nghiệp vào tháng 12/2014, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam cũng đã cam kết sẽ minh bạch trong quản lý khoáng sản, tận dụng các cơ hội từ hội nhập quốc tế. Việc tuyên bố tham gia EITI sẽ thể hiện cam kết của Chính phủ đối với cộng đồng quốc tế và cộng đồng doanh nghiệp về nỗ lực tăng cường minh bạch và cải cách ngành khai khoáng. Việt Nam cần sớm tham gia EITI để giảm thất thu ngân sách, hỗ trợ việc phối hợp giữa các bộ ngành, tạo môi trường minh bạch để thu hút được các dự án khai có công nghệ tốt và nâng cao hiệu quả khai thác tài nguyên. Hiện nay, EITI phát triển ngày càng mạnh mẽ, trở thành tiêu chuẩn quốc tế hàng đầu phản ánh hiệu quả nền quản trị và tính minh bạch trong ngành công nghiệp khai thác tài nguyên. Đây là một giải pháp tốt nhằm nâng cao hiệu quả ngành công nghiệp khai khoáng hiện nay đã được các quốc gia trên thế giới tham gia, triển khai thực hiện. Đối với các nước thành viên, EITI hứa hẹn cải thiện môi trường đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư và các tập đoàn tài chính. EITI cũng hỗ trợ trong việc tăng cường trách nhiệm giải trình và quản lý tài chính trong khai thác khoáng sản. Đồng thời, giúp quốc gia đó củng cố sự ổn định về kinh tế và chính trị, góp phần ngăn chặn các cuộc xung đột trong ngành dầu khí và khai khoáng. Đối với các công ty và nhà đầu tư, EITI góp phần giảm nhẹ những rủi ro do yếu tố chính trị. Sự bất ổn về chính trị do sự quản lý yếu kém là một mối đe dọa đối với các nhà đầu tư trong khi ngành công nghiệp khai khoáng có đặc điểm đòi hỏi vốn đầu tư lớn và sự ổn định lâu dài. Khi có EITI, các công ty và nhà đầu tư sẽ được đảm bảo hoạt động trong một môi trường kinh doanh ổn định hơn. Ngoài ra, EITI cũng đóng vai trò cung cấp thông tin cho cộng đồng về tình trạng thu chi và sự quản lý của chính phủ trong sử dụng tài nguyên quốc 86 gia, giúp người dân đánh giá tính hợp lý của những hoạt động này. EITI cũng góp phần nâng cao vị thế của xã hội dân sự. Quy định yêu cầu vai trò thiết kế, giám sát và đánh giá quá trình báo cáo EITI tạo nên nền tảng đảm bảo sự tham gia một cách công bằng, tự do và độc lập của xã hội dân sự đối với chính phủ và các công ty khai thác. Thông qua quá trình này, các tổ chức xã hội dân sự sẽ từng bước cải thiện sự hiểu biết về ngành công nghiệp khai khoáng cũng như được trang bị kỹ năng tốt hơn để giám sát và đảm bảo rằng nguồn thu từ khai thác và buôn bán tài nguyên thiên nhiên được sử dụng hợp lý cho lợi ích cộng đồng. EITI đồng thời cũng giúp tăng cường vị thế cho xã hội dân sự bằng cách cho phép các cá nhân, tổ chức theo dõi, vận động chính sách, tiếp cận và giám sát thông tin liên quan đến nguồn thu từ tài nguyên thiên nhiên, một điều hầu như chưa từng có tiền lệ trước đó. Thực hiện minh bạch hóa trong ngành công nghiệp khai khoáng ở Việt Nam sẽ góp phần quan trọng tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về khoáng sản trong thời gian tới và cần tiếp tục triển khai theo một lộ trình hợp lý, phù hợp với pháp luật và điều kiện cụ thể của Việt Nam. 3.3.5. Giải pháp khác Ngoài các giải pháp nêu trên, để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về khoáng sản cũng như hoạt động khai thác khoáng sản, bảo đảm khoáng sản được khai thác triệt để, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trước mắt cũng như lâu dài cần thực hiện một số giải pháp hỗ trợ, thúc đẩy như sau: a) Có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp có năng lực về vốn, công nghệ, thiết bị đầu tư thăm dò, khai thác, chế biến sâu khoáng sản tại mỏ có điều kiện địa chất - khai thác mỏ khó khăn; khai thác các khu vực mỏ quặng nghèo; áp dụng công nghệ tiên tiến để thu hồi tối đa khoáng sản chính, khoáng sản đi kèm trong khai thác, chế biến; 87 b) Bộ Tài nguyên và Môi trường đề xuất trao “Giải thưởng khoáng sản“ hàng năm để vinh danh các doanh nghiệp khai thác khoáng sản theo một số tiêu chí: đầu tư có hiệu quả về vốn, công nghệ, thiết bị để khai thác, chế biến khoáng sản nhằm thu hồi tối đa, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả khoáng sản; chấp hành tốt quy định pháp luật về khoáng sản cũng như bảo vệ môi trường trong khai thác khoáng sản; thực hiện tốt trách nhiệm hỗ trợ địa phương và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân nơi có mỏ được khai thác; thực hiện tốt các nghĩa vụ tài chính trong lĩnh vực khoáng sản. 88 KẾT LUẬN Thực trạng ngành công nghiệp khai thác khoáng sản trong những năm qua đã bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, tồn tại. Gây ra những tác động bất lợi cho nền kinh tế, môi trường sinh thái và ổn định xã hội. Nguyên nhân chủ yếu của các tồn tại này là do trong những năm qua chúng ta vẫn còn quá chú trọng vào phát triển kinh tế, nhất là tăng trưởng GDP, ít chú ý tới môi trường thiên nhiên nên tình trạng khai thác khoáng sản bừa bãi gây suy thoái môi trường và mất cân bằng hệ sinh thái đang diễn ra ở nhiều nơi. Nghiêm trọng nhất là hoạt động của các mỏ khai thác than, quặng kim loại và vật liệu xây dựng. Các khu mỏ đang khai thác hầu hết nằm ở vùng núi và trung du cùng với công nghệ khai thác hiện nay chưa hợp lý, đặc biệt đối với các mỏ kim loại nên mức độ gây ô nhiễm và suy thoái rừng: phá rừng, hủy hoại không khí, phá vỡ các khu sinh thái, hệ thống thủy văn, ô nhiễm nguồn nước ảnh hưởng đến các ngành kinh tế khác như nông nghiệp, du lịch Nếu không có chiến lược và chính sách rõ ràng, trong khoảng thời gian tương lại gần thế hệ con cháu chúng ta sẽ phải nhập khẩu trở lại các quặng thô, hoặc sản phẩm đã qua chế biến của các loại khoáng sản mà chúng ta đã xuất đi với giá cao hơn Để đảm bảo tính ổn định và bền vững cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước, việc quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản phải được nâng cao và chất cũng như về lượng; trước mắt chúng ta phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về khai thác tài nguyên khoáng sản. Có như vậy, chúng ta mới có thể đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên liên quan; sử dụng tài nguyên khoáng sản hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả về kinh tế và hài hòa về vấn đề môi trường, cũng như có khả năng giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển và bảo vệ môi trường, công bằng xã hội. 89 Trước những yêu cầu, thách thức đặt ra từ định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chiều rộng sang chiều sâu, trong giai đoạn phát triển mới vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý tài nguyên. Đó là nhận thức chưa đầy đủ; thu thập thông tin, dữ liệu phục vụ cho việc quản lý các nguồn tài nguyên khoáng sản còn hạn chế, còn nhiều bất cập trong cơ chế phân bổ nguồn lực, kém hiệu quả và thiếu bền vững trong việc khai thác, sử dụng cùng việc chưa quan tâm đúng mức đến bảo vệ, phục hồi, tái tạo các nguồn tài nguyên của đất nước. Luận văn đã xem xét, phân tích thực trạng quản lý nhà nước về khoáng sản nói chung và khai thác tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam nói riêng giai đoạn vừa qua, khái quát bối cảnh sắp tới, đưa ra các quan điểm, mục tiêu và 5 nhóm giải pháp chính để nâng cao hiệu quả QLNN đối với khai thác TNKS. Các giải pháp đó bao gồm: Nhóm giải pháp về thể chế chính sách; nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện; nhóm giải pháp về nguồn lực; nhóm giải pháp về hỗ trợ thúc đẩy; giải pháp về tham gia sáng kiến minh bạch trong công nghiệp khai thác khoáng sản (gọi tắt là EITI). Bên cạnh đó, cần phải nhấn mạnh rằng yếu tố nhận thức đóng vai trò rất quan trọng, do vậy vấn đề nhận thức luôn luôn cần được đặt ra và có các giải pháp phù hợp để nâng cao và điều chỉnh nhận thức cho đúng... để hoạt động QLNN về khai thác TNKS được thực hiện hiệu quả hơn. 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Chính trị, Nghị quyết số 02-NQ/TW ngày 25/4/2011 về định hướng chiến lược khoáng sản và công nghiệp khai khoáng đến năm 2020, tầm nhìn đến 203, Hà Nội. 2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2011), Tài nguyên Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, Hà Nội. 3. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo số 110/BC-BTNMT ngày 15/6/2012 về việc thực hiện chính sách pháp luật về quản lý, khai thác khoáng sản gắn với bảo vệ môi trường, Hà Nội. 4. Chính phủ, Nghị định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12 tháng 11 năm 2012 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công thương. 5. Chính phủ, Nghị định số 62/2013/NĐ-CP ngày 25 tháng 6 năm 2013 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Xây dựng; 6. Chính phủ, Nghị định số 21/2013/NĐ-CP ngày 04 tháng 3 năm 2013 về việc quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tài nguyên và Môi trường. 7. Chính phủ (2010), Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Khoáng sản. 8. Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (2008), Địa chất và tài nguyên Việt Nam, Nxb Khoa học tự nhiên và Công nghệ. 9. Các Quyết định phê duyệt Quy hoạch thăm dò khai thác, chế biến khoáng sản của Thủ tướng Chính phủ và Bộ Công thương, Hà Nội. 10. Học viện Hành chính Quốc gia (2006), Hành chính công, Nxb Khoa học và Kỹ thuật. 91 11. Học viện Hành chính Quốc gia (2012), Giáo trình quản lý nhà nước về khoa học công nghệ và tài nguyên môi trường, Nxb Khoa học và Kỹ thuật. 12. Nguyễn Hữu Hải (chủ biên) (2010), Giáo trình Lý luận hành chính nhà nước, Học Viện Hành chính, Hà Nội. 13. Vũ Cao Đàm (2008), Giáo trình Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Giáo dục. 14. Nguyễn Thành Sơn (2009), Tổng quan về khoáng sản Việt Nam, Hà Nội. 15. Lại Hồng Thanh (2009), Quản lý nhà nước về khoáng sản, Hà Nội. 16. Luật Khoáng sản (2010). 17. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 16/2014/QĐ-TTg 19 tháng 02 năm 2014 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam. 18. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 2427/QĐ-TTg ngày 22 tháng 12 năm 2011 về việc phê duyệt Chiến lược khoáng sản đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, Hà Nội. 19. Tổng cục Địa chất Khoảng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết các năm, Lưu trữ tại Tổng cục, Hà Nội. 20. Trần Xuân Hòa (2009), Cân đối cung cầu, triển vọng và thách thức phát triển bền vững ngành than Việt Nam, Hà Nội. 21. Viện tư vấn và phát triển (2010), Thực trạng quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên khoáng sản trong bối cảnh phát triển bền vững ở Việt Nam, Nxb Khoa học và Kỹ thuật. 22. Website của Chính phủ: chinhphu.vn. 23. Website của Bộ Tài nguyên và Môi trường: www.monre.gov.vn. 24. Website của Bộ Công thương: www.moit.gov.vn. 25. Website của Bộ Xây dựng: www.xaydung.gov.vn. 26. Website của Tổng cục Địa chất Khoáng sản Việt Nam: www.dgmv.gov.vn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_khai_thac_tai_nguyen_khoang_san.pdf
Luận văn liên quan