Mặt khác, qua tổng kết, theo dõi, đánh giá, công tác thi đua khen
thưởng trong những năm qua cho thấy vẫn còn có những bất cập. Khen
thưởng còn dàn trải, theo kiểu so bó đũa, chọn cột cờ, khen chưa đi cùng với
thưởng, khen thưởng và thi đua chưa thực sự gắn kết với nhau nên chưa thực
sự phát huy được sức mạnh của thi đua hoặc khen thưởng chưa phát huy được
vai trò là đòn bẩy cho việc hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao. Mặt khác, công tác thi đua khen thưởng hầu như chỉ mang tính chất
động viên, khuyến khích đối với những cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc
trong một năm hoạt động, chưa chú trọng đến khen thưởng cho tập thể và cá
nhân, đặc biệt là người lao động trực tiếp trong doanh nghiệp, đội ngũ tri thức
trẻ có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, có giải pháp trong công tác, ứng dụng khoa
học kỹ thuật, mô hình mới mang lại hiệu quả cao, đóng góp vào thành quả
chung của đơn vị, địa phương và của tỉnh. Từ thực tế phong trào thi đua và
công tác xét khen thưởng ở các đơn vị, địa phương trên địa bàn tỉnh Bình
Dương, nhận thấy các ngành, các cấp cần nhận thức đẩy đủ về công tác thi
đua khen thưởng trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc đổi mới để có được nhận
thức đầy đủ về vai trò, ý nghĩa và tác dụng của công tác thi đua, khen thưởng
trong tình hình mới là việc làm cần thiết và cấp bách. Cần phải xác định thi
đua, khen thưởng là công cụ quan trọng trong quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt
động của từng cơ quan, đơn vị, là động lực thúc đẩy mọi cá nhân và tập thể
tích cực, chủ động, sáng tạo, nhiệt tình, trách nhiệm vượt qua khó khăn, thách
thức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đưa sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước đến thành công.
94 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 699 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng tỉnh Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không chỉ bằng các phƣơng tiện truyền thống
mà có thể tận dụng tất cả các kênh hiện có để càng nhiều ngƣời đƣợc tiếp cận.
Tiểu kết chƣơng 2
Qua các giai đoạn cách mạng, từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945,
trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, cứu nƣớc và sau ngày hoà bình đất
nƣớc thông nhất, vị trí vai trò công tác thi đua, khen thƣởng có ý nghĩa, tầm
quan trọng đặc biệt đã góp phần vào việc thắng lợi của nƣớc ta. Đảng và Nhà
nƣớc đã vạch ra những chủ trƣơng đƣờng lối với những chính sách phù hợp
phát động các phong trào thi đua yêu nƣớc, các hình thức chế độ khen thƣởng
và các danh hiệu thi đua để động viên tập hợp đƣợc quần chung nhân dân, cán
bộ, Đảng viên tập trung vào nhiệm vụ chính trị và mục tiêu chung. Mỗi thời
kỳ, mỗi đợt phát động phong trào thi đua đã đạt đƣợc kết quả mỹ mãn.
66
Từ sau ngày hoà bình, nhất là những năm gần đây trong cơ chế thị
trƣờng có phần làm giảm sút tác dụng, vị trí, vai trò công tác thi đua, khen
thƣởng, nhiều tổ chức có biểu hiện coi nhẹ công tác thi đua, khen thƣởng,
chạy theo lôi sống thực dụng. Nhận thức về công tác thi đua, khen thƣởng
chƣa quán triệt sâu sắc, về vị trí, vai trò của công tác thi đua, khen thƣởng là
đòn bẩy thúc đẩy sự tồn tại và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị truờng có sự quản lý của Nhà nƣớc đặt ra nhiều vấn để
mới. Việc xem xét công tác tổ chức cán bộ yêu cầu nhiều vấn đề về tiêu
chuẩn nhƣng chƣa đƣợc một số cơ quan nhà nƣớc coi trọng. Và thực chất của
công tác thi đua, khen thƣởng hiện nay là do thiếu những cán bộ chuyên trách
làm công tác thi đua, khen thƣởng có năng lực hoặc chỉ kiêm nhiệm, do vậy
công tác tham mƣu cấp ủy, chính quyền trong quản lý và chỉ đạo còn hạn chế,
chỉ dừng ở mức độ khen thƣởng, chƣa có chiều sâu chƣa trở thành động lực
thúc đẩy mạnh mẽ để gắn công tác thi đua với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của
từng đơn vị.
67
Chương 3
PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ
THI ĐUA, KHEN THƢỞNG Ở TỈNH BÌNH DƢƠNG
3.1. Dự báo những yếu tố tác động đến công tác quản lý nhà nƣớc về
thi đua, khen thƣởng
Những thành tựu và kinh nghiệm qua hơn 30 năm đổi mới đã tạo cho đất
nƣớc ta sức mạnh tổng hợp để phát triển. Tuy nhiên, trong thời gian qua, bên
cạnh những điều kiện thuận lợi, nƣớc ta phải đối phó với những thách thức,
khó khăn to lớn, đan xen và diễn biến phức tạp. Tình hình thế giới đang có
những thay đổi nhanh chóng. Để vƣợt qua khó khăn, thách thức, cùng với
việc tăng cƣờng vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nƣớc, cần tiếp tục
tổ chức và thực hiện phong trào thi đua rộng khắp nhằm khơi dậy mọi tiềm
năng trong nhân dân để tạo động lực tham gia xây dựng đất nƣớc trong đó
công tác quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng cần đƣợc quan tâm hàng
đầu.
Đất nƣớc ta đang thực hiện đƣờng lối phát triển kinh tế thị trƣờng, định
hƣớng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, đã xuất hiện phổ biến
khái niệm cạnh tranh. Cạnh tranh là bản chất cơ bản nhất và là quy luật tất
yếu của phát triển kinh tế thị trƣờng. Cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh,
cạnh tranh trong thƣơng mại, cạnh tranh hội nhập quốc tế, thậm chí trong giáo
dục, thể thao, y tế đƣợc coi là những lĩnh vực mang tính xã hội hoá rất cao
cũng ít nhiều đan xen yếu tố cạnh tranh. Một cuộc thi đấu thể thao, nếu không
có ý chí quyết tâm ganh đua ắt dẫn đến thua cuộc. Một trƣờng học, nếu không
dạy tốt, không khẳng định đƣợc uy tín tức là khả năng cạnh tranh bị yếu kém.
Trƣớc đây, có giai đoạn chúng ta ngộ nhận cho là cạnh tranh thuộc phạm trù
kinh tế tƣ bản, là rất khó chấp nhận, nhƣng trong giai đoạn hiện nay, chúng ta
chấp nhận và đón nhận khái niệm cạnh tranh với mục tiêu phải vƣơn lên, nâng
68
cao sức cạnh tranh của hàng hoá, năng lực của doanh nghiệp, của tập thể và
của cả nền kinh tế quốc gia. Yếu tố kinh tế thị trƣờng và chấp nhận, đón nhận
cạnh tranh nhƣng cạnh tranh cũng có những mặt trái của nó sẽ tác động đến
công tác thi đua, khen thƣởng. Cho nên phải điều chỉnh với khái niệm cạnh
tranh lành mạnh, cạnh tranh đúng luật; cạnh tranh cùng có lợi. Trên thế giới,
các quốc gia phát triển đã xây dựng Luật cạnh tranh để đảm bảo hài hoà cạnh
tranh bình đẳng, chống lại sự gian trá khi thực hiện hoạt động cạnh tranh.
Khái niệm thi đua rộng lớn và sâu sắc hơn khái niệm cạnh tranh. Thi đua
là giá trị tinh thần, giá trị tƣ tƣởng. Trong thi đua, không chỉ có nội dung
ganh đua mà còn có nội dung thúc đẩy nhau cùng vƣơn lên vì mình, vì tập
thể, vì dân tộc. Trong nền kinh tế thị trƣờng và hội nhập quốc tế, cho dù có
cạnh tranh, thậm chí cạnh tranh gay gắt, quyết liệt hơn nhƣng vẫn cần đẩy
mạnh các phong trào thi đua yêu nƣớc để kết hợp một cách chặt chẽ hai loại
động lực tinh thần và vật chất tạo nên sức mạnh nội sinh của phong trào
quần chúng vƣơn tới mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh và có tác dụng xây dựng con ngƣời, khơi dậy và nhân lên
mặt tích cực trong mỗi con ngƣời, mỗi đơn vị và trong cộng đồng xã hội.
Từ những yếu tố tác động đến công tác quản lý nhà nƣớc về thi đua,
khen thƣởng trong tình hình mới, đòi hỏi phải có những giải pháp mang tính
chiến lƣợc để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
quốc tế.
3.2. Nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của công
tác thi đua, khen thƣởng trong giai đoạn hiện nay
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác thi
đua, khen thưởng gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn
vị.
69
Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nƣớc đối với công
tác thi đua khen thƣởng. Đây là lĩnh vực quan trọng do đó phải khẳng định
nhà nƣớc quản lý, Đảng lãnh đạo.
Trƣớc hết, cần gắn trách nhiệm của tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể; trách nhiệm của ngƣời đứng đầu, cơ quan, đơn vị
trong chỉ đạo về công tác thi đua, khen thƣởng. Tiếp tục quán triệt, làm
chuyển biến nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò,
vị trí và tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thƣởng; thực sự coi công
tác thi đua, khen thƣởng là động lực cách mạng để thực hiện nhiệm vụ chính
trị và là biện pháp quan trọng để xây dựng con ngƣời mới. Thông qua các
phong trào thi đua nhằm phát huy đƣợc sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn
dân tộc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc.
Tăng cƣờng sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với công tác thi đua,
khen thƣởng. Công tác thi đua, khen thƣởng phải là nội dung lãnh đạo của cấp
ủy Đảng các cấp từ Trung ƣơng, các bộ ngành, các địa phƣơng; từ tỉnh đến
huyện, xã. Các cấp ủy Đảng cần quán triệt các quan điểm, chủ trƣơng chính
sách của Đảng về thi đua, khen thƣởng trong các văn kiện, nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, sự chỉ đạo và quản lý của nhà nƣớc đối với công tác thi đua, khen
thƣởng trong các văn bản pháp lụât của nhà nƣớc để vận dụng một cách cụ
thể, sáng tạo vào ngành, địa phƣơng, đơn vị mình. Cấp ủy Đảng thực hiện
thƣờng xuyên kiểm tra việc thực hiện công tác thi đua, khen thƣởng của các
tổ chức trong hệ thống chính trị thuộc phạm vi lãnh đạo trong đó chủ yếu là
hoạt động quản lý nhà nƣớc của các cấp chính quyền. Đồng thời bố trí, phân
công cán bộ chủ chốt, lãnh đạo cơ quan làm công tác quản lý nhà nƣớc về thi
đua, khen thƣởng có năng lực lãnh đạo, ngang tầm đảm đƣơng đƣợc nhiệm
vụ.
70
Đây là yếu tố quyết định đến chất lƣợng, hiệu quả và sự phát triển bền
vững của công tác thi đua, khen thƣởng, đảm bảo cho phong trào thi đua hoạt
động đúng hƣớng, hiệu quả. Do đó, cấp ủy, chính quyền các cấp cần tăng
cƣờng lãnh đạo, chỉ đạo phƣơng hƣớng, mục tiêu, chỉ tiêu, biện pháp và lực
lƣợng tiến hành, làm cho phong trào ngày càng phát triển, có trọng tâm, trọng
điểm, khắc phục biểu hiện tự phát, nhỏ lẻ, thời vụ và bệnh thành tích trong
công tác thi đua, khen thƣởng. Có sự lãnh đạo của Đảng sự nghiệp đổi mới
đất nƣớc nói chung, đổi mới trên các lĩnh vực nói riêng mới đạt kết quả và
thành công.
Thực tế chứng minh đã có lúc sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thi
đua, khen thƣởng bị buông lỏng đã dẫn đến công tác thi đua, khen thƣởng
chững lại một khoảng thời gian và quản lý nhà nƣớc về công tác này không
đƣợc đẩy mạnh đẫn đến nhiều lúng túng. Đó là thời kỳ nƣớc ta ở những năm
đầu của sự chuyển đổi nền kinh tế sang kinh tế thị trƣờng.
3.2.2. Nâng cao vai trò của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc
tổ chức triển khai các phong trào thi đua và bình xét khen thưởng.
Thi đua khen thƣởng là công tác đặc thù của ngƣời đứng đầu cơ quan,
đơn vị. Việc xét khen thƣởng từ Hội đồng thi đua cấp cơ sở đến Trung ƣơng,
Chủ tịch Hội đồng là ngƣời có thẩm quyền riêng trong việc xét khen thƣởng.
Do đó, ngƣời đứng đầu cơ quan, đơn vị phải nâng cao nhận thức, chỉ đạo tổ
chức tốt các phong trào thi đua và công tác khen thƣởng. Phải hết sức quan
tâm, bồi dƣỡng phong trào thi đua phát triển sâu rộng, xuất hiện nhiều gƣơng
điển hình tiến tiến, nhân tố mới, mô hình mới; khen thƣởng kịp thời, chính
xác. Phải thƣờng xuyên theo dõi, hƣớng dẫn, đôn đốc, kiểm tra các các tập
thể, cá nhân thuộc cơ quan, đơn vị trong việc tổ chức và tham gia các phong
trào thi đua yêu nƣớc; chỉ đạo việc hƣớng dẫn tổ chức bình xét, khen thƣởng
theo thẩm quyền và trình cấp trên khen thƣởng cho các tập thể, cá nhân có
71
thành tích xuất sắc tiêu biểu trong phong trào thi đua. Chỉ đạo việc đổi mới
cách bình xét, đánh giá khen thƣởng. Khi xét khen thƣởng, ngƣời đúng đầu cơ
quan, đơn vị cùng với các thành viên Hội đồng Thi đua - Khen thƣởng cơ
quan, đơn vị phải thực sự khách quan, trung thực trong việc đánh giá thi đua.
Xem việc phát động phong trào là gốc, xét khen thƣởng là ngọn, ƣu tiên
cho những cá nhân, tập thể lao động trực tiếp. Tránh tình trạng cào bằng hoặc
ƣu tiên là lãnh đạo, tập thể lớn.
Đối với cơ quan quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng, vai trò của
ngƣời đứng đầu càng quan trọng. Ngƣời đứng đầu cơ quan quản lý nhà nƣớc
về thi đua, khen thƣởng chịu trách nhiệm trƣớc cấp ủy, tổ chức đảng và cấp
có thẩm quyền về chất lƣợng hồ sơ đƣợc trình khen thƣởng, gây ảnh hƣởng
đến cả hệ thống làm công tác thi đua khen thƣởng ở địa phƣơng.
3.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền các phong trào thi đua yêu nước
trong cán bộ, công chức, viên chức và các tầng lớp nhân dân
Phong trào có sâu rộng, lan tỏa tốt, ảnh hƣởng mạnh là do công tác tuyên
truyền quyết định. Việc tổ chức các phong trào thi đua yêu nƣớc phải đƣợc
tiến hành kịp thời, tránh phô trƣơng, hình thức, bảo đảm thiết thực và hiệu
quả; mỗi phong trào thi đua cần xác định rõ chủ đề, nội dung, hình thức và
tiêu chí thi đua, gắn với việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ của cơ quan,
đơn vị. Gắn các phong trào lớn với nhau, vừa lồng ghép vừa hỡ trợ nhau.
Vai trò của các cơ quan báo chí, truyền thông nên đƣợc phát huy trong
việc tuyên truyền các phong trào thi đua yêu nƣớc. Làm rõ và quán triệt vị trí,
vai trò, tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thƣởng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn đổi mới
toàn diện đất nƣớc, xây dựng nền kinh tế theo cơ chế thị trƣờng định hƣớng
xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế. Sự chuyển đổi nền kinh tế đặt đất
nƣớc ta trƣớc những thời cơ và thách thức vô cùng to lớn do vậy công tác thi
72
đua, khen thƣởng có vị trí hết sức quan trọng. Tuyên truyền sâu rộng các
phong trào thi đua yêu nƣớc, tạo sức lan tỏa, khuyến khích mọi ngƣời hăng
hái, tích cực thi đua lao động, sản xuất.
Công tác phát hiện, nhân rộng, biểu dƣơng những ngƣời lao động giỏi,
lao động sáng tạo, các tập thể, cá nhân có thành tích đặc biệt xuất sắc đƣợc
các cấp, các ngành và Nhà nƣớc khen thƣởng trong các phong trào thi đua
đƣợc quan tâm mọi lúc, mọi nơi. Tuyên truyền bằng nhiều hình thức: báo, đài,
hội nghị, . để tạo ra sự lan tỏa ngày càng có nhiều điển hình tiên tiến hơn
nữa. Khi làm tốt công tác biểu dƣơng thì khen thƣởng mới có ý nghĩa thật sự.
3.2.4. Tăng cường sự tham gia, phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa chính
quyền với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong tổ chức các
phong trào thi đua và công tác khen thưởng.
Công tác thi đua khen thƣởng phải phát huy đƣợc trong toàn bộ hệ thống
chính trị, do đó ở tất cả các ngành, các lĩnh vực cần tăng cƣờng sự phối hợp
giữa các tổ chức của hệ thống chính trị trong công các thi đua, khen thƣởng là
thực hiện phƣơng châm cả hệ thống chính trị làm công tác thi đua khen
thƣởng. Các tổ chức trong hệ thống chính trị, thông qua vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của tổ chức mình để tham gia phong trào và tham gia quản lý nhà
nƣớc đối với công tác thi đua, khen thƣởng. Trong đó các cấp ủy Đảng đóng
vai trò lãnh đạo đề ra chủ trƣơng, mục tiêu của công tác thi đua, khen thƣởng.
Chính quyền các cấp tổ chức thực hiện, đề ra các chính sách cụ thể cho việc
triển khai các nhiệm vụ của công tác thi đua, khen thƣởng.
Mặt trận và các đoàn thể có kế hoạch, biện pháp cụ thể tổ chức thực hiện
phong trào thi đua yêu nƣớc, chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo và chịu trách
nhiệm trƣớc cấp ủy, tổ chức đảng về kết quả tổ chức các phong trào thi đua
yêu nƣớc; cơ quan chính quyền chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các
73
đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng có kế hoạch, biện pháp
cụ thể tổ chức thực hiện phong trào thi đua yêu nƣớc.
Mặt trận và các đoàn thể đóng vai trò quan trọng trong việc phát động
các phong trào thi đua trong nhân dân, hội viên mình. Đây chính là gốc của để
làm tốt công tác thi đua trong nhân dân.
3.3. Hoàn thiện cơ chế chính sách, bộ máy về thi đua, khen thƣởng.
3.3.1. Hoàn thiện các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn về công tác thi đua,
khen thưởng.
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về thi đua, khen thƣởng chƣa
đƣợc sửa đổi, bổ sung kịp thời theo yêu cầu của tình hình mới. Mặc dù hiện
nay chúng ta chủ trƣơng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần nhƣng Luật
Thi đua, Khen thƣởng hiện hành và dự thảo luật sửa đổi, bổ sung mới chỉ tập
trung vào công tác thi đua, khen thƣởng của các cơ quan, đơn vị thuộc khu
vực nhà nƣớc mà chƣa quan tâm đến thi đua, khen thƣởng của các cơ quan,
đơn vị thuộc các cơ quan đảng, cơ quan dân cử, các tổ chức kinh tế ngoài
quốc doanh, đặc biệt là nhân dân lao động lại chƣa đƣợc quan tâm đến do
đó chƣa khuyến khích đƣợc phong trào thi đua, khen thƣởng rộng khắp.
Các văn bản quy định còn chồng chéo và chƣa đƣợc sửa đổi kịp thời.
Đặc biệt là khen về mảng kháng chiến, ngƣời có công. Cần hợp nhất các nghị
định, thông tƣ để dễ nghiên cứu, sử dụng và phù hợp hơn trong việc cải cách
thủ tục hành chính hiện nay.
Để đổi mới và nâng cao chất lƣợng công tác thi đua, khen thƣởng cần
sớm xây dựng, bổ sung, sửa đổi các văn bản chỉ đạo, hƣớng dẫn về công tác
thi đua, khen thƣởng cho phù hợp với thực tiễn phong trào thi đua yêu nƣớc
của địa phƣơng và các văn bản hƣớng dẫn của Trung ƣơng. Cần hoàn thiện
các văn bản pháp quy tiếp tục hƣớng dẫn, cụ thể hoá Luật Thi đua, khen
thƣởng đó là những quy chế, chính sách, quy định cụ thể để thực hiện luật,
74
qua đó tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức và cải tiến thủ tục quy trình tổ
chức phong trào thi đua và xét khen thƣởng, thực hiện công khai, dân chủ, kịp
thời và đảm bảo tính nêu gƣơng, giáo dục trong khen thƣởng, chống tiêu cực
và bệnh hình thức trong công tác thi đua.
3.3.2. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác cán bộ và bồi dưỡng về
chuyên môn, nghiệp vụ công tác thi đua, khen thưởng
Thực hiện Luật Thi đua, khen thƣởng cơ quan làm công tác thi đua khen
thƣởng các cấp đã đƣợc thành lập từ Trung ƣơng đến các địa phƣơng. Đây là
hệ thống cơ quan thực hiện nhiệm vụ quản lý Nhà nƣớc công tác thi đua khen
thƣởng. Cán bộ làm công tác thi đua khen thƣởng các cấp đã bƣớc đầu phát
huy vai trò tích cực đẩy mạnh công tác thi đua khen thƣởng và quản lý nhà
nƣớc đối với công tác này. Song hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác thi
đua, khen thƣởng còn nhiều bấp cập, chƣa thống nhất. Đội ngũ cán bộ làm
công tác thi đua, khen thƣởng từ Trung ƣơng đến địa phƣơng chƣa ngang tầm
với nhiệm vụ đƣợc giao, vừa thiếu về số lƣợng, vừa yếu về chuyên môn,
không xuất phát từ công việc mà sắp xếp con ngƣời mà vì bộ máy mà xắp xếp
ngƣời đảm nhận công việc không hợp lý và không phù hợp với khả năng, mới
tập trung làm nghiệp vụ khen thƣởng, cán bộ có năng lực tổ chức phong trào
thi đua còn ít. Thi đua khen thƣởng đƣợc xem là một ngành để đào tạo riêng.
Hiện nay chỉ là lồng ghép để đào tạo thành các chuyên đề nên chất lƣợng đào
tạo chƣa đảm bảo.
Hiện nay dù bộ máy tổ chức làm công tác thi đua khen thƣởng đã quy
định rõ chức năng, nhiệm nhƣng hầu nhƣ cán bộ làm công tác thi đua, khen
thƣởng vẫn theo lối làm cũ, coi nhẹ phong trào thi đua, nặng về công tác khen
thƣởng. Vì vậy dẫn đến tình trạng cán bộ, công chức chỉ tập trung vào việc
làm thủ tục khen thƣởng mà không quan tâm đến chất lƣợng của công tác thi
đua. Do vậy, việc kiện toàn tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ theo phƣơng
75
châm gọn nhẹ, có hiệu lực, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ là hết sức cần
thiết.
Xuất phát từ thực tế chức năng quản lý nhà nƣớc về công tác thi đua,
khen thƣởng trong những năm qua để làm tốt công tác thi đua, khen thƣởng
trong tình hình mới cần phải có hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác thi đua,
khen thƣởng có đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thƣởng từ Trung
ƣơng cho đến cơ sở cần đƣợc quan tâm đào tạo, bồi dƣỡng, tập huấn nghiệp
vụ cũng nhƣ nâng cao kiến thức, kinh tế xã hội, tiếp tục nghiên cứu học tập
chủ trƣơng, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc nhƣ vậy mới
khắc phục đƣợc những hạn chế nêu trên.
Để nâng cao chất lƣợng công tác tập huấn nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu về
đổi mới công tác thi đua khen thƣởng, cần xác định rõ đối tƣợng, nội dung.
Ngoài việc tổ chức hội nghị truyền thống, phải từng bƣớc mở rộng các hình
thức triển khai công tác thi đua, khen thƣởng khác nhƣ: xem đây là một ngành
cần đào tạo chính quy, hội thảo chuyên đề; hội thi tìm hiểu Luật Thi đua, khen
thƣởng và các văn bản hƣớng dẫn thi hành; giao ban công tác thi đua, khen
thƣởng các huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh Bình Dƣơng.
Mở rộng và đa dạng hóa thông tin công tác thi đua, khen thƣởng để
thông tin đến mọi ngƣời những thông tin mới nhất, cần thiết về thi đua, khen
thƣởng.
3.3.3. Thành lập mới, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các
khối, cụm thi đua, tạo động lực đẩy mạnh phong trào thi đua phát triển
Hoạt động của Cụm, khối thi đua đã đƣợc quy định rõ trong các văn bản
Luật. Việc củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các khối, cụm thi đua
là cần thiết, góp phần phát huy vai trò của thi đua. Bằng cách tục sửa đổi, bổ
sung quy chế tổ chức và hoạt động của khối, cụm thi đua của các tỉnh, bộ
ngành đến cơ sở; quy định rõ nhiệm vụ và quyền hạn của khối trƣởng, khối
76
phó và đơn vị thành viên, chế độ làm việc, thông tin báo cáo, phƣơng pháp,
căn cứ bình xét thi đua, đặc biệt, cần có sự thống nhất trong việc xây dựng nội
dung, mục tiêu thi đua rõ ràng, tiêu chí cụ thể, cách chấm điểm, bình xét trong
từng đơn vị cụm, khối làm cơ sở để các đơn vị dễ dàng so sánh, đánh giá mức
độ thành tích, bình xét, xếp hạng thi đua đảm bảo theo quy định.
Tổ chức các hoạt động, phong trào chung nhằm tạo ra không khí phấn
khởi, giao lƣu giữa các đơn vị thành viên nhƣ tổ chức các giải thi đấu thể
thao, hội diễn văn nghệ nhằm tạo không khí vui tƣơi, lành mạnh góp phần
động viên cán bộ, công chức, viên chức và ngƣời lao động các đơn vị trong
khối, cụm thi đua hoàn thành tốt nhiệm vụ, xây dựng tình đoàn kết, sự hiểu
biết lẫn nhau giữa các đơn vị thành viên.
Hiện nay Bình Dƣơng có 13 cụm, khối thi đua hoạt động tƣơng đối hiệu
quả. Tuy nhiên cần rà soát lại các quy chế hoạt động, tiêu chí thi đua, thang
bảng điểm thi đua của từng cụm, khối trên nguyên tắc hƣớng dẫn 1479/HD-
BTĐKT, ngày 25/7/2016 của Ban Thi đua - Khen thƣởng Trung ƣơng về tổ
chức Cụm, Khối thi đua của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ƣơng và
tình hình thực tế của tỉnh Bình Dƣơng, thực trạng của từng cụm, khối thi đua
để điều chỉnh cho phù hợp.
3.3.4. Tăng cường sự tham gia phối hợp, quản lý nhà nước của các tổ
chức chính trị, xã hội trong thi đua, khen thưởng
Thực hiện phƣơng châm “Cả hệ thống chính trị làm công tác thi đua
khen thƣởng”. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, thi đua là phong trào
của quần chúng nhân dân nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng của
mình. Quần chúng nhân dân tập hợp chủ yếu trong các tổ chức chính trị xã
hội theo nghề nghiệp, giới tính, lứa tuổi dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Do
vậy, có tăng cƣờng sự phối hợp giữa các tổ chức đó mới huy động đƣợc đại
bộ phận quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua và thông qua
77
các tổ chức ấy quần chúng nhân dân tham gia quản lý nhà nƣớc công tác thi
đua, khen thƣởng. Chính quyền, Mặt trận và các đoàn thể các cấp phải phối
hợp chặt chẽ trong việc tổ chức chỉ đạo công tác thi đua làm cho phong trào
thi đua trở thành phong trào cách mạng sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân. Các tổ chức trong hệ thống chính trị, thông qua vị trí, chức năng,
nhiệm vụ của tổ chức mình để tham gia phong trào và tham gia quản lý nhà
nƣớc đối với công tác thi đua, khen thƣởng. Trong đó các cấp ủy Đảng đóng
vai trò lãnh đạo đề ra chủ trƣơng, mục tiêu của công tác thi đua, khen thƣởng;
Chính quyền các cấp tổ chức thực hiện, đề ra các chính sách cụ thể cho việc
triển khai các nhiệm vụ của công tác thi đua, khen thƣởng; Mặt trận và các
đoàn thể tập hợp, hƣớng dẫn, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực hƣởng
ứng và tham gia thực hiện những nội dung của công tác thi đua, khen thƣởng.
Các phong trào thi đua của các đoàn thể, mặt trận, tổ chức nên đƣợc lồng
ghép vào nhau. Vừa phát huy sức mạnh riêng lẽ vừa tạo ra sức lan tỏa rộng
khắp, nhân đôi hiệu quả. Nhƣ vậy, sẽ huy động đƣợc sức mạnh của cả hệ
thống chính trị tham gia vào công tác thi đua, khen thƣởng. Các tổ chức trong
hệ thống chính trị tham gia quản lý nhà nƣớc công tác thi đua, khen thƣởng
thông qua các hoạt động nhƣ tham gia vào qúa trình xây dựng các văn bản
pháp luật của nhà nƣớc về công tác thi đua, khen thƣởng; tổ chức quán triệt và
triển khai các văn bản pháp luật về công tác thi đua, khen thƣởng trong tổ
chức của mình; tham gia là thành viên Hội đồng Thi đua, khen thƣởng các
cấp; tham gia xây dựng chính sách, kiểm tra đánh giá tổng kết công tác thi
đua, khen thƣởng.
3.4. Nâng cao chất lƣợng và hiệu quả các phong trào thi đua
3.4.1. Xác định động cơ, mục tiêu, phạm vi, đối tượng và nội dung thi
đua cụ thể từng giai đoạn cách mạng, tổ chức các phong trào thi đua thiết
thực, hiệu quả.
78
Phong trào thi đua yêu nƣớc là nguồn gốc của khen thƣởng, mỗi giai
đoạn sẽ có mục tiêu phát động riêng, đối tƣợng riêng, cách thức phát động
riêng để đạt đƣợc các mục đích và hiệu quả khác nhau. Tùy theo từng nhóm
đối tƣợng mà các phong trào đƣợc xây dựng, phát động với nh74ng tiêu chí
khác nhau. Nhƣng việc tổ chức các phong trào thi đua hiện nay còn nhiều hạn
chế, chƣa đồng đều giữa các địa phƣơng, ngành, lĩnh vực; chƣa động viên
khuyến khích quần chúng tham gia phong trào, nặng về biện pháp hành chính,
mệnh lệnh đơn thuần, không đa dạng, gần gũi. Không ít phong trào thi đua
còn mang tính hình thức, chạy theo thành tích, chƣa có chiều sâu. Do đó chƣa
tạo đƣợc động lực thúc đẩy toàn xã hội hăng hái thi đua. Việc xác định động
cơ thi đua, mục tiêu, phạm vi thi đua là hết sức cần thiết. Có xác đinh đƣợc
động cơ thi đua đúng đắn thì mới tạo thành phong trào thi đua sôi nổi nhằm
phát huy cao độ tính tích cực trong các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị và
mọi tầng lớp nhân dân.
Mục tiêu thi đua phải gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của các
ngành, các địa phƣơng, cơ quan, đơn vị và cơ sở, có mục tiêu, nội dung cụ
thể, thiết thực. Phạm vi thi đua phải lâu dài và rộng khắp. Đối tƣợng thi đua
phải rộng lớn, thi đua không phải chỉ riêng ngành nào. Thi đua là công việc
của mọi ngƣời, mọi ngành, mọi cấp. Nội dung thi đua phải bám vào mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, mỗi địa phƣơng, mỗi ngành, cơ sở.
Khi xác định đƣợc các tiêu chí trên thì phát động phong trào thi đua mới
mang lại hiệu quả và đạt đƣợc nhƣ mong muốn.
3.4.2. Đổi mới công tác phát động, chỉ đạo thực hiện, sơ kết, tổng kết và
khen thưởng các phong trào thi đua yêu nước
Công tác sơ kết, tổng kết là hình thức mang tính rập khuôn cao nhất. tất
cả các hội nghị đều giống nhau. Ngày nay đang tiến hành cải cách hành chính
nên công tác này đang đƣợc cải cách mạnh, từ họp truyền thống chuyển sang
79
họp trực tuyến, từ báo cáo chuyển sang phóng sự,để tránh tình trạnh trên
việc sơ kết, tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm các phong trào thi đua, công
tác khen thƣởng phải thật sự cần thiết, đơn giản luôn luôn đƣợc đổi mới
nhƣng vẫn đảm bảo hiệu quả và rút ra đƣợc kinh nghiệm cần thiết, tập trung
chỉ đạo phát hiện, bồi dƣỡng và nhân rộng tập thể, cá nhân điển hình tiên tiến
để cổ vũ, động viên mọi ngƣời học tập và làm theo.
Việc phát động các phong trào thi đua phải đi vào chiều sâu nhằm thực
hiện mục tiêu vì dân giàu, nƣớc mạnh xã hội dân chủ, công bằng và văn minh,
nhằm phát huy cao độ tính tích cực trong mọi ngành, mọi giới, các dân tộc,
các tầng lớp nhân dân, các lực lƣợng vũ trang, các thành phần kinh tế rộng
khắp trong cả nƣớc. Góp phần tạo đƣợc sự tiến bộ rõ rệt về phát triển kinh tế -
xã hội, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế, tạo môi trƣờng
xã hội lành mạnh, giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Phong trào thi đua phải đạt đƣợc yêu cầu thiết thực, sâu rộng và bao quát
đƣợc toàn bộ các lĩnh vực đời sống xã hội, các tầng lớp nhân dân, các thành
phần kinh tế, các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc phát động phong trào
thi đua đƣợc tổ chức vào dịp đầu năm và đƣợc tổ chức dƣới nhiều hình thức
nhƣ: Mở hội nghị phát dộng thi đua riêng biệt hoặc gắn với hội nghị tổng kết
công tác thi đua, khen thƣởng của năm trƣớc sau đó phát động phong trào thi
đua hoặc gắn với các cuộc mít tinh kỷ niệm ngày lễ lớn của dân tộc, ngày
truyền thống hoặc sự kiện quan trọng của địa phƣơng, đơn vị...
Nội dung tổ chức phong trào thi đua đã xác định rõ mục tiêu, phạm vi,
đối tƣợng, nội dung, khẩu hiệu và thời hạn thi đua; đề ra những biện pháp để
tổ chức phong trào thi đua, đồng thời tổ chức phát động, đăng ký thi đua.
Đây là biện pháp rất quan trọng, không thể thiếu trong tổ chức thi đua
nhằm đánh giá đúng thành tích, kết quả lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện
phong trào thi đua. Trong quá trình khen thƣởng phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo
80
chặt chẽ từ trên xuống dƣới, đảm bảo đúng nguyên tắc chính xác, dân chủ, kịp
thời, công khai, xây dựng đƣợc tinh thần đoàn kết phấn khời, nêu cao tính tự
phê bình và phê bình, đánh giá đúng ngƣời, đúng việc, tránh chủ quan, đơn
giản, tranh công, đổ lỗi. Vấn đề mấu chốt trong công tác sơ kết, tổng kết
phong trào thi đua là đúc rút tìm ra đƣợc những kinh nghiệm hay, chọn đƣợc
tập thể và cá nhân tiên tiến xuất sắc, đồng thời khen thƣởng đúng mức để
động viên mọi ngƣời phấn đấu thực hiện tích cực hơn nữa.
3.4.3. Đẩy mạnh công tác phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân điển
hình tiên tiến
“ Mỗi ngƣời tốt là một bông hoa, cả dân tộc là một rừng hoa” (Hồ Chí
Minh). Do đó, việc phát hiện, xây dựng, tôn vinh và nhân rộng nhân tố mới,
những điển hình tiên tiến, gƣơng “Ngƣời tốt, việc tốt” phải đƣợc đặc biệt coi
trọng; quan tâm lựa chọn các tập thể, cá nhân có thành tích tiêu biểu để biểu
dƣơng, tôn vinh, khen thƣởng kịp thời nhằm tạo động lực và đòn bẩy phấn
đấu cho các cán bộ, công chức, viên chức, ngƣời lao động. Điển hình tiên tiến
là những tấm gƣơng sinh động để giáo dục, thu hút mọi ngƣời tích cực tham
gia thi đua, là nghệ thuật lấy phong trào chỉ đạo phong trào phát triển thành
cao trào mạnh mẽ. Thông qua cá nhân, tập thể điển hình tiên tiến để rút ra
những sáng kiến hay, kinh nghiệm tốt, bổ ích cho việc động viên, thúc đẩy
phong trào thi đua. Phát hiện điển hình tiên tiến là việc làm hết sức công phu,
đòi hỏi ngƣời lãnh đạo đơn vị phải đi sâu, đi sát với phong trào thi đua, tìm
hiểu kỹ kinh nghiệm và thành tích của từng tập thể, cá nhân trong phong trào
thi đua. Phải thông qua phong trào thi đua để phát hiện ra những điển hình
tiên tiến. Khi điển hình tiên tiến xuất hiện phải nhanh chóng bồi dƣỡng điển
hình ngày một hoàn thiện, hoàn chỉnh, trở thành mẫu mực để toàn đơn vị học
tập. Nội dung bồi dƣỡng toàn diện trên tất cả các mặt, chú trọng bồi dƣỡng về
phẩm chất, năng lực, động cơ thi đua đúng đắn, ý thức trách nhiệm, biết giữ
81
gìn và phát huy tác dụng trong mọi thời gian, có tinh thần tƣơng trợ giúp đỡ
lẫn nhau, ý thức tổ chức kỷ luật trong thực hiện phong trào thi đua, khắc phục
tƣ tƣởng thỏa mãn, tự cao, tự đại. Bồi dƣỡng các điển hình tiên tiến bằng
nhiều biện pháp nhƣ giao nhiệm vụ kết hợp chặt chẽ với động viên, khích lệ,
đặt ra yêu cầu cao để họ phấn đấu rèn luyện. Tránh hiện tƣợng áp đặt, chủ
quan cố tạo ra điển hình, khắt khe trong xây dựng điển hình hoặc đề cao quá
mức phản tác dụng.
Phát hiện và nhân rộng điển hình tiên tiến bằng nhiều hình thức khác
nhau, thông qua cơ sở, báo, đài, mạng xã hội,Việc khen thƣởng không nhất
thiết phải đến kỳ sơ kết, tổng kết phong trào mới đƣa bình xét mà cần tiến
hành thƣờng xuyên, vì thực chất của việc khen thƣởng có vai trò chủ yếu là
động viên tinh thần, làm cho ngƣời đƣợc khen thƣởng phấn khởi, khích lệ và
do đó hiệu quả công việc đƣơng nhiên sẽ tốt hơn. Khi cái tốt nhiều thì cái
tiêu cực sẽ ít, tạo ra một xã hội đáng sống.
3.5. Nâng cao chất lƣợng công tác khen thƣởng
3.5.1. Thực hiện đúng quy trình bình xét, tiêu chuẩn, tiêu chí các danh
hiệu thi đua và hình thức khen thưởng.
Hiện nay việc quy định các tiêu chí, quy trình xét khen thƣởng cơ bản đã
hoàn thiện đƣợc quy định tại Luật thi đua khen thƣởng và Nghị định, Thông
tƣ của Chính phủ. Nên việc xét khen thƣởng cần tuân thủ đúng quy định. Cụ
thể hóa các tiêu chuẩn danh hiệu thi đua theo quy định của Luật Thi đua,
Khen thƣởng và Nghị định của Chính phủ theo đặc thù từng cơ quan, đơn vị,
trong đó cần chú trọng tiêu chuẩn đạo đức cách mạng, tinh thần trách nhiệm
và hiệu quả công việc, đặc biệt là tính năng động sáng tạo và tinh thần phục
vụ nhân dân. Nâng cao chất lƣợng tham mƣu, đề xuất khen thƣởng thƣờng
xuyên, chuyên đề và đột xuất. Xây dựng quy chế xét khen thƣởng, trong đó
quy định rõ quy trình bình xét và đề nghị khen thƣởng, nội dung tiêu chuẩn,
82
tiêu chí xét khen thƣởng theo tháng, quý, năm và theo từng danh hiệu thi đua,
hình thức khen thƣởng. Tránh tình trạng lách Luật hoặc vận dụng để làm trái
quy định của pháp luật.
3.5.2. Xây dựng các giải pháp để đảm bảo tỷ lệ khen thưởng người lao
động trực tiếp, khen thưởng doanh nghiệp
Cần tiếp tục quán triệt thực hiện quy định về khen thƣởng hàng năm cho
lãnh đạo và ngƣời lao động trực tiếp ở các đơn vị, địa phƣơng đảm bảo tỷ lệ
40 - 60 nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các cấp cơ sở khen thƣởng nhiều
những ngƣời trực tiếp lao động, sản xuất.
Xây dựng các bộ tiêu chí riêng biệt dành cho cán bộ lãnh đạo, quản lý và
dành cho chuyên viên, ngƣời trực tiếp lao động.
Các đơn vị, địa phƣơng khi ban hành quy chế xét khen thƣởng trong đó
phải chú trọng phân định rõ các nhóm đối tƣợng để xét thi đua với nhau (đối
tƣợng lãnh đạo, đối tƣợng là cấp trƣởng, phó phòng, ban và tƣơng đƣơng, đối
tƣợng là ngƣời lao động trực tiếp).
Trao đổi, học tập kinh nghiệm triển khai công tác thi đua, khen thƣởng
giữa các đơn vị, địa phƣơng cũng là biện pháp tốt để cùng nhau tìm giải pháp
nâng cao tỷ lệ khen thƣởng ngƣời lao động.
Đối với khen thƣởng lĩnh vực doanh nghiệp, để khích lệ phong trào thi
đua sản xuất - kinh doanh trên địa bàn tỉnh, triển khai thực hiện có hiệu quả
Quy định xét khen thƣởng doanh nghiệp, doanh nhân tiêu biểu. Tiếp tục triển
khai thực hiện tốt việc khen thƣởng doanh nghiệp, doanh nhân có thành tích
xuất sắc trong các lĩnh vực.
Hiện nay công tác này tỉnh Bình Dƣơng đang thực hiện rất tốt, đẩy mạnh
khen thƣởng cho ngƣời lao động trực tiếp, hạn chế khen lãnh đạo nhƣ ban
hành các văn bản quy định tỷ lệ khen trong đơn vị (chỉ 30% lãnh đạo), hay
83
quyết định khen thƣởng hàng năm cho ngƣời lao động trong các doanh
nghiệp, nông dân sản xuất kinh doanh giỏi, chiếm tỷ lệ 60%.
3.5.3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, tăng cường ứng dụng công
nghệ thông tin trong công tác thi đua, khen thưởng
Ứng dụng công nghệ thông tin là hoạt động cần thiết và đang đƣợc áp
dụng mạnh mẽ trong các cơ quan nhà nƣớc. Nó là tiêu chí đánh giá hàng đầu
trong cải cách hành chính hiện nay. Có nhiều cách để tăng cƣờng ứng dụng
công nghệ thông tin nhƣ: xây dựng các trang wed của thi đua khen thƣởng,
chuyên trang chuyên mục,... đặc biệt xây dựng phần mềm quản lý thi đua
khen thƣởng sử dụng liên kết trong cả nƣớc. Phần mềm quản lý thi đua, khen
thƣởng ra đời sẽ khiến cho việc cập nhật, lƣu trữ dữ liệu cũng an toàn và
thuận tiện trong tra cứu, đáp ứng đƣợc phần lớn nhu cầu của công tác thi đua
khen thƣởng, giúp cho các đơn vị, địa phƣơng nắm đƣợc thông tin đầy đủ và
kịp thời, cũng nhƣ phục vụ việc nâng lƣơng trƣớc hạn, xem xét khen thƣởng,
kỷ luật đúng, đủ theo quy định về thành tích trong hoạt động nghiệp vụ.
Tiểu kết chƣơng 3
Yêu cầu cơ bản của việc phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã
hội chủ nghĩa là phải nhận thức đầy đủ, tôn trọng và vận dụng đúng đắn các
quy luật khách quan của kinh tế thị trƣờng, các thông lệ quốc tế phù hợp với
điều kiện phát triển của Việt Nam, bảo đảm định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Quản lý nhà nƣớc về công tác thi đua, khen thƣởng trong điều kiện phát triển
nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa cũng phải tôn trọng và vận
dụng đúng đắn các quy luật khách quan của thị trƣờng. Bản thân nền kinh tế
thị trƣờng đã hàm chứa các yếu tố thi đua, thi đua với nghĩa là cạnh tranh một
cách lành mạnh. Thi đua, khen thƣởng theo các yêu cầu và tinh thần nhà nƣớc
pháp quyền của dân, do dân và vì dân sẽ trở thành công cụ, giải pháp hữu hiệu
để nhà nƣớc quản lý nền kinh tế, hạn chế những tác động tiêu cực, mặt trái
84
của thị trƣờng. Đổi mới căn bản quản lý nhà nƣớc về công tác thi đua, khen
thƣởng ngoài việc tôn trọng quyền và nghĩa vụ của các thành phần kinh tế
tham gia vào phong trào thi đua còn phải tuân theo các quy luật giá trị, quy
luật lợi ích, đặc biệt là việc tôn trọng nguyên tắc hiệu quả, thiết thực của thi
đua, khen thƣởng.
Thi đua, khen thƣởng phải đảm bảo tính hiệu quả, thiết thực, tránh phô
trƣơng hình thức, lãng phí. Muốn vậy phải hiểu bản chất thi đua để làm gì,
nhằm mục đích gì, đem lại lợi ích gì để tổ chức phong trào thi đua. Thi đua,
khen thƣởng không thiết thực, không hiệu quả là trái với tinh thần xây dựng
nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân, vì dân, trái với tƣ tƣởng thực hành tiết
kiệm chống tham ô, lãng phí, quan liêu của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ những phân tích nêu trên cho thấy, để đổi mới căn bản công tác thi
đua, khen thƣởng phải tiếp tục hoàn thiện các chính sách về thi đua, khen
thƣởng đáp ứng các yêu cầu xây dựng nhà nƣớc pháp quyền của dân, do dân,
vì dân, xây dựng nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Làm sao
để Luật Thi đua, khen thƣởng thực sự trở thành công cụ hữu hiệu để nhà nƣớc
quản lý một lĩnh vực hoạt động hết sức quan trọng của đất nƣớc.
Tiếp theo, đổi mới, kiện toàn hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác thi
đua, khen thƣởng từ trung ƣơng đến địa phƣơng đảm bảo tinh gọn, hoạt động
có hiệu quả, đủ tầm, đủ sức tham mƣu cho Chính phủ thực hiện chức năng
quản lý nhà nƣớc về thi đua, khen thƣởng. Đổi mới, nâng cao chất lƣợng đội
ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thƣởng để có đủ năng lực tham mƣu
cho Đảng và Nhà nƣớc về công tác thi đua, khen thƣởng, đủ trình độ, kinh
nghiệm triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật và các chế độ,
chính sách của nhà nƣớc về công tác thi đua, khen thƣởng.
Đổi mới việc tổ chức các phong trào thi đua từ xác định mục đích, yêu
cầu, nội dung, nhiệm vụ, cách thức, biện pháp thi đua đến kiểm tra, đánh giá
85
kết quả thi đua, bình xét và quyết định khen thƣởng đảm bảo chặt chẽ, khách
quan, công bằng, thiết thực và hiệu quả. Khen thƣởng theo công trạng cho
những tập thể, cá nhân thực sự điển hình mẫu mực, những ngƣời trực tiếp lao
động có nhiều phát minh, sáng kiến, làm ra nhiều của cải, vật chất và tinh
thần cho xã hội, làm chấn hƣng đất nƣớc.
Mọi đổi mới trong quản lý nhà nƣớc về công tác thi đua, khen thƣởng
đều phải dựa trên quan điểm, tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng,
đồng thời phải phù hợp với yêu cầu của thời kỳ đổi mới, xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền của dân, do dân, vì dân, phát triển nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế. Đổi mới nhằm làm
cho công tác thi đua, khen thƣởng của nhà nƣớc thiết thực và hiệu quả, góp
phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh.
86
KẾT LUẬN
Hơn nửa thế kỷ qua, kể từ ngày Bác Hồ ra lời kêu gọi thi đua ái quốc,
dƣới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, các phong trào thi đua liên
tục đƣợc phát động đã góp phần vào việc cổ vũ, động viên đông đảo các tầng
lớp nhân dân phát huy truyền thốhg yêu nƣớc, ý chí kiên cƣờng bất khuất của
dân tộc, vƣợt qua mọi thử thách, lập nên những chiến công hiển hách trong
hai cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lƣợc cũng nhƣ trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều anh hùng, chiến, sỹ thi đua tiêu biểu cho chủ
nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ đã đƣợc Đảng, Nhà
nƣớc tuyên dƣơng công trạng. Thi đua, khen thƣởng đã trở thành động lực
thôi thúc toàn dân đoàn kết phấn đấu trong suốt tiến trình đấu tranh cách
mạng vẻ vang của dân tộc ta.
Hiện nay toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang bƣớc vào giai đoạn
cách mạng mới – thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc nhằm phấn
đấu vì mục tiêu dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Nhiệm vụ lớn lao đó đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đầy đủ hơn vai trò và ý
nghĩa quan trọng của công tác thi đua, khen thƣởng, không ngừng nâng cao
chất lƣợng và hiệu quả công tác này.
Trong những năm qua, công tác thi đua, khen thƣởng đã có những đóng
góp quan trọng vào thắng lợi chung của tỉnh Bình Dƣơng. Công tác thi đua
khen thƣởng đã trở thành một công cụ trong việc tổ chức, xây dựng và thúc
đẩy các phong trào thi đua hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của địa
phƣơng, đơn vị. Đồng thời thông qua các phong trào thi đua, các gƣơng điển
hình, tiên tiến đƣợc phát hiện và nhân rộng, có những khen thƣởng xứng
đáng, góp phần tích cực trong việc phấn đấu vƣơn lên hoàn thành tốt nhiệm
vụ đƣợc giao của các cấp, các ngành, góp phần hoàn thành mục tiêu phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng trên địa bàn tỉnh.
87
Mặt khác, qua tổng kết, theo dõi, đánh giá, công tác thi đua khen
thƣởng trong những năm qua cho thấy vẫn còn có những bất cập. Khen
thƣởng còn dàn trải, theo kiểu so bó đũa, chọn cột cờ, khen chƣa đi cùng với
thƣởng, khen thƣởng và thi đua chƣa thực sự gắn kết với nhau nên chƣa thực
sự phát huy đƣợc sức mạnh của thi đua hoặc khen thƣởng chƣa phát huy đƣợc
vai trò là đòn bẩy cho việc hoàn thành và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đƣợc
giao. Mặt khác, công tác thi đua khen thƣởng hầu nhƣ chỉ mang tính chất
động viên, khuyến khích đối với những cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc
trong một năm hoạt động, chƣa chú trọng đến khen thƣởng cho tập thể và cá
nhân, đặc biệt là ngƣời lao động trực tiếp trong doanh nghiệp, đội ngũ tri thức
trẻ có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, có giải pháp trong công tác, ứng dụng khoa
học kỹ thuật, mô hình mới mang lại hiệu quả cao, đóng góp vào thành quả
chung của đơn vị, địa phƣơng và của tỉnh. Từ thực tế phong trào thi đua và
công tác xét khen thƣởng ở các đơn vị, địa phƣơng trên địa bàn tỉnh Bình
Dƣơng, nhận thấy các ngành, các cấp cần nhận thức đẩy đủ về công tác thi
đua khen thƣởng trong điều kiện xây dựng nhà nƣớc pháp quyền, nền kinh tế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Do đó, việc đổi mới để có đƣợc nhận
thức đầy đủ về vai trò, ý nghĩa và tác dụng của công tác thi đua, khen thƣởng
trong tình hình mới là việc làm cần thiết và cấp bách. Cần phải xác định thi
đua, khen thƣởng là công cụ quan trọng trong quản lý, chỉ đạo, điều hành hoạt
động của từng cơ quan, đơn vị, là động lực thúc đẩy mọi cá nhân và tập thể
tích cực, chủ động, sáng tạo, nhiệt tình, trách nhiệm vƣợt qua khó khăn, thách
thức hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đƣợc giao, góp phần vào sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đƣa sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nƣớc đến thành công.
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 23, Nxb. Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
2. Ban Thi đua - Khen thƣởng Trung ƣơng - Tạp chí Thi đua - Khen thƣởng
(2008), Đảng, Bác Hồ với thi đua yêu và công tác thi đua khen
thưởng, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội.
3. Ban Thi đua - Khen thƣởng Trung ƣơng (2014), Luật Thi đua, Khen
thưởng (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2013) và các văn bản hướng
dẫn thi hành, Nxb. Lao động, Hà Nội.
4. Ban Thi đua – Khen thƣởng Trung ƣơng (2005), Kỷ yếu Đại hội Thi đua
toàn quốc lần thứ VII, Hà Nội.
5. Ban Thi đua – Khen thƣởng Trung ƣơng (2010), Kỷ yếu Đại hội Thi đua
toàn quốc lần thứ VIII, Hà Nội.
6. Ban Thi đua – Khen thƣởng Trung ƣơng (2015), Kỷ yếu Đại hội Thi đua
toàn quốc lần thứ IX, Hà Nội.
7. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1997), Hậu phương
chiến tranh nhân dân Việt Nam (1954-1975), Nxb. Quân đội nhân
dân, Hà Nội
8. Bộ Quốc phòng, Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (1997), Lịch sử kháng
chiến chống Mỹ cứu nước 1954-1975, Tập III, Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
9. Trƣờng Chinh (1962), Bước tiến mới của phong trào thi đua yêu nước
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
10. Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu nước (2008), Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89
11. Nguyễn Duy Cát, Lê Văn Yên (2000), Tuyển chọn và biên tập Hồ Chí
Minh với phong trào thi đua yêu nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
12. Nguyễn Thị Doan (2008), Đẩy mạnh phong trào thi đua và công tác thi
đua, khen thưởng theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, số
788 (6 – 2008).
13. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 21, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
14. Phạm Văn Đồng (1959), Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước (Báo cáo
tại Đại hội liên hoan anh hùng, chiến sĩ thi đua công nông binh toàn
quốc lần thứ hai), Nxb. Sự thật, Hà Nội.
15. Nguyễn Thị Hằng (2005), Đảng lãnh đạo phong trào phụ nữ ở hậu
phương miền Bắc trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước từ 1965 đến
1975, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
16. Lê Thanh Nghị (1963), Phát triển mạnh mẽ và sâu rộng phong trào thi
đua yêu nước phấn đấu trở thành tổ và đội lao động xã hội chủ nghĩa,
Nxb. Lao động, Hà Nội.
17. Bùi Đình Phong (2008), Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu
nước, Tạp chí Lịch sử Đảng, Số 4 – 2008.
18. Lê Quang Thiện (1994), Chủ tịch Hồ Chí Minh với phong trào thi đua yêu
nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dƣơng (2004), Báo cáo tổng kết Chỉ thi
35/CT-TW của Bộ chính trị về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng
trong giai đoạn mới.
90
20. Tỉnh ủy Bình Dƣơng, Chỉ thị số 46-CT/TU ngày 15/03/2005 về việc tiếp
tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi
dưỡng, tổng kết và nhân điển hình tiên tiến trên địa bàn tỉnh.
21. Thi đua xã hội chủ nghĩa và đạo đức, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1978
22. Phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, đẩy mạnh cao trào thi
đua chống Mỹ, cứu nước, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược,
Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1967.
23. Hội đồng Thi đua – Khen thƣởng Trung ƣơng (1999), Đổi mới công tác
thi đua, khen thưởng những văn bản mới ban hành, Nxb. Lao động.
Hà Nội
24. Hồ Chí Minh (1970), Thi đua yêu nước, Nxb. Sự thật Hà Nội.
25. Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
26. TS Đỗ Đức Hồng Hà và Ths Lê Mai Hoa (2014), Thi đua học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nxb. Lao động – Xã hội, Hà
Nội.
27. TS Nguyễn Mạnh Tƣờng (2001), Chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dƣơng (2010), Báo cáo tổng kết phong trào
thi đua yêu nước giai đoạn 2005-2010, phương hướng nhiệm vụ giai
đoạn 2011-2016, số 17, Bình Dƣơng.
29. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dƣơng (2015), Báo cáo tổng kết phong trào
thi đua yêu nước giai đoạn 2010-2015, phương hướng nhiệm vụ giai
đoạn 2016-2021, số 35, Bình Dƣơng.
30. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dƣơng (2011), Chỉ thị về việc phát động
phong trào thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội năm 2011 và Kế hoạch 05 năm (2011-2015), số 09, Bình Dƣơng.
91
31. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Dƣơng (2017), Chỉ thị về việc phát động
phong trào thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã
hội năm 2017 và Kế hoạch 05 năm (2016-2020) theo Nghị quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh lần thứ X, số 04, Bình Dƣơng.
32. Viện Thi đua – Khen thƣởng nhà nƣớc (1999), Bác Hồ với thi đua ái quốc
và tư tưởng chỉ đạo của Đảng về công tác thi đua, khen thưởng trong
tình hình cách mạng mới, Hà Nội.
33. Viện Thi đua khen thƣởng Nhà nƣớc (1999), Những quy định cơ bản về
công tác thi đua và chế độ khen thưởng, Hà Nội.
92
PHỤ LỤC
Một số văn bản chỉ đạo về công tác thi đua, khen thƣởng của tỉnh
Bình Dƣơng
1. Quyết định số 16/2009/QÐ-UBND ngày 15/4/2009 về chế độ hỗ trợ giáo
viên và học sinh các trƣờng phổ thông trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng.
2. Quyết định số 43/2009/QĐ-UBND ngày 16/6/2009 ban hành chính sách
khen thƣởng về công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn
tỉnh Bình Dƣơng để khen thƣởng cho các cơ quan hành chính, đơn vị
sự nghiệp, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh, các xã, phƣờng, thị
trấn, các khu, ấp.
3. Quyết định số 194/2006/QĐ-UBND ngày 8/8/2006 ban hành quy định tổ
chức chia cụm, khối thi đua và việc thực hiện chấm điểm xếp hạng thi
đua vào khen thƣởng.
4. Quyết định số 43/2011/QĐ-UBND ngày 17/10/2011 Quy định đối tƣợng,
tiêu chí, trình tự thủ tục xét khen thƣởng Danh hiệu “Doanh nghiệp
xuất sắc”, “Doanh nhân xuất sắc” trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng. Đây
là cơ sở pháp lý để tổ chức bình xét khen thƣởng nhằm tôn vinh các
doanh nghiệp, doanh nhân xuất sắc, có nhiều đóng góp tích cực cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
5. Quyết định số 05/2011/QĐ-UBND ngày 21/3/2011 về khen thƣởng, tôn
vinh, công nhận danh hiệu “Chủ trang trại tiêu biểu tỉnh Bình Dƣơng”
để tặng cho những chủ trang trại có nhiều đóng góp đối với sự nghiệp
phát triển nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn tỉnh.
6. Chƣơng trình phối hợp liên tịch số 16 giữa Sở Nội vụ và Liên đoàn Lao
động nhằm đẩy mạnh phong trào thi đua và công tác khen thƣởng
trong công nhân viên chức và ngƣời lao động trực tiếp trong doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh; đồng thời xây dựng hƣớng dẫn tổ chức thực
93
hiện công tác khen thƣởng đối với cán bộ công chức, viên chức và
ngƣời lao động trực tiếp trong doanh nghiệp.
7. Quyết định số 74/2011/QĐ-UBND ngày 21/12/2011 về chính sách thu hút,
chế độ hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tỉnh Bình Dƣơng.
8. Nghị quyết số 62/2011/NQ-HĐND8 ngày 09/12/2011 của Hội đồng nhân
dân tỉnh về việc hỗ trợ khen thƣởng cho tập thể, cá nhân của tỉnh Bình
Dƣơng đạt thành tích xuất sắc trong các hoạt động văn hóa, nghệ thuật
và thi đấu thể dục, thể thao.
9. Quyết định số 30/2011/QĐ-UBND ngày 19/8/2011 Quy định khen thƣởng
phong trào giao thông nông thôn - chỉnh trang đô thị trên địa bàn tỉnh
Bình Dƣơng nhằm khen thƣởng động viên viên các địa phƣơng, các
tập thể và cá nhân thi đua trong phong trào giao thông nông thôn -
chỉnh trang đô thị.
10. Quyết định số 62/2011/QĐ-UBND ngày 19/12/2011 quy định hỗ trợ mức
khen thƣởng cho tập thể, cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong các
hoạt động văn hóa nghệ thuật và thi đấu thể dục thể thao trên địa bàn
tỉnh khi tham gia biểu diễn nghệ thuật và thi đấu thể dục thể thao cấp
quốc tế, quốc gia.
11. Quyết định số 13/2013/QĐ-UBND ngày 14/05/2013 quy định giải thƣởng
môi trƣờng cho cá nhân, tổ chức, cộng đồng trên địa bàn tỉnh Bình
Dƣơng để tặng thƣởng cho các tổ chức cá nhân có thành tích xuất sắc
trong sự nghiệp bảo vệ môi trƣờng trên địa bàn tỉnh.
12. Quyết định số 32/2014/QĐ-UBND ngày 25/08/2014 về chế độ, chính sách
hỗ trợ đối với công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình trên địa bàn
tỉnh Bình Dƣơng
13. Quyết định số 437/QĐ-UBND ngày 27/02/2014 quy định về tổ chức phân
chia Cụm, Khối thi đua và thực hiện chấm điểm, xếp hạng thi đua.
94
14. Quyết định số 23/2015/QĐ-UBND ngày 01/6/2015 quy định về công tác
thi đua, khen thƣởng trên địa bàn tỉnh.
15. Quyết định số 29/2016/QĐ-UBND ngày 19/8/2016 về chế độ, chính sách
hỗ trợ đối với đơn vị, công chức, viên chức, học sinh, sinh viên ngành
Giáo dục - Đào tạo và dạy nghề tỉnh Bình Dƣơng
16. Quyết định 22/2016/QĐ-UBND ngày 01/08/2016 ban hành Quy chế công
nhận các danh hiệu văn hóa, đạt chuẩn văn hóa, đạt chuẩn văn minh
đô thị trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng.
17. Quyết định số 42/2015/QĐ-UBND ngày 30/9/2015 quy định đối tƣợng,
tiêu chuẩn, quy trình, thủ tục xét công nhận danh hiệu Nghệ nhân tỉnh
Bình Dƣơng, thợ giỏi tỉnh Bình Dƣơng, ngƣời có công đƣa nghề mới
về địa phƣơng trên địa bàn tỉnh Bình Dƣơng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_thi_dua_khen_thuong_tinh_binh_d.pdf