Vệ sinh an toàn thực phẩm đang là vấn đề mang tính thời sự không
những của đất nước ta mà còn là của toàn thế giới, công cuộc đấu tranh loại
bỏ thực phẩm kém chất lượng ra khỏi đời sống của con người đang là mối
quan tâm chung của cả nhân loại.
Nhận thức được tầm quan trọng của vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như
nhận thấy được tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm trong giai đoạn hiện nay
ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến vấn đề này, trong
những năm qua nhiều chủ trương chính sách được Đảng và nhà nước ban
hành nhằm cải thiện chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, và nâng cao sức
khỏe người tiêu dùng, bên cạnh những thành tựu đạt được thì hiện nay hoạt
động quản lý nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, nguyên nhân của những hạn
chế đó là do thiếu sự đồng bộ trong các văn bản quy phạm pháp luật, sự yếu
kém trong năng lực của đội ngũ cán bộ công chức, bộ máy quản lý thiếu sự
phối hợp trong hoạt động còn chồng chéo nhau về chức năng nhiệm vụ, đây là
những nguyên nhân chính gây nên sự hạn chế trong hoạt động quản lý nhà
nước về vệ sinh an toàn thực phẩm như hiện nay.
Trong thời gian tới để có thể cải thiện chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành các cấp, trong đó phải
huy động sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân vào hoạt động quản
lý của nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm. Làm được những điều thì hoạt
động quản lý của cơ quan nhà nước sẽ mang lại hiệu quả hơn, đồng thời chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ được cải thiện.
Để hoàn thiện hoạt động quản lý của nhà nước về nội dung này, nhà
nước ta cần phải quan tâm học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước trên thế
giới từ đó sẽ tìm kiếm được những giải pháp hiệu quả để áp dụng vào thực84
tiễn tại đất nước ta, ngoài ra còn tránh được những bước đi sai lầm mà nhiều
nước đang mắc phải.
Đề tài nghiên cứu của học viên đã đi sâu và nghiên cứu thực trạng vệ
sinh an toàn thực phẩm, thực trạng quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm trên địa bàn quận 8, thành phố Hồ Chí Minh, từ những thực trạng đó
học viên đã đưa ra những giải pháp có tính thực tế để nâng cao hiệu quả hoạt
động quản lý của các cơ quan nhà nước về lĩnh vực vệ sinh an toàn thực
phẩm.
Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm được cải thiện sẽ là động lực thúc
đẩy sự phát triển của đất, khi đất nước phát triển thì đời sống của nhân dân
cũng sẽ được cải thiện, xã hội sẽ văn minh hơn, từ đó đưa đất nước ta trở
thành một nước phát triển có thể sánh ngang tầm với các nước trên thế giới.
94 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 832 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn Quận 8, thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trên địa bàn quận.
Ủy ban nhân dân quản lý bằng cách ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật, các quy chuẩn về an toàn thực phẩm trên địa bàn quận. Quản lý về
vệ sinh an toàn thực phẩm đối với tất cả các cơ sở sản xuất , kinh doanh trên
địa bàn quận.
Để thực hiện công việc hiệu quả thì Ủy ban nhân dân quận có các cơ
quan chuyên môn giúp việc, đó là các phòng ban chức năng, mỗi phòng chịu
trách nhiệm quản lý một mảng công việc nhất định.
Phòng Y tế quận 8. Đây là cơ quan chịu trách nhiệm chính về công tác
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn quận, có nhiệm vụ tham mưu
58
cho Ủy ban nhân dân quận trong việc ban hành các văn bản chỉ đạo về vệ sinh
an toàn thực phẩm, xây dựng các chương trình kế hoạch, giải pháp triển khai
công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho toàn quận.
Phòng Y tế quận có trách nhiệm quản lý an toàn thực phẩm trong suốt
quá trình sản xuất, sơ chế, chế biến, bảo quản, vận chuyển, mua bán các mặt
hàng phụ gia thực phẩm trên địa bàn quận 8.
Trung tâm y tế dự phòng quận 8. Cơ quan mày chịu trách nhiệm chính
trong việc tập huấn, huấn luyện kỹ năng thực hành cho người sản xuất, chế
biến, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn quận, chịu trách nhiệm khám sức
khỏe định kỳ cho các đối tượng kinh doanh thực phẩm trên địa bàn quận. Xử
lý kịp thời, khắc phục hậu qủa và hạn chế hậu quả của ngộ độc thực phẩm.
Điều tra nguyên nhân, công bố và công bố biện pháp phòng tránh ngộ độc
thực phẩm cho người dân.
Thực hiện kiểm nghiệm chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, đối với
các mặt hàng thực phẩm trên địa bàn quận. Đảm bảo cho các mặt hàng thực
phẩm trên địa bàn quận luôn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Phòng Kinh tế quận 8. Phòng có có vai trò tư vấn cho Ủy ban nhân
dân Quận ban hành các chính sách, quy hoạch, kế hoạch, văn bản quy phạm
pháp luật về an toàn thực phẩm trong lĩnh vực kinh tế.
Phòng kinh tế chịu trách nhiệm quản lý an toàn thực phẩm trong suốt
quá trình sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển, kinh doanh mua, bán đối
với các loại rượu, nước giải khát, sữa chế biến, dầu thực vật, sản phẩm chế
biến bột và tinh bột và các loại thực phẩm khác.
Phòng kinh tế có trách nhiệm ban hành chính sách, quy hoạch về chợ,
siêu thị, quy định các điều kiện kinh doanh thực phẩm tại các chợ, siêu thị
trên địa bàn quận, chủ trì việc phòng chống thực phẩm giả, gian lận thương
mại trong lưu thông và kinh doanh thực phẩm trên địa bàn quận 8.
59
Phòng còn có trách nhiệm rà soát và quản lý các cơ sở kinh doanh, công
ty hiện còn đang hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, chế biến, kinh doanh thực
phẩm trên địa bàn quận 8.
Đội Quản lý thị trường 8B và đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự
kinh tế và chức vụ công an quận 8. Hai cơ quan này chịu trách nhiệm quản lý
về hồ sơ, hóa đơn, nguồn gốc sản phẩm thực phẩm kinh doanh, buôn bán trên
địa bàn quận 8, đảm bảo cho tất cả các mặt hàng thực phẩm đều phải có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Đồng thời tiến hành phát hiện và xử lý đối với các
mặt hàng thực phẩm không rõ nguồn gốc.
Trạm thú y quận 8. Thực hiện nhiệm vụ kiểm dịch động vật, ban hành
các quy định về phòng chống dịch bệnh, đảm bảo an không xảy ra các dịch
bệnh trên địa bàn quận.
Đối với cấp phường, hiện nay trên địa bàn quận 8 có 16 phường, trong
đó công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cấp phường do chủ tịch
phường trực tiếp quản lý, chủ tịch phường có trách nhiệm kiểm tra vệ sinh an
toàn thực phẩm của đơn vị thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát các cơ
sở sản xuất, hộ kinh doanh thực phẩm quy mô nhỏ lẻ, các quán ăn đường phố,
gánh hàng rong thuộc diện phường quản lý. Hiện nay ở cấp phường thì chủ
tịch Ủy ban nhân dân phường sẽ giao nhiệm vụ đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm cho một cán bộ chuyên trách quản lý.
Như vậy ta thấy hiện nay trên địa bàn quận hiện nay có rất nhiều cơ quan
cùng tham gia thực hiện công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Mặc dù
cùng giúp việc cho Ủy ban nhân dân quận thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về vệ sinh an tòan thực phẩm trên địa bàn quận tuy nhiên việc quá nhiều
cơ quan cùng thực hiện một công việc có thể sẽ dẫn đến việc chồng chéo về
chức năng, nhiệm vụ. Ngoài ra khi quá nhiều cơ quan cùng tham gia quản lý
60
sẽ dẫn đến việc trốn tránh trách nhiệm, và không thể quy trách nhiệm khi xảy
ra vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm.
2.2.4. Thực trạng thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật về
vệ sinh an toàn thực phẩm đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh thực
phẩm trên địa bàn quận
Mặc dù biết được tác hại của việc kinh doanh, buôn bán thực phẩm kém
chất lượng đối với sức khỏe của người tiêu dùng, nhưng vì lợi nhuận mà
nhiều chủ thể vẫn sản xuất và kinh doanh những thực phẩm kém chất lượng
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe người tiêu dùng. Để khắc phục và
hạn chế tình trạng đó Ủy ban nhân dân quận 8 đã tiến hành thanh tra và kiểm
tra các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm trên địa bàn quận.
Hàng năm Chủ tịch Ủy ban nhân dân quận 8 giao cho trưởng phòng Y tế
Quận 8 chủ trì đoàn kiểm tra liên ngành tiến hành kiểm tra các cơ sở sản xuất,
chế biến, kinh doanh thực phẩm, dịch vụ ăn uống, cơ sở cung cấp suất ăn sẵn,
bếp ăn trong các khu công nghiệp, các trường học, các chợ, siêu thị kinh
doanh thực phẩm sỉ, lẻ và các khu kinh doanh thực phẩm tập trung, các chợ
thực phẩm có đơn thư phản ánh, khiếu nại về chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm trên địa bàn.
Quận cũng ra quyết định thành lập đoàn kiểm tra liên ngành quận để
kiểm tra theo kế hoạch vào các dịp như: Tết Nguyên đán, Tết Trung thu,
hưởng ứng tháng hành động vì chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm Bên
cạnh các cuộc thanh tra theo kế hoạch thì quận cũng tiến hành hàng loạt các
cuộc kiểm tra định kỳ và kiểm tra đột xuất tại các cơ sở nghi ngờ sản xuất
kinh doanh thực phẩm kém chất lượng.
Bảng 2.1. Tổng hợp kết quả thanh tra từ năm 2014 đến 2016
Nội dung Năm 2014 Năm 2015 Năm 2016
Số lượng cơ sở thanh tra 1.254 1.376 1.355
61
Số lượng cơ sở vi phạm 214 378 267
Số lượng cơ sở bị nhắc nhở 35 87 40
Số lượng cơ sở bị xử lý hành chính 179 291 227
Số lượng cơ sở bị xử lý hình sự 0 0 0
Số lượng cơ sở bị thu hồi giấy
chứng nhận đủ điều kiện VSATTP
15 27 9
(Nguồn báo cáo tổng hợp kết quả thanh tra, kiểm tra giai đoạn 2014 đến
2016 của Ủy ban nhân dân quận 8, thành phố Hồ Chí Minh)
Trong năm 2014 Ủy ban nhân dân quận đã thành lập ban thanh tra liên
ngành do Phòng Y tế chủ trì, tiến hành thanh tra tất cả các cơ sở sản xuất kinh
doanh thực phẩm có đăng ký, kết quả thanh tra phát hiện 214 cơ sở sản xuất
kinh doanh vi phạm các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, chiếm 17,05
% trên tổng số cơ sở sản xuất kinh doanh tại thời điểm đó, tiếp đó trong năm
2015 khi ban thanh tra liên ngành tiến hành thanh tra tại 1.376 cơ sở sản xuất
kinh doanh thì phát hiện 378 cơ sở sản xuất kinh doanh vi phạm các quy định
về vệ sinh an toàn thực phẩm chiếm 27,4 % trên tổng số các cơ sở sản xuất
kinh doanh, như vậy ta thấy năm 2015 số lượng các các cơ sở sản xuất kinh
doanh vi phạm tăng nhiều hơn so với năm 2014, điều này đã phần nào cho
thấy được sự yếu kém trong công tác quản lý của các cơ quan nhà nước.
Trong năm 2016 dưới sự chủ trì của Phòng Y tế kết hợp với các cơ quan liên
quan tiến hành thanh tra tại 1.355 cơ sở sản xuất kinh doanh thì phát hiện 267
cơ sở vi phạm các quy định về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. So với
năm 2015 thì số lượng cơ sở vi phạm trong năm 2016 ít hơn. Trong bảng trên
cũng cho chúng ta thấy rõ một thực tế hiện nay đó là các cơ sở vi phạm không
có cơ sở nào bị xử lý hình sự mà chủ yếu là xử phạt hành chính và nhắc nhở,
trong đó có áp dụng thêm các hình thức xử phạt bổ sung đó là thu hồi giấy
chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm, tuy nhiên do việc thu hồi
62
được thực hiện theo nguyên tắc cơ quan nào cấp thì cơ quan đó có quyền thu
hồi do vậy mà Ủy ban nhân dân quận chỉ được thu hồi các giấy chứng nhận
đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn
uống trên địa bàn quận 8.
Một hạn chế trong công tác thanh tra đột xuất đó là việc thanh tra chỉ
tiến hành tại các cơ sở kinh doanh thực phẩm đã đăng ký với cơ quan chức
năng, những cơ sở kinh doanh thực phẩm đã được cấp phép do vậy mà hầu
hết kết quả báo cáo công tác kiểm tra đều rất tốt, còn thực tế tại các cơ sở sản
xuất, kinh doanh thực phẩm không được cấp phép thì lại không bị thanh tra,
kiểm tra và thực tế chính quyền quận cũng không quản lý hết những cơ sở
này.
Mặc dù đã tiến hành hàng loạt các cuộc thanh tra, kiểm tra tuy nhiên
hiện nay công tác thanh tra kiểm tra trên địa bàn quận vẫn còn chưa thật sự
hiệu quả, các cuộc thanh tra, kiểm tra chỉ mang tính số lượng còn chất lượng
thật sự thì vẫn chưa cao.
Quá trình thanh tra, kiểm tra thiếu sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật, do đó
việc kiểm nghiệm thực phẩm của đoàn thanh tra tại các cơ sở kinh doanh thực
phẩm chủ yếu sử dụng phương pháp cảm quan, đáng giá dựa trên cảm quan
không phản ánh được chính xác chất lượng thực tế của các cơ sở kinh doanh
thực phẩm.
Việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính trên thực tế không mang lại
hiệu quả, nhiều cơ sở sau khi đóng phạt lại tiếp tục vi phạm vì lợi nhuận mặt
hàng mà họ kinh doanh cao hơn rất nhiều so với số tiền đóng phạt. Việc xử lý
hình sự hiện nay chưa thể áp dụng do Bộ luật hình sự 2015 đang tạm thời bị
đình chỉ thi hành trong khi đó Bộ luật hình sự năm 1999 lại quy định không
cụ thể do vậy mà không thể xử lý hình sự đối với các hành vi vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm.
63
Chế tài xử phạt chưa nghiêm minh do vậy mà dù hiểu được hành vi vi
phạm pháp luật của mình nhưng các chủ thể sản xuất, kinh doanh thực phẩm
vẫn cố tình vi phạm trong khi đó tình hình xử lý vi phạm của cơ quan nhà
nước đến nay vẫn còn nhiều hạn chế.
2.3. Đánh giá hoạt động quản lý nhà nƣớc về vệ sinh an toàn thực
phẩm trên địa bàn quận 8, thành phố Hồ Chí Minh
2.3.1. Những thành quả đạt đƣợc
Nắm bắt được việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm có ảnh hưởng
nhiều sự phát triển của toàn quận, trong những năm qua chính quyền quận đã
luôn xác định đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là nhiệm vụ hàng đầu.
Công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn
Quận 8 đã gặt hái được những thành công nhất định. Dưới sự nỗ lực của
chính quyền quận trong những năm qua tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm
đã được cải thiện rõ rệt. Số lượng vụ ngộ độc thực phẩm trên địa bàn quận rất
ít, trong đó có nhiều năm liên tiếp trên địa bàn quận không xảy ra tình trạng
ngộ độc thực phẩm.
Các bệnh, dịch bệnh lây qua đường thực phẩm được hạn chế triệt để,
trong những năm qua trên địa bàn quận không xảy ra các dịch bệnh do thực
phẩm gây ra.
Tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh
trên địa bàn quận được cải thiện rõ rệt. hầu hết các cơ sở kinh doanh thực
phẩm đều có giấy chứng nhận đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Các cơ sở
giết mổ gia súc, gia cầm được quy hoạch cụ thể và khoa học, không còn tình
trạng giết mổ tràn lan, điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm tại các cơ sở giết
mổ được cải thiện đáng kể.
Trên địa bàn quân hiện nay đã hạn chế được rất nhiều số lượng các chợ
tự phát, các chợ truyền thống và chợ đầu mối được kiểm soát chặt chẽ ở tất cả
64
các khâu. Thực phẩm buôn bán tại các chợ đều được chính quyền quận kiểm
soát chặt chẽ.
Ban thanh tra liên ngành được thành lập do Phòng Y tế chủ trì đã thực
hiện hàng loạt các cuộc thanh tra, kiểm tra, phát hiện và xử lý rất nhiều cơ sở
kinh doanh thực phẩm kém chất lượng. Ngăn ngừa kịp thời nhiều loại thực
phẩm kém chất lượng sắp được tung ra thị trường.
Chính quyền quận 8 cũng đã phối hợp rất chặt chẽ với chính quyền các
quận huyện trên địa bàn thành phố để trở thành một mắt xích quan trọng trong
việc ngăn chặn thực phẩm kém chất lượng xuất hiện trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh.
Các cơ sở sản xuất kinh doanh thực phẩm kém chất lượng trên địa bàn
quận đều được xử lý theo đúng quy định của pháp luật, không xảy ra tình
trạng bao che, hay bỏ qua theo kiểu thân quen.
Việc cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm đối
với các cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống được Ủy ban nhân dân quận 8 thực
hiện một cách nghiêm túc, khách quan và công bằng, quá trình cấp phép được
Ủy ban nhân dân quận thẩm định kỹ càng, không cấp phép tràn lan. Những cơ
sở được cấp phép đều đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm.
Nhìn chung dưới sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân quận 8 thì trong năm
qua tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn quận đã có những bước
tiến vượt bậc, sức khỏe của người dân được nâng cao, từ đó làm cho tình hình
kinh tế xã hôi trên địa bàn quận 8 có những bước tiến rõ rệt, đưa quận 8 trở
thành một quận phát triển trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
2.3.2. Những hạn chế đối với công tác quản lý nhà nƣớc về vệ sinh
an toàn thực phẩm
65
Dù đã có nhiều thành tựu trong công tác đảm bảo vê sinh an toàn thực
phẩm nhưng thực tế hiện nay công tác quản lý của nhà nước về vấn đề này
vẫn còn nhiều những hạn chế.
Các phòng ban chuyên môn phụ trách về vấn đề an toàn thực phẩm vẫn
còn nhiều chồng chéo về chức năng nhiệm vụ, nhiều vấn đề được quy định
cho cả nhiều cơ quan cùng thực hiện trong khi trách nhiệm thì lại không có cơ
quan nào dám đứng ra nhận.
Các cuộc thanh tra, kiểm tra mặc dù được tiến hành nhiều, tuy nhiên chủ
yếu mang tính hình thức, việc thanh tra chủ yếu kiểm tra các điều kiện bên
ngoài , không đi sâu vào kiểm tra chất lượng thực phẩm, kiểm tra chất lượng
thực phẩm chủ yếu kiểm tra bằng cảm quan, ít khi lấy mẫu đi kiểm nghiệm.
Quá trình thanh tra, kiểm tra vẫn còn nhiều những tiêu cực.
Hệ thống kiểm nghiệm thực phẩm trên địa bàn quận hiện nay chưa đáp
ứng được so với nhu cầu thực tế, chính quyền quận cũng chưa có sự đầu tư
đúng mực để xây dựng các trung tâm kiểm nghiệm. Thực tế hiện nay các bộ
làm công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ít khi lấy mẫu thực phẩm về
kiểm ngiệm mà chủ yếu kiểm tra thực tế bằng mắt thường.
Dù đã hạn chế đươc tình trạng ngộ độc thực phẩm trên địa bàn quận 8,
tuy nhiên việc thực phẩm trên địa bàn quận có gây ngộ độc cho người dân các
quận huyện khác hay không thì vẫn chưa thể xác định được.
Hiện nay trên địa bàn quận vẫn còn nhiều cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm
hoạt động trái phép, trong khi đó các cơ quan nhà nước lại không thể kiểm tra
và phát hiện được hết những cơ sở này, đây là hạn chế rất lớn của các cơ quan
nhà nước trên địa bàn quận 8.
Các chợ và các điểm kinh doanh, buôn bán thực phẩm tự phát hiện nay
vẫn tồn tại trên địa bàn quận 8, điều nay cho thấy sự lỏng lẻo trong quản lý
của các cơ quan chức năng, ngoài ra việc xuất hiện các chợ tự phát cũng phần
66
nào cho thấy được sự yếu kém trong công tác quy hoạch xây dựng chợ của
chính quyền quận, vì nếu quy hoạch chợ hợp lý thì sẽ không xuất hiện các chợ
tự phát trên địa bàn.
Hiện nay chính quyền quận vẫn chưa có giải pháp cụ thể để quản lý về
việc sử dụng phụ gia thực phẩm của các cơ sở kinh doanh thực phẩm trên địa
bàn quận, đa số các chất phụ gia thực phẩm đều được mua từ chợ Kim Biên,
nơi ban hành không rõ nguồn gốc, xuất xứ.
Tại chợ đầu mối và các chợ truyền thống trên địa bàn quận hiện nay vẫn
còn nhiều chủ thể kinh doanh buôn bán các mặt hàng kém chất lượng, nhiều
mặt hàng không rõ nguồn gốc, điều này cho thấy sự buông lỏng trong quản lý
và việc xử lý không nghiêm minh các vi phạm, do đó mà các hành vi buôn
bán thực phẩm kém chất lượng tại các chợ trên địa bàn vẫn tiếp diễn.
Trên đây là những hạn chế trong công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an
toàn thực phẩm trên địa bàn quận 8, hi vọng trong những năm tới chính quyền
Quận 8 sẽ cải thiện được những hạn chế này để từ đó đảm bảo chất lượng vệ
sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn quận, nâng cao sức khỏe của người dân
và từ đó góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội chung của toàn thành phố
Hồ Chí Minh.
2.3.3. Nguyên nhân của những khó khăn tồn tại
Thứ nhất, số lượng cán bộ, công chức phụ trách lĩnh vực vệ sinh an toàn
thực phẩm hiện nay quá mỏng, không đáp ứng được so với nhu cầu hiện nay,
những cán bộ công chức hiện tại thì tại vẫn còn nhiều yếu kém trong khi đó
tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm thì ngày càng phức tạp.
Việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức hiện nay mặc dù được thực
hiện nhiều, tuy nhiên chất lượng đào tạo, bồi dưỡng thì không hiệu quả,
chương trình đào tạo, bồi dưỡng không bám sát thực tế, quá nặng về lý thuyết
67
nhưng lại xa rời thực tiễn do vậy mà khi học xong lại không thể áp dụng
được.
Việc tuyển chọn cán bộ, công chức chủ yếu dựa vào bằng cấp, không
chú trọng đến năng lực thực tế do vậy mà nhiều công chức khi tuyển dụng
vào lại không thể hoàn thành công việc do thiếu năng lực thực tế. Ngoài ra
hiện nay chính mô hình công vụ theo chức nghiệp đã làm cho nhiều người lao
động thực sự có năng lực không thể tham gia vào bộ máy nhà nước, trong khi
đó những người có năng lực thực sự trong đang hoạt động trong bộ máy lại
muốn ra đi vì không thể phát huy được hết năng lực bản thân, tình trạng “chảy
máu chất xám” từ khu vực công sang khu vực tư hiện nay đang là thực tế
đáng lo ngại cho đất nước ta.
Những hạn chế của của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ là
nguyên nhân đầu tiên dẫn đến những hạn chế trong hoạt động quản lý của nhà
nước về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thứ hai, do hệ thống văn bản pháp luật hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế,
những năm gần đây Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các văn bản quy định
về lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm tuy nhiên những văn bản này lại chồng
chéo về chức năng nhiệm vụ, nhiều văn bản ban hành lại không cụ thể, không
phù hợp với thực tế do vậy mà khi thực hiện gặp rất nhiều khó khăn.
Thực tế hiện nay nhiều văn bản vừa ban hành đã phải ban hành văn bản
khác để sửa đổi bổ sung, điều này đã cho thấy được sự yếu kém của các cơ
quan nhà nước trong việc ban hành các văn bản pháp luật.
Thể chế chính là căn cứ để cơ quan nhà nước tiến hành hoạt động quản
lý, và cũng là căn cứ cho các chủ thể sản xuất kinh doanh hoạt động do vậy
nếu thể chế thiếu đồng bộ, quy định không cụ thể, không chính xác thì hoạt
động của các cơ quan nhà nước cũng sẽ không hiệu quả. Sự thiếu chặt chẽ của
68
hệ thống thể chế chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng “lách luật” của các
chủ thể sản xuất kinh doanh thực phẩm kém chất lượng.
Thứ ba, hạn chế từ bộ máy quản lý nhà nước, ở nước ta hiện nay có rất
nhiều cơ quan cùng tham gia hoạt động quản lý đối với lĩnh vực vệ sinh an
toàn thực phẩm, tuy nhiên việc phân chia chức năng nhiệm vụ giữa các cơ
quan hiện nay không thật sự rõ ràng do vậy mà còn tình trạng trùng lặp về
chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan. Bên cạnh đó cơ chế phối hợp hoạt
động giữa các cơ quan, tổ chức vẫn chưa hiệu quả.
Thứ tư, do ý thức về an toàn thực phẩm của các chủ thể sản xuất, kinh
doanh thực phẩm vẫn còn thấp, hiện nay nhiều chủ thể kinh doanh thực phẩm
vẫn chưa ý thức được hết tác hại của việc sản xuất, kinh doanh thực phẩm đối
với sức khỏe của con người, đối với sự phát hiện kinh tế, xã hội của đất nước.
Thứ năm, do tốc độ phát triển quá nhanh về kinh tế và xã hội của thành
phố Hồ Chí Minh, chính sự phát triển mạnh mẽ này kéo theo hàng loạt các hệ
lụy, đòi hỏi cơ quan nhà nước phải thích ứng kịp thời để có thể theo kịp sự
phát triển và hệ lụy từ sự phát triển đó.
69
Tiểu kết chƣơng 2
Hoạt động quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm trên địa bàn
quận đã mang lại nhiều hiệu quả, sức khỏe của người dân được đảm bảo, tình
trạng ngộ độc thực phẩm được hạn chế tối đa. Các điều kiện về vệ sinh an
toàn thực phẩm tại các chợ trên địa bàn quận được đảm bảo, các siêu thị và
các cửa hàng thực phẩm hiện đại được đầu tư xây dựng, nơi đây trở thành địa
chỉ cung cấp thực phẩm an toàn cho người tiêu dùng trên địa bàn quận.
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì tình hình vệ sinh an toàn thực
phẩm hiện nay trên đia bàn Quận 8 vẫn còn nhiều những bất cập. Vẫn còn
xuất hiện nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm kém chất lượng, nhiều
cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm hoạt động trái phép, các địa điểm kinh doanh
tự phát vẫn chưa được kiểm soát. Những hạn chế này cho thấy được sự yếu
kém trong công tác quản lý của các cơ quan nhà nước trên địa bàn quận. Công
tác thanh tra, kiểm tra vẫn còn nhiêu tiêu cực.
Để cải thiện tình hình đòi hỏi Ủy ban nhân dân Quận 8 phải có những
chủ trương, chính sách phù hợp, kịp thời, tăng cường công tác quản lý, nâng
cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác vệ sinh an toàn thực
phẩm và một yếu tố rất quan trọng đó là phải thu hút được sự tham gia của
nhân dân vào công cuộc đấu tranh loại bỏ thực phẩm bẩn.
70
Chƣơng 3
PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUẢN LÝ NHÀ
NƢỚC VỀ VỆ SINH AN TOÀN THỰC PHẨM TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN
8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về vệ sinh an toàn
thực phẩm
Trong những năm qua, công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trên
địa bàn thành phố nói chung và Ủy ban Nhân dân quận 8 nói riêng, đã được
các cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo thực
hiện và đã đạt được kết quả bước đầu. Ủy ban Nhân dân quận và thành phố
đã ban hành các chủ trương, chính sách khuyến khích sản xuất, kinh doanh
thực phẩm an toàn; một số mô hình sản xuất theo quy trình thực hành nông
nghiệp tốt (GAP) trong trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản được hình
thành, làm cơ sở để nhân rộng, phát triển chuỗi giá trị trong sản xuất, tiêu thụ
sản phẩm thực phẩm an toàn; hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám sát vệ sinh
an toàn thực phẩm trong sản xuất, kinh doanh, tiêu thụ được chú trọng triển
khai thực hiện, góp phần bảo vệ sức khỏe, nâng cao chất lượng cuộc sống của
nhân dân.
Tuy nhiên, tình trạng vi phạm các quy định về an toàn thực phẩm ở trên
địa bàn quận hiện nay nhiều nơi và một số lĩnh vực rất nghiêm trọng; các
hành vi vi phạm ngày càng tinh vi, phức tạp và diễn ra ở tất cả các khâu trong
quá trình sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ sản phẩm thực phẩm. Tình trạng
lạm dụng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, thuốc kích thích trong
trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản xảy ra ở nhiều nơi. Việc tuân thủ
thời gian cách ly, ngừng sử dụng hóa chất, thuốc kích thích sinh trưởng trước
khi thu hoạch, xuất bán sản phẩm nông sản chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Nguy cơ gây mất vệ sinh an toàn thực phẩm trong quá trình sản xuất, sơ chế
71
thực phẩm do sử dụng đất trồng, nước tưới tồn dư hóa chất, thuốc bảo vệ thực
vật, kim loại nặng... còn rất cao. Tình trạng sử dụng hóa chất, chất phụ gia và
chất hỗ trợ chế biến ngoài danh mục trong sản xuất, chế biến, bảo quản, lưu
thông thực phẩm đang làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe cộng đồng. Vì
lợi nhuận trước mắt, nhiều cơ sở sản xuất, kinh doanh đưa ra thị trường các
sản phẩm độc hại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, tính mạng con
người, gây bức xúc trong dư luận, làm giảm niềm tin của người tiêu dùng, tác
động xấu đến sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, môi trường đầu tư và uy tín, hình
ảnh của Quận 8 nói riêng và thành phố Hồ Chí Minh nói chung trong thời kỳ
hội nhập.
Những hạn chế, yếu kém trên có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là
do: Các cấp chính quyền chưa quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện đầy đủ
trách nhiệm trong quản lý an toàn thực phẩm; chậm phát hiện và xử lý chưa
kịp thời, không nghiêm túc các vi phạm. Tổ chức bộ máy ở các cấp, các
ngành về thực hiện nhiệm vụ này chưa đồng bộ, hoạt động kém hiệu quả;
phân công trách nhiệm chưa rõ ràng, có việc chồng chéo, bỏ sót; lực lượng
kiểm tra, thanh tra vừa thiếu, vừa yếu về chuyên môn nghiệp vụ. Ý thức trách
nhiệm của nhiều tổ chức, cá nhân về đảm bảo vệ sinh an toàn trong sản xuất,
kinh doanh thực phẩm còn rất yếu kém.
Để nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, bảo vệ
giống nòi, nâng cao vị thế, hình ảnh của quận 8 đáp ứng yêu cầu chủ động hội
nhập trong giai đoạn mới, cần phải nhanh chóng ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng
mất vệ sinh an toàn thực phẩm, xây dựng thương hiệu các sản phẩm thực
phẩm chất lượng, kích cầu tiêu dùng, phát triển các dịch vụ, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được Đảng và nhà nước ta xem
là vấn đề quan trọng, mang tính thời sự trong giai đoạn hiện nay. Đảm bảo vệ
72
sinh an toàn thực phẩm chính là đảm bảo cho sức khỏe của người dân, đảm
bảo cho nguồn lực phát triển của đất nước. Đồng thời cũng đảm bảo cho sự ổn
định và phát triển của kinh tế và xã hội.
Đảng và Nhà nước đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp luật, trong đó
Luật an toàn thực phẩm ra đời đã cho thấy được sự quan tâm quan trọng trong
công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho đất nước.
Công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm được Đảng và nhà nước ta
quan niệm là công việc phải tiến hành thường xuyên, liên tục.
Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm phải được thực hiện đồng bộ từ
khâu sản xuất, chế biến, bảo quản, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm, trong đó
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm ở khâu sản xuất, chế biến là quan trọng
nhất; trong quản lý vừa phải phân công rõ ràng trách nhiệm của các ngành,
các cấp, vừa nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước
dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung, thống nhất của cấp ủy đảng, chính quyền
các cấp.
Huy động tối đa mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế kết hợp với
đẩy mạnh xã hội hoá công tác kiểm soát chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm; khuyến khích doanh nghiệp, hợp tác xã và mọi thành phần kinh tế đầu
tư đổi mới công nghệ, áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất, chế biến để
nâng cao chất lượng, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, phải
được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện quyết liệt, đồng bộ từ quận đến cơ
sở để đạt được mục tiêu yêu cầu đề ra; thực hiện thành công việc đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm nhằm phục vụ trực tiếp cho nhu cầu của nhân dân.
Mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta hiện nay đó là đảm bảo an toàn thực
phẩm đảm bảo cho sức khỏe của người dân và để làm được điều đó đòi hỏi
phải tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng; nâng cao hiệu lực,
73
hiệu quả quản lý Nhà nước của các cấp chính quyền, các ngành chức năng
trong công tác quản lý vệ sinh an toàn thực phẩm; sự tham gia, hưởng ứng
tích cực của nhân dân trên toàn thành phố, tạo chuyển biến mạnh mẽ, toàn
diện về vệ sinh an toàn thực phẩm.
3.2. Giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nƣớc về vệ sinh an toàn thực
phẩm
3.2.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện chính sách, pháp luật
Hiện nay hệ thống văn bản pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm được
ban hành rất nhiều, tuy nhiên khi triển khai thực hiện găp rất nhiều khó khăn,
nguyên nhân chính là do thiếu sự đồng bộ, nhiều văn bản chồng chéo nhau,
nhiều quy định trong các văn bản hiện nay không còn phù hợp với tình hình
hiện tại, do đó để có thể nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về vệ sinh an
toàn thực phẩm trước hết cần phải hoàn thiện hệ thống thể chế quy định về vệ
sinh an toàn thực phẩm.
Trước mắt cần phải rà soát những quy định của hệ thống những văn bản
hiện hành, tìm ra những quy định chồng chéo nhau giữa các văn bản để từ đó
có những điều chỉnh cần thiết đảm bảo cho hệ thống văn bản pháp luật về vệ
sinh an toàn thực phẩm phải đồng bộ.
Trước khi ban hành văn bản mới quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm
các cơ quan nhà nước cần phải rà soát lại những văn bản cũ không còn phù
hợp để ra quyết định bãi bỏ những văn bản pháp luật này trước khi chính thức
ban hành văn bản mới.
Đối với những văn bản pháp luật có nội dung liên quan đến nhiều cơ
quan khác nhau, nhiều chủ thể khác nhau thì khi ban hành cơ quan chủ quản
cần phải có sự tham khảo ý kiến và nhận được sự đồng tình từ các cơ quan có
liên quan.
74
Việc ban hành các quy định pháp luật về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực
phẩm, đặc biệt là đối với các mặt hàng xuất khẩu cần phải có sự đồng bộ với
hệ thống quy định về tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm của các nước trên
thế giới, có như vậy việc nhập khẩu thực phẩm của Việt Nam mới thuận lợi.
và các mặt hàng thực phẩm của nước ta được các nước khác chấp nhận cho
nhập khẩu.
Các văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước cấp dưới ban hành phải đồng
bộ với hệ thống văn bản pháp luật do cơ quan nhà nước cấp trên ban hành, và
phải phù hợp chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước.
Việc ban hành các văn bản pháp luật vừa phải căn cứ vào hệ thống văn
bản của cơ quan nhà nước cấp trên nhưng cũng phải quan tâm đến tình hình,
đặc điểm của từng địa phương có như vậy văn bản ban hành mới mang lại
hiệu quả.
Ngoài ra luật an toàn thực phẩm ban hành năm 2010 ban hành lấy căn cứ
chính để xây dựng và ban hành là Hiến pháp năm 1992, tuy nhiên hiện nay
hiến pháp năm 1992 đã hết hiệu lực mà thay vào đó là bản hiến pháp năm
2013. Như vậy Hiến pháp đã thay đổi như vậy có nghĩa là luật an toàn thực
phẩm năm 2010 hiện nay đã có nhiều quy định không còn phù hợp, do đó
Quốc hội cần phải sớm có những điều chỉnh Luật an toàn thực phẩm sao cho
phù hợp với hiến pháp 2013. Thực tế hiện nay sau khi Hiến pháp năm 2013
được ban hành thì hàng loạt các bộ luật đã phải điều chỉnh, để tạo sự thống
nhất, đồng bộ trong hệ thống văn bản pháp luật.
Hiện nay hệ thống văn bản pháp luật quy định về xử lý vi phạm trong
lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm chưa thật sự hiệu quả. Mặc dù Bộ luật
hình sự năm 2015 có quy định về xử lý hình sự đối với những hành vi vi
phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, tuy nhiên do nhiều nguyên nhân
mà Bộ luật này lại chưa thể áp dụng, trong khi đó Bộ luật hình sự năm 1999
75
thì quy định không chi tiết, không cụ thể do vậy mà không thể xử lý hình sự,
ngoài ra những hành vi này cũng được quy định xử phạt hành chính trong
nghị định 178/2013/NĐ-CP của Chính phủ, do vậy mà hầu hết các vi phạm về
vệ sinh an toàn thực phẩm chủ yếu được xử phạt hành chính, cho đến hiện
nay rất ít trường hợp xử lý hình sự các hành vi vi phạm pháp luật về vệ sinh
an toàn thực phẩm.
Đối với những văn bản pháp luật quan trọng, trong nhiều trường hợp cần
thiết có thể trưng cầu ý kiến của nhân dân trước khi ban hành, vừa có thể hiểu
được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân vừa có thể phát hiện ra những thiếu
sót cần bổ sung trước khi chính thức ban hành.
Làm tốt những việc này sẽ giúp cho hệ thống thể chế nhà nước quy đinh
về vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ có được sự đồng bộ, tạo ra hành lang pháp lý
thuận lợi cho hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước, cũng như hoạt
động sản xuất kinh doanh thực phẩm của các chủ thể trong xã hội.
3.2.2. Nhóm giải pháp về tổ chức thực hiện
Tổ chức thực hiện vẫn là yếu tố quyết định trực tiếp nhất đối với hiệu
quả trong hoạt động quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm. Khi các
chương trình, kế hoạch đã chuẩn bị kỹ càng thì việc triển khai thực hiện cần
phải tiến hành có hiệu quả. Mỗi bộ ngành phụ trách một lĩnh vực nhất định và
cần phải làm tốt lĩnh vực mà cơ quan mình được phân công quản lý, tuy nhiên
vệ sinh an toàn thực phẩm là vấn đề rất rộng và phức tạp do đó để mang lại
hiệu quả thì các bộ ngành cần phải có sự phối hợp với nhau trong hoạt động,
sự phối hợp này vừa mang lại hiệu quả trong quản lý vừa tránh sự trùng lặp,
chồng chéo về chức năng nhiệm vụ giữa các cơ quan nhà nước. Nếu chỉ có cơ
quan này làm tốt nhưng những cơ quan khác lại thực hiện không hiệu quả thì
kết quả cuối cùng là mục tiêu của nhà nước đặt ra không thể đạt được. Trong
76
lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm thì Bộ Y tế luôn giữ vai trò là cơ quan chủ
trì và có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan khác.
Để thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn
thực phẩm đạt hiệu quả trước hết cần phát huy vai trò của người đứng đầu.
Người đứng đầu phải là người có chuyên môn cao, có năng lực trong trong
quản lý và lãnh đạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm về các quyết
định của mình. Một tổ chức mạnh hay yếu là do người đứng đầu của tổ chức
đó quyết định, trong cơ quan nhà nước cũng vậy, muốn cho mục tiêu của
quản lý nhà nước đạt được thì cần phải phát huy tối đa vai trò của người đứng
đầu. Hiện nay do hạn chế mô hình bộ máy quan liêu, trong đó quan trọng
nhiều đến quy trình công việc, thực hiện công việc theo thủ tục đã vạch sẵn từ
đầu điều này vô tình đã làm hạn chế năng lực của người lãnh đạo trong cơ
quan nhà nước, việc chuyển dần sang mô hình quản lý công mới cho phép nhà
lãnh đạo có thể chủ động trong hoạt động quản lý, chủ động đưa ra các quyết
định của mình mà không bị ràng buộc bởi các quy trình, thủ tục phức tạp.
Hiện nay các chương trình, các chính sách của cơ quan nhà nước ở
Trung ương ban hành thường được các cơ quan nhà nước ở địa phương thực
hiện một cách máy móc rập khuôn, điều này có thể hiệu quả đối với một số
địa phương tuy nhiên ở nhiều địa phương thì lại không đạt được kết quả như
mong muốn, nguyên nhân chính là do đặc thù của từng địa phương khác nhau,
chính vì vậy khi thực hiện các chủ trương chính sách do cơ quan nhà nước
cấp trên ban hành thì các cơ quan địa phương cần phải căn cứ vào tình hình
thực tế tại địa phương mình để có những kiến nghị điều chỉnh cho phù hợp
với tình hình thực tế tại địa phương của mình. Ngoài ra cơ quan nhà nước
Trung ương cũng nên giao quyền nhiều hơn cho địa phương, vì địa phương là
nơi trực tiếp thực hiện cũng là cấp nắm rõ nhất tình hình thực tế tại địa
phương mình quản lý do đó mà các chủ trương chính sách mà cơ quan nhà
77
nước địa phương xây dựng ban hành và tổ chức thực hiện thường mang lại
hiệu quả hơn, ngoài ra việc giao quyền cho cơ quan địa phương có thể giúp
cho cơ quan này có những quyết định kịp thời trong nhiều trường hợp quan
trọng mà không phải mất thời gian chờ đợi xin ý kiến chỉ đạo từ cơ quan cấp
trên. Tuy nhiên để có thể giao quyền cho cơ quan nhà nước ở địa phương thì
đòi hỏi những cơ quan địa phương phải có năng lực thực sự có như vậy mới
có thể phát huy tính chủ đống sáng tạo của chính quyền địa phương vừa đảm
bảo việc giao quyền đạt hiệu quả.
Để quản lý có hiệu quả lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm nhà nước ta
ban hành hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật quy định về nội dung
này. Và để quản lý có hiệu quả đòi hỏi các cơ quan nhà nước trong quá trình
thực hiện phải tuân thủ đầy đủ các nội dung trong các văn bản quy pháp luật,
có như vậy mới đúng với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và
hoạt động quản lý mới mang lại hiệu quả.
Trong quá trình tổ chức thực hiện thì phải chuẩn bị tốt và đầy đủ các
nguồn lực như con người, tài chính, cơ sở vật chất Nếu thiếu nguồn lực hay
nguồn lực không đảm bảo thì hoạt động của các cơ quan nhà nước chắc chắn
sẽ không mang lại hiệu quả.
3.2.3. Nhóm giải pháp về đảm bảo nguồn lực
Thứ nhất, con người luôn là nguồn lực quan trọng nhất trong mọi hoạt
động, trong đó công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm cũng
vậy. Đội ngũ cán bộ, công chức là yếu tố quyết định trực tiếp đến việc thành
công hay thất bại của công tác đấu tranh bài trừ những thực phẩm kém chất
lượng.
Để đảm bảo có một đội ngũ cán bộ, công chức có năng lực có thể đáp
ứng được yêu cầu công việc đòi hỏi phải làm tốt ngay từ khâu tuyển dụng, bố
trí và đào tạo cán bộ, công chức.
78
Tuyển dụng công chức phụ trách công tác đảm bảo vệ sinh an toàn thực
phẩm phải là những người có đầy đủ chuyên môn và kiến thức về vệ sinh thực
phẩm. Công tác tuyển dụng phải đảm bảo khách quan công bằng, đảm bảo
tuyển chọn được những người có khả năng nhất cho từng vị trí công việc. Quá
trình tuyển dụng nên có sự kiểm tra giám sát của các cơ quan độc lập, việc thi
tuyển phải căn cứ vào năng lực thực tế của người dự thi, không nên quá chú
trọng vào bằng cấp, vì trên thực tế bằng cấp không thể hiện được hết năng lực
các thí sinh. Việc thi tuyển công chức phải thực hiện đúng quy định của pháp
luật hiện hành, đảm bảo tuyển chọn được những người có năng lực thực sự
vào làm việc cho bộ máy nhà nước.
Việc bố trí cán bộ, công chức phải đảm bảo đúng chuyên môn nghiệp vụ,
ngoài ra cũng cần phải quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng của cán bộ, công
chức, đảm bảo cho cán bộ, công chức phát huy tối đa năng lực của mình.
Thường xuyên mở các chương trình đào tạo để bổ sung kiến thức, bồi
dưỡng kỹ năng cho cán bộ, công chức làm công tác vệ sinh an toàn thực
phẩm. Đào tạo, bồi dưỡng không chỉ là về kiến thức mà còn là cả về đạo đức,
trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức, nếu có chuyên môn, trình độ
nhưng nếu không có đạo đức trách nhiệm thì cũng khó có thể hoàn thành tốt
được công việc. Có thể kết hợp với các trường đại học trên địa bàn để xây
dựng chương trình đào tạo khoa học và thực tế nhất, các chương trình đào
tạo, bồi dưỡng công chức phải gắn liền với thực tiễn và có thể ứng dụng vào
thực tế.
Ngoài ra để có nguồn nhân lực có chất lượng trong công tác đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm, thì cơ quan nhà nước có thể đặt hàng nhân lực tại các
trường đại học, cao đẳng uy tín trên địa bàn thành phố, phương pháp này
được rất nhiều những công ty, tập đoàn lớn sử dụng và mang lại những kết
quả rất khả quan.
79
Mặt khác cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an
toàn thực phẩm thường xuyên phải làm đêm, làm ngoài giờ do đặc thù của
ngành do đó để cán bộ, công chức có thể chuyên tâm làm tốt công tác của
mình thì cần phải có các chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp để họ có thể
hoàn thành tốt công tác của mình. Hiện nay nhà nước ta có rất ít các chính
sách để tạo động lực làm việc cho đội ngũ cán bộ, công chức, môi trường làm
việc lại không phát huy được tính năng động sáng tạo của người lao động. Do
vậy để khuyến khích người lao động hoàn thành các công việc hiệu quả đòi
hỏi cần phải có các chính sách tạo động lực làm việc, thúc đẩy sự năng động
sáng tạo của đội ngũ cán bộ, công chức.
Thứ hai, nguồn lực tài chính.
Quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm là hoạt động vô cùng
phức tạp, để có thể thực hiện tốt hoạt động này đòi hỏi phải có nguồn kinh phí
đảm bảo.
Nhà nước cần có kế hoạch dự toán kinh phí hàng năm trong đó ưu tiên
cấp kinh phí phục vụ cho hoạt động quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm.
Hiện nay theo kinh phí cấp cho hoạt động quản lý nhà nước về vệ sinh
an toàn thực phẩm vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế. Do đó để có thể
cung cấp đủ kinh phí cho công tác quản lý an toàn thực phẩm có thể cho phép
các địa phương sử dụng toàn bộ số tiền xử lý vi phạm hành chính về an toàn
thực phẩm phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về an toàn thực phẩ tại địa
phương mình. Như vậy vừa đảm bảo cho địa phương có thể chủ động trong
việc sử dụng kinh phí, ngoài ra điều này còn làm động lực cho hoạt động
thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước đối với lĩnh vực an toàn thực
phẩm. Tuy nhiên để tránh xảy ra tình trạng tiêu cực thì việc thu và chi các
80
khoản phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm
cần phải có báo cáo, giải trình cụ thể.
3.2.4. Nhóm giải pháp về thanh tra, kiểm tra
Thanh tra, kiểm tra là nôi dung vô cùng quan trong trong hoạt động
quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Vệ sinh an toàn thực phẩm là công việc do nhiều cơ quan phụ trách do
vậy trong thanh tra, kiểm tra cần phải xác định rõ cơ quan chủ trì và cơ quan
phối hợp, các bộ tiến hành thanh tra theo lĩnh vực được phân công quản lý,
trường hợp thanh tra liên ngành thì do Bộ Y tế chủ trì phối hợp với các cơ
quan liên quan.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra phải đảm bảo không chồng chéo giữa các
ngành, các cấp bảo đảm hoạt động thanh tra, kiểm tra thống nhất từ Trung
ương đến địa phương.
Trong thực hiện phải đảm bảo đúng nguyên tắc, đúng chuyên môn
nghiệp vụ, luôn đảm bảo tính bảo mật thông tin trước khi thanh tra, kiểm tra
theo quy định của pháp luật.
Tiến hành thường xuyên các cuộc thanh tra, kiểm tra đột xuất đối với các
cơ sở nghi nghờ sản xuất, kinh doanh thực phẩm kém chất lượng, khi tiến
hành thanh tra nên tập trung nhiều vào việc kiểm nghiệm chất lượng thực
phẩm thực tế vì hiện nay chủ yếu thanh tra việc đảm bảo các giấy tờ hồ sơ an
toàn thực phẩm, ít khi quan tâm đến việc lấy mẫu thực phẩm thực tế để kiểm
nghiệm.
Cần phải tăng cường thanh tra, kiểm tra vào những tháng cao điểm trong
năm như Tết nguyên đán, tết trung thuđây là giai đoạn nhu cầu tiêu thụ
thực phẩm của người tiêu dùng tăng mạnh do đó các cơ quan nhà nước cần
phải tăng cường thanh tra, kiểm tra nhiều hơn trong giai đoạn này mới đảm
bảo được sức khỏe cho người tiêu dùng.
81
Cần xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra, kiểm tra có đầy đủ chuyên môn,
nghiệp vụ cần thiết, Nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp và văn
hóa ứng xử cho cán bộ làm công tác thanh tra, đảm bảo đủ số lượng, coi trọng
chất lượng và cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra. năng
lực của những cán bộ này có quyết định rất lớn đến chất lượng các cuộc thanh
tra, kiểm tra.
Trong quá trình thanh tra, kiểm tra cần phải đảm bảo tính công bằng,
khách quan, tránh tình trạng bao che, hay có những hành vi tiêu cực khi thanh
tra, kiểm tra tại các cơ sở sản xuất, kinh doanh thực phẩm.
Theo dõi, xử lý sau thanh tra,kiểm tra, đây cũng là nội dung rất quan
trọng. Sau khi thanh tra, kiểm tra thì cần phải có sự theo dõi, kiểm tra tình
hình khắc phục của các cơ sở sản xuất, kinh doanh đảm bảo cho những cơ sở
sản xuất kinh doanh này khắc phục những hạn chế trong kết luận thanh tra
của các cơ quan thanh tra.
Luôn phải xác định thanh tra, kiểm tra là hoạt động đi trước, thể hiện sự
chủ động của cơ quan nhà nước trong việc ngăn ngừa các hành vi vị phạm
quy định của pháp luật về vệ sinh an toàn thực phẩm. Tránh trường hợp chỉ
tiến hành thanh tra, kiểm tra sau khi các hành vi vi phạm quy định về vệ sinh
an toàn thực phẩm được thực hiện như vậy là quá muộn.
82
Tiểu kết chƣơng 3
Để nâng cao hiệu quả trong quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm, các cơ quan nhà nước cần phải có những điều chỉnh cần thiết trong quá
trình hoạt động, trong đó cần phải hoàn thiện thể chế quản lý nhà nước, đây
chính là cơ sở quan trọng nhất trong hoạt động quản lý của các cơ quan quản
lý nhà nước, trong tổ chức thực hiện cần phải đảm bảo sự hiệu quả, cần phải
chuẩn bị đầy đủ các nguồn lực cần thiết cho quá trình hoạt động. Trong công
tác thanh tra, kiểm tra cần phải được tiến hành thường xuyên, liên tục như vậy
mới có thể phát hiện và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm quy định pháp luật
về vệ sinh an toàn thực phẩm.
Cần phải sử dụng kết hợp các giải pháp để có thể nâng cao hiệu quả quản
lý nhà nước đối với lĩnh vực vệ sinh an toàn thực phẩm. Việc xây dựng và ban
hành các chính sách cần phải tùy theo đặc thù của từng địa phương. Tránh
tình trạng rập khuôn trong quá trình tổ chức thực hiện.
Đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước về vệ sinh an
toàn thực phẩm cần phải được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên để có thể
nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ, ngoài ra do đặc thù hoạt động do
đó nhà nước cần có chính sách đãi ngộ thích hợp để động viên, khuyến khích
cán bộ, công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Thực hiện tốt các nội dung trên thì hiệu quả trong hoạt động quản lý của
các cơ quan nhà nước chắc chắn sẽ được nâng lên, từ đó chất lượng vệ sinh an
toàn thực phẩm sẽ được cải thiện, sức khỏe của người tiêu dùng sẽ được đảm
bảo và tạo được động lực cho sự phát triển của đất nước.
83
KẾT LUẬN
Vệ sinh an toàn thực phẩm đang là vấn đề mang tính thời sự không
những của đất nước ta mà còn là của toàn thế giới, công cuộc đấu tranh loại
bỏ thực phẩm kém chất lượng ra khỏi đời sống của con người đang là mối
quan tâm chung của cả nhân loại.
Nhận thức được tầm quan trọng của vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như
nhận thấy được tình hình vệ sinh an toàn thực phẩm trong giai đoạn hiện nay
ở nước ta, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến vấn đề này, trong
những năm qua nhiều chủ trương chính sách được Đảng và nhà nước ban
hành nhằm cải thiện chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, và nâng cao sức
khỏe người tiêu dùng, bên cạnh những thành tựu đạt được thì hiện nay hoạt
động quản lý nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, nguyên nhân của những hạn
chế đó là do thiếu sự đồng bộ trong các văn bản quy phạm pháp luật, sự yếu
kém trong năng lực của đội ngũ cán bộ công chức, bộ máy quản lý thiếu sự
phối hợp trong hoạt động còn chồng chéo nhau về chức năng nhiệm vụ, đây là
những nguyên nhân chính gây nên sự hạn chế trong hoạt động quản lý nhà
nước về vệ sinh an toàn thực phẩm như hiện nay.
Trong thời gian tới để có thể cải thiện chất lượng vệ sinh an toàn thực
phẩm cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành các cấp, trong đó phải
huy động sự tham gia của đông đảo các tầng lớp nhân dân vào hoạt động quản
lý của nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm. Làm được những điều thì hoạt
động quản lý của cơ quan nhà nước sẽ mang lại hiệu quả hơn, đồng thời chất
lượng vệ sinh an toàn thực phẩm sẽ được cải thiện.
Để hoàn thiện hoạt động quản lý của nhà nước về nội dung này, nhà
nước ta cần phải quan tâm học hỏi kinh nghiệm quản lý của các nước trên thế
giới từ đó sẽ tìm kiếm được những giải pháp hiệu quả để áp dụng vào thực
84
tiễn tại đất nước ta, ngoài ra còn tránh được những bước đi sai lầm mà nhiều
nước đang mắc phải.
Đề tài nghiên cứu của học viên đã đi sâu và nghiên cứu thực trạng vệ
sinh an toàn thực phẩm, thực trạng quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực
phẩm trên địa bàn quận 8, thành phố Hồ Chí Minh, từ những thực trạng đó
học viên đã đưa ra những giải pháp có tính thực tế để nâng cao hiệu quả hoạt
động quản lý của các cơ quan nhà nước về lĩnh vực vệ sinh an toàn thực
phẩm.
Chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm được cải thiện sẽ là động lực thúc
đẩy sự phát triển của đất, khi đất nước phát triển thì đời sống của nhân dân
cũng sẽ được cải thiện, xã hội sẽ văn minh hơn, từ đó đưa đất nước ta trở
thành một nước phát triển có thể sánh ngang tầm với các nước trên thế giới.
85
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban quản lý chợ Bình Điền (2015), Báo cáo tình hình kinh doanh 6
tháng đầu năm năm 2015, Tp.Hồ Chí Minh.
2. Bộ luật hình sự (1999).
3. Bộ Y tế, thông tư số 26/2012/TT-BYT (2012), Quy định cấp giấy
chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đối với các cơ sở sản xuất,
kinh doanh thực phẩm chức năng, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng,
phụ gia thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm; nước uống đóng chai;
vật liệu bao gói, chứa đựng thực phẩm thuộc phạm vi quản lý của Bộ Y tế, Hà
Nội.
4. Bộ Y tế, thông tư số 47/2014/TT-BYT (2014), Hướng dẫn quản lý an
toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống, Hà Nội.
5. Bộ Y tế - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Bộ Công thương,
thông tư liên tịch số 13/2014/TTLT-BYT-BNNPTNT-BTC (2014), Thông tư
liên tịch hướng dẫn việc phân công phối hợp trong quản lý nhà nước về vệ
sinh an toàn thực phẩm, Hà Nội.
6. Chính Phủ, Nghị định số 178/2013/NĐ-CP (2013), Quy định xử phạt vi
phạm hành chính về an toàn thực phẩm, Hà Nội.
7. Nguyễn Hữu Hải, Lý luận hành chính nhà nước, Hà Nội, 2010.
8. Luật an toàn thực phẩm (2010).
9. Nguyễn Đức Lương – Phạm Minh Tâm, Vệ sinh an toàn thực phẩm,
Nxb Tri thức, Hồ Chí Minh, 2010.
10. Nguyễn Thị Phương Oanh (2011), Quản lý nhà nước về chất lượng vệ
sinh an toàn thực phẩm từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc
sĩ Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia, Tp.Hồ Chí Minh.
86
11. Ủy ban Nhân dân (2014), Kế hoạch số 27/KH-PYT về việc thực hiện
công trình đảm bảo an toàn vệ sinh an toàn thực phẩm cho các bếp ăn, căn
tin trường học trên địa bàn Quận 8, Tp.Hồ Chí Minh.
12. Ủy ban Nhân dân (2014), Kế hoạch số 168/KH-UBND, Triển khai
thực hiện quyết định số 14/2014/QĐ-UBND về ban hành Quy định cấp Giấy
chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh
dịch vụ ăn uống, Tp.Hồ Chí Minh.
13. Ủy ban Nhân dân (2014), Quyết định số 14/2014/QĐ-UBND, ban hành
ngày 14 tháng 4 năm 2013 “ban hành quy định cấp Giấy chứng nhận cơ sở đủ
điều kiện an toàn thực phẩm đối với cơ sở kinh doanh dịch vụ ăn uống”,
Tp.Hồ Chí Minh.
14. Pháp lệnh vệ sinh an toàn thực phẩm (2003).
15. Phòng Y tế quận 8 (2014), Báo cáo tổng kết tình hình thanh tra, kiểm
tra vệ sinh an toàn thực phẩm của Ủy ban nhân dân Quận 8 năm 2014, Tp.Hồ
Chí Minh.
16. Phòng Y tế quận 8 (2015), Báo cáo tổng kết tình hình thanh tra, kiểm
tra vệ sinh an toàn thực phẩm của Ủy ban nhân dân Quận 8 năm 2015, Tp.Hồ
Chí Minh.
17. Phòng Y tế quận 8 (2016), Báo cáo tổng kết tình hình thanh tra, kiểm
tra vệ sinh an toàn thực phẩm của Ủy ban nhân dân Quận 8 năm 2016, Tp.Hồ
Chí Minh.
18. Thủ Tướng Chính Phủ, Chỉ thị số 13/CT-TTg, ban hành ngày 09 tháng
5 năm 2016, Về việc tăng cường trách nhiệm quản lý nhà nước về an toàn
thực phẩm, Hà Nội.
19. Trương Thị Thúy Thu (2005), Quản lý nhà nước về chất lượng vệ sinh
an toàn thực phẩm – nhìn từ góc độ cải cách hành chính, Luận văn thạc sĩ
Quản lý Hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia, Tp.Hồ Chí Minh.
87
20. Trần Anh Tuấn – Nguyễn Hữu Hải, Quản lý công, Nxb Chính trị quốc
gia – Sự thật, Hà Nội, 2015.
Các trang web
21. Web: www.atvstp.org.vn
22. Web: www.binhdienmarket.vn
23. Web: www.chinhphu.vn
24. Web: www.hochiminhcity.gov.vn
25. Web: www.moh.gov.vn
26. Web: www.quan8.hochiminhcity.gov.vn
27. Web: www.sonongnghiep.hochiminhcity.gov.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_nha_nuoc_ve_ve_sinh_an_toan_thuc_pham_tren.pdf