Thực tiễn hoạt động TGPL trong thời gian qua đã chứng minh chủ trương của
Đảng về việc thành lập và phát triển hoạt động TGPL ở nước ta là đúng đắn, góp
phần thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đưa chủ trương xoá nghèo về
pháp luật, đền ơn, đáp nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước vào
cuộc sống; góp phần nâng cao ý thức pháp luật, giải toả những vướng mắc pháp
luật của nhân dân, tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình thực hiện công tác
quản lý nhà nước về TGPL đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Những hạn chế đó là
do một phần từ việc quy định chưa cụ thể của pháp luật về tổ chức và hoạt động
TGPL, về các chủ thể TGPL, lĩnh vực, hình thức, chưa điều chỉnh hết một số vấn
đề phát sinh trong thực tiễn. Quy định pháp luật về công tác TGPL chưa thống
nhất, đồng bộ; trong một số trường hợp chưa toàn diện, kịp thời, bám sát thực tiễn
dẫn đến một số quy định chưa khả thi, việc triển khai thực hiện công tác TGPL.
Mặt khác, những hạn chế đó còn xuất phát từ yếu tố con người. Các cấp chính
quyền chưa thật sự quan tâm đến công tác TGPL; sự nhận thức của các cấp, ngành,
các tổ chức chính trị - xã hội về vai trò của công tác chưa thực sự đồng đều. Công
tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thực tế chưa được triển khai. Những
tồn tại này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và chất lượng quản lý nhà nước về trợ
giúp pháp lý.
119 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 598 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý tại tỉnh Kiên Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tỉnh, nên công tác
điều phối, hỗ trợ về nguồn lực giữa các địa phương khó khăn khi có nhu cầu.
Thứ ba, về phương diện quốc tế, tại phiên họp lần thứ 60 ngày 20/12/2012,
Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua Nghị quyết sô 67/187 về các nguyên tắc
và hướng dẫn tiếp cận trợ giúp pháp lý trong hệ thống tư pháp hình sự, theo đó thừa
nhận trợ giúp pháp lý là một thành tố cơ bản của hệ thống tư pháp hình sự, quyền
được trợ giúp được coi là quyền cơ bản của công dân. Ngày 25/9/2015, Liên Hợp
85
Quốc đã thông qua chương trình nghị sự phát triển bền vững 2030, theo đó đến
năm 2030, bảo đảm rằng tất cả nam giới và nữ giới, đặc biệt là người nghèo và
những người dễ bị tổn thương có quyền bình đẳng về các nguồn lực tài chính cũng
như có khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản.
Qua khảo sát cho thấy, hầu hết các nước trên thế giới đang tổ chức TGPL theo
mô hình hỗn hợp, bởi nó phát huy được các ưu điểm và khắc phục được những
nhược điểm của hai mô hình còn lại. Thậm chí, một số nước trước đây TGPL hoàn
toàn giao cho đội ngũ luật sư thực hiện, nay cũng dần chuyển sang mô hình hổn
hợp như Nhật Bản, Nam Phi, Vương quốc Anh[19] do đó, chưa có kinh nghiệm
và cơ sở thực tiễn chứng minh rằng Việt Nam giao hoạt động hoàn toàn cho xã hội
sẽ hiệu quả hơn trong giai đoạn hiện nay. Việt Nam cũng nằm trong nhóm nước có
mô hình TGPL hỗn hợp, xuất phát từ chính sách TGPL là trách nhiệm của Nhà
nước và bảo đảm phát huy mọi nguồn lực sẵn có dành cho công tác TGPL. Vì vậy,
việc tăng cường quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý trong giai đoạn hiện nay là
hết sức cần thiết, phù hợp với quan điểm thể chế hóa chủ trương, chính sách xã hội
hóa hoạt động TGPL của Đảng và Nhà nước, đa dạng hòa nguồn lực thực hiện
TGPL, thu hút mọi nguồn lực xã hội tham gia hoạt động TGPL.
- Phương hướng đảm bảo quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý
Một là, thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về
các chính sách xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, dân tộc và quan điểm về
quyền con người, quyền công dân trong giai đoạn phát triển mới.
Hai là, cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, đặc biệt là bảo đảm
quyền bào chữa của người bị buộc tội; nguyên tắc tranh tụng trong xét xử; bảo đảm
tính thống nhất, đồng bộ với các luật có liên quan, nhất là các bộ luật, luật về tố
tụng, tổ chức bộ máy và ngân sách.
Ba là, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL làm trung tâm;
bảo đảm chất lượng dịch vụ TGPL theo hướng chuẩn hóa đội ngũ thực hiện TGPL,
nâng cao các điều kiện, tiêu chuẩn đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý; không thu hút
86
những người không đủ tiêu chuẩn thực hiện TGPL; huy động các nguồn lực xã hội
tham gia thực hiện TGPL.
Bốn là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về TGPL, tinh gọn tổ
chức thực hiện TGPL của Nhà nước; Nhà nước bảo đảm tính bền vững của công
tác TGPL theo hướng kiểm soát chặt chẽ chất lượng dịch vụ TGPL, đề cao hiệu
quả sử dụng ngân sách và khuyến khích sự đóng góp, hỗ trợ tài chính của xã hội
cho hoạt động TGPL.
Năm là, luật hóa những quy định từ văn bản dưới luật mà thực tiễn áp dụng có
kết quả tích cực; tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài phù hợp với điều
kiện thực tiễn của đất nước, tiếp tục nội luật hóa các quy định của điều ước quốc tế
có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
3.2. Giải pháp bảo đảm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý
3.2.1. Nhóm các giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý
3.2.1.1. Kiện toàn tổ chức, bộ máy, con người trực tiếp làm công tác trợ giúp
pháp lý
Việc kiện toàn tổ chức, bộ máy, con người trực tiếp làm công tác trợ giúp
pháp lý để bảo đảm thực hiện các quy định của pháp luật trợ giúp pháp lý, là vấn đề
có tính chất quyết định đối với hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước. Chỉ thị số
35/2006/CT-TTg ngày 13/10/2006 của Thủ tướng Chính phủ, về việc triển khai thi
hành Luật trợ giúp pháp lý đã xác định: Cần tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy, cán
bộ, cơ sở vật chất, tăng cường năng lực của cơ quan quản lý nhà nước chuyên
ngành về trợ giúp pháp lý là Cục trợ giúp pháp lý để Cục làm tốt chức năng tham
mưu, hướng dẫn, thông tin, bồi dưỡng nghiệp vụ chỉ đạo phát triển đội ngũ người
thực hiện trợ giúp pháp lý; kiểm tra chất lượng vụ việc trợ giúp pháp lý. Chỉ đạo,
hướng dẫn các địa phương triển khai thực hiện các công việc về kiện toàn, củng cố
tổ chức của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước, thành lập Chi nhánh trợ giúp
pháp lý, bổ nhiệm và cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý; tăng cường công tác kiểm tra,
87
giám sát đối với hoạt động trợ giúp pháp lý. Để kiện toàn tổ chức, bộ máy trực tiếp
làm công tác trợ giúp pháp lý, theo tác giả, cần chú trọng những nội dung sau:
Thứ nhất, về tinh gọn tổ chức thực hiện TGPL của Nhà nước nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động: Thực hiện chủ trương tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức và nâng cao hiệu quả công tác TGPL, không nên quy định
Chi nhánh với tư cách là đơn vị phụ thuộc của Trung tâm cũng như việc thành lập
mới các Chi nhánh. Chính phủ nên tiến rà soát và nâng cao chất lượng hoạt động
của các Chi nhánh đã được thành lập mà không tiếp tục thành lập mới các Chi
nhánh mới.
Để nâng cao chất lượng TGPL, nên bổ sung các quy định về điều kiện, tiêu
chuẩn của Trợ giúp viên pháp lý, cá nhân và tổ chức tham gia TGPL nhằm nâng
cao, chuẩn hóa đội ngũ cung cấp dịch vụ TGPL, đây cũng là cách tiếp cận chung
của các nước trên thế giới.
Thứ hai, về Trợ giúp viên pháp lý: cần nâng cao tiêu chuẩn, điều kiện của Trợ
giúp viên pháp lý bảo đảm tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ tương đương luật sư,
theo hướng bổ sung 02 quy định về điều kiện cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý như
sau: có Giấy chứng nhận tốt nghiệp đào tạo nghề luật sư hoặc thuộc trường hợp
được miễn đào tạo nghề theo quy định của Luật Luật sư; có Giấy chứng nhận kiểm
tra kết quả tập sự hành nghề luật sư hoặc tập sự TGPL. Quy định như vậy nhằm
khắc phục bất cập hiện nay về trình độ, kỹ năng, bản lĩnh nghề nghiệp của Trợ giúp
viên pháp lý. Ngoài ra, Trợ giúp viên pháp lý phải tham gia các khóa tập huấn nâng
cao kiến thức, kỹ năng bắt buộc về chuyên môn, nghiệp vụ TGPL là một giải pháp
để nâng cao năng lực cho đội ngũ này.
Quy định thẩm quyền cấp thẻ Trợ giúp viên pháp lý từ Chủ tịch Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh như hiện nay sang Bộ trưởng Bộ Tư pháp nhằm nâng cao vị thế của
Trợ giúp viên pháp lý, cho phép chủ thể này cung cấp dịch vụ TGPL trên toàn quốc
(khi có yêu cầu từ cơ quan quản lý TGPL Trung ương), đồng thời tạo sự đồng bộ
với thẩm quyền cấp chứng chỉ hành nghề luật sư.
88
Thứ ba, về tổ chức và người tham gia TGPL: Nhằm hướng đến nâng cao chất
lượng dịch vụ TGPL, nên chọn lọc, kế thừa yếu tố hợp lý từ quy định hiện hành,
đồng thời đưa ra những điều kiện cần thiết để lựa chọn, ký hợp đồng thực hiện
TGPL; duy trì cơ chế đăng ký tham gia thực hiện TGPL nhằm huy động được các
luật sư, tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật có kinh nghiệm, uy tín
tham gia thực hiện TGPL. Nhà nước kiểm tra, giám sát, kiểm soát chất lượng do
các chủ thể này thực hiện.
Bên cạnh cơ chế huy động bằng đăng ký tham gia TGPL, nên bổ sung cơ chế
ký hợp đồng để lựa chọn các tổ chức và người tham gia TGPL có khả năng cung
cấp dịch vụ TGPL chất lượng, đồng thời là cơ sở để thanh toán chi phí thực hiện vụ
việc TGPL. Bên cạnh đó, không nên quy định tư cách cộng tác viên TGPL như
Luật TGPL năm 2006 để bảo đảm tính chuyên nghiệp của dịch vụ TGPL, chuẩn
hóa các chức danh thực hiện TGPL.
Như vậy, dù sử dụng nguồn lực của Nhà nước thông qua việc ký hợp đồng hay
sử dụng nguồn lực của chính mình thông qua việc đăng ký tham gia, tất cả các cá
nhân, tổ chức thực hiện TGPL đều phải bảo đảm chất lượng dịch vụ TGPL cho
người được TGPL thông qua các quy định chặt chẽ về điều kiện, tiêu chuẩn, quyền
và nghĩa vụ liên quan.
3.2.1.2. Bảo đảm kinh phí, phương tiện hoạt động và điều kiện vật chất
khác cho hoạt động trợ giúp pháp lý
Để khắc phục những bất cập về nguồn tài chính cho hoạt động TGPL và thực
hiện thành công chính sách thu hút các nguồn lực xã hội cho TGPL, cần:
Một là, Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam tại Đề án đổi mới công tác TGPL theo
Quyết định số 52/2010/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ về
chính sách hỗ trợ pháp lý cho người nghèo, tuy nhiên, hiện nay cơ chế này được
thay thế bằng cơ chế ngân sách trung ương hỗ trợ trực tiếp cho các đơn vị thông
qua trung gian là Quỹ TGPL Việt Nam. Tuy nhiên, Quỹ này không hiệu quả, trong
khi đó duy trì nhân sự sẽ lãng phí, tốn kém, do vậy Thủ tướng đã quyết định tạm
89
dừng hoạt động của Quỹ TGPL Việt Nam. Từ thực tiễn và tham khảo kinh nghiệm
nước ngoài [19, tr.30-33], về bản chất, việc hỗ trợ cho công tác TGPL không nhất
thiết phải thông qua một tổ chức tài chính - Quỹ Trợ giúp pháp lý (có tổ chức, bộ
máy) mà chỉ cần thông qua tài khoản chính của cơ quan quản lý TGPL. Qua đó,
cần thiết phải quy định về nguồn tài chính cho công tác TGPL phù hợp với quy
định của Luật Ngân sách nhà nước và pháp luật liên quan nhằm bảo đảm tính chủ
động và phát triển bền vững cho công tác này. Trong bối cảnh triển khai chủ trương
của Đảng và Nhà nước trong việc tinh giảm biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức theo Nghị quyết 39, tiết kiệm ngân sách, thiết nghĩ thì không
cần thiết quy định về Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam trong Luật. Đối với chức
năng tiếp nhận nguồn hỗ trợ, tài trợ của các tổ chức, cá nhân có thể sẽ có một tài
khoản tiếp nhận các khoản đóng góp và được Bộ Tài chính hướng dẫn sử dụng kinh
phí đối với khoản này.
Hai là, xác định dòng ngân sách riêng cho hoạt động TGPL, bao gồm ngân
sách TW và địa phương với những điều chỉnh về cơ cấu chi theo hướng tăng mục
chi cho hoạt động TGPL theo vụ việc, đồng thời thay đổi phương thức cấp, điều
phối ngân sách, đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả; ngân sách TW hỗ trợ cho các tổ chức
hành nghề luật sư, luật sư thực hiện vụ việc TGPL theo yêu cầu của Nhà nước
trường hợp ngân sách địa phương không có điều kiện chi trả; thực hiện việc tạm
ứng kinh phí bảo đảm các tổ chức thực hiện TGPL chủ động có nguồn kinh phí để
thực hiện vụ việc. Thông qua cơ chế này thực hiện việc điều phối về nguồn nhân
lực giữa các địa phương.
Ba là, Nhà nước cần có chính sách ưu đãi các tổ chức thực hiện TGPL. Đối
với các tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp luật thực hiện TGPL có hiệu
quả cần có cơ chế hỗ trợ phù hợp trên cơ sở Nghị định 77/2008/NĐ-CP ngày
16/7/2008 của Chính phủ về tư vấn pháp luật, Nghị định 05/2012/NĐ-CP của
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về đăng ký giao dịch
bảo đảm, trợ giúp pháp lý, luật sư, tư vấn pháp luật.
90
3.2.1.3. Đổi mới nhận thức quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, từng bước
xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý
Là một lĩnh vực mới mẻ, việc xây dựng thể chế cũng như hành lang pháp lý
cho hoạt động trợ giúp pháp lý ở nước ta chậm có sự đổi mới. Luật trợ giúp pháp lý
năm 2006, quy định về tổ chức và hoạt động có thể nói vẫn hoàn toàn chú trọng
chủ thể là các tổ chức trợ giúp pháp lý nhà nước, chủ yếu điều chỉnh và tạo thuận
lợi cho hệ thống tổ chức trợ giúp pháp lý của nhà nước. Vai trò của các tổ chức xã
hội còn hết sức mờ nhạt, việc quản lý nhà nước để tạo điều kiện cho việc từng bước
xã hội hóa chưa được coi trọng.
Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do chưa đổi mới về nhận
thức trong bản chất, vai trò của trợ giúp pháp lý dẫn tới sự lạc hậu về tư duy pháp
lý, bất cập trọng thể chế trợ giúp pháp lý. Vì vậy, một trong những giải pháp hàng
đầu để tiến tới từng bước xã hội hóa trợ giúp pháp lý là phải đổi mới nhận thức về
bản chất, vai trò trợ giúp pháp lý; trên cơ sở đó, đổi mới tư duy pháp lý, xây dựng
thể chế, xác định mô hình tổ chức, hoạt động, mô hình quản lý trợ giúp pháp lý cho
phù hợp.
Thực chất đổi mới nhận thức về bản chất, vai trò trợ giúp pháp lý chính là
nhận thức lại về bản chất, vai trò của hoạt động này, đây là điều chúng ta chưa làm,
hoặc chưa nghĩ tới khi xây dựng thể chế và xác định mô hình tổ chức hoạt động trợ
giúp pháp lý ở Việt Nam. Cần phải khẳng định, bản chất của trợ giúp pháp lý là
một hoạt động xã hội, ít nhiều mang tính nghề nghiệp, mang tính dịch vụ công,
không mang đặc trưng quyền lực nhà nước. Tính dịch vụ công biểu hiện ở vai trò
quản lý chặt chẽ của nhà nước đối với hoạt động trợ giúp pháp lý, ở trách nhiệm
của nhà nước đối với việc hỗ trợ, tạo điều kiện để thỏa mãn yêu cầu trợ giúp pháp
lý của người nghèo không có điều kiện kinh tế để chi trả các dịch vụ pháp luật có
thu phí.
Trong giai đoạn đầu, để thiết lập và tạo nền móng cho hoạt động trợ giúp pháp
lý phát triển, nhà nước phải đứng ra vừa thực hiện nhiệm vụ quản lý lại vừa trực
91
tiếp thực hiện hoạt động trợ giúp pháp lý, tức là “vừa là người lái thuyền, vừa là
người chèo thuyền”. Tuy nhiên, khi nhu cầu của người dân đối với nhu cầu được
cung ứng dịch vụ pháp luật này tăng lên; mặt khác, nhà nước cũng muốn mở rộng
và tiếp tục phát triển loại hình dịch vụ này, để đem lại một phần nào đó quyền lợi
cho người nghèo, mục đích giảm sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận pháp luật của
người nghèo, người chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội, thì rõ ràng xã hội hóa hoạt
động này là một tất yếu. Xã hội hóa hoạt động trợ giúp pháp lý không phải nhà
nước xóa bỏ quản lý nhà nước đối với công tác này mà nhà nước chỉ thay đổi hình
thức, nội dung, mức độ, cơ chế thực hiện sự quản lý. Nhà nước không trực tiếp
hoặc hạn chế dần việc tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý, mà sẽ chủ yếu làm
nhiệm vụ hoạch định chính sách, chiến lược, định hướng phát triển, xây dựng thể
chế, điều tiết, giám sát bảo đảm công bằng, trật tự, ổn định xã hội... Nhà nước phải
tự giải phóng mình khỏi những công việc ở tầm vi mô như hiện nay mà tập trung
vào việc quản lý vĩ mô, với việc phân định rõ ràng ranh giới trách nhiệm của nhà
nước và xã hội. Đây chính là điều kiện để tăng cường vai trò quản lý nhà nước về
trợ giúp pháp lý, đảm bảo cho hoạt động trợ giúp pháp lý phát triển đúng hướng,
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, thực sự trở thành một công cụ đắc lực
phục vụ sự nghiệp xây dựng một xã hội mà ở đó mọi người sống và làm việc theo
pháp luật.
“Chuyển sang thời kỳ phát triển mới, nhà nước cần chấm dứt việc bơi chèo ra
khỏi việc cầm lái. Một nhà nước mà đặt việc cầm lái và việc bơi chèo cùng một tổ
chức thì sẽ bó mình trong những chiến lược chật hẹp, không cho phép mình có tầm
nhìn xa trông rộng và bao quát những vấn đề trọng đại của đất nước”[43, tr.36].
Nhận thức này trong quản lý nhà nước về hoạt động trợ giúp pháp lý chính là việc
nhà nước rút dần ra khỏi việc trực tiếp cung ứng và làm nhiệm vụ trợ giúp pháp lý,
tiến tới từng bước chuyển giao cho các chủ thể phi nhà nước thực hiện khi có đủ
điều kiện. Nhà nước chỉ đóng vai trò duy nhất là người quản lý bằng pháp luật về
lĩnh vực trợ giúp pháp lý, phân biệt rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng
92
trực tiếp thực hiện các nghiệp vụ dịch vụ pháp luật trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý.
Nhà nước xây dựng thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để huy động và
khuyến khích các nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý. Thực
hiện việc quản lý này, các trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước sẽ đóng vai trò là
một cơ quan trung gian giữa đối tượng trợ giúp pháp lý và luật sư, thực hiện các
nghiệp vụ tư vấn pháp lý ban đầu cho đối tượng. Như vậy, việc phân loại vụ việc
trợ giúp pháp lý sẽ chính xác, dễ dàng hơn nhiều so với cách quản lý hiện nay đang
áp dụng. Đây chính là giải pháp quan trọng làm cho bộ máy nhà nước bớt cồng
kềnh, tiết kiệm cho ngân sách nhà nước; mặt khác lại nâng cao được năng lực và
hiệu quả của hoạt động trợ giúp pháp lý.
Để đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động TGPL, nên thống nhất chủ trương thu hút,
huy động các cá nhân, tổ chức tham gia TGPL bằng nguồn lực của chính họ, cụ
thể:
+ Về tổ chức tham gia TGPL là tổ chức hành nghề luật sư, tổ chức tư vấn pháp
luật có tư cách pháp nhân thực hiện TGPL theo hai phương thức: (1) hợp đồng thực
hiện TGPL với cơ quan quản lý TGPL bằng nguồn lực nhà nước; (2) đăng ký thực
hiện TGPL bằng nguồn lực của mình.
+ Về người tham gia TGPL bao gồm: (1) luật sư (có 02 phương thức thực hiện
TGPL là ký hợp đồng và theo phân công của tổ chức tham gia TGPL); (2) tư vấn
viên pháp luật có 05 năm kinh nghiệm tư vấn pháp luật trở lên làm việc tại tổ chức
thực hiện TGPL, qua đó tối đa hóa nguồn lực con người và nâng cao chất lượng,
hiệu quả TGPL.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy đa số các nước đang thiết kế theo mô hình hỗn
hợp Nhà nước và xã hội cùng thực hiện TGPL như Bang Victoria (Úc), Nam Phi,
Singapore, Hà Lan, Hàn Quốc... Nhiều nước trên thế giới thực hiện cơ chế lựa chọn
và ký hợp đồng với tổ chức cung cấp TGPL để đảm bảo chất lượng như Indonesia,
Úc, Mỹ, Vương quốc Anh, Nhật Bản, Thái Lan Việc thu hút luật sư tư vào công
tác TGPL cũng phù hợp với xu thế chung của các nước trên thế giới.
93
3.2.1.4. Đổi mới công tác phổ biến, tuyên truyền giáo dục pháp luật về hoạt
động trợ giúp pháp lý
Tuyên truyền giáo dục pháp luật là hoạt động quan trọng góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả của quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý. Thực tế những hạn
chế, bất cập trong hoạt động quản lý nhà nước một phần là xuất phát từ nhận thức
các cấp chính quyền và của xã hội về trợ giúp pháp lý chưa đầy đủ, chưa đánh giá
đúng vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân.
Mặc dù, hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về trợ giúp pháp
lý trong những năm qua đã được Bộ Tư pháp và các cơ quan hữu quan chú trọng
tiến hành. Tuy nhiên, chưa được thường xuyên, chưa bám sát đặc thù của đối tượng
là người nghèo, đối tượng chính sách và đồng bào dân tộc thiểu số.
Để khắc phục hạn chế đó, trong thời gian tới việc tuyên truyền, giáo dục pháp
luật trong quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý cần được tiến hành với nhiều nội
dung, phù hợp với từng đối tượng khác nhau. Đối với đội ngũ người thực hiện trợ
giúp pháp lý và đội ngũ cán bộ công chức công tác trong các cơ quan quản lý nhà
nước liên quan đến quyền và lợi ích của công dân, cần được tuyên truyền, giáo dục
pháp luật để có sự thống nhất nhận thức về vị trí, vai trò của trợ giúp pháp lý đối
với người nghèo và đối tượng chính sách. Đối với người được trợ giúp pháp lý,
việc được tuyên truyền pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của mình từ đó
nâng cao ý thức trách nhiệm với bản thân, với cộng đồng, nâng cao dân trí pháp
luật.
Hoạt động tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong quản lý nhà nước về trợ giúp
pháp lý, có thể được tiến hành bằng nhiều hình thức như tuyên truyền miệng, tuyên
truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng, thông qua các chuyến công tác lưu
động tại cơ sở của Trung tâm trợ giúp pháp lý.
Để hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong quản lý nhà
nước về trợ giúp pháp lý đạt hiệu quả cao, cần nâng cao năng lực, phát huy vai trò
94
của các chủ thể tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, đặc biệt là các tổ chức
chính trị - xã hội, các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cấp ủy và chính quyền địa
phương. Phải xác định, có nhận thức tốt pháp luật về trợ giúp pháp lý thì mới có thể
tổ chức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý, cho nên cần coi đây là nhiệm vụ
hết sức quan trọng, là công việc thường xuyên và liên tục. Các cơ quan quản lý nhà
nước cần xây dựng, chương trình, kế hoạch cụ thể để tổ chức triển khai, tuyên
truyền Luật trợ giúp pháp lý và các văn bản hướng dẫn thi hành đến tận người dân,
đến từng người nghèo, người có công với cách mạng, người già cô đơn, trẻ em
không nơi nương tựa, đồng bào dân tộc thiểu số sống ở những vùng có điều kiện
kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Để việc tuyên truyền được thuận lợi, đạt hiệu
quả cao, căn cứ nội dung, yêu cầu của Cục trợ giúp pháp lý, Trung tâm trợ giúp
pháp lý tỉnh có kế hoạch phù hợp và hướng dẫn, chỉ đạo việc tổ chức tập huấn
chuyên sâu cho những người trực tiếp làm công tác trợ giúp pháp lý ở Trung tâm
trợ giúp pháp lý nhà nước, cộng tác viên, tư vấn viên pháp luật của các tổ chức tư
vấn pháp luật, tổ chức hành nghề luật sư có đăng ký tham gia trợ giúp pháp lý để
bảo đảm áp dụng thống nhất Luật trợ giúp pháp lý.
3.2.1.5. Khắc phục những hạn chế, bất cập trong việc quản lý nhà nước về
trợ giúp pháp lý
- Tiếp tục bổ sung những quy định nâng cao hiệu lực, hiệu quả của mô hình
quản lý theo ngành dọc kết hợp với quản lý theo địa giới hành chính như cần quy
định rõ ràng nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan có chức năng trong quản lý nhà
nước về TGPL, cơ quan phối hợp trong quản lý nhà nước, trong đó đặc biệt trách
nhiệm của Bộ Tư pháp – với tư cách là cơ quan giúp Chính phủ thực hiện thống
nhất quản lý nhà nước về TGPL trong toàn quốc. Đề xuất bổ sung một số nhiệm vụ
như: Nhiệm vụ hỗ trợ, điều phối để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đối tượng
TGPL trong các vụ việc địa phương không đủ nguồn lực để thực hiện nhằm tạo cơ
chế linh hoạt; việc đánh giá chất lượng TGPL, để đảm bảo tính khách quan và hiệu
quả, cần bổ sung nhiệm vụ tổ chức thẩm định, đánh giá chất lượng vụ việc TGPL.
95
- Cần quy định trách nhiệm của Sở Tư pháp với tư cách là đơn vị tham mưu
giúp Ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện quản lý nhà nước về tổ chức và hoạt động
TGPL, thực hiện các nhiệm vụ theo Luật định và các văn bản quy phạm pháp luật
để tăng cường hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan này.
- Cần bổ sung việc tiếp nhận các khoản đóng góp hỗ trợ cho hoạt động TGPL;
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước bảo đảm nhanh chóng, tiện
lợi và chính xác, tiến tới Chính phủ điện tử trong công tác quản lý; phối hợp với
các cơ quan chủ quản về luật sư, tư vấn pháp luật ở trung ương trong quản lý, giám
sát việc thực hiện TGPL của các cá nhân, tổ chức tham gia TGPL
3.2.2. Nhóm các giải pháp tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
và đánh giá chất lượng trợ giúp pháp lý
3.2.2.1. Đẩy mạnh hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong hoạt
động trợ giúp pháp lý
Để pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người nghèo và người được trợ giúp pháp
lý khác được thực hiện trong đời sống xã hội, ngoài những giải pháp như nâng cao
nhận thức về vị trí, vai trò của hoạt động trợ giúp pháp lý, xây dựng cơ chế, chính
sách phù hợp, kiện toàn tổ chức và đội ngũ, tạo lập môi trường xã hội thuận lợi, bảo
đảm điều kiện vật chất... Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước còn phải tăng
cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm trong quá trình tổ
chức thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý. Đây là giải pháp đặc biệt quan trọng,
vì qua đó cho thấy pháp luật được tuân thủ như thế nào, phát hiện những hạn chế
thiếu sót để có những biện pháp khắc phục; đồng thời cũng thông qua thanh tra,
kiểm tra, giám sát mà phát hiện những vi phạm pháp luật để có cách thức xử lý phù
hợp. Hoạt động này phải được chủ thể quản lý nhà nước tiến hành thường xuyên,
có tác động tích cực nhằm bảo đảm cho pháp luật về trợ giúp pháp lý được thực
hiện một cách nghiêm túc trong đời sống xã hội.
Để đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, thanh tra, giám sát và xử lý các vi phạm
trong hoạt động trợ giúp pháp lý, trước hết theo chúng tôi, cơ quan quản lý nhà
96
nước tỉnh cần nghiên cứu, khảo sát, đánh giá những vi phạm, yếu kém trong hoạt
động trợ giúp pháp lý trong thời gian qua, qua đó xây dựng những quy định phù
hợp với nội dung thanh tra hoạt động trợ giúp pháp lý. Bằng pháp luật, xác định rõ
một hệ thống, kiểm tra, giám sát đối với việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động trợ
giúp pháp lý, của các cơ quan chức năng trong quản lý nhà nước về hoạt động trợ
giúp pháp lý. Cơ quan này phải nắm thông tin về tổ chức, hoạt động trợ giúp pháp
lý một cách đầy đủ, kịp thời để đề xuất với những cơ quan có thẩm quyền xem xét,
xử lý theo quy định của pháp luật.
Công tác thanh tra, kiểm tra cần tiến hành một cách thường xuyên đối với các
tổ chức và cá nhân tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý. Kết hợp hoạt động
kiểm tra, giám sát gắn với việc kết luận, đánh giá mức độ thực thi của pháp luật, về
trách nhiệm của cá nhân, tổ chức trong việc thực hiện pháp luật về trợ giúp pháp lý.
Thông qua việc kiểm tra, thanh tra, giám sát để phát hiện vi phạm, kiên quyết xử lý
nghiêm minh theo pháp luật những hành vi vi phạm trong hoạt động trợ giúp pháp
lý.
Pháp luật về thanh tra, kiểm tra trong hoạt động Tư pháp nói chung cần có cơ
chế để xây dựng được đội ngũ có trình độ, kiến thức vững vàng, giỏi về nghiệp vụ
(nhất là nghiệp vụ pháp luật trong lĩnh vực trợ giúp pháp lý). Đồng thời chú trọng
công tác giáo dục đạo đức, phẩm chất chính trị, tư cách tác phong của đội ngũ cán
bộ, thanh tra viên Tư pháp để đội ngũ này là thực sự trong sạch, vững mạnh, đóng
góp tích cực vào việc tạo lập môi trường phát triển hoạt động trợ giúp pháp lý.
3.2.2.2. Xây dựng cơ chế đánh giá chất lượng vụ việc TGPL công khai,
minh bạch và hiệu quả
Do TGPL là hoàn toàn miễn phí nên việc đánh giá chất lượng vụ việcTGPL có
vai trò quan trọng trong việc bảo đảm chất lượng vụ việc TGPL tương xứng với các
vụ việc thực hiện theo dịch vụ pháp lý thông thường khác.
Để có thể đánh giá đúng chất lượng vụ việc thì người đánh giá phải sát sao với
vụ việc đó đồng thời là người có kinh nghiệm chuyên môn và thực tiễn dày dạn,
97
làm việc khách quan, độc lập. Ngày 01/03/2013, Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban
hành Thông tư số 02/2013/TT-BTP kèm theo Bộ tiêu chuẩn đánh giá chất lượng vụ
việc TGPL theo đó đã quy định cụ thể các nội dung đánh giá và quy định rõ trách
nhiệm đánh giá thuộc về người thực hiện TGPL, tổ chức thực hiện TGPL, cơ quan
quản lý nhà nước về TGPL. Điều này cho thấy việc đánh giá chất lượng vụ việc
TGPL đến nay chỉ mới mang tính nội bộ và theo chiều dọc theo trình tự như sau
đánh giá từ thấp đến cao, chưa đáp ứng được đòi hỏi về tính khách quan, độc lập và
minh bạch trong quá trình đánh giá. Do đó, cần đổi mới về cơ chế hoạt động để
đảm bảo các đánh giá trung thực, khách quan và công bằng. Tiếp tục tham khảo mô
hình đánh giá độc lập các nước trên thế giới và hoàn thiện theo các tiêu chuẩn quốc
tế về đánh giá chất lượng tổ chức thực hiện TGPL và giám sát kết quả vụ việc như:
Thứ nhất, về mặt tổ chức không mang tính hành chính mà tồn tại như hội đồng
các chuyên gia độc lập, trực thuộc sự quản lý của Cục TGPL - Bộ Tư pháp. Hội
đồng được phân bố theo khu vực địa lý thay vì khu vực hành chính nhằm đảm bảo
không bị chi phối bởi cơ quan quản lý địa phương. Thành viên của hội đồng là các
chuyên gia pháp lý, luật sư giàu kinh nghiệm thực tiễn và uy tín.
Thứ hai, về thẩm quyền của hội đồng bao gồm đánh giá và xếp loại chất lượng
vụ việc TGPL; phát hiện ra các vi phạm trong quá trình TGPL từ đó yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền xử lý; đưa ra các đánh giá tổng quát hằng năm về hoạt động
TGPL và kiến nghị phương án khắc phục các hạn chế còn tồn tại.
Khi đánh giá chất lượng vụ việc TGPL, người đánh giá có thể làm việc trực
tiếp hoặc gián tiếp với người được TGPL, song, tựu chung họ cần phải có các kỹ
năng làm việc với nhóm yếu thế này để có thể đánh giá chính xác sự tận tâm, kỹ
năng và khả năng lấy, khai thác thông tin khách hàng của người thực hiện TGPL.
Thứ ba, nội dung đánh giá phải được tiến hành từ thời điểm có yêu cầu TGPL
từ khách hàng đến khi hoàn tất vụ việc TGPL mà không có bất cứ sự gián đoạn
nào. Điều đó có nghĩa là kể cả việc từ chối hay tiếp nhận, các hành vi thực hiện
trong quá trình TGPL hoặc việc tạm hoãn cung cấp TGPL đều phải được xem xét.
98
Tính minh bạch của các đánh giá phải được bảo đảm thông qua việc công khai
quá trình đánh giá, tuy nhiên, vẫn đảm bảo giữ gìn bí mật thông tin liên quan đến
khách hàng và vụ án.
3.2.2.3. Quy định rõ phạm vi và hình thức thực hiện trợ giúp pháp lý theo
đúng bản chất và yêu cầu của trợ giúp pháp lý
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Luật TGPL năm 2006 và định hướng
đổi mới công tác TGPL của Chính phủ, nên thu gọn các hình thức như hiện nay
xuống còn 03 hình thức TGPL là: tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và đại diện
ngoài tố tụng theo hướng ưu tiên hoạt động tham gia tố tụng. So với Luật TGPL
hiện hành, nên bỏ các hình thức TGPL khác và bỏ quy định tư vấn pháp luật được
thực hiện thông qua sinh hoạt Câu lạc bộ TGPL, TGPL lưu động nhằm khắc phục
việc thực hiện TGPL một cách dàn trải như hiện nay. Ngoài ra, nên quy định nghĩa
vụ của Trợ giúp viên pháp lý là bảo đảm chỉ tiêu vụ việc TGPL và trong thời hạn
02 năm liên tục Trợ giúp viên pháp lý không thực hiện vụ việc tham gia tố tụng sẽ
bị thu hồi thẻ nhằm sử dụng hiệu quả các nguồn lực TGPL.
3.2.3. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của luật sư và cơ chế thu hút đối
với hoạt động trợ giúp pháp lý
Là một lĩnh vực dịch vụ pháp luật mang đầy đủ nội dung và đặc điểm của loại
hình dịch vụ pháp luật của luật sư, điểm khác biệt duy nhất là đối tượng phục vụ.
Vì vậy, để bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước đồng thời để
hoạt động trợ giúp pháp lý phát triển đạt được mục tiêu người nghèo được hưởng
các dịch vụ pháp luật miễn phí có chất lượng khi có nhu cầu nhằm bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp liên quan trực tiếp đến bản thân mình thì nội dung quan trọng nhất
là huy động đội ngũ luật sư tham gia vào hoạt động trợ giúp pháp lý với vai trò lớn
hơn nữa; cần thiết phải đổi mới nhận thức về hoạt động của luật sư tham gia trợ
giúp pháp lý trên các yếu tố sau:
Theo đó, Nhà nước chi trả tiền bồi dưỡng theo vụ việc cho luật sư thực hiện
TGPL theo yêu cầu của Nhà nước hoặc ký hợp đồng theo cơ chế đặt hàng thực hiện
99
dịch vụ công với các luật sư, tổ chức hành nghề luật sư (trừ luật sư thực hiện TGPL
theo nghĩa vụ được quy định trong Luật Luật sư). Đồng thời, tăng mức bồi dưỡng
vụ việc theo ngày làm việc từ mức 0,2 mức lương tối thiểu/01 ngày làm việc lên
mức tương đương với mức bồi dưỡng cho báo cáo viên pháp luật cấp tỉnh (500.000
đồng/01 buổi làm việc) hoặc khoán chi theo vụ việc với mức tối thiểu từ 03 tháng
lương cơ sở và mức tối đa là 10 tháng lương cơ sở. Theo đó, Bộ Tư pháp (Cục Trợ
giúp pháp lý) sẽ thực hiện hỗ trợ bằng nguồn ngân sách Trung ương đối với các vụ
việc TGPL trong lĩnh vực tố tụng tại các địa phương chưa tự cân đối được ngân
sách thông qua việc ký hợp đồng với các Trung tâm TGPL và các luật sư, tổ chức
hành nghề luật sư và hỗ trợ trong trường hợp ngân sách địa phương không có điều
kiện chi trả. Các tổ chức hành nghề luật sư, luật sư không bảo đảm chất lượng theo
yêu cầu của Nhà nước thì không được tiếp tục ký hợp đồng và hỗ trợ kinh phí để
thực hiện TGPL.
Có thể nói, việc tạo cơ chế đặt hàng thực hiện dịch vụ công để huy động luật
sư, tổ chức hành nghề luật sư có uy tín, kinh nghiệm tham gia TGPL sẽ tạo điều
kiện người dân có quyền tiếp cận với dịch vụ có chất lượng cao. Đồng thời, thông
qua cơ chế này thực hiện được việc điều phối về nguồn nhân lực giữa các địa
phương trong toàn quốc, khắc phục được tình trạng thiếu nguồn lực thực hiện
TGPL ở các địa phương có điều kiện khác nhau.
Để góp phần nâng cao chất lượng TGPL nhằm bảo đảm cho đối tượng thuộc
diện TGPL được hưởng dịch vụ có chất lượng cao, nên đưa ra giải pháp xây dựng
cơ chế lựa chọn tổ chức hành nghề luật sư, luật sư có đủ điều kiện tham gia thực
hiện TGPL theo cơ chế đặt hàng; công bố rộng rãi danh sách người thực hiện
TGPL và tổ chức hành nghề luật sư được Nhà nước ký hợp đồng cung cấp dịch vụ
công để người được TGPL lựa chọn khi có nhu cầu. Đồng thời, để bảo đảm chất
lượng dịch vụ TGPL cung cấp cho người được TGPL, cần phải xây dựng cơ chế
lựa chọn tổ chức hành nghề luật sư, luật sư, chuyên gia để thực hiện việc kiểm soát,
100
đánh giá chất lượng vụ việc TGPL và xây dựng Bộ Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng
vụ việc TGPL cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Nhà nước có chính sách khuyến khích, vinh danh, tạo điều kiện để luật sư
tham gia TGPL nhằm thu hút nhiều luật sư có kinh nghiệm, trình độ, bản lĩnh nghề
nghiệp thực hiện TGPL. Trong thời gian tới, Bộ Tư pháp, Liên đoàn Luật sư Việt
Nam và Hội Luật gia Việt Nam nên xây dựng và ban hành Quy chế phối hợp, kết
nối trong hoạt động TGPL của Nhà nước và việc thực hiện nghĩa vụ TGPL của luật
sư nhằm cụ thể hóa trách nhiệm và đẩy mạnh hoạt động TGPL của các luật sư trên
toàn quốc.
Để đạt được mục tiêu nên lấy người được TGPL làm trung tâm, bảo đảm tối
đa quyền và lợi ích hợp pháp của họ trước pháp luật, tránh bỏ sót đối tượng được
TGPL khi họ cần giúp đỡ pháp lý; bảo đảm tính độc lập của hệ thống TGPL và
người thực hiện TGPL, xây dựng theo hướng thiết lập hệ thống TGPL từ Trung
ương đến địa phương bảo đảm tính khách quan, độc lập trong việc thực hiện TGPL;
dịch vụ TGPL của Nhà nước do tổ chức hành nghề luật sư và luật sư thực hiện. Đẩy
mạnh hơn nữa công tác xã hội hóa công tác TGPL theo hướng quy định các chế độ,
chính sách ưu đãi để khuyến khích, thu hút các tổ chức hành nghề luật sư, luật sư
có uy tín, kinh nghiệm thực hiện TGPL. Khuyến khích các tổ chức xã hội, xã hội
nghề nghiệp, chính trị xã hội thực hiện TGPL miễn phí (probono).
3.3. Kiến nghị, đề xuất
Một là, kiến nghị với Quốc hội
Đề nghị Quốc hội ban hành Luật TGPL (sửa đổi) theo một số định hướng lớn
sau đây:
- Phù hợp với quy định của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, đặc biệt là bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam,
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản
pháp luật có liên quan, nhất là các bộ luật, luật về tố tụng, tổ chức bộ máy và ngân
sách;
101
- Lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL làm trung tâm, tránh
bỏ sót đối tượng được TGPL khi họ cần giúp đỡ pháp lý, bảo đảm tối đa quyền và
lợi ích hợp pháp của người được TGPL trước pháp luật và tiếp cận công lý bảo đảm
chất lượng dịch vụ TGPL theo hướng chuẩn hóa đội ngũ thực hiện TGPL, nâng cao
các điều kiện, tiêu chuẩn đội ngũ Trợ giúp viên pháp lý; đa dạng hóa nguồn lực
thực hiện TGPL bảo đảm người được TGPL được cung cấp dịch vụ TGPL kịp thời,
có chất lượng khi họ có nhu cầu;
- Xuất phát từ chủ thuyết thực hiện TGPL cho người không có khả năng tài
chính thuê luật sư, để bảo đảm tính tương thích của hệ thống văn bản pháp luật,
đồng thời tiếp tục thể chế hóa các đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về
giảm nghèo, người có công, dân tộc và các chính sách an sinh khác, đề nghị quy
định về người được TGPL theo hướng kế thừa có chọn lọc những diện người còn
phù hợp của Luật năm 2006 và các Luật hiện hành, mở rộng một số diện người yếu
thế, dễ bị tổn thương thật sự có nhu cầu TGPL trong xã hội như người thuộc hộ cận
nghèo; trẻ em bị buộc tội; nạn nhân bạo lực gia đình, nạn nhân trong các vụ việc
bạo lực trên cơ sở giới có hoàn cảnh khó khăn... Việc mở rộng đối tượng cần được
tính toán trên cơ sở khả năng bảo đảm của Nhà nước;
- Bổ sung các cơ chế bảo đảm chất lượng, hiệu quả hoạt động của hệ thống
TGPL và người thực hiện TGPL; tăng cường năng lực quản lý, giám sát và kiểm
soát chất lượng dịch vụ TGPL cho cơ quan quản lý TGPL;
- Kế thừa những hình thức TGPL thiết thực đối với người được TGPL, tránh
dàn trải để tập trung nguồn lực thực hiện các vụ việc tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ
tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của người được TGPL;
- Cần quy định rõ nguồn tài chính dành cho hoạt động TGPL. Xây dựng cơ
chế kinh phí phù hợp với đặc thù là đơn vị cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí.
Hai là, kiến nghị với Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ
Sớm ban hành Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về chính sách TGPL cho
người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số tại các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản
102
đặc biệt khó khăn và hỗ trợ vụ việc tham gia tố tụng có tính chất phức tạp hoặc điển
hình.
Ba là, kiến nghị với các Bộ, ngành và các cơ quan liên quan
- Đề nghị các Bộ, ngành (Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lao động, Thương
binh và Xã hội, Bộ Thông tin và Truyền thông) phối hợp trong việc nghiên cứu,
xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách về TGPL và triển khai các giải pháp đổi
mới công tác TGPL.
- Đề nghị Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công
an và các cơ quan liên quan chỉ đạo ngành tích cực phối hợp trong hoạt động TGPL
bảo đảm kịp thời giải thích quyền được TGPL cho bị can, bị cáo, đương sự; hướng
dẫn, giới thiệu người thuộc diện TGPL đến tổ chức TGPL, tạo điều kiện thuận lợi
cho Trợ giúp viên pháp lý và luật sư tham gia tố tụng.
- Đề nghị UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quan tâm chỉ đạo các
giải pháp đổi mới tổ chức bộ máy của Trung tâm TGPL và Chi nhánh; bố trí kinh
phí tương xứng cho công tác TGPL, tăng kinh phí chi cho hoạt động nghiệp vụ, đặc
biệt là kinh phí thực hiện vụ việc TGPL.
- Đề nghị Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp; tổ chức xã hội - nghề
nghiệp tiếp tục có giải pháp cụ thể để khuyến khích luật sư và các lực lượng xã hội
tham gia TGPL.
Tiểu kết Chương 3
Xuất phát từ vai trò, ý nghĩa của hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo
và người được trợ giúp pháp lý khác với sự nghiệp xây dựng nhà nước, xây dựng
xã hội trong giai đoạn hiện nay, vấn đề bảo đảm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp
lý là một yêu cầu khách quan, là cơ sở để hoạt động trợ giúp pháp lý phát triển lành
mạnh đạt được mục tiêu, mục đích đề ra.
103
Qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận cũng như thực trạng quản lý nhà nước về
trợ giúp pháp lý ở nước ta nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng hiện nay, cho
chúng ta thấy, các yếu tố cấu thành nên nội dung quản lý nhà nước về trợ giúp pháp
lý còn nhiều hạn chế, bất cập, điều đó đã ảnh hưởng đến kết quả của hoạt động trợ
giúp pháp lý.
Để bảo đảm quản lý nhà nước về trợ giúp pháp lý, đáp ứng yêu cầu của người
nghèo và người được trợ giúp pháp lý khác trong giai đoạn mới, cần có sự quán
triệt thống nhất các quan điểm chỉ đạo trong quá trình này. Các giải pháp bảo đảm
cần được tiến hành đồng bộ trên các nội dung của quản lý từ hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh tổ chức và hoạt động trợ giúp pháp lý, đến việc tổ chức thực hiện pháp
luật, cũng như kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm pháp luật. Các yếu tố trong quản
lý nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhau, bổ sung cho nhau, do vậy một yếu tố thực
hiện kém sẽ ảnh hưởng đến kết quả bảo đảm quản lý nhà nước.
104
KẾT LUẬN
Thực tiễn hoạt động TGPL trong thời gian qua đã chứng minh chủ trương của
Đảng về việc thành lập và phát triển hoạt động TGPL ở nước ta là đúng đắn, góp
phần thực hiện cải cách hành chính, cải cách tư pháp, đưa chủ trương xoá nghèo về
pháp luật, đền ơn, đáp nghĩa, bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước vào
cuộc sống; góp phần nâng cao ý thức pháp luật, giải toả những vướng mắc pháp
luật của nhân dân, tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, quá trình thực hiện công tác
quản lý nhà nước về TGPL đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Những hạn chế đó là
do một phần từ việc quy định chưa cụ thể của pháp luật về tổ chức và hoạt động
TGPL, về các chủ thể TGPL, lĩnh vực, hình thức, chưa điều chỉnh hết một số vấn
đề phát sinh trong thực tiễn. Quy định pháp luật về công tác TGPL chưa thống
nhất, đồng bộ; trong một số trường hợp chưa toàn diện, kịp thời, bám sát thực tiễn
dẫn đến một số quy định chưa khả thi, việc triển khai thực hiện công tác TGPL.
Mặt khác, những hạn chế đó còn xuất phát từ yếu tố con người. Các cấp chính
quyền chưa thật sự quan tâm đến công tác TGPL; sự nhận thức của các cấp, ngành,
các tổ chức chính trị - xã hội về vai trò của công tác chưa thực sự đồng đều. Công
tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật thực tế chưa được triển khai. Những
tồn tại này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả và chất lượng quản lý nhà nước về trợ
giúp pháp lý.
Trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh cải
cách tư pháp, phát huy dân chủ, xuất phát từ ý nghĩa quan trọng của công tác TGPL
đối với đời sống xã hội, từ tình hình tổ chức và hoạt động TGPL trong thời gian
qua và thực trạng pháp luật hiện hành về lĩnh vực này cho thấy cần phải hoàn thiện
các quy định của pháp luật về TGPL. Quản lý nhà nước bảo đảm thực hiện chủ
trương từng bước xã hội hóa hoạt động TGPL, hướng dẫn, huy động sự tham gia,
đóng góp của lực lượng xã hội vào hoạt động TGPL cho người nghèo và các đối
tượng khác. Quán triệt quan điểm không hành chính hóa đối với hoạt động TGPL,
105
nội dung quản lý nhà nước cần kế thừa và chọn lọc kinh nghiệm quản lý trong thời
gian qua, có tham khảo kinh nghiệm hoạt động TGPL của các nước trên thế giới.
Đồng thời, phải chú trọng phát huy vai trò của các công cụ, phương tiện quản lý
khác.
Để nâng cao hiệu quả, chất lượng quản lý nhà nước về TGPL, ngày càng
khẳng định, phát huy vai trò trong đời sống, đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi
của xã hội, những phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về TGPL ở
phần trên đây cần được tiến hành, triển khai một cách đồng bộ. Việc thực hiện
những giải pháp đó phải được tiến hành đồng thời và thường xuyên, liên tục trong
mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Việc nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống về quản lý nhà nước về trợ
giúp pháp lý trên phương diện lý luận và thực tiễn trên cơ sở đó đưa ra phương
hướng và một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện, bảo đảm quản lý nhà nước
về TGPL tại tỉnh Kiên Giang nói riêng và ở Việt Nam nói chung trong thời gian
tới./.
106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành TW Đảng (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý
luận thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986-2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
2. Ban Chấp hành TW Đảng (2013), Kết luận Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành TW Đảng (Khóa XI) một số vấn đề về cải cách tiền lương, bảo hiểm
xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 8-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định
hướng đến năm 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Bộ Giáo dục và Đào tạo - Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Việt Nam
(1998), Đại từ điển tiếng Việt, NXB Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
7. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2001), Chiến lược toàn diện về tăng trưởng
và xóa đói, giảm nghèo. Văn phòng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội.
8. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2011), Chiến lược kinh tế - xã hội 2011-
2020, Văn phòng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội.
9. Bộ Tư pháp (2005), Báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Quyết định số
734/TTg ngày 6/9/1997 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập tổ chức trợ giúp
pháp lý miễn phí cho người nghèo và đối tượng chính sách, Hà Nội.
107
10. Bộ Tư pháp (2006), Quy định về luật sư công một số nước, bản dịch
kèm dự án Luật trợ giúp pháp lý gởi xin ý kiến đại biểu Quốc hội tháng 2-2006,
Hà Nội.
11. Bộ Tư pháp - Cục trợ giúp pháp lý (2006), Tài liệu tập huấn về quản
lý và thực hiện Dự án hỗ trợ hệ thống trợ giúp pháp lý ở Việt Nam 2005-2009,
Hà Nội.
12. Bộ Tư pháp - Cục trợ giúp pháp lý (2010), Các văn bản pháp luật
hiện hành về trợ giúp pháp lý, Hà Nội.
13. Bộ Tư pháp - Cục trợ giúp pháp lý (2012), Một số mô hình trợ giúp
pháp lý trên thế giới, NXB Tư Pháp, Hà Nội.
14. Bộ Tư pháp - Cục trợ giúp pháp lý (2012), Tài liệu Bồi dưỡng nghiệp
vụ trợ giúp pháp lý, NXB Tư Pháp, Hà Nội.
15. Bộ Tư pháp (2016), Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Luật Trợ giúp
pháp lý, Hà Nội.
16. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý (1999), Đề tài khoa học cấp Bộ:
Mô hình tổ chức và hoạt động TGPL, phương hướng thực hiện trong điều kiện
hiện nay, Hà Nội.
17. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý (2004), Đề tài khoa học cấp Bộ:
Luận cứ khoa học và thực tiễn xây dựng Pháp lệnh trợ giúp pháp lý, Hà Nội.
18. Bộ Tư pháp - Viện khoa học pháp lý (2016), Đề tài khoa học cấp Bộ:
Luận cứ khoa học và thực tiễn sửa đổi, bổ sung Luật trợ giúp pháp lý, Hà Nội.
19. Bộ Tư pháp - Tạp chí dân chủ và pháp luật (2016), Số chuyên đề -
Xây dựng Luật Trợ giúp pháp lý sửa đổi, NXB Tư Pháp.
20. Chính phủ (2007), Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12/01/2007
của chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật trợ
giúp pháp lý.
108
21. Chính phủ (2012), Nghị định số 05/2012/NĐ-CP ngày 02/02/2012
của Chính phủ về Sửa đổi, bổ sung một số Điều của các Nghị định về đăng
ký giao dịch bảo đảm, trợ giúp pháp lý, luật sư, tư vấn pháp luật.
22. Chính phủ (2013), Nghị định 14/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 07/2007/NĐ-CP ngày 12 tháng 01 năm 2007 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Trợ
giúp pháp lý.
23. Chính phủ (2013), Nghị định số 22/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013 của
Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ
Tư pháp.
24. Chính phủ (2013), Nghị định số 123/2013/NĐ-CP ngày 14/10/2013
của Chính phủ quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật Luật sư.
25. Đại học luật Hà Nội (2012), Giáo trình lý luận chung về Nhà nước và
pháp luật, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987) , Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ
VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992) , Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ
VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996) , Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ
VIII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001) , Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ
IX, Nxb Sự thật, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ
X, Nxb Sự thật, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ
XI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ
XII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
109
33. Bùi Minh Đức (2004), Đổi mới, hoàn thiện nhà nước trong giai đoạn
hiện nay, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
34. Nguyễn Hữu Hải (2012), Giáo trình Hành chính Nhà nước, NXB
giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
35. Học viện hành chính Quốc gia (2012), Giáo trình quản lý học đại
cương, Hà Nội.
36. Nguyễn Lân (2005), Từ và ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh.
37. Hoàng Thị Liên (2015), Pháp luật về trợ giúp pháp lý cho người
nghèo và các đối tượng chính sách xã hội khác, Luận văn Thạc sĩ luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
38. Tạ Thị Minh Lý, Đặng Thị Loan (2010), Trợ giúp pháp lý trong công
cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam, Hà Nội.
39. Mác và Ph.Ăngghen (1983), Toàn tập, tập 23, Nxb Sự thật, Hà Nội.
40. Mác và Ph.Ăngghen (1983), Toàn tập, tập 4, Nxb Sự thật, Hà Nội.
41. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
42. Hồ Chí Minh (2005), Bàn về Nhà nước và Pháp luật, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
43. Trần Nhâm (2004), Tư duy lý luận và sự nghiệp đổi mới, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
44. Quốc hội (1992), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
45. Quốc hội (2001), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp
năm 1992.
46. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
47. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự.
110
48. Quốc hội (2006), Luật luật sư.
49. Quốc hội (2006), Luật trợ giúp pháp lý.
50. Quốc hội (2012), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật luật sư.
51. Minh Thu (2003), Trợ giúp pháp lý ở Trung Quốc, Đặc san Trợ giúp
pháp lý,(3), tr.6-9.
52. Thủ tướng Chính phủ (1997), Quyết định số 734/TTg ngày 06/9/1997
về việc thành lập tổ chức TGPL, Hà Nội.
53. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 792/TTg ngày 23/6/2008
về việc phê duyệt Đề án Quy hoạch mạng lưới của Trung tâm TGPL và Chi
nhánh của Trung tâm giai đoạn 2008-2010, định hướng đến năm 2015, Hà Nội.
54. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 09/2009/QĐ-TTg ngày
30/01/2011 về việc ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai
đoạn 2011-2015, Hà Nội.
55. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định số 678/2011/QĐ-TTg ngày
10/5/2011 về việc phê duyệt Đề án Chiến lược phát triển TGPL ở Việt Nam đến
2020, định hướng đến năm 2030, Hà Nội.
56. Từ điển tiếng Việt (1994), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
57. Từ điển Luật học (2006), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
58. Lê Quang Thưởng (2004), Sách tra cứu các mục về tổ chức, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. UBND tỉnh Kiên Giang (2008), Quyết định số 1738/QĐ-UBND ngày
22/7/2008 về việc ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động của Trung tâm
TGPL nhà nước, Kiên Giang.
60. UBND tỉnh Kiên Giang (2009), Quyết định số 2001/QĐ-UBND ngày
24/8/2009 về việc phê duyệt Đề án kiện toàn tổ chức, bộ máy của Trung tâm
TGPL nhà nước, Kiên Giang.
61. UBND tỉnh Kiên Giang (2016), Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành
Luật TGPL, Kiên Giang.
111
62. Đào Trí Úc (2000), Xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân trong
sạch, vững mạnh đề cao pháp luật và pháp chế, Tạp chí Nhà nước & pháp luật,
(12), tr3-9.
63. Đào Trí Úc (2004), Mối liên hệ giữa nhà nước với xã hội dân sự và
vấn đề cải cách hành chính, Tạp chí Nhà nước & pháp luật, (4), tr3-10.
64. Văn phòng TW Đảng (1995), Công văn số 485/CV-VPTW ngày
31/5/1995 thông báo ý kiến của Ban Bí thư đối với Quy chế hành nghề luật sư
và tư vấn pháp luật, Hà Nội.
65. Nguyễn Như Ý (1999), Đại Từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa - Thông
tin, Hà Nội.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_tro_giup_phap_ly_tai_tinh_kien.pdf