Phát triển nguồn nhân lực KH&CN là một trong những vấn đề mới
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển bền vững
và hội nhập quốc tế. Điều đó đã thể hiện quan điểm toàn diện, đồng bộ, hài
hoà giữa KH&CN với “phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam”;
“đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực” và
“quản lý, phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”. Đồng thời, là
định hướng quan trọng để các cấp, các ngành, các địa phương và mỗi nhà
khoa học quán triệt, triển khai và vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn, góp
phần thực hiện thắng lợi “sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. Ở bất cứ lĩnh
vực nào, ngành nghề nào, địa phương nào, yếu tố con người vẫn luôn là yếu tố
quyết định đến sự thanh bại, suy vong hay phát triển của một tổ chức. Tổ
chức, đơn vị nào nắm giữ trong tay nguồn nhân lực có trình độ cao đồng
nghĩa với việc nắm trong tay 50% cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn các đơn vị
khác.
Có thể nói, quản lý nhà nước một trong những nội dung quan trọng của
chiến lược về phát triển nguồn nhân lực KH&CN hiện nay, nhằm xây dựng
đội ngũ nguồn nhân lực KH&CN đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước cũng như của tỉnh Quảng Bình.
Trong những năm vừa qua, tỉnh Quảng Bình đã tích cực đưa ra những
chính sách phát triển nguồn nhân lực cũng như chính sách nhằm thu hút
nguồn nhân lực KH&CN về làm việc tại địa phương và đã đạt được nhiều kết
quả tích cực. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân
lực KH&CN tỉnh vẫn còn một số bât cập.114
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, luận văn đã tập trung làm rõ cơ sở lý
luận và đã đạt được những kết quả sau đây:
Thứ nhất, hệ thống hóa lý luận quản lý nhà nước về phát triển nguồn
nhân lực KH&CN tỉnh Quảng Bình, từ đó sự cần thiết quản lý nhà nước về
phát triển nguồn nhân lực KH&CN, và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển
nguồn nhân lực KH&CN.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phát triển
nguồn nhân lực KH&CN tỉnh Quảng Bình, đưa ra những nhận xét, đánh giá
về những mặt đạt được và những hạn chế, nguyên nhân hạn chế trong việc
quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực KH&CN.
Thứ ba, trên cơ sở thực trạng quản lý nhà nước về phát triển nguồn
nhân lực KH&CN tỉnh Quảng Bình, căn cứ vào quan điểm, định hướng, mục
tiêu của Đảng và Nhà nước nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng, luận văn
đã đề xuất một số giải pháp quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực
KH&CN tỉnh Quảng Bình.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 129 trang
129 trang | 
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 5 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ởi nếu những chính sách đưa ra mang 
tính giải pháp, chưa đi đến cùng của kết quả thì không thể gọi là một chính 
sách đã thành công. Có thể thấy ngay từ những đề án cử cán bộ đi đào tạo ở 
nước ngoài của nước ta trong thời gian gần đây. Một trong những nguyên 
nhân xảy ra tình trạng nhiều cán bộ học xong không trở về nước, hoặc trở về 
nước nhưng không làm việc theo như cam kết ban đầu là do khâu quản lý, tổ 
chức còn chưa ăn khớp. Cơ quan xét duyệt cử những cán bộ này đi đào tạo là 
Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nhưng khi những người này trở về thì Bộ Giáo dục 
và Đào tạo lại không phải là người có trách nhiệm về khâu phân công công 
việc cho họ. Sự phối hợp không ăn khớp giữa các cơ quan có thẩm quyền đã 
làm lãng phí ngân sách mà Nhà nước bỏ ra để đào tạo cán bộ, nhằm nâng cao 
chất lượng nhân lực đầu ngành. Với những người không trở về nước, hoặc vi 
phạm cam kết thì dù họ có bồi thường nhưng cũng không thể bù lại tổn thất 
mà Nhà nước đã bỏ ra. Bởi cử họ đi học không chỉ mất chi phí về tiền của, mà 
còn bao gồm cả chi phí cơ hội của những người có năng lực khác. Sau khi họ 
về nước, nếu họ đi làm cho các doanh nghiệp nước ngoài, doanh nghiệp tư 
nhân thì so với số tiền họ bồi thường Nhà nước cũng không phải là vấn đề để 
có thể ràng buộc họ. Do vậy, nếu các Bộ, ban, ngành có sự phối hợp chặt chẽ, 
có chiến lược thu hút, sử dụng nguồn chất xám này thì sẽ khắc phục được 
những tình trạng trên. Do vậy, với mỗi chính sách, chiến lược phát triển 
nguồn nhân lực KH&CN thì cần có kế hoạch cụ thể để phát huy được hiệu 
quả cao nhất. 
Bên cạnh đó, những chính sách đào tạo nguồn nhân lực KH&CN cũng 
cần gắn liền với nhu cầu thực tiễn. Trong thời gian gần đây, tình trạng “thừa 
90 
thầy thiếu thợ”, tình trạng sinh viên không đáp ứng được nhu cầu của nhà 
tuyển dụng cũng như yêu cầu công việc thực tế là hệ quả của việc đào tạo 
chưa thực sự gắn liền với yêu cầu của thị trường. Do vậy, trong đào tạo nguồn 
nhân lực KH&CN cũng phải có chiến lược dài hạn, từ khâu định hướng nghề 
nghiệp, trang bị kiến thức, kỹ năng. Kết quả của đào tạo chính là chất lượng 
nguồn nhân lực KH&CN khi những sinh viên, học viên này làm những công 
việc cụ thể. Đặc biệt đối với nguồn nhân lực KH&CN – nguồn nhân lực lao 
động dựa vào chất xám là chủ yếu thì hệ thống đào tạo lại càng đóng vai trò 
quan trọng. Nó không chỉ đơn thuần trang bị kiến thức để họ có thể làm việc, 
mà hệ thống giáo dục còn tạo cho nguồn nhân lực KH&CN tương lai niềm 
đam mê công việc, môi trường tốt để phát huy óc sáng tạo. Mặt khác, chiến 
lược phát triển nguồn nhân lực KH&CN ở cấp địa phương cũng như các tổ 
chức khác cũng rất quan trọng. Sự nghiệp phát triển con người là sự nghiệp 
chung của đất nước, của toàn dân, trong phát triển nguồn nhân lực KH&CN 
cũng vậy. Nếu chỉ dựa vào nguồn ngân sách của Nhà nước để có những nhân 
tài KH&CN là không đủ. Đối với mỗi địa phương, tổ chức, doanh nghiệp 
cũng phải có định hướng, chiến lược cụ thể để nguồn nhân lực KH&CN của 
mình được nâng cao về chất lượng, tăng lên về số lượng. Sở dĩ như vậy vì 
hiện nay Việt Nam đang xây dựng nền kinh tế thị trường. Mặc dù nền kinh tế 
thị trường mà chúng ta xây dựng là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội 
chủ nghĩa, nhưng đặc trưng của nó là sự cạnh tranh, là giống nhau ở mọi quốc 
gia. Chính sự cạnh tranh trong mỗi đơn vị sẽ làm họ lớn lên, qua đó đất nước 
mới phát triển nhanh và bền vững. Sự cạnh tranh này có thể nhìn nhận dưới 
nhiều góc độ, như cạnh tranh về công nghệ, về vốn, về thương hiệu. Nhưng 
suy đến cùng, sự cạnh tranh gay gắt nhất vẫn là cuộc chạy đua về những nhân 
tài, đặc biệt là nhân tài KH&CN. Xác định được điều này, Đảng ta đã nêu rõ 
trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 – 2020: “xây dựng 
91 
đồng bộ chính sách đào tạo, thu hút, trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng nhân tài 
KH&CN. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt 
động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì sự phát triển của đất nước” [8]. 
Kế thừa, phát triển và cụ thể hoá quan điểm Đại hội XI của Đảng về 
đầu tư cho nguồn nhân lực KH&CN là đầu tư cho phát triển bền vững, trực 
tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh dân tộc, Đại hội XII xác định: “Xây dựng và 
thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đội ngũ cán bộ KH&CN” [9]. 
Đây là lần đầu tiên, vấn đề đào tạo, bồi dưỡng, tạo nguồn cán bộ KH&CN 
được Đảng xác định là một trong những giải pháp quan trọng trong phát triển 
KH&CN. 
Việc xác định chính sách tạo nguồn, bồi dưỡng nguồn nhân lực 
KH&CN trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc XII của Đảng cũng đã thể 
hiện tầm nhìn chiến lược, toàn diện, gắn với thực tiễn của Đảng ta trong quá 
trình lãnh đạo toàn diện công cuộc đổi mới, khẳng định con người là trung 
tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Để KH&CN 
thực sự là quốc sách hàng đầu, là động lực quan trọng nhất để phát triển lực 
lượng sản xuất hiện đại, yêu cầu căn bản và quan trọng nhất là phải có nguồn 
nhân lực KH&CN và có chính sách bồi dưỡng, đào tạo, tạo nguồn nhân lực 
KH&CN. Đồng thời, đây cũng quan điểm chỉ đạo về phát triển giáo dục đào 
tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. 
Thứ ba, về chính sách trọng dụng và tôn vinh đội ngũ cán bộ KH&CN, 
cùng với chính sách phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực KH&CN, 
Đảng có quan điểm nhất quán về việc đãi ngộ, sử dụng, tôn vinh cán bộ 
KH&CN. Đại hội XII khẳng định: “trọng dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ cán 
bộ KH&CN, nhất là các chuyên gia giỏi, có nhiều đóng góp”. Đây là quá trình 
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền 
thống dân tộc về sử dụng và trọng dụng nhân tài của Đảng ta trong thực tiễn 
92 
lãnh đạo đất nước. Xác định phương hướng, quan điểm chỉ đạo về trọng dụng, 
tôn vinh, đãi ngộ cán bộ KH&CN, đặc biệt là những chuyên gia giỏi, những 
người có nhiều đóng góp không những thể hiện quyết tâm của Đảng trong 
phát triển khoa học và công nghệ mà còn xác định vị trí, vai trò của đội ngũ 
cán bộ khoa học trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc và nhân 
dân ta. 
Thứ tư, bảo đảm cơ sở vật chất và môi trường thuận lợi để cán bộ khoa 
học tiếp tục phát huy và phát triển hết khả năng của mình 
Tạo môi trường và điều kiện làm việc thuận lợi để nguồn nhân lực 
KH&CN phát huy cao độ tiềm năng của mình, đồng thời cũng có sự đánh giá, 
đãi ngộ công bằng, bảo đảm các lợi ích xứng đáng với sự đóng góp của mỗi 
cá nhân trên cơ sở “Ưu tiên mọi nguồn lực quốc gia cho phát triển KH&CN”, 
Đại hội XII khẳng định: “Tạo môi trường thuận lợi, điều kiện vật chất để cán 
bộ KH&CN phát triển bằng khả năng và hưởng lợi ích xứng đáng với giá trị 
lao động sáng tạo của mình”[9]. Đây là một trong những nội dung quan trọng, 
là động lực để mỗi cán bộ khoa học phát huy hết khả năng của mình vì lợi ích 
chung của KH&CN và lợi ích của đất nước và của từng cá nhân. 
Thứ năm, gắn phát triển nguồn nhân lực KH&CN về số lượng với chất 
lượng 
Phát triển nguồn nhân lực KH&CN là sự mở rộng quy mô, nâng cao 
chất lượng, xây dựng cơ cấu hợp lý. Những nội dung này phải được thực hiện 
đồng bộ, gắn kết với nhau thì phát triển nguồn nhân lực KH&CN mới có thể 
đạt hiệu quả cao. Trong đó, quan trọng nhất là phải gắn phát triển về số lượng 
với chất lượng của nguồn nhân lực này. 
Thực tiễn phát triển nguồn nhân lực KH&CN Việt Nam còn chưa có sự 
ăn khớp giữa tăng số lượng và nâng cao chất lượng. Mặc dù số lượng nguồn 
nhân lực KH&CN tăng nhanh qua các năm, nhưng chất lượng nguồn nhân lực 
93 
này lại nâng lên ở mức độ kiêm tốn. Số lượng và chất lượng là hai mặt cùng 
tồn tại song song, không tách rời của bất cứ đối tượng nào. Nguồn nhân lực 
KH&CN cũng vậy, nếu chúng ta chỉ chú ý đến phát triển số lượng mà không 
thực hiện song song nâng cao chất lượng thì nguồn nhân lực mà đất nước có 
được mặc dù nhiều nhưng không đáp ứng được yêu cầu công việc. 
Muốn phát triển nguồn nhân lực KH&CN nhanh, hiệu quả thì phải gắn 
liền sự phát triển về số lượng và chất lượng. Chỉ có như vậy mới nhanh chóng 
xây dựng được nguồn nhân lực KH&CN quy mô, có trình độ cao, mang lại 
nhiều đóng góp cho kinh tế - xã hội đất nước. 
Thứ sáu, phát triển nguồn nhân lực KH&CN phải gắn với yêu cầu hội 
nhập quốc tế 
Với mỗi lĩnh vực phát triển của Việt Nam hiện nay, như phát triển 
KH&CN, phát triển các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ đều 
đặt ra yêu cầu là phải gắn liền với hội nhập quốc tế. Hội nhập quốc tế đặt ra 
những yêu cầu mới đối với phát triển nguồn nhân lực KH&CN Việt Nam. Đó 
không chỉ là phát triển số lượng nguồn nhân lực KH&CN ngày càng hùng 
hậu, mà còn là yêu cầu về trình độ chuyên môn, về kỹ năng làm việc. 
Có thể thấy cách mạng KH&CN hiện đại đang diễn ra mạnh mẽ đã mở 
ra một cuộc chạy đua về công nghệ, thông tin. Và một trong những đặc điểm 
của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại này là thời gian thay thế của các thế hệ 
công nghệ ngày càng ngắn lại. Điều đó cũng có nghĩa thời gian những nghiên 
cứu, phát minh để cho ra một thế hệ công nghệ mới ngày càng nhanh. Do vậy, 
muốn không bị tụt hậu, Việt Nam phải phát triển được đội ngũ nguồn nhân 
lực KH&CN có khả năng hội nhập quốc tế nhanh, hội nhập quốc tế theo cả 
chiều sâu và chiều rộng. Nếu không nhanh chóng hội nhập quốc tế để học hỏi, 
nắm bắt xu hướng của thế giới thì một quốc gia đang phát triển sẽ không thể 
đuổi kịp các nước tiên tiến trên con đường hiện đại hóa. Đối với Việt Nam, 
94 
điều này càng trở nên quan trọng, bởi Việt Nam là nước đi sau, KH&CN của 
Việt Nam phần lớn đã trở nên lạc hậu so với thế giới hàng chục năm. Hơn nữa 
Việt Nam cũng là quốc gia đang chuyển giao giữa cái cũ và cái mới, giữa nền 
kinh tế nông nghiệp đi lên kinh tế công nghiệp. Do vậy nguồn nhân lực 
KH&CN có trình độ, không ngừng cập nhật, học hỏi những công nghệ mới 
của nhân loại, áp dụng, sáng tạo những tri thức mới vào nghiên cứu để tạo ra 
những sáng chế có giá trị yêu cầu cấp thiết của Việt Nam hiện nay. 
Hội nhập quốc tế vừa mang lại cơ hội nhưng đồng thời cũng đem đến 
nhiều thách thức cho Việt Nam. Nếu chúng ta không tận dụng được lợi thế là 
nước đi sau, không tận dụng được những tri thức của nhân loại để phát triển 
đất nước thì lợi thế sẽ trở thành thách thức lớn. Để tránh được điều này, Việt 
Nam cần phải có đội ngũ nhân lực KH&CN thực sự chất lượng để có thể biến 
tri thức nhân loại thành tri thức Việt Nam, đưa tri thức Việt Nam trở thành 
động lực cho sự phát triển đất nước. 
ˆ Quan điểm trong quy hoạch phát triển nguồn nhân lực tỉnh Quảng 
Bình thời kỳ 2011-2020 
Một là, phát triển nhân lực nhằm thực hiện thành công các mục tiêu 
phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đến năm 2020. Xác định rõ phát triển nguồn 
nhân lực là nhiệm vụ trọng tâm đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp đổi 
mới và phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Bình. 
Hai là, nâng cao chất lượng con người và chất lượng sống của người 
dân. Phát triển nguồn nhân lực cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong 
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức. 
Ba là, xây dựng chiến lược nguồn nhân lực đến năm 2020 trên cơ sở 
những kết quả đánh giá đúng hiện trạng về nguồn nhân lực của tỉnh. Có biện 
pháp giải quyết hiệu quả những vấn đề vừa cấp bách vừa lâu dài của nguồn 
95 
nhân lực, trong đó, có vấn đề khai thác, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực 
trong các ngành, nghề. 
Bốn là, cải thiện, phát triển cơ sở hạ tầng và nâng cao chất lượng giáo 
dục và đào tạo là những vấn đề quan trọng nhằm tạo ra nguồn nhân lực có 
chất lượng cao. Có chính sách sử dụng nguồn nhân lực đúng đắn, đặc biệt là 
sử dụng nhân lực trí thức và trọng dụng nhân tài. Tạo môi trường thuận lợi để 
người hiền tài phát huy hết khả năng, năng lực cống hiến cho sự nghiệp phát 
triển kinh tế - xã hội của tỉnh nhà. 
Năm là, tăng cường thông tin, dự báo về nguồn nhân lực theo hướng 
rộng rãi và dân chủ, làm cho mọi người thấy được tầm quan trọng của vấn đề 
phát triển nguồn nhân lực đối với phát triển đất nước, của tỉnh trong giai đoạn 
hiện nay. 
Như vậy có thể thấy, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát 
triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực KH&CN, quan điểm của tỉnh Quảng 
Bình trong quy hoạch phát triển nguồn nhân lực đều hướng đến nguồn lực con 
người có trí tuệ cao, có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng. 
Thông qua nền giáo dục tiên tiến trên nền khoa học hiện đại; được trọng dụng 
và đãi ngộ, tôn vinh nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội và hội 
nhập quốc tế. 
3.1.2. Phương hướng và mục tiêu phát triển nguồn nhân lực 
Quyết định số 1136/QĐ-UBND ngày 21 tháng 5 năm 2012 của Ủy ban 
nhân dân tỉnh Quảng Bình về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực 
tỉnh Quảng Bình thời kỳ 2011-2020, đã đề ra phương hướng và mục tiêu cho 
việc phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. 
ˆ Phương hướng phát triển nguồn nhân lực 
Phát triển nguồn nhân lực là một bước đột phá chiến lược, yêu tố quyết 
định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền 
96 
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tạo lợi thế cạnh tranh, bảo đảm đưa 
nền kinh tế của tỉnh phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả. 
Phát triển nhân lực tỉnh Quảng Bình thời kỳ 2011-2020 nhằm đưa nhân 
lực của tỉnh trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để tạo sự phát triển 
bền vững, ổn định xã hội, hội nhập quốc tế. Xây dựng nhân lực chất lượng 
cao có nghĩa là xây dựng đội ngũ nguồn nhân lực KH&CN, nhất là các 
chuyên gia, kỹ sư đầu ngành, công nhân có tay nghề cao, có trình độ chuyên 
môn – kỹ thuật tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực, có đủ năng 
lực nghiên cứu, tiếp cận, chuyển giao và đề xuất những giải pháp khoa học, 
công nghệ, kỹ thuật, giải quyết những vấn đề cơ bản của sự nghiệp CNH-
HĐH đất nước; xây dựng hệ thống các cơ sở đào tạo nhân lực tiên tiến, hiện 
đại, đa dạng, cơ cấu ngành nghề đồng bộ; xây dựng sự nghiệp giáo dục tiên 
tiến, hiện đại và một xã hội học tập toàn diện để tạo nguồn nhân lực chất 
lượng cao. 
Để thực hiện phương hướng phát triển nguồn nhân lực, cần tăng cường 
công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các ngành các cáp 
và toàn thể nhân dân về sự cần thiết phải phát triển nguồn nhân lực nói chung 
và nguồn nhân lực KH&CN nói riêng. Làm cho mọi người thấy rõ vai trò, 
trách nhiệm đào tạo và sử dụng nhân lực KH&CN, biến thách thức về nhân 
lực (số lượng đông, tay nghề thấp, chưa có tác phong công nghiệp) thành lợi 
thế (chủ yếu qua đào tạo), là nhiệm vụ của toàn xã hội, mang tính xã hội, của 
các cấp lãnh đạo, của nhà trường, của doanh nghiệp và của gia đình cũng như 
bản thân mỗi người lao động. Đây chính là thể hiện quan điểm phát triển con 
người, phát triển kinh tế - xã hội vì con người và do con người. 
Tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của các cấp ủy 
Đảng và chính quyền đối với nguồn nhân lực KH&CN. Kịp thời động viên, 
khen thưởng các tập thể, cá nhân hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đẩy mạnh 
97 
công tác phổ biến pháp luật, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về nhân 
lực, việc làm, giáo dục đào tạo, vận động các doanh nghiệp tích cực tham gia 
đào tạo nhân lực để sử dụng với chất lượng ngày càng cao. 
Việc phát triển nguồn nhân lực KH&CN là một trong những nội dung, 
nhiệm vụ quan trọng, chủ yếu của các cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể 
trong công tác chỉ đạo, điều hành quản lý và thực hiện. Đặc biệt đối với các 
ngành Giáo dục và Đào tạo; Lao động, Thương binh và Xã hội; Nội vụ. Cần 
bổ sung thêm nhiệm vụ cân đối, đảm bảo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu 
phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh, trật tự, bảo vệ môi trường trên địa 
bàn tỉnh vào chương trình công tác hàng năm. 
Cần xây dựng định mức biên chế phù hợp với tình hình thực hiện của 
tỉnh nhằm đảm bảo hiệu quả công tác nguồn nhân lực KH&CN, số lượng biên 
chế nguồn nhân lực KH&CN của tỉnh cần được xác định theo vị trí việc làm 
của từng ngành và của từng chức danh. 
Tiếp tục kiện toàn bộ máy tổ chức cũng như củng cố hoàn thiện bộ máy 
hoạt động của các ngành, nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ đội ngũ 
cán bộ quản lý. Tuy nhiên, trong giai đoạn kinh tế thị trường hiện nay, mặc dù 
các Nghị quyết của Đảng, các văn bản pháp luật luôn quan tâm và đề cao vai 
trò của nhân tài khoa học, nhưng trên thực tế chúng ta hầu như chưa có chính 
sách cụ thể nào để thực sự trọng dụng, sử dụng và tôn vinh cán bộ khoa học. 
Đã đến lúc phải thay đổi tư duy về chính sách đãi ngộ và trọng dụng cán bộ 
KH&CN, phải coi đây là một vấn đề cấp bách cần được giải quyết kịp thời 
ˆ Mục tiêu tổng quát 
Xác định đúng nhu cầu về số lượng, cơ cấu và trình độ nhân lực đảm 
bảo yêu cầu nguồn nhân lực thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá tỉnh nhà, 
phát triển nhanh các ngành, lĩnh vực mà tỉnh có lợi thế so sánh, hình thành đội 
ngũ nhân lực có chất lượng theo chuẩn quốc gia, khu vực và quốc tế. 
98 
ˆ Mục tiêu cụ thể 
- Rà soát, điều chỉnh cơ cấu đào tạo nhân lực từ cao đẳng trở lên so với 
trung cấp chuyên nghiệp và đào tạo nghề một cách hợp lý, từng bước nâng 
cao trình độ so với mặt bằng chung của cả nước. 
- Đa dạng hóa các hình thức đào tạo nguồn nhân lực theo hướng nâng 
cao chất lượng, kỹ năng nghề nghiệp, phát huy tối đa năng lực của các cơ sở 
đào tạo, các trường cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề trong tỉnh; 
mở rộng liên kết với các trường chuyên nghiệp và dạy nghề ngoài tỉnh kết hợp 
đào tạo tại chỗ và đào tạo ngoài tỉnh; đẩy mạnh đào tạo nghề theo nhu cầu của 
xã hội, khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư đào tạo và dạy nghề. Đảm 
bảo khoảng 70% tổng số lao động trong các thành phần kinh tế qua đào tạo 
dưới các hình thức và trình độ khác nhau. Cụ thể sẽ tập trung vào nâng cao 
trình độ học vấn của nguồn nhân lực, nâng cao trình độ chuyên môn – kỹ 
thuật. 
+ Giai đoạn 2011-2015: Bổ sung cho nền kinh tế khoảng 53.700 lao 
động được đào tạo phù hợp với điều kiện kinh tế và khả năng phát triển của 
địa phương. 
+ Giai đoạn 2016-2020: Bổ sung cho nền kinh tế khoảng 70.000 lao động 
qua đào tạo. 
- Nâng tỷ lệ lao động có việc làm phù hợp với nghề đào tạo đạt trên 
65%. 
- Tuyển chọn và trọng dụng những người có đức, có tài, tranh thủ khai 
thác và thu hút sự tham gia đóng góp của cán bộ, chuyên gia có trình độ cao 
từ những nơi khác cho sự phát triển của tỉnh. 
ˆ Nhiệm vụ cụ thể 
Thứ nhất, tăng cường chất lượng thông tin về các hoạt động dự báo 
cung – cầu nguồn nhân lực chất lượng cao. Dự báo cung – cầu nguồn nhân lực 
99 
là nhiệm vụ có thể giao cho chính bản thân các cơ sở đào tạo hoặc các cơ sở 
nghiên cứu dự báo có uy tín tiến hành. 
Thứ hai, phát triển và đào tạo các ngành nghề mới đáp ứng nhu cầu 
chuyển đổi ngành nghề, tổ chức lại các doanh nghiệp thuộc các thành phần 
kinh tế, đặc biệt trong lĩnh vực công nghệ cao và áp dụng phương pháp quản 
lý mới. 
Thứ ba, các cơ sở đào tạo cần phát triển các chương trình đào tạo chất 
lượng cao theo hướng tăng cường kiến thức thực tế, kỹ năng nghề nghiệp và 
khả năng ngoại ngữ. 
Thứ tư, tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trong đào tạo nguồn 
nhân lực chất lượng cao với các hình thức đa dạng như mời doanh nghiệp 
tham gia giảng dạy, tổ chức cho học viên thực tập nhiều lần tại doanh nghiệp. 
Thứ năm, tăng cường liên kết và hợp tác với các trường đại học nhằm 
nâng cao năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên, cập nhật giáo trình và tài 
liệu tạo điều kiện cho học viên được tiếp cận với những kiến thức mới của 
nhân loại. 
Thứ sáu, tăng cường đầu tư cho giáo dục đại học và dạy nghề cả về đội 
ngũ giảng viên, chương trình đào tạo, cơ sở vật chất để nâng cao chất lượng 
đào tạo. Tỉnh cần có những cơ chế, chính sách phù hợp để thu hút và sử dụng 
nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ các ngành kinh tế mũi nhọn mà tỉnh 
có lợi thế. Đây là vấn đề mấu chốt làm tăng cung nguồn nhân lực chất lượng 
cao không chỉ từ các cơ sở đào tạo trong nước mà còn có thể thu hút lao động 
có trình độ cao được đào tạo ở nước ngoài như các sinh viên đi du học và Việt 
kiều. 
Thứ bảy, xây dựng cơ chế chính sách để các doanh nghiệp đóng góp 
cho sự nghiệp giáo dục đào tạo. Đồng thời, các doanh nghiệp phải chủ động 
100 
và có trách nhiệm đóng góp về tài chính, cơ sở vật chất và kỹ năng thực hành 
cho các trường và cơ sở dạy nghề. 
Thứ tám, hợp tác, tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức, quốc tế để nâng 
cao năng lực đào tạo của các trường, từ đó nâng cao chất lượng đào tạo. 
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực KH&CN, là công việc không thể 
hoàn thành một sớm một chiều, hay nói cách khác, độ trễ về thời gian trong 
đầu tư vào nguồn nhân lực KH&CN kể từ khi bắt đầu cho đến khi nguồn nhân 
lực KH&CN phát huy hiệu quả phải trải qua một thời gian, một quá trình bền 
bỉ, lâu dài, liên tục, có sự đổi mới và kế thừa. Chính vì vậy, cần phải hết sức 
nhanh chóng thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả để phát triển 
nguồn nhân lực KH&CN phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại 
hoá nền kinh tế - xã hội của tỉnh trong giai đoạn tới. 
3.2. Giải pháp quản lý nhà nước về phát triển nhân lực khoa học và 
công nghệ 
3.2.1. Quy hoạch và kế hoạch hóa nguồn nhân lực KH&CN phù hợp 
với thực tiễn và yêu cầu phát triển của ngành 
Quy hoạch nguồn nhân lực KH&CN là một yêu cầu cấp bách trước mắt 
và lâu dài. Nó có mối quan hệ chặt chẽ với chiến lược phát triển của tỉnh. 
Thực tế cho thấy, quy hoạch nguồn nhân lực KH&CN của các cơ quan 
chuyên môn thuộc UBND tỉnh thời gian qua còn tồn tại nhiều hạn chế. Điều 
này đặt ra yêu cầu cần phải đổi mới và hoàn thiện hoạt động này để góp phần 
xây dựng một đội ngũ nguồn nhân lực KH&CN giỏi về chuyên môn và có 
phẩm chất đạo đức tốt. Trong thời gian tới, hoạt động này cần thực hiện đồng 
bộ các giải pháp cơ bản sau: 
Thứ nhất, xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ của công tác quy hoạch 
và kế hoạch hóa. Quy hoạch và kế hoạch hóa nguồn nhân lực KH&CN phải 
gắn liền với quy mô đào tạo, điều kiện và yêu cầu phát triển của tỉnh. Điều 
101 
này có nghĩa là công tác quy hoạch và kế hoạch hóa cần chú ý đến việc mở 
rộng hay thu hẹp các ngành nghề đào tạo và phải thực hiện đồng bộ, kết hợp 
với quy hoạch và kế hoạch hóa phát triển các nguồn lực khác để phát triển 
nguồn nhân lực KH&CN. 
Thứ hai, áp dụng các biện pháp khảo sát, điều tra trong quy hoạch và kế 
hoạch hóa nguồn nhân lực KH&CN. Việc này được thực hiện nhằm mục đích 
dự báo được sự phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia, khu vực và từng địa 
phương, xu hướng phát triển chung của xã hội hiện đại. Từ đó đưa ra chiến 
lược phát triển đào tạo, ngành nghề, quy mô và chất lượng đào tạo. Đây là cơ 
sở để lập quy hoạch và kế hoạch hóa phát triển nguồn nhân lực KH&CN 
trong mỗi giai đoạn nhất định. 
Thứ ba, quy hoạch và kế hoạch hóa phát triển nguồn nhân lực KH&CN 
cần phải đảm bảo tỷ lệ hợp lý về độ tuổi, trình độ, giới tính của mỗi ngành 
nghề, nhằm khắc phục tình trạng hụt hẫng về đội ngũ, đặc biệt là đội ngũ có 
trình độ chuyên môn cao. Đồng thời, cần phải đảm bảo vừa sử dụng, vừa tạo 
nguồn; sử dụng đi đôi với thử thách và rèn luyện, đảm bảo vừa đủ số lượng 
vừa đạt tiêu chuẩn trình độ, năng lực và chất lượng công tác, xây dựng các 
lớp đào tạo kế tiếp nhau với chất lượng ngày càng được nâng cao. Đồng thời, 
quy hoạch phải dựa vào đánh giá nguồn nhân lực KH&CN đương nhiệm, 
đánh giá bước đi trong khoảng 1 đến 5 năm tới để có kế hoạch đào tạo, bồi 
dưỡng dự nguồn, đáp ứng đòi hỏi phát triển liên tục của đội ngũ nguồn nhân 
lực KH&CN. 
Thứ tư, quy hoạch và kế hoạch hóa nguồn nhân lực KH&CN cần chú 
trọng đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn, trình độ 
quản lý cho đội ngũ nguồn nhân lực KH&CN theo chương trình tiên tiến, 
chương trình hợp tác đầu tư với nước ngoài để đáp ứng đào tạo nguồn nhân 
lực KH&CN có chất lượng cao. 
102 
Thứ năm, quy hoạch và kế hoạch hóa nguồn nhân lực KH&CN cần 
phải đảm bảo tính “động”. Điều này có nghĩa là quy hoạch và kế hoạch hóa 
không được cứng nhắc mà phải linh động để thích ứng kịp thời với sự phát 
triển nguồn nhân lực KH&CN. 
Thứ sáu, tại mỗi Sở, Ban, Ngành nên thành lập một bộ phận chuyên 
nghiên cứu về quy hoạch phát triển nguồn nhân lực KH&CN. Bộ phận này có 
thể thuộc cơ cấu phòng Tổ chức cán bộ hay phòng Tổ chức hành chính tùy 
theo mỗi đơn vị. Trên cơ sở phân tích các điều kiện phát triển của tỉnh cũng 
như xu hướng phát triển của xã hội, bộ phận này sẽ tham mưu cho tỉnh thực 
hiện công tác quy hoạch và kế hoạch hóa nguồn nhân lực KH&CN. 
3.2.2. Tuyển dụng nguồn nhân lực KH&CN đúng nguyên tắc và tiêu 
chuẩn vị trí việc làm 
Tuyển dụng là khâu rất quan trọng để tạo nên một đội ngũ nguồn nhân 
lực KH&CN có đủ khả năng thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của 
tỉnh. Công tác tuyển dụng tốt giúp cho tỉnh có một đội ngũ nguồn nhân lực 
KH&CN với cơ cấu hợp lý, đủ về số lượng, mạnh về chất lượng. 
Để hoạt động tuyển dụng được thực hiện tốt, trong thời gian tới cần 
thực hiện một số giải pháp cơ bản sau đây: 
Một là, xây dựng quy định chuẩn trong tuyển dụng nguồn nhân lực 
KH&CN. Trong quy định cần bám sát tình hình thực tế của cơ quan mà đưa 
ra yêu cầu đối với người dự tuyển hợp lý. Đồng thời, đưa ra các cơ chế phù 
hợp để thu hút được nguồn nhân lực chất lượng cao; đưa ra các ưu tiên đối 
với người có học vị tiến sĩ, thạc sĩ. 
Hai là, tiến hành đánh giá thực trạng nguồn nhân lực KH&CN trước 
khi thực hiện tuyển dụng. Hoạt động này giúp nhà quản lý nắm chắc được 
tình hình đội ngũ nguồn nhân lực KH&CN hiện tại về số lượng, chất lượng và 
cơ cấu. Trên cơ sở đó xác định nhu cầu nguồn nhân lực trong giai đoạn sắp tới 
103 
và tiến hành công tác tuyển dụng. Sở dĩ phải thực hiện công tác này bởi lẽ 
tuyển dụng là yếu tố đầu vào của nguồn nhân lực KH&CN. Nếu không tiến 
hành rà soát lại đội ngũ thì sẽ dẫn đến tình trạng tuyển dụng vừa thừa vừa 
thiếu. 
Ba là, thực hiện nghiêm túc quy trình và các nguyên tắc trong tuyển 
dụng. Việc tổ chức tuyển dụng một cách nghiêm túc, đúng quy trình là một 
yêu cầu đặt ra. Trước khi tiến hành tuyển dụng cần phải xây dựng kế hoạch và 
trong quá trình thực hiện phải tuân theo kế hoạch đề ra về thời gian và cách 
thức. Tuyển dụng phải được thực hiện thông qua hội đồng tuyển dụng, tránh 
tình trạng chỉ có thủ trưởng quyết định tất cả. Đồng thời, tuyển dụng cần phải 
tuân theo những nguyên tắc dân chủ, công khai, công bằng đối với mọi đối 
tượng tham gia dự tuyển. 
Bốn là, nên đưa ra chính sách ưu tiên thu hút, tuyển dụng những sinh 
viên tốt nghiệp loại giỏi, xuất sắc. 
Năm là, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thực hiện công tác tuyển 
dụng. Để tiến hành tuyển dụng một cách nghiêm túc và có thể lựa chọn được 
những người ưu tú, đòi hỏi đội ngũ những người làm công tác tuyển dụng 
phải có năng lực, trình độ để tổ chức một cách chuyên môn hóa, đồng thời 
phải có phẩm chất đạo đức tốt, luôn đặt lợi ích của tỉnh lên trên hết. Đây là 
hai vấn đề đóng vai trò then chốt trong công tác tuyển dụng. Do đó, cần phải 
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý nhằm xây dựng một đội ngũ cán 
bộ quản lý có chất lượng cao, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, trong sáng về 
đạo đức, tận tụy với nghề nghiệp. 
3.2.3. Sử dụng hợp lý và hiệu quả nguồn nhân lực KH&CN 
Trong quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực KH&CN, cho dù 
có xây dựng được chế độ thu hút và tuyển dụng hợp lý, ban đầu tuyển dụng 
được đội ngũ nguồn nhân lực KH&CN có trình độ cao, nhiệt huyết, sẵn sàng 
104 
làm việc, có mong muốn cống hiến tài năng của mình cho tỉnh, nhưng tỉnh đó 
lại không có chế độ sử dụng, phân công công tác và tạo điều kiện cho họ phát 
huy năng lực thì tất cả các chính sách được thực hiện trước đó đều trở nên vô 
nghĩa. Nguồn nhân lực KH&CN khi được tuyển dụng vào làm việc tại các 
đơn vị có những chuyên môn, trình độ đào tạo, phẩm chất chính trị khác nhau. 
Chính vì vậy, chính sách sử dụng nguồn nhân lực KH&CN là để đảm bảo bố 
trí, sắp xếp cho phù hợp với trình độ đào tạo và năng lực của mỗi người. Đây 
là hoạt động vừa mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. 
Bố trí, sắp xếp cũng như thực hiện các biện pháp luân chuyển, thuyên 
chuyển, đề bạt, bổ nhiệm nguồn nhân lực KH&CN có ý nghĩa rất quan trọng. 
Nó vừa phát huy năng lực của từng cá nhân, lại vừa đảm bảo thực hiện được 
mục tiêu của tỉnh. Tuy nhiên, cần phải lưu ý là bố trí phải tương xứng với khả 
năng đào tạo, năng lực, sức vươn lên của nguồn nhân lực KH&CN; phải xuất 
phát từ yêu cầu thực tế, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, đồng thời đối chiếu 
với các tiêu chuẩn đề ra; thực hiện phân công đúng người, đúng việc, phù hợp 
với năng lực, chuyên môn nghiệp vụ. 
Trong thời gian sắp tới, để thực hiện tốt công tác quản lý sử dụng 
nguồn nhân lực KH&CN, tỉnh cần chú trọng thực hiện một số yêu cầu cơ bản 
sau: 
Một là, trong quá trình sắp xếp, bố trí lại nguồn nhân lực KH&CN cần 
chú ý đến cơ cấu, đặc biệt là cơ cấu số lượng, chất lượng nguồn nhân lực 
KH&CN theo từng ngành học, cơ cấu giữa nguồn nhân lực KH&CN có kinh 
nghiệm với nguồn nhân lực KH&CN trẻ được đào tạo cơ bản, giữa nguồn 
nhân lực KH&CN có năng lực cao với nguồn nhân lực KH&CN còn hạn chế 
về năng lực. Cơ cấu nguồn nhân lực KH&CN cần hài hòa về giới để khắc 
phục tình trạng mất cân đối về giới tính. 
105 
Hai là, chủ thể quản lý cần phải chú trọng đánh giá hiện tượng luân 
chuyển cán bộ trong thời gian qua, xác định đối tượng nào đã thuyên chuyển 
ra khỏi cơ quan và nguyên nhân là do đâu. Từ đó, có giải pháp phù hợp để giữ 
nguồn nhân lực có chất lượng ở lại làm việc. Đồng thời, cần đưa ra quy định 
cụ thể, thống nhất quy trình thực hiện công tác luân chuyển cán bộ. Không 
thực hiện luân chuyển cán bộ theo chủ trương một cách miễn cưỡng, đối phó 
làm mất tác dụng tích cực của công tác này, cũng như lợi dụng chủ trương 
luân chuyển để mưu lợi cá nhân gây mất đoàn kết. 
Ba là, rà soát, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định về việc bổ 
nhiệm, đề bạt nguồn nhân lực KH&CN và đưa ra các điều kiện để thực hiện 
các chế độ, chính sách đó. Từ đó tạo động lực thu hút, động viên nguồn nhân 
lực KH&CN toàn tâm, toàn ý phục vụ cho mục tiêu của tỉnh. 
Bốn là, cân đối lại thu chi tài chính để dành nguồn lực cho các chế độ 
đãi ngộ đối với nguồn nhân lực KH&CN, góp phần nâng cao đời sống vật 
chất và tinh thần cho nguồn nhân lực KH&CN để họ có thể an tâm công tác 
và cống hiến hết năng lực của mình. 
3.2.4. Tổ chức thực hiện đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực 
KH&CN 
Thực tế cho thấy, trong thời gian qua các cơ quan trên địa bàn tỉnh đã 
rất chú trọng đến công tác đào tạo bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn 
nghiệp vụ cho đội ngũ nguồn nhân lực KH&CN. Tuy nhiên, quản lý chưa 
mang lại hiệu quả cao, chưa phù hợp với yêu cầu thực tế. Để khắc phục tình 
trạng này, trong thời gian tới, tỉnh cần phải đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng 
nguồn nhân lực KH&CN theo một số phương hướng cơ bản sau: 
Một là, các đơn vị cần tiến hành khảo sát, phân tích, đánh giá thực 
trạng đội ngũ nguồn nhân lực KH&CN để làm rõ các câu hỏi: nguồn nhân lực 
KH&CN đang ở trình độ nào? những mặt mạnh? những mặt yếu? nguồn nhân 
106 
lực KH&CN cần đào tạo, bồi dưỡng thêm cái gì? đào tạo bồi dưỡng như thế 
nào?...Sau đó cần phân tích các vấn đề: số lượng phải được đào tạo? ngành 
gì? số lượng phải được bồi dưỡng? bồi dưỡng như thế nào? Cuối cùng, tỉnh 
cần tiến hành phân tích tiềm lực của tỉnh, tức là xác định các nguồn lực và kế 
hoạch phụ trợ khác. 
Hai là, cần chú trọng xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng. Xây dựng 
kế hoạch cần phải căn cứ vào kế hoạch tổng thể phát triển giáo dục đào tạo và 
quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của tỉnh. Kế hoạch cần phải xây dựng 
theo ba loại cơ bản: ngắn hạn (1 năm), trung hạn (5 năm) và dài hạn (10 năm). 
Trong mỗi kế hoạch cần phải cụ thể hóa được mục tiêu đào tạo bồi dưỡng, 
hình thức, thời gian, đối tượng tham gia, cá nhân, đơn vị có trách nhiệm kiểm 
tra, giám sát. Nếu khóa đào tạo do chính tỉnh đứng ra tổ chức thì phải quy 
định cụ thể đơn vị chịu trách nhiệm chính về chất lượng và chương trình đào 
tạo, bồi dưỡng. Đồng thời, nội dung của kế hoạch đào tạo bồi dưỡng phải thể 
hiện được tính liên tục, hệ thống, tính chủ động đón đầu. Tuy nhiên, cần 
chống khuynh hướng dàn trải chương trình đào tạo, bồi dưỡng gây lãng phí 
thời gian, khó bố trí công việc của nguồn nhân lực KH&CN dẫn đến chất 
lượng đào tạo, bồi dưỡng kém hiệu quả. 
Ba là, xác định đúng đắn nội dung chương trình, phương pháp đào tạo. 
Trong giai đoạn hiện nay, đội ngũ nguồn nhân lực KH&CN cần phải thường 
xuyên được bồi dưỡng, nâng cao trình độ ngoại ngữ, tin học. Có như vậy mới 
đảm bảo hội nhập và mở rộng giao lưu hợp tác với các nước trong khu vực và 
trên thế giới về tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, đội ngũ 
nguồn nhân lực KH&CN cũng rất cần được nâng cao trình độ về lý luận chính 
trị và trình độ quản lý nhà nước. 
Bốn là, xây dựng và hoàn thiện quy định về đào tạo, bồi dưỡng. Cần có 
chính sách, chế độ đãi ngộ phù hợp cũng như các điều kiện đảm bảo thực hiện 
107 
các chính sách, chế độ đó nhằm tạo động lực thu hút, động viên đội ngũ 
nguồn nhân lực KH&CN tích cực tham gia học tập, bồi dưỡng để không 
ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. 
Năm là, mở rộng giao lưu hợp tác quốc tế trong hoạt động đào tạo bồi 
dưỡng đội ngũ nguồn nhân lực KH&CN. Tạo điều kiện để nguồn nhân lực 
KH&CN được đi đào tạo ở nước ngoài để có điều kiện tiếp cận với nguồn tri 
thức mới của nhân loại. 
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra và đánh giá sau đào tạo. Thực tế 
hiện nay cho thấy, hầu hết đội ngũ nguồn nhân lực KH&CN tham gia các 
khóa đào tạo, bồi dưỡng chủ yếu là để chuẩn hóa chức danh, tiêu chuẩn ngạch 
bậc. Điều này dẫn đến tình trạng học lấy bằng cấp và mang tính hình thức. 
Chính vì vậy, chủ thể quản lý cần phải tiến hành nghiêm chỉnh công tác kiểm 
tra, giám sát đối với hoạt động này. Điều này có thể được thực hiện thông qua 
chế độ báo cáo thường xuyên và định kì đối với nguồn nhân lực KH&CN. 
Đồng thời các đơn vị cử nguồn nhân lực KH&CN tham gia đào tạo, bồi 
dưỡng có thể tiến hành sát hạch sau khi tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng. 
Trên cơ sở chế độ kiểm tra, sát hạch, tỉnh cần xây dựng chế độ khen thưởng, 
kỷ luật đối với nguồn nhân lực KH&CN để đảm bảo hoạt động này được tiến 
hành nghiêm túc và hiệu quả. 
3.2.5. Cụ thể hoá và tổ chức thực hiện kịp thời các chính sách phát 
triển nguồn nhân lực KH&CN 
Trong nền kinh tế thị trường, xã hội phát triển với mức sống ngày càng 
được nâng cao, tình trạng lạm phát cũng trở nên phổ biến. Điều này đòi hỏi 
tỉnh phải có những biện pháp tích cực để đảm bảo cuộc sống cho lao động. 
Chính sách tiền lương, phụ cấp và các chính sách ưu đãi là nguồn thu nhập 
chính của nguồn nhân lực KH&CN trên địa bàn tỉnh. Vì thế, nó có vai trò rất 
108 
quan trọng trong việc đảm bảo nguồn sống cho nguồn nhân lực KH&CN và 
gia đình họ. 
Qua nghiên cứu ở phần thực trạng, chúng ta đều nhận thấy rằng trong 
thời gian qua tỉnh đã có chú ý đến các chế độ đãi ngộ dành cho nguồn nhân 
lực KH&CN. Tuy nhiên, do nguồn lực tài chính của tỉnh còn hạn hẹp nên 
chính sách này được áp dụng không ổn định, nguồn thu nhập tăng thêm của 
nguồn nhân lực KH&CN dao động liên tục trong năm. Hơn thế nữa, do đặc 
điểm của nguồn nhân lực KH&CN là nguồn nhân lực chất lượng cao nên các 
chính sách đãi ngộ hiện tại của tỉnh thực sự không đủ sức hấp dẫn để có thể 
thu hút và “giữ chân” người tài. Chính vì vậy, trong thời gian tới, các chủ thể 
quản lý cần tập trung vào việc giải quyết một số giải pháp sau: 
Một là, tiếp tục nghiên cứu, rà soát, điều chỉnh, bổ sung chính sách thu 
hút, đào tạo nhân tài tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2015-2020 để phù hợp với 
điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh; đặc biệt là đội ngũ nguồn nhân 
lực KH&CN để nâng cao năng lực quản lý nhà nước và nhắm đến nguồn nhân 
tài phục vụ phát triển kinh tế làm động lực cho phát triển xã hội tỉnh. 
Hai là, xây dựng cơ chế phát huy vai trò của người quản lý, sử dụng lao 
động tạo điều kiện để họ thực hiện chính sách thu hút nguồn nhân lực có chất 
lượng cao phục vụ công việc theo yêu cầu của cơ quan, đơn vị. 
Ba là, tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi để khai thác hết 
năng lực sở trường của người hiền tài phục vụ cho sự phát triển của tỉnh; đặc 
biệt chú ý đến bộ phận nhân lực chất lượng cao phục vụ nền kinh tế; cần quan 
tâm hơn đến điều kiện nhà ở và các điều kiện sinh sống, sinh hoạt của người 
lao động. 
3.2.6. Hỗ trợ và thu hút các nguồn lực đảm bảo cho yêu cầu phát 
triển nguồn nhân lực KH&CN 
Việc huy động nguồn lực về vốn đáp ứng nhu cầu trên là nhiệm vụ hết 
109 
sức khó khăn, đòi hỏi sự nỗ lực, cố gắng của các cấp chính quyền và của toàn 
xã hội mới có thể thực hiện được, trong đó tập trung vào một số giải pháp sau: 
Một là, tăng ngân sách nhà nước cho phát triển nhân lực KH&CN: Về 
cơ bản ngân sách nhà nước vẫn là nguồn lực cơ bản, chủ yếu, là động lực để 
phát triển nguồn nhân lực KH&CN của tỉnh. Do đó cần tăng đầu tư phát triển 
cả về giá trị tuyệt đối và tỷ trọng trong tổng nguồn đầu tư toàn xã hội để hiện 
đại hoá có trọng tâm, trọng điểm các cơ sở đào tạo trên địa bàn đáp ứng yêu 
cầu nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Trong kế hoạch 
phân bổ ngân sách hàng năm cần tập trung vào các nhiệm vụ chi để thực hiện 
các chương trình, dự án đào tạo nhân lực KH&CN theo mục tiêu ưu tiên và 
thực hiện bình đẳng xã hội. 
Hai là, đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn 
cho phát triển nhân lực. Tỉnh cần có cơ chế, chính sách đủ mạnh để tăng 
cường huy động các nguồn đóng góp từ người dân cho phát triển nhân lực 
bằng các hình thứ. Xây dựng thể chế gắn trách nhiệm các đơn vị đối với việc 
phát triển nguồn nhân lực KH&CN; đồng thời có cơ chế, chính sách và biện 
pháp đủ mạnh để huy động sự đóng góp từ phía người sử dụng lao động thông 
qua việc thành lập quỹ hỗ trợ đào tạo do các tổ chức, cá nhân, các doanh 
nghiệp đóng góp. 
Ba là, đối với huy động các nguồn vốn nước ngoài: Tăng cường tranh 
thủ sự hỗ trợ của các Bộ, ngành TW để thu hút các nguồn vốn ODA, FDI, 
NGO cho phát triển nhân lực KH&CN trên địa bàn tỉnh. Tăng cường công tác 
vận động để thu hút các nguồn vốn nước ngoài và tổ chức quản lý, sử dụng có 
hiệu quả các nguồn ODA, FDI, NGO, vốn viện trợ của các tổ chức, cá nhân 
nước ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực KH&CN tỉnh 
110 
3.2.7. Thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm những vi phạm hoạt động 
quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực KH&CN 
Hoạt động thanh tra, kiểm tra sẽ giúp các đối tượng được thanh tra, 
kiểm tra nhận thức một cách đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình, nhận thức 
được vai trò quan trọng của chính sách phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, từ 
đó sẽ hình thành ý thức tuân thủ qui định của pháp luật, và những qui định 
của tỉnh. 
Để thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra có hiệu quả cần phải có một 
đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra giỏi, công tâm và làm việc có trách nhiệm. 
Điều này đòi hỏi tỉnh cần thường xuyên thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng 
nghiệp vụ cho cán bộ thanh tra. 
Bên cạnh việc xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra, các chủ thể quản lý 
cần phải xác định nội dung và hình thức thanh tra sao cho đảm bảo tính bao 
quát và thấy hết được hoạt động của nguồn nhân lực KH&CN. Cần phải 
thường xuyên thực hiện thanh tra, kiểm tra định kỳ và đột xuất đối với cơ 
quan. 
Cần phải đưa ra chương trình kế hoạch thực hiện công tác thanh tra, 
kiểm tra. Cần thực hiện đầy đủ các nội dung thanh tra, kiểm tra như sau: 
Thứ nhất, thanh tra, kiểm tra thường xuyên việc thực hiện quy chế độ 
đánh giá cán bộ, công tác quản lý hồ sơ cán bộ và thực hiện kỷ luật lao động 
của nguồn nhân lực KH&CN; 
Thứ hai, thanh tra, kiểm tra trong việc thực hiện các quy định của pháp 
luật và các văn bản hướng dẫn thi hành luật trong việc thực hiện chính sách 
thu hút nhân tài, thực hiện các đề án, chương trình về phát triển nguồn nhân 
lực; 
Thứ ba, thanh tra, kiểm tra việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý nguồn 
nhân lực KH&CN; 
111 
Thứ tư, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các chế độ chính sách tiền 
lương, phúc lợi, bảo hiểm, môi trường làm việc. 
Việc tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra đối với nguồn nhân lực 
KH&CN góp phần phát triển đội ngũ và chuẩn hóa chất lượng nguồn nhân 
lực KH&CN của tỉnh. 
112 
Tiểu kết chương 3 
Để quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực KH&CN tỉnh Quảng 
Bình đủ về số lượng, đúng chất lượng và cơ cấu hợp lý, chính quyền địa 
phương tỉnh Quảng Bình cần quan tâm, chú ý thực hiện các nội dung như sau: 
- Hoàn thiện quy hoạch và kế hoạch hóa nguồn nhân lực khoa học và 
công nghệ. 
- Kiện toàn bộ máy quản lý phát triển nguồn nhân lực, đổi mới phương 
pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản 
lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ. 
- Hoàn thiện đổi mới hoạt động tuyển dụng nguồn nhân lực khoa học 
và công nghệ. 
- Tăng cường quản lý và sử dụng hợp lý nguồn nhân lực khoa học và 
công nghệ. 
- Đẩy mạnh hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực khoa học và 
công nghệ. 
- Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách và tổ chức thực hiện hiệu 
quả các chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ. 
- Hỗ trợ và thu hút các nguồn lực đảm bảo cho yêu cầu phát triển nguồn 
nhân lực khoa học và công nghệ. 
- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra nguồn nhân lực khoa học và 
công nghệ 
113 
KẾT LUẬN 
Phát triển nguồn nhân lực KH&CN là một trong những vấn đề mới 
trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phát triển bền vững 
và hội nhập quốc tế. Điều đó đã thể hiện quan điểm toàn diện, đồng bộ, hài 
hoà giữa KH&CN với “phát triển văn hoá, xây dựng con người Việt Nam”; 
“đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo, phát triển nguồn nhân lực” và 
“quản lý, phát triển xã hội; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”. Đồng thời, là 
định hướng quan trọng để các cấp, các ngành, các địa phương và mỗi nhà 
khoa học quán triệt, triển khai và vận dụng có hiệu quả trong thực tiễn, góp 
phần thực hiện thắng lợi “sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước và bảo vệ 
độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc”. Ở bất cứ lĩnh 
vực nào, ngành nghề nào, địa phương nào, yếu tố con người vẫn luôn là yếu tố 
quyết định đến sự thanh bại, suy vong hay phát triển của một tổ chức. Tổ 
chức, đơn vị nào nắm giữ trong tay nguồn nhân lực có trình độ cao đồng 
nghĩa với việc nắm trong tay 50% cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn các đơn vị 
khác. 
Có thể nói, quản lý nhà nước một trong những nội dung quan trọng của 
chiến lược về phát triển nguồn nhân lực KH&CN hiện nay, nhằm xây dựng 
đội ngũ nguồn nhân lực KH&CN đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa đất nước cũng như của tỉnh Quảng Bình. 
Trong những năm vừa qua, tỉnh Quảng Bình đã tích cực đưa ra những 
chính sách phát triển nguồn nhân lực cũng như chính sách nhằm thu hút 
nguồn nhân lực KH&CN về làm việc tại địa phương và đã đạt được nhiều kết 
quả tích cực. Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân 
lực KH&CN tỉnh vẫn còn một số bât cập. 
114 
Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, luận văn đã tập trung làm rõ cơ sở lý 
luận và đã đạt được những kết quả sau đây: 
Thứ nhất, hệ thống hóa lý luận quản lý nhà nước về phát triển nguồn 
nhân lực KH&CN tỉnh Quảng Bình, từ đó sự cần thiết quản lý nhà nước về 
phát triển nguồn nhân lực KH&CN, và các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển 
nguồn nhân lực KH&CN. 
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về phát triển 
nguồn nhân lực KH&CN tỉnh Quảng Bình, đưa ra những nhận xét, đánh giá 
về những mặt đạt được và những hạn chế, nguyên nhân hạn chế trong việc 
quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực KH&CN. 
Thứ ba, trên cơ sở thực trạng quản lý nhà nước về phát triển nguồn 
nhân lực KH&CN tỉnh Quảng Bình, căn cứ vào quan điểm, định hướng, mục 
tiêu của Đảng và Nhà nước nói chung và tỉnh Quảng Bình nói riêng, luận văn 
đã đề xuất một số giải pháp quản lý nhà nước về phát triển nguồn nhân lực 
KH&CN tỉnh Quảng Bình. 
 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Nghị 
quyết số 20-NQ/TW ngày 01/11/2012 về phát triển khoa học và công nghệ 
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. 
2. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình (2012), Chương trình hành 
động, ngày 13/3/2013 về việc thực hiện Nghị Quyết số 20-NQ/TW ngày 
01/11/2012 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI). 
3. Bộ Chính trị (2014), Kết luận số 86KL/TW ngày 24/01/2014 về việc 
chính sách thu hút, tạo nguồn cán bộ từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, cán bộ 
khoa học trẻ 
4. Bộ Khoa học và Công nghệ (2011) Quyết định số 4009/QĐ-BKHCN 
về Phê duyệt quy hoạch phát triển nhân lực ngành khoa học và công nghệ 
giai đoạn 2011 – 2020. 
5. Chính phủ (2014), Nghị định số 40/2014/NĐ-CP ngày 12/5/2014 về 
việc Quy định việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động KH&CN. 
6. Chính phủ (2010), Nghị định số 42/2010/NĐ-CP 15/4/2010 về việc 
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng và Luật 
sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, Khen thưởng. 
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn 
quốc lần thứ X, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
8. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội Đảng lần thứ XI, 
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
9. Đảng cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện đại hội Đảng XII, Nxb 
Công ty TNHH MTV in Nhân Dân Bình Định, Bình Định. 
10. Đảng bộ tỉnh Quảng Bình (2015), Văn kiện đại hội đại biểu Đảng 
bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XVI, nhiệm kỳ 2015-2020. 
11. Đinh Thị Minh Tuyết, Nguyễn Thị Thu Hằng (2014), Lý luận 
chung về Quản lý hành chính nhà nước, NXb Lý luận Chính trị. 
12. Giáo trình Quản lý hành chính nhà nước (2011), Nxb Khoa học và 
Kỹ thuật, Hà Nội 
13. Học viện Hành Chính (2009), Giáo trình Quản lý Nguồn nhân lực 
xã hội, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 
14. Nguyễn Minh Đường (2002), “Nghiên cứu phát triển nguồn nhân 
lực với phương pháp tiếp cận hệ thống trong điều kiện mới”, Nghiên cứu con 
người – đối tượng và những hướng chủ yếu, niên giám nghiên cứu số 1 in lần 
thứ 2), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
15. Nguyễn Hữu Dũng (2005), sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực con 
người ở Việt Nam, Nxb Lao động – Xã hội, Hà Nội. 
16. Nguyễn Văn Chung (2015), Chính sách đãi ngộ nhân lực KH&CN 
đôi điều suy nghỉ, Cổng thông tin điện tử - Sở Khoa học và Công Nghệ Hà 
Tĩnh. 
17. Nguyễn Thị Anh Thu (2004), Phát triển nguồn nhân lực khoa học 
và công nghệ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 
18. Nguyễn Mạnh Quân (2004), Tổng luận phát triển khoa học và công 
nghệ ở các nước ASEAN, Trung tâm Thông tin Khoa học và Công nghệ Quốc 
gia, Hà Nội. 
19. 22. Nguyễn Chí Thắng (2013), Giải pháp tăng cường thu hút nhân 
lực khoa học và công nghệ nhằm phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh 
Quảng Bình theo định hướng nhu cầu, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia 
Hà Nội. 
20. Nguyễn Tiến Thành (2010), Xây dựng hệ thống cơ sỡ dữ liệu tiền 
lực khoa học, công nghệ phục vụ công tác nghiên cứu khoa học và công nghệ 
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, Đề tài nghiên cứu cấp tỉnh, Sở Khoa học và 
Công nghệ Quảng Bình. 
21. Phạm Thị Bảo Thao (2013), Phát triển nguồn nhân lực KH&CN ở 
Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
22. Trung tâm Nghiên cứu và phát triển Truyền thông KH&CN (2012), 
Tài liệu hội thảo cấp quốc gia: Chính sách phát triển nhân lực khoa học và 
công nghệ, Hà Nội, 7/2012. 
23. Phạm Minh Hạc (2001), Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực 
đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
24. Thủ tướng Chính phủ (2010), Nghị định 24/2010/NĐ-CP ngày 
15/03/2010 về việc Quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức 
25. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 579/QĐ-TTg ngày 
19/4/2011 về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 
2011-2020”. 
26. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 
22/7/2011 về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giai 
đoạn 2011-2020 
27. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 418/QĐ-TTg ngày 11-
4-2012 về việc phê duyệt “Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai 
đoạn 2011-2020”. 
28. Tổng luận (2005), phát triển nhân lực KH&CN ở các nước ASEAN. 
Phát triển nhân lực KH&CN ở các nước ASEAN, Trung tâm Thông tin 
KH&CN quốc gia, Hà Nội, 2005. 
29. Trần Thị Thu - Văn phòng Đoàn ĐBQH-HĐND tỉnh, Nâng cao 
hiệu quả thu hút, đào tạo và sử dụng nhân tài, Báo Quảng Bình Online, 
24/11/2014. 
30. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2009), Quyết định số 
35/2009/QĐ ngày 22/12/2009 về việc phê duyệt chiến lược phát triển khoa 
học và công nghệ tỉnh Quảng Bình đến năm 2020. 
31. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2011), Chương trình phát triển 
nguồn nhân lực tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2011-2015. 
32. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2011), Quyết định số 
17/2011/QĐ-UBND ngày 10/11/2011 về Chính sách thu hút, đào tạo nhân tài 
tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2011-2015. 
33. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2012), Quyết định số 1136/QĐ-
UBND ngày 21/5/2012 về việc phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực tỉnh 
Quảng Bình thời kỳ 2011-2020] 
34. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2012), Quyết định số 2246/QĐ-
UBND ngày 26/9/2012 về việc phê duyệt Kế hoạch thu hút nhân tài tỉnh 
Quảng Bình. 
35. Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Bình (2015), Quyết định số 
40/2015/QĐ-UBND 20/11/2015 về việc ban hành Quy chế thi đua, khen 
thưởng của tỉnh Quảng Bình. 
36. Đề án "Đào tạo, thu hút, sử dụng nhân lực KH&CN trình độ cao 
giai đoạn 2012 - 2020", Cập nhật ngày 23/02/2013. 
2020-Dao-tao-10-000-ky-su-dat-chuan-quoc-te/language/vi-VN/Default.aspx. 
37. Đỗ Minh Cương (2012), Đào tạo và sử dụng nhân tài, cập nhật ngày 
07/01/2012
46&mzid= 366&ID=815. 
38. WB. World Development Indicators. - London: Oxford, 2000. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_phat_trien_nguon_nhan_luc_khoa.pdf luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_phat_trien_nguon_nhan_luc_khoa.pdf