Trong công cuộc đổi mới toàn diện nền hành chính nước nhà, một
trong những cải cách trọng tâm đó chính là cải cách tài chính công, nguồn lực
ngày càng khan hiếm trong khi nhu cầu thì không có giới hạn, đòi hỏi mỗi nhà
nước phải có những biện pháp chính sách mới sao cho phù hợp để có thể phát
triển kinh tế, xã hội đưa đất nước đi lên theo kịp các nước trong khu vực và
trên thế giới. Để có thể đạt được mục tiêu ấy, một trong những thay đổi mang
tính chiến lược đó là sử dụng hiệu quả nguồn lực từ nguồn ngân sách nhà
nước, chi tiêu cho hoạt động thường xuyên của bộ máy nhà nước và đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội,. Cơ chế quản lý tài chính của các cơ
quan hành chính nhà nước hiện nay thực hiện theo Nghị định số
130/2005/NĐ-CP của Chính phủ đã đạt được những mặt tích cực đồng thời
cũng bộc lộ những hạn chế, không còn phù hợp với tình hình hiện tại đòi hỏi
Chính phủ, các Bộ, ban, ngành liên quan có những thay đổi cấp thiết để có thể
thích nghi với những biến động trong nước và quốc tế.
Trọng điểm của chương trình cải cách tài chính công của nước ta hiện
nay, mà đặc biệt là cơ chế quản lý tài chính tại các cơ quan hành chính nhà
nước gắn liền với công cuộc cải cách về cán bộ, công chức. Vấn đề đặt ra là
việc xác định sản phẩm đầu ra của mỗi cơ quan hành chính nhà nước, cung
cấp được bao nhiêu sản phẩm, chất lượng và hiệu quả sử dụng như thế nào.
Dựa trên cơ sở đó xác định kinh phí để thực hiện được nhiệm vụ đó, không
còn giao kinh phí theo biên chế như hiện nay, Thủ trưởng đơn vị được phép
quyết định số lượng biên chế, nhân sự trong cơ quan mình để làm tốt nhất
nhiệm vụ được giao, khi đó, cần ít người nhất nhưng hiệu quả công việc đạt
được lại cao nhất.
112 trang |
Chia sẻ: yenxoi77 | Lượt xem: 502 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Quản lý tài chính tại sở xây dựng thành phố Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
;
c) Khối lượng, số lượng, chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật, thời gian cung
cấp, dự toán chi phí của nhiệm vụ, dịch vụ, sản phẩm phải bảo đảm tối thiểu
bằng hoặc tốt hơn so với phương thức quản lý ngân sách nhà nước theo các
yếu tố đầu vào.”
Sau khi hoàn thiện cơ chế về quản lý ngân sách đầu ra, có thể sẽ tiến
hành áp dụng thí điểm tại một số cơ quan, đơn vị hành chính nhà nước, đánh
giá hiệu quả thực thi trong một thời gian nhất định. Song song với quản lý
ngân sách theo kết quả đầu ra là quyền tự chủ của Thủ trưởng đơn vị trong
việc tuyển dụng lao động làm việc tại cơ quan mình.
3.1.2. Tăng quyền tự chủ cho các cơ quan hành chính nhà nước
Sau khi đã hoàn thiện các quy định về chế độ công chức, công vụ, xác
định vị trí việc làm gắn với chức danh, chức vụ, cơ cấu công chức theo ngạch;
mỗi cơ quan đã xác định rõ các vị trí việc làm, xác định đúng, đủ biên chế
công chức cần tuyển dụng, khi đó không còn tình trạng biên chế công chức
“thừa” để “tiết kiệm” biên chế. Tiếp tục thực hiện giao quyền tự chủ sử dụng
kinh phí cho các cơ quan trên cơ sở định mức phân bổ ngân sách Nhà nước
đáp ứng theo tính chất hoạt động công vụ từng loại cơ quan hành chính nhà
nước. Bên cạnh đó, khi lộ trình cải cách tiền lương đã đạt mục tiêu thu nhập
của cán bộ, công chức từ lương đã đạt mức trung bình khá trên thị trường lao
80
động thì không tiếp tục thực hiện cơ chế sử dụng kinh phí tiết kiệm để chi
tăng thu nhập cho cán bộ, công chức.
Để tăng quyền tự chủ hơn nữa cho thủ trưởng cơ quan trong việc sử
dụng kinh phí được giao tự chủ, cần bổ sung quy định theo hướng: Trong
phạm vi kinh phí giao tự chủ, cơ quan thực hiện tự chủ có thể quyết định giao
khoán một phần hoặc toàn bộ kinh phí cho từng bộ phận nghiệp vụ để chủ
động trong kế hoạch thực hiện nhiệm vụ.
Để khắc phục tình trạng chi thu nhập tăng thêm mang tính bình quân cào
bằng, không gắn với hiệu quả, kết quả công việc, cần sửa đổi quy định theo
hướng: Bổ sung thu nhập cho cán bộ, công chức, cơ quan thực hiện chế tự chủ
được áp dụng hệ số tăng thêm quỹ tiền lương tối đa không quá 1,0 lần so với
mức tiền lương cấp, bậc, chức vụ do nhà nước quy định để chi trả thu nhập
tăng thêm cho cán bộ, công chức. Trên cơ sở tổng nguồn kinh phí được phép
chi trên đây, cơ quan thực hiện chế độ tự chủ quyết định phương án chi trả thu
nhập tăng thêm cho từng cán bộ, công chức (hoặc cho từng bộ phận trực
thuộc) theo nguyên tắc phải gắn với hiệu quả, kết quả công việc của từng
người (hoặc từng bộ phận trực thuộc); không được chi trả thu nhập tăng thêm
theo phương án cào bằng, bình quân.
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính đối với các cơ
quan hành chính nhà nước
3.2.1. Hoàn thiện công tác quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí hoạt
động
Thứ nhất, đổi mới công tác lập, phân bổ dự toán
Qua kinh nghiệm của Hoa Kỳ về quản lý sử dụng ngân sách cho thấy,
công tác lập dự toán là bước cực kỳ quan trọng, quyết định hiệu quả của công
tác sử dụng nguồn kinh phí, trong việc hoạch định rõ ràng, kế hoạch cụ thể
các khoản mục chi, minh bạch trong sản phẩm đầu ra. Điều này có tác dụng
rất tích cực trong việc đánh giá hiệu quả, hiệu lực hoạt động của các cơ quan
81
hành chính nhà nước, không còn tình trạng “thừa người” hay kinh phí cấp
“dư”, vừa tiết kiệm nguồn kinh phí hạn hẹp, vừa tạo động lực làm việc cho
cán bộ, công chức và người lao động.
Trong khi đó, công tác lập dự toán hiện nay ở các cơ quan hành chính
nhà nước tại Việt Nam hầu hết chưa sát với thực tế và gắn với nhiệm vụ và
công việc được giao, chủ yếu là phân bổ dàn đều dự toán được giao cho các
mục lục ngân sách thường được sử dụng vào những năm trước đó, dự toán
được lập dựa vào nhu cầu và chủ quan của đơn vị, chú trọng vào chi tiêu và
kiểm soát chi. Do đó, kiến nghị trong thời gian tới, sau khi hoàn thành đề án
vị trí việc làm, công tác lập dự toán nên chuyển sang theo phương thức lập
ngân sách theo kết quả đầu ra, công tác này đòi hỏi một sự đầu tư trong trung
hạn (ít nhất là từ 3 đến 5 năm), xác định rõ ràng mục tiêu của từng năm, lấy
kết quả làm việc năm trước để làm cơ sở cấp kinh phí ngân sách cho năm tới.
Để thực hiện được công tác đòi, cần có một cơ chế đánh giá hiệu lực, hiệu quả
làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước.
Đối với cơ chế quản lý tài chính như hiện nay, đòi hỏi các cơ quan hành
chính nhà nước phải có kế hoạch phân bổ, hoạch định và sử dụng nguồn kinh
phí thường xuyên được giao một cách có hiệu quả nhất. Đứng trước sự khó
khăn về ngân sách nhà nước nói chung, cắt giảm 15% biên chế theo lộ trình từ
nay đến năm 2020 đồng nghĩa với ngân sách được cấp hạn hẹp. Các cơ quan
cần phải xác định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ được giao, với số lượng con
người và kinh phí ổn định theo định kỳ thì cần phải có chính sách phân bổ
ngân sách một cách hợp lý, tiết kiệm, logic và khoa học nhằm đảm bảo hoàn
thành mục tiêu chủ trương đề ra đồng thời là thu nhập cho cán bộ, công chức
và người lao động, để cán bộ, công chức có thể sống được bằng đồng lương
của mình.
Đồng thời, với những công việc mang tính thường xuyên, có thể thực
hiện cơ chế giao khoán biên chế và kinh phí cho từng bộ phận để nâng cao
82
tính chủ động, thiết thực trong công tác thực hiện tiết kiệm, chống lãng phí, tự
mình đảm bảo một phần thu nhập cho mình. Giao khoán kinh phí đồng thời là
quản lý công việc theo hướng kết quả đầu ra, dựa trên sản phẩm được làm ra
trong một thời gian nhất định để cấp phát kinh phí hiệu quả nhất.
Hiệu quả sử dụng kinh phí phụ thuộc rất lớn vào việc lập và phân bổ
ngân sách giữa các cấp, giữa cơ quan tài chính và đơn vị thụ hưởng ngân
sách, tuy nhiên tại một số đơn vị công tác lập dự toán ngân sách chưa được
Thủ trưởng đơn vị quan tâm đúng mức, dự toán lập chưa sát với tình hình
thực tế và gắn với nhiệm vụ, công việc được giao, chủ yếu được thực hiện
theo các khoản mục đầu vào và ngắn hạn nên đã nảy sinh nhiều bất cập.
Do đó tác giả đề xuất giải pháp lập ngân sách theo kết quả đầu ra là một
hoạt động ngân sách dựa vào cơ sở tiếp cận những thông tin đầu ra, qua đó
giúp cơ quan quản lý tài chính, cơ quan quản lý cấp trên thực hiện phân bổ
nguồn lực tài chính nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược một cách có
hiệu quả và hiệu lực.
Lập ngân sách theo kết quả đầu ra bao hàm một khuôn khổ chiến lược và
cơ chế phân bổ nguồn lực liên quan đến các sản phẩm đầu ra và kết quả. Do
đó, cần xây dựng một khuôn khổ chiến lược trung hạn (từ 3 đến 5 năm) có
xác định các mục tiêu hàng năm, gắn kết giữa việc quản lý phân bổ nguồn lực
với quản lý thực hiện trong khuôn khổ lập ngân sách theo kết quả đầu ra.
Những yếu tố cơ bản của quy trình chiến lược đó là: Đánh giá những đặc
điểm quan trọng trong lĩnh vực hoạt động, quản lý của đơn vị, xác định các
kết quả chủ yếu nhằm phấn đấu đạt được, lựa chọn tập hợp các đầu ra tốt nhất
để hướng tới đạt được các kết quả đã lựa chọn trong khuôn khổ trung hạn ( 3
– 5 năm), xác định và đánh giá những tác động của đầu ra trong thời gian thực
hiện kế hoạch, đánh giá năng lực của đơn vị trong việc cung cấp hỗn hợp các
đầu ra nhằm đạt được các kết quả đã lựa chọn và xây dựng hệ thống báo cáo
nhằm cung cấp thông tin quản lý.
83
Để nâng cao chất lượng, đảm bảo tính khả thi của dự toán, các đơn vị lập
dự toán kinh phí phải xây dựng khuôn khổ chỉ tiêu trung hạn từ 3 đến 5 năm
của đơn vị. Khi đó đơn vị dự toán cấp trên, cơ quan tài chính thẩm định, bố trí
dự toán kinh phí hàng năm cho các đơn vị trên cơ sở kế hoạch thực hiện
nhiệm vụ và kế hoạch sử dụng kinh phí,
Theo khuôn khổ chỉ tiêu trung hạn, dự toán ngân sách của đơn vị sẽ được
lập gồm 2 phần:
- Ngân sách cơ bản: Ngân sách cơ bản hay còn gọi là cơ sở tối thiểu
được xây dựng nhằm đảm bảo thực hiện các hoạt động cơ bản của đơn vị (bao
gồm chi thường xuyên và chi không thường xuyên). Trong ngân sách trung
hạn, các hoạt động cơ bản của đơn vị tạo nên cơ sở tối thiểu để lập ngân sách
cơ bản. Cơ sở tối thiểu từng bước được hình thành thông qua đánh giá một
cách có hệ thống các hoạt động và chức năng của đơn vị trên cơ sở hàng năm.
Với cách làm này, dần dần các khoản chi tiêu không hiệu quả sẽ được loại trừ
ra khỏi ngân sách cơ bản. Phần tiết kiệm sẽ dành cho các mục tiêu ưu tiên.
- Ngân sách phát triển để tài trợ cho các mục tiêu ưu tiên: Trong khuôn
khổ trung hạn, ngân sách phát triển được lập dựa vào các chiến lược ưu tiên
của đơn vị. Để đảm bảo cho việc tài trợ có hiệu quả các mục tiêu ưu tiên, các
nguồn lực dành cho chương trình có liên quan đến thứ tự ưu tiên đưa vào
ngân sách phát triển. Ngân sách phát triển cũng có cơ sở tối thiểu. Cơ sở tối
thiểu được tạo lập từ những ưu tiên phát triển trong nhiều năm. Một khi ưu
tiên đã được hoàn thành thì nguồn ngân sách cho phần ưu tiên đó sẽ loại trừ
và thay thế vào đó là các ưu tiên mới.
Dự toán ngân sách = Ngân sách cơ bản + Ngân sách phát triển
Quản lý quy trình dự toán theo khuôn khổ chỉ tiêu trung hạn. Với tầm
nhìn chiến lược trung hạn, dự toán ngân sách theo khuôn khổ chỉ tiêu trung
hạn được soạn lập theo nguyên tắc cuốn chiếu 3 năm trên cơ sở có dự báo về
mức độ và cơ cấu chi tiêu. Năm đầu của khuôn khổ chỉ tiêu trung hạn được
84
xem là năm không có thay đổi chính sách và là cơ sở để xây dựng dự toán
ngân sách cho 3 năm tiếp theo. Quy trình soạn lập dự toán ngân sách cuốn
chiếu theo khuôn khổ chỉ tiêu trung hạn, trong trường hợp nhà nước có thay
đổi chính sách ảnh hưởng đến dự toán ngân sách của đơn vị, trên cơ sở của
ngân sách cơ bản và hướng dẫn của cơ quan quản lý tài chính (Bộ Tài chính),
đơn vị tiến hành tính các tham số làm thay đổi dự toán và điều chỉnh các yếu
tố thay đổi trong dự toán ngân sách cơ sở tối thiểu cho các năm còn lại theo
khuôn khổ chỉ tiêu trung hạn.
Về chế độ báo cáo trong khuôn khổ quản lý ngân sách theo kết quả đầu
ra, yêu cầu đơn vị phải lập báo cáo hàng năm cho cơ quan cấp trên, bao gồm
các bản báo cáo sau:
- Báo cáo kết quả: Mục đích của báo cáo kết quả là phân tích đầy đủ mối
quan hệ giữa đầu ra và kết quả, xác định tất cả các kết quả phát sinh từ đầu ra;
kết quả được miêu tả có thống nhất với mục tiêu hay không; những kết quả
phát sinh từ các đầu ra của đơn vị,
- Báo cáo đầu ra: Để truyền tải thông tin hữu ích về kết quả, cũng như
các nguồn lực và quá trình thực hiện cho cơ quan quản lý tài chính, cơ quan
quản lý cấp trên, đơn vị cần lập báo cáo về đầu ra. Báo cáo đầu ra không phân
tích quá chi tiết các đầu ra hoặc liệt kê một cách sơ lược các danh mục đầu ra
mà được xác định các đầu ra ở mức hợp lý.
Những khía cạnh cần cân nhắc để lập báo cáo đầu ra ở mức hợp lý bao
gồm: các nguồn tài liệu liên quan đến các đầu ra để đạt được những kết quả
dự kiến; cung cấp đầy đủ những thông tin về cơ sở hoạt động của đơn vị để
xác định trách nhiệm và quá trình cung ứng các đầu ra; danh mục của các hoạt
động phải có tiêu thức đồng nhất khi được tổng hợp thành mỗi đầu ra cho
mục đích báo cáo chi phí.
- Báo cáo chi phí: Mục đích của báo cáo này là cung cấp toàn bộ thông
tin về chi phí; cung cấp cho cơ quan quản lý tài chính, cơ quan quản lý cấp
85
trên thông tin lựa chọn những người cung cấp đầu ra thay thế; hình thành cơ
sở cho việc tài trợ thông qua tiến trình lập dự toán ngân sách và phân bổ
nguồn lực tài chính.
Thứ hai, công tác chấp hành và quyết toán kinh phí
Hạn chế trong công tác thực hiện dự toán hiện nay chủ yếu theo mục lục
ngân sách năm trước đã chi và công tác xét duyệt quyết toán của cơ quan tài
chính cùng cấp mang tính kiểm tra đơn thuần, chưa gắn với hiệu quả sử dụng
kinh phí với khối lượng nhiệm vụ công việc được giao. Để khắc phục hạn chế
này, các cơ quan hành chính nhà nước – đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí
ngân sách nhà nước tự lập báo cáo quyết toán trong đó phải đánh giá cụ thể,
rõ ràng và thuyết minh đầy đủ tình hình và kết quả thực hiện nhiệm vụ, báo
cáo thực trạng sử dụng và quyết toán kinh phí trong khuôn khổ quản lý ngân
sách theo kết quả đầu ra và phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước cơ quan
quản lý cấp trên, cơ quan quản lý tài chính cùng cấp và trước pháp luật về
công tác quản lý và tình hình sử dụng, quyết toán kinh phí ngân sách nhà
nước tại đơn vị. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của Nghị định
130/2005/NĐ-CP về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sử dụng
ngân sách. Gắn chặt trách nhiệm của Thủ trưởng đơn vị trong vai trò chủ tài
khoản, trực tiếp tham gia điều hành, quản lý nguồn ngân sách được giao và
chịu trách nhiệm về tình hình sử dụng và quyết toán kinh phí. Điều này tạo
được quyền chủ động ngân sách cho đơn vị cấp dưới, khác với cơ chế hiện tại
khi đơn vị được cơ quan cấp trên hoặc cơ quan tài chính cùng cấp kiểm tra,
xét duyệt quyết toán (một phần dẫn đến tình trạng “xin – cho”, đơn vị được
duyệt, quy đồng trách nhiệm của đơn vị được giao dự toán và cơ quan cấp
trên - cơ quan tài chính cùng cấp làm mất đi tính chủ động, phát sinh tâm lý
“ỷ lại”).
86
Để khắc phục được các hạn chế của công tác xét duyệt quyết toán và của
công tác kiểm tra nội bộ về quản lý, sử dụng kinh phí đối với các cơ quan
hành chính nhà nước trong thời gian vừa qua, còn có một số ưu điểm như sau:
Một là, do công tác xét duyệt quyết toán được lồng ghép cùng công tác
kiểm tra nội bộ, do một bộ phận độc lập với bộ phận làm công tác quản lý tài
chính tổ chức thực hiện nên không bị hạn chế về thời gian xét duyệt quyết
toán, thời gian kiểm tra nội bộ, qua đó có thể xem xét, đánh giá được toàn bộ
các nội dung chi của đơn vị về việc chấp hành theo các chính sách, chế độ,
định mức quy định của nhà nước, của cơ quan quản lý cấp trên; xem xét, so
sánh được kết quả, hiệu quả sử dụng kinh phí gắn với kết quả thực hiện nhiệm
vụ chuyên môn của cơ quan hành chính nhà nước.
Do công tác xét duyệt quyết toán bắt buộc cơ quan hành chính nhà nước
quản lý cấp trên phải thực hiện đối với toàn bộ các cơ quan hành chính sự
nghiệp là đơn vị dự toán trực thuộc, nên đảm bảo toàn bộ các cơ quan hành
chính sự nghiệp trực thuộc đều được cơ quan hành chính sự nghiệp quản lý
cấp trên kiểm tra nội bộ. Bên cạnh đó, nội dung, kết quả, kiến nghị qua công
tác xét duyệt quyết toán và qua công tác kiểm tra nội bộ, nội dung Thông báo
xét duyệt quyết toán và nội dung Kết luận kiểm tra nội bộ luôn đảm bảo tính
liên thông, thống nhất và khả thi.
Hai là, bộ phận làm công tác quản lý tài chính (là bộ phận duyệt dự toán,
duyệt nội dung sử dụng kinh phí, có liên quan trực tiếp đến một số nội dung
chi trong quyết toán kinh phí của các cơ quan hành chính trực thuộc) sẽ không
thực hiện nhiệm vụ xét duyệt quyết toán đối với các cơ quan HCSN trực
thuộc, nên sẽ đảm bảo tính khách quan giữa bộ phận làm công tác quản lý tài
chính với bộ phận làm công tác xét duyệt quyết toán.
Thứ ba, công tác thanh tra, tự kiểm tra tài chính
Các đơn vị, cơ quan hành chính nhà nước cần có kế hoạch kiểm tra, đánh
giá công tác tài chính – kế toán định kỳ tại cơ quan, nhằm phát hiện và chấn
87
chỉnh kịp thời các sai phạm, đồng thời nghiêm túc rút kinh nghiệm, đánh giá
nhưng mặt đạt được và hạn chế để đưa ra phương hướng, biện pháp khắc
phục để công tác tài chính – kế toán ngày càng hoàn thiện hơn. Bên cạnh đó
là có các kiến nghị kịp thời với cấp trên về những quy định còn mang tính
hình thức, chưa thực sự hợp lý với tình hình công tác thực tế.
Thứ tư, tăng cường và sử dụng hợp lý các nguồn thu phí, lệ phí
Ngoài nguồn thu chính từ ngân sách nhà nước, các cơ quan, đơn vị nhà
nước được ủy quyền thu và sử dụng một phần phí, lệ phí được Luật pháp quy
định. Do đó, cùng với xu hướng hiện đại hóa nền hành chính nhà nước, các cơ
quan cần lấy sự hài lòng của doanh nghiệp, công dân làm mục tiêu chính của
công tác cải cách. Từ đó, tăng cường được nguồn thu phí, lệ phí, nguồn thu
này càng lớn, tỷ lệ được giữ lại để chi trả bớt một phần kinh phí quản lý hành
chính càng lớn, đáp ứng một phần nâng cao thu nhập cho cán bộ, công chức
và người lao động.
3.2.2. Xây dựng, ban hành tiêu chí đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ
Để đánh giá hiệu quả quản lý, sử dụng kinh phí quản lý của các đơn vị
yêu cầu phải đánh giá trên cơ sở mối tương quan giữa kết quả, chất lượng
công việc đạt được và kinh phí triển khai thực hiện nhiệm vụ của các cơ quan
hành chính nhà nước.
Thông qua công tác đánh giá sẽ cho phép xác định đúng đắn những tích
cực, những tồn tại trong công tác quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà
nước tại mỗi đơn vị, cũng như những mặt tích cực, hạn chế trong hoạt động
đặc thù của mỗi cơ quan hành chính nhà nước.
Tiêu chí để làm căn cứ đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của các đơn
vị được xây dựng dựa trên một số chỉ tiêu sau:
- Tổ chức thực hiện công việc: Tiến độ thực hiện, quy trình xử lý, giải
quyết công việc, mức độ hoàn thành, chất lượng và kết quả công việc đạt
được.
88
- Khả năng tổ chức, quản lý đơn vị và điều hành công việc; chấp hành
pháp luật, chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức trong quản lý và sử dụng
kinh phí của Thủ tướng tại cơ quan hành chính nhà nước.
- Mức độ chấp hành chỉ đạo, sự phân công của cấp trên, công tác phối
hợp với các đơn vị liên quan trong xử lý, giải quyết công việc.
- Công tác chấp hành chế độ báo cáo của đơn vị
Hệ thống các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thành và chất lượng thực
hiện nhiệm vụ được ban hành, là căn cứ để các đơn vị cụ thể hóa từng nội
dung, tiêu chí đánh giá phù hợp với lĩnh vực quản lý, chức năng, nhiệm vụ
được giao và đặc thù, đặc điểm hoạt động của đơn vị, trong đó, đối với mỗi
tiêu chí có thang bảng điểm để phân loại, xếp hạng mức độ hoàn thành và
chất lượng thực hiện nhiệm vụ được giao (như: Xuất sắc, khá, trung bình,
kém) đối với từng bộ phần cũng như cán bộ, công chức của đơn vị.
3.2.3. Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và người lao động
làm việc tại cơ quan hành chính nhà nước về cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm và ý thức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí
Mặc dù đã có quy định cụ thể tại Thông tư Liên tịch 71/2014/TTLT-
BTC –BNV về việc chi trả thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức. Tuy
nhiên, trên thực tế các cơ quan hành chính nhà nước vẫn sử dụng cơ chế cào
bằng và chia theo hệ số lương, thực trạng là do tâm lý trì trệ, chậm đổi mới,
quen bao cấp, nên khi các đơn vị thực hiện tự chủ tài chính, lo sợ kinh phí
được cấp có phần hạn chế, nếu chi trả thu nhập tăng thêm theo thực tế năng
xuất làm việc của từng cán bộ, công chức sẽ có sự chênh lệch trong phân phối
thu nhập, có thể dẫn đến tình trạng so bì, gây mất đoàn kết nội bộ. Chính vì
tâm lý cả nể đã làm ảnh hưởng đến công việc chung, không tạo được động lực
làm việc cho cán bộ, công chức (nhất là những công chức có năng lực thực
sự, có tài, cống hiến hết mình cho công việc chung), làm nhiều cũng như làm
ít, dẫn đến tình trạng trì trệ, khó phát triển của một bộ phận nhân sự trong cơ
89
quan hành chính nhà nước. Vì vậy, lãnh đạo trong cơ quan hành chính nhà
nước cần phải thống nhất nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn thể cán bộ,
công chức và người lao động trong cơ quan mình trong việc thực hiện cơ chế
tự chủ, tự trách nhiệm, phải đoàn kết phấn đấu trong việc thực thi công vụ, vì
mục tiêu chung của tổ chức, liên tục tích cực góp phần nâng cao hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước. Từ nhận thức đúng đắn
đó, cán bộ, công chức mới có thể đảm đương được nhiều công việc, tự mình
nâng cao ý thức học hỏi, trao dồi kinh nghiệm, năng lực chuyên môn để đáp
ứng với nhu cầu công việc đòi hỏi ngày càng cao, đồng thời, đảm bảo được
thu nhập của mình, yên tâm công tác, phấn đấu trong sự nghiệp.
Nâng cao hơn nữa nhận thức tự chủ trong các cấp lãnh đạo và cán bộ,
công chức người lao động về tự chủ tài chính. Thực tế kết quả thực hiện cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng
trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý và thực hiện tự chủ tài chính, một bộ
phận cán bộ, công chức và lãnh đạo vẫn còn tâm trí trì trệ, quen bao cấp,
nên phải quán triệt về giao dục tư tưởng, ý thức chấp hành cho cán bộ, công
chức thông qua tập huấn, hội thảo. Đây là biện pháp tích cực góp phần nâng
cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động của các đơn vị, nâng cao ý thức tiết kiệm,
chống tham ô, lãng phí, tạo điều kiện cho cải cách chế độ tiền lương, tăng thu
nhập cho cán bộ, công chức.
Kiện toàn tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, đổi mới quy trình xử lý
công việc, tổ chức, sắp xếp lại lực lượng lao động, ổn định và thường xuyên
bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ, công
chức làm công tác quản lý tài chính.
Căn cứ chức năng, nhiệm vụ được giao, phải thực hiện rà soát chức
năng, nhiệm vụ của từng đơn vị, bộ phận trên cơ sở đánh giá hiệu quả hoạt
động, công tác quản lý để thực hiện kiện toàn, cơ cấu lại tổ chức bộ máy theo
hướng tinh gọn, chuyên sâu, giảm tối đa các bộ phận gián tiếp trong triển khai
90
nhiệm vụ. Đồng thời, cùng với công tác kiện toàn, cơ cấu lại tổ chức bộ máy,
xây dựng quy trình xử lý, giải quyết công việc của từng đơn vị và từng bộ
phận cũng như công tác phối kết hợp giữa các bộ phận trong cùng đơn vị một
cách khoa học, hợp lý, giảm các khâu trung gian không cần thiết, đẩy nhanh
tiến độ xử lý công việc và thực hiện công khai quy trình xử lý, giải quyết
công việc.
Con người là yếu tố quyết định mọi thắng lợi, thành công, hiệu quả và
hiệu lực quản lý của đơn vị. Do đó, các đơn vị phải thực hiện rà soát, cơ cấu
và bố trí đội ngũ cán bộ, công chức theo từng vị trí, chức trách phù hợp với
năng lực, trình độ đào tạo. Xây dựng quy chế làm việc, quy định rõ ràng và cụ
thể chức trách của từng vị trí cán bộ, công chức trong mỗi bộ phận phù hợp
với nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Việc thực hiện tinh giản biên chế theo chế độ quy định của Nhà nước đối
với những cán bộ không đảm bảo đáp ứng về chuyên môn, nghiệp vụ hoặc
điều chuyển, bố trí sắp xếp vị trí công việc phù hợp với khả năng thực hiện.
Trong quá trình tuyển dụng cán bộ, cần xây dựng tiêu chuẩn, yêu cầu về năng
lực chuyên môn nghiệp vụ với từng vị trí công việc, trên cơ sở đó tuyển dụng
theo cạnh tranh đáp ứng đúng với tính chất công việc.
Bên cạnh đó là nâng cao ý thức trong thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí, khi nào thu nhập ảnh hưởng trực tiếp việc sử dụng kinh phí, thực hiện
khoán văn phòng phẩm, vật tự văn phòng, công tác phí. Tiến tới chi trả thu
nhập cho cán bộ, công chức và người lao động dựa trên năng xuất và hiệu quả
làm việc, gắn kết quả đầu ra với đánh giá năng lực, hoàn thành nhiệm vụ được
giao đối với cán bộ, công chức.
Về việc xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ và thực hiện các nội dung chi
kinh phí: Ngoài các nội dung chi bắt buộc phải thực hiện theo chế độ quy định
của Nhà nước như tiền lương, phụ cấp lương, các khoản đóng góp theo lương,
chi các đoàn đi công tác nước ngoài, trang bị và sử dụng máy điện thoại cố
91
định tại nhà riêng và điện thoại di động, thủ trưởng đơn vị được phép quy
định các mức chi cao hơn hoặc thấp hơn chế độ Nhà nước quy định, đối với
các nội dung chi chưa có quy định của Nhà nước, thủ trưởng đơn vị được
phép quy định mức chi phù hợp đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn
và trên cơ sở kinh phí tự chủ được giao. Bên cạnh đó, để giảm khối lượng
công việc, giảm thủ tục hành chính không cần thiết, có thể xây dựng phương
án khoán và thực hiện khoán đối với các nội dung chi hoạt động thường
xuyên của đơn vị, kể cả việc khoán quỹ tiền lương cho từng bộ phận trong cơ
quan.
3.2.4. Hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực cán bộ, công
chức làm công tác quản lý tài chính
Tiếp tục công tác kiện toàn tổ chức bộ máy nói chung theo hướng tinh
gọn, đổi mới quy trình xử lý công việc, nâng cao năng lực của cán bộ, công
chức. Thực hiện việc tổ chức, sắp xếp lại nhân sự trong cơ quan theo hướng
ổn định, thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn
cho đội ngũ cán bộ, công chức. Bên cạnh đó, thường xuyên rà soát chức năng,
nhiệm vụ, đánh giá hiệu quả hoạt động công tác quản lý để thực hiện kiện
toàn cơ cấu tổ chức bộ máy theo hướng tinh gọn, chuyên sâu, giảm tối đa các
bộ phận gián tiếp trong triển khai nhiệm vụ, giảm khâu trung gian không cần
thiết, đẩy nhanh tiến độ xử lý công việc và thực hiện công khai quy trình xử
lý, giải quyết công việc.
Xuất phát từ đạc thù của công tác quản lý tài chính, cũng như trong việc
sử dụng kinh phí, tài sản nhà nước mang tính chuyển tiếp, liên quan giữa các
niên độ ngân sách, sự ổn định của bộ máy cán bộ công chức làm công tác
quản lý tài chính là rất quan trọng, tác động và ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt
động và hiệu quả sử dụng kinh phí của đơn vị. Do đó, việc bố trí cán bộ, công
chức làm công tác quản lý tài chính tại đơn vị phải ổn định tại vị trí công tác
với thời gian tối thiểu từ 03 đến 05 năm và đảm bảo đáp ứng về yêu cầu
92
chuyên môn, nghiệp vụ, hạn chế việc bố trí cán bộ làm công tác kiêm nhiệm;
đồng thời, ngoài việc tăng cường, bổ sung về số lượng, cán bộ, công chức làm
công tác quản lý tài chính phải thường xuyên được nâng cao về chất lượng
thông qua việc dành nguồn kinh phí thỏa đáng cho công tác đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ kiến thức quản lý tài chính, tài sản nhà nước, đặc
biệt là trong giai đoạn hiện nay, quy mô ngân sách, số lượng, giá trị tài sản
được giao quản lý, sử dụng tại các cơ quan hành chính nhà nước ngày càng
lớn.
Đặc biệt, từ sự nhận thức về tầm quan trọng của công tác tài chính, Sở
Xây dựng cần có sự tách biệt về cơ bản công tác quản lý tài chính và kế toán
tại đơn vị. Cần có một bộ phận chuyên trách về công tác kế hoạch và tài chính
tại đơn vị, như vậy mới có thể hoạch định cụ thể công tác chuyên môn, nhiệm
vụ được giao trong năm gắn liền với kinh phí được cấp, có sự đánh giá khách
quan trong công tác quản lý tài chính và công tác kế toán thu chi của đơn vị.
Bên cạnh đó là nâng cao chuyên môn nghiệp vụ của những công chức làm
công tác tài chính, kế toán, thường xuyên cập nhật những quy định mới liên
quan đến công tác của mình. Từ đó, kịp thời có những tham mưu, đề xuất với
lãnh đạo Sở có hướng quản lý, hoạt động thu chi cho phù hợp với quy định,
tình hình mới.
3.2.5. Tăng cường công tác tự kiểm tra, kiểm toán đi đôi với công khai
tài chính
Định kỳ hàng năm Sở Xây dựng đều lập báo cáo quyết toán gửi cơ quan
tài chính cùng cấp và Ủy ban nhân dân thành phố, đây là công việc thường
xuyên và liên tục theo quy định. Thực tế trong thời gian qua, đơn vị ít khi có
kiểm tra đột xuất và công tác tự kiểm tra chưa được chú trọng, do đó, trong
thời gian tới, kiến nghị Sở Xây dựng nên thành lập những đoàn kiểm tra trong
nội bộ đơn vị, có thể do Thanh tra Sở Xây dựng chuyên ngành hành chính
thực hiện kiểm tra công tác tài chính kế toán tại bộ phận tài chính kế toán tại
93
Văn phòng Sở để đánh giá khách quan những mặt đạt được, hạn chế trong
công tác tài chính tại Sở Xây dựng, kịp thời phát hiện những sai sót và có
những biện pháp khắc phục. Đồng thời, nâng cao hơn nữa chất lượng của
công tác kiểm toán, vào năm 2012, Sở Xây dựng đã được Kiểm toán Khu vực
IV kiểm toán công tác tài chính, trong đó đã có những kiến nghị, đề xuất Sở
Xây dựng chấn chỉnh, thực hiện một số khoản chi cần phải có biên nhận,
chứng từ kèm theo, Từ công tác kiểm toán, Sở Xây dựng cần tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung cập nhật theo quy định về tình hình thu chi tài chính tại
đơn vị để có sửa đổi, điều chính cho phù hợp. Chú trọng nâng cao chất lượng
tham mưu về nhiệm vụ, chức năng được giao để sử dụng nguồn kinh phí hiệu
quả nhất.
Ngoài ra, tiếp tục đẩy mạng công tác công khai tài chính, từ dự toán
ngân sách nhà nước được giao, kế hoạch mua sắm, sửa chữa, công tác quyết
toán về tình hình sử dụng kinh phí đến toàn thể cán bộ, công chức và người
lao động. Vừa để đảm bảo tính dân chủ trong công tác công khai ngân sách
nhà nước, vừa có sự minh bạch, trách nhiệm giải trình của Thủ trưởng được
nâng cao. Qua đó có được sự đồng thuận, nhất trí cao trong nội bộ cơ quan,
đơn vị, người lao động được chủ động hơn trong thu nhập của mình đồng thời
nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu trong việc điều hành sử dụng kinh
phí được giao. Một thực tế hiện nay là các cơ quan hành chính nhà nước hầu
như chỉ công khai trong nội bộ cơ quan đó, trên bảng thông báo chung của cơ
quan, tuy nhiên theo nghiên cứu của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
tại Việt Nam về vấn đề công khai tài chính có nhận định: “Chính phủ, đặc
biệt là các chính quyền địa phương, dường như cất trữ nhiều hơn là chia sẻ
thông tin về ngân sách một cách tích cực. Điều này được chứng minh bằng
việc công bố các số liệu ngân sách tổng hợp ở mức độ cao tại cấp trung
ương, trong khi đó tại các cấp tỉnh và huyện ngay cả việc công bố số liệu hạn
chế như vậy vẫn chưa phổ biến”[18], điều này ảnh hưởng đến việc minh
94
bạch, công khai tài chính, người dân có quyền dân chủ được biết thuế mình
đóng góp cho nhà nước được dùng vào vào những việc gì, hiệu quả ra sao.
3.2.6. Hoàn thiện cơ chế sử dụng kinh phí tiết kiệm để tăng thu nhập
cho cán bộ, công chức và người lao động
Sau khi đề án vị trí việc làm được thông qua, cơ quan hành chính nhà
nước sẽ có cơ sở để xác định khối lượng công việc cụ thể của từng cán bộ,
công chức, từ đó bố trí, sắp xếp lại nhân sự cho phù hợp với tình hình biến
động liên tục thường xuyên trong giai đoạn tới. Loại bỏ dần tình trạng công
chức “sáng cắp ô đi, tối cắp về”, để dành phần kinh phí tiết kiệm đó nâng cao
thu nhập tăng thêm cho những công chức làm việc thực sự, cống hiến vì mục
tiêu chung, vừa nâng cao động lực làm việc cho cán bộ, công chức, vừa làm
tinh gọn, trong sạch bộ máy, khắc phục được những hạn chế trong công tác
cán bộ như hiện nay. Thực hiện việc chi trả thu nhập tăng thêm theo đúng tinh
thần của Thông tư Liên tịch 71/2014/TTLT-BTC-BNV về việc chi trả theo
khối lượng công việc và kết quả làm việc theo đầu ra của cán bộ, công chức,
không chi trả theo hình thức bình quân cào bằng và hệ số lương như hiện tại.
Theo một nghiên cứu của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc tại
Việt Nam nhận định: “Tiết kiệm chi tiêu chỉ là một mục tiêu phụ của Nghị
định 130/2005/NĐ-CP, song đây lại là nội dung chính trong triển khai thực
hiện Nghị định này. Những người được đoàn khảo sát phỏng vấn nhấn mạnh
nhiều hơn vào kết quả tiết kiệm tài chính mà các cơ quan hành chính công đã
nỗ lực đạt được chứ không chú trọng vào vấn đề cải tiến hoạt động cung cấp
dịch vụ công”[18]. Chính vì điểm hạn chế này mà chưa nâng cao được hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước, có thể lấy thu nhập
tăng thêm để làm động lực làm việc cho cán bộ, công chức và người lao động.
3.3. Một số kiến nghị
3.3.1. Kiến nghị với Chính phủ
95
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 30c/NQ-CP của Chính phủ ngày 08 tháng
11 năm 2011 về ban hành chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
giai đoạn 2011 – 2020, trong đó đặc biệt chú trọng hoàn thiện chính sách về
thu nhập, tiền lương, tiền công nhất là cải cách chính sách tiền lương và an
sinh xã hội. Bên cạnh đó, đối với phân bổ ngân sách của các cơ quan hành
chính nhà nước: “Tiến tới xóa bỏ chế độ cấp kinh phí theo số lượng biên chế,
thay thế bằng cơ chế cấp ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng hoạt
động, hướng vào kiểm soát đầu ra, chất lượng chi tiêu theo mục tiêu, nhiệm
vụ của các cơ quan hành chính nhà nước”. Để có thể hiện thực hóa theo Nghị
quyết của Chính phủ, đòi hỏi phải hội tụ đầy đủ các điều kiện về tài chính,
ngân sách bao gồm đổi mới cơ chế quản lý tài chính, đặc biệt là biên chế
(song song với việc thay đổi cơ chế ngân sách dựa trên kết quả và chất lượng,
hướng vào kiểm soát đầu ra thì hệ thống chi trả lương theo ngạch, bậc chức
vụ không còn phù hợp). Chính phủ cần sớm ban hành các tiêu chí đánh giá
các nội dung quy định về khối lượng, chất lượng thực hiện công việc, áp dụng
theo tiêu chuẩn ISO trong giải quyết hồ sơ hành chính, đánh giá hiệu quả sử
dụng ngân sách được giao dựa vào kết quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
3.3.2. Kiến nghị với Bộ Tài chính
Để phát huy hơn nữa quyền tự chủ của các cơ quan hành chính nhà nước
trong việc sử dụng kinh phí được giao như hiện nay, Bộ Tài chính cần sớm
ban hành một số quy định để giao thêm quyền tự chủ:
Thứ nhất là bổ sung thêm một số các khoản chi được phép giao khoán
(đã giao khoán thì không cần phải có hóa đơn chứng từ như văn phòng phẩm,
vật tư văn phòng, công tác phí,) kể cả khoán quỹ tiền lương cho từng bộ
phận trong cơ quan, tiết kiệm con người để tăng thu nhập cho những công
chức thực sự làm việc hiệu quả.
96
Thứ hai là đối với các khoản chi chưa có trong quy định của nhà nước,
Thủ trưởng cơ quan được phép chi trả sao cho phù hợp với tình hình tại đơn
vị, đảm bảo hoàn thành chức năng và nhiệm vụ được giao.
Thứ ba là kinh phí tiết kiệm được, Thủ trưởng đơn vị được quyết định
chi trả mức chi bổ sung thu nhập tăng thêm cho cán bộ, công chức, không bị
giới hạn 1,0 (một) lần lương so với ngạch, bậc, chức vụ như hiện nay. Khi đó,
mới thực sự chi trả lương theo công sức của người lao động, tạo động lực làm
việc.
Thứ tư là xây dựng quy chế chi tiêu nội bộ và thực hiện các nội dung chi:
Ngoài các nội dung chi bắt buộc phải thực hiện theo chế độ quy định của Nhà
nước như tiền lương, phụ cấp lương, các khoản đóng góp theo lương, các
khoản chi khác như chi các đoàn đi công tác, trang bị và sử dụng điện thoại cố
định tại nhà riêng và điện thoại di động, Thủ trưởng đơn vị được phép quy
định các mức chi cao hơn hoặc thấp hơn chế độ nhà nước quy định. Đối với
các nội dung chi chưa được nhà nước quy định, Thủ trưởng đơn vị được phép
quy định mức chi phù hợp đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn và trên
cơ sở kinh phí tự chủ được giao. Để giảm khối lượng công việc, giảm thủ tục
hành chính không cần thiết, có thể xây dựng phương án khoán và thực hiện
khoán đối với các nội dung chi thường xuyên của đơn vị.
3.3.3. Kiến nghị với Sở Xây dựng
Hàng năm, sau khi có Quyết định giao dự toán của Ủy ban nhân dân
thành phố và Thông báo thẩm tra dự toán của Sở Tài chính, Sở Xây dựng cần
lên kế hoạch cụ thể về các khoản chi trong năm, xây dựng dự toán theo đúng
tình hình hoạt động của đơn vị, xác định rõ nhu cầu, khối lượng, nhiệm vụ
phải hoàn thành trong năm, từ đó, có các khoản chi phù hợp để thực hiện tốt
nhiệm vụ được giao, đồng thời, quán triệt cho cán bộ, công chức người lao
động tại Sở có ý thức tiết kiệm, nâng cao hiệu quả công tác để có được mức
thu nhập được tính toán cụ thể từ đầu năm. Từ đó, xuyên suốt quá trình thực
97
hiện dự toán trong năm, các khoản chi bất thường sẽ được công khai tại Hội
nghị Cán bộ, công chức, để có giải trình rõ ràng, vừa phát huy tinh thần dân
chủ của người lao động, vừa đảm bảo trách nhiệm của Giám đốc, Kế toán
trưởng trong việc điều hành kinh phí, ngân sách được giao.
Ngoài ra, để nâng cao tinh thần làm việc, tạo động lực làm việc, Sở Xây
dựng cần điều chỉnh phương án chi thu nhập tăng thêm theo quy định của
Thông tư liên tịch số 71/TTLT-BNV-BTC để có phương án phân bổ tiết kiệm
theo năng lực, hiệu quả làm việc của mỗi cán bộ, công chức, hạn chế tình
trạng phân bổ theo hệ số lương và cào bằng như hiện nay.
98
Tóm tắt chương 3
Chương cuối cùng của luận văn, tác giả tập trung nêu lên giải pháp cơ
bản nhằm nâng cao công tác quản lý tài chính nội bộ theo cơ chế tự chủ, tự
chịu trách nhiệm, những giải pháp được tác giả đề xuất là:
- Hoàn thiện môi trường pháp lý;
- Tăng quyền tự chủ cho các cơ quan hành chính nhà nước;
- Hoàn thiện công tác quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí hoạt
động;
- Nâng cao nhận thức của cán bộ, công chức và người lao động làm
việc tại cơ quan hành chính nhà nước về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm và
ý thức thực hành tiết kiệm, chống lãng phí;
- Hoàn thiện tổ chức bộ máy và nâng cao năng lực cán bộ, công chức
làm công tác quản lý tài chính;
- Tăng cường công tác tự kiểm tra, kiểm toán đi đôi với công khai tài
chính;
- Hoàn thiện cơ chế sử dụng kinh phí tiết kiệm để tăng thu nhập cho
cán bộ, công chức và người lao động.
Từ những đề xuất về những giải pháp nhằm hoàn thiện đánh giá công
chức tác giả có đưa ra những kiến nghị đối với những cơ quan có thẩm quyền
để có thể thực hiện việc quản lý tài chính một cách hiệu quả trong thực tiễn,
góp phần đổi mới và hoàn thiện quản lý cơ chế về tài chính trong cơ quan
hành chính nhà nước những thời gian tiếp theo.
99
KẾT LUẬN
Trong công cuộc đổi mới toàn diện nền hành chính nước nhà, một
trong những cải cách trọng tâm đó chính là cải cách tài chính công, nguồn lực
ngày càng khan hiếm trong khi nhu cầu thì không có giới hạn, đòi hỏi mỗi nhà
nước phải có những biện pháp chính sách mới sao cho phù hợp để có thể phát
triển kinh tế, xã hội đưa đất nước đi lên theo kịp các nước trong khu vực và
trên thế giới. Để có thể đạt được mục tiêu ấy, một trong những thay đổi mang
tính chiến lược đó là sử dụng hiệu quả nguồn lực từ nguồn ngân sách nhà
nước, chi tiêu cho hoạt động thường xuyên của bộ máy nhà nước và đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng, an sinh xã hội,... Cơ chế quản lý tài chính của các cơ
quan hành chính nhà nước hiện nay thực hiện theo Nghị định số
130/2005/NĐ-CP của Chính phủ đã đạt được những mặt tích cực đồng thời
cũng bộc lộ những hạn chế, không còn phù hợp với tình hình hiện tại đòi hỏi
Chính phủ, các Bộ, ban, ngành liên quan có những thay đổi cấp thiết để có thể
thích nghi với những biến động trong nước và quốc tế.
Trọng điểm của chương trình cải cách tài chính công của nước ta hiện
nay, mà đặc biệt là cơ chế quản lý tài chính tại các cơ quan hành chính nhà
nước gắn liền với công cuộc cải cách về cán bộ, công chức. Vấn đề đặt ra là
việc xác định sản phẩm đầu ra của mỗi cơ quan hành chính nhà nước, cung
cấp được bao nhiêu sản phẩm, chất lượng và hiệu quả sử dụng như thế nào.
Dựa trên cơ sở đó xác định kinh phí để thực hiện được nhiệm vụ đó, không
còn giao kinh phí theo biên chế như hiện nay, Thủ trưởng đơn vị được phép
quyết định số lượng biên chế, nhân sự trong cơ quan mình để làm tốt nhất
nhiệm vụ được giao, khi đó, cần ít người nhất nhưng hiệu quả công việc đạt
được lại cao nhất.
Trong thời gian tới, khi chưa đạt được đầy đủ điều kiện tổng thể về
công cuộc cải cách chung của nền hành chính, xác định được đề án vị trí việc
làm trong từng cơ quan, đơn vị cũng góp phần đáng kể giảm thiểu những biên
100
chế thừa, xác định được cơ cấu lương, chi phí quản lý hành chính sát với thực
tế để có được định mức phân bổ kinh phí phù hợp cho các cơ quan hành chính
nhà nước không có nguồn thu nào khác ngoài nguồn ngân sách cấp. Đảm bảo
thu nhập của người làm việc trong cơ quan nhà nước có tổng thu nhập đạt
mức trung bình khá trên thị trường thì cán bộ, công chức mới thực sự tạo
được động lực làm việc trong cơ quan nhà nước. Đồng thời, không còn chế độ
bao cấp làm việc suốt đời mới nâng cao được trình độ chuyên môn và nghiệp
vụ của công chức, luôn ý thức phấn đấu rèn luyện, theo kịp tiến độ thời đại,
không có tình trạng trì trệ, ỷ lại, tăng lương theo năng lực cống hiến, đóng
góp chứ không phải theo niên hạn như hiện nay.
Hầu hết các cơ quan hành chính nhà nước hiện nay đều có thể thực hiện
các giải pháp nêu trên nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách được giao,
cần có cơ chế đánh giá mức độ hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của đơn vị
trong năm đó, làm cơ sở để cấp kinh phí trong năm tới. Đồng thời là nâng cao
tính minh bạch, công khai dự toán được giao, chấp hành dự toán và trách
nhiệm giải trình của cá nhân trong việc sử dụng và điều hành ngân sách.
Luận văn được thực hiện trong phạm vi nghiên cứu và địa bàn khảo sát
thực tế không lớn, bên cạnh đó, trong khuôn khổ giới hạn thời gian và kinh
nghiệm. Trong quá trình nghiên cứu, tác giả không tìm thấy đề tài tương tự ở
các cơ quan hành chính nhà nước tương đương của thành phố Hồ Chí Minh
hoặc các tỉnh khác. Đây là điểm mới của luận văn nhưng đồng thời cũng là
điểm hạn chế vì không có dữ liệu để so sánh. Vì vậy, tác giả hi vọng được góp
phần nhỏ bé vào việc nâng cao công tác quản lý tài chính nội bộ theo cơ chế
tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại các cơ quan hành chính nhà nước tiến tới một
nền hành chính hiện đại, trong sạch, vững mạnh./.
101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Nội vụ (2013), Thông tư 08/2013/TT-BNV ngày 31/7/2013 hướng
dẫn thực hiện chế độ nâng bậc lương thường xuyên và nâng bậc lương
trước thời hạn đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động.
2. Bộ Tài chính (2017), Thông tư 40/2017/TT-BTC ngày 284/2017 quy định
chế độ công tác phí, chế độ chi tổ chức các cuộc hội nghị đối với cơ
quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập.
3. Bộ Tài chính (2012), Thông tư số 74/2012/TT-BTC ngày 14/5/2012 hướng
dẫn xác định nhu cầu, nguồn và phương thức chi thực hiện điều chỉnh
mức lương tối thiểu chung theo nghị định số 31/2012/NĐ-CP ngày
12/4/2012 của chính phủ, chế độ phụ cấp công vụ theo nghị định số
34/2012/NĐ-CP ngày 15/4/2012 của chính phủ, điều chỉnh trợ cấp đối với
cán bộ xã đã nghỉ việc theo nghị định số 35/2012/NĐ-CP ngày 18/4/2012
của chính phủ.
4. Bộ Tài chính (2013), Thông tư số 90/2013/TT-BTC ngày 28/6/2013 hướng
dẫn xây dựng dự toán ngân sách nhà nước năm 2014.
5. Bộ Tài chính (2014), Thông tư số 84/2014/TT-BTC ngày 17/6/2014 hướng
dẫn xây dựng dự toán ngân sách nhà nước năm 2015.
6. Bộ Tài chính (2015), Thông tư số 102/2015/TT-BTC ngày 30/6/2015
hướng dẫn xây dựng dự toán ngân sách nhà nước năm 2016.
7. Bộ Tài chính (2014), Chương trình bồi dưỡng ngạch kế toán viên.
8. Bộ Tài chính (2011), Thông tư số 176/2011/TT-BTC ngày 06/12/2011
hướng dẫn chế độ thu, nộp và quản lý sử dụng phí thẩm định dự án đầu tư
xây dựng.
102
9. Bộ Tài chính (2014), Thông tư số 75/2014/TT-BTC ngày 12/6/2014 quy
định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thẩm tra thiết kế
công trình xây dựng.
10. Bộ Tài chính và Bộ Nội vụ (2014), Thông tư Liên tịch số 71/2014/TTLT-
BTC-BNV ngày 30/5/2014 quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
sử dụng kinh phí quản lý hành chính đối với các cơ quan nhà nước
11. Bộ Xây dựng và Bộ Nội vụ (2015), Thông tư Liên tịch số 07/2015/TTLT-
BXD-BNV ngày 16/11/2015 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã,
thành phố thuộc tỉnh về các lĩnh vực quản lý nhà nước thuộc ngành xây
dựng.
12. Chính phủ (2005), Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 quy
định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí
quản lý hành chính đối với cơ quan nhà nước.
13. Chính phủ (2010), Nghị định số 21/2010/NĐ-CP ngày 08/3/2010 về quản
lý biên chế công chức.
14. Chính phủ (2013), Nghị định số 66/2013/NĐ-CP ngày 27/6/2013 về quy
định mức lương cơ sở đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng
vũ trang.
15. Chính phủ (2013), Nghị định số 117/2013/NĐ-CP ngày 07/10/2013 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày
17/10/2005 của Chính phủ quy định chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về
sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ quan nhà
nước.
16. Chính phủ (2014), Nghị định số 24/2014/NĐ-CP ngày 04/04/2014 quy
định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương.
103
17. Chính phủ (2015), Nghị định số 17/2015/NĐ-CP ngày 14/02/2015 quy
định tiền lương tăng thêm đối với cán bộ, công chức, viên chức và người
hưởng lương trong lực lượng vũ trang có hệ số từ 2,34 trở xuống.
18. Clay G. Wescott (2009), Tăng cường hiệu quả điều hành và quản lý nhà
nước Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc tại Việt Nam.
19. Cục Thống kê thành phố Hồ Chí Minh (2015), Niêm giám thống kê năm
2015, Nxb Thanh niên.
20. Dương Thị Bình Minh (1997), Luật Tài chính, Nxb Chính trị quốc gia.
21. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1995), Giáo trình Kinh tế
chính trị - Chương trình cao cấp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Học viện Hành chính Quốc gia (2013), Tài liệu chuyển đổi cao học
chuyên ngành hành chính công.
23. Học viện Hành chính Quốc gia (2007), Quản lý tài chính công ở Việt
Nam, Nxb Tài chính, Hà Nội.
24. Học viện tài chính (2005), Giáo trình quản lý tài chính công, Nxb Tài
chính.
25. Nguyễn Đức Thọ (2012), Chế độ tự chủ trong sử dụng kinh phí quản lý
hành chính, Tạp chí Tài chính, nguồn:
cuu-trao-doi/che-do-tu-chu-trong-su-dung-kinh-phi-quan-li-hanh-chinh-
7210.html.
26. Nguyễn Đức Thọ (2017), Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng kinh phí
tại cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp, Tạp chí Tài chính, nguồn:
cao-hieu-qua-quan-ly-su-dung-kinh-phi-tai-co-quan-hanh-chinh-don-vi-
su-nghiep-114614.html
27. Nguyễn Ngọc Hiệu (2016), Một số đặc trưng về tổ chức ngân sách của
Hoa Kỳ và Việt Nam, nguồn:
104
https://luattaichinh.wordpress.com/2016/01/04/mot-so-dac-trung-ve-to-
chuc-ngn-sch-cua-hoa-ky-v-viet-nam/
28. Nguyễn Ngọc Đức (2010), Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý tài
chính nội bộ theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm tại Kho bạc nhà
nước đến năm 2020, Luận văn thạc sĩ Hành chính công, Học viện Hành
chính Quốc gia.
29. Nguyễn Tùng Lâm (2012), Chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài
chính ở cấp quận qua thực tiễn Ủy ban nhân dân quận Hoàn Kiếm,
Thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Hành chính công, Học viện Hành
chính Quốc gia.
30. Quốc hội (2008), Luật Cán bộ, công chức.
31. Quốc hội (2015), Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 về quản lý thu,
nộp phí và lệ phí.
32. Sở Tài chính thành phố Hồ Chí Minh (2014), Thông báo số 1322/STC-
HCSN ngày 19/02/2014 thông báo kết quả thẩm tra việc phân bổ dự toán
năm 2014 cho Văn phòng Sở Xây dựng.
33. Sở Tài chính thành phố Hồ Chí Minh (2014), Công văn số 6408/STC-NS
ngày 16/7/2014 về hướng dẫn xây dựng dự toán thu chi ngân sách năm
2015.
34. Sở Tài chính thành phố Hồ Chí Minh (2015), Công văn số 5424/STC-NS
ngày 22/07/2015 về hướng dẫn xây dựng dự toán thu chi ngân sách năm
2016.
35. Sở Tài chính thành phố Hồ Chí Minh (2015), Thông báo số 1052/STC-
HCSN ngày 05/02/2015 về kết quả thẩm tra việc phân bổ dự toán năm
2015 cho Văn phòng Sở Xây dựng.
36. Sở Tài chính thành phố Hồ Chí Minh (2016), Thông báo số 676/STC-
HCSN ngày 26/01/2016 về Thông báo kết quả thẩm tra việc phân bổ dự
toán năm 2016 cho Văn phòng Sở Xây dựng.
105
37. Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh (2010), Kỷ yếu 35 năm hoạt động
và phát triển 1975 – 2010, Nhà xuất bản tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
38. Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Thông báo số 1126/TB-
SXD-VP ngày 30/01/2015 về tiếp tục đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống
lãng phí tại Sở Xây dựng.
39. Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Quyết định số 920/QĐ-
SXD-VP ngày 14/7/2016 về Chương trình hành động thực hành tiết kiệm,
chống lãng phí năm 2016 tại Sở Xây dựng.
40. Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Quyết định số 313/QĐ-
SXD-VP ngày 07/3/2017 về việc ban hành Quy chế chi tiêu nội bộ thực
hiện chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí
quản lý hành chính của cơ quan Sở Xây dựng.
41. Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh (2015), Báo cáo tài chính năm
2014.
42. Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh (2016), Báo cáo tài chính năm
2015.
43. Sở Xây dựng Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Báo cáo tài chính năm
2016.
44. Thanh tra Bộ Tài chính (2014), Đổi mới về chế độ tự chủ trong quản lý
đối với các cơ quan nhà nước, nguồn:
iet;jsessionid=5Tn8Z65B36GkKDWspy0Qq2GNyLjdvgWp1P8c2z4Ghvn
SYbG3GhJG!283707691!-
1994162451?dDocName=BTC264799&dID=23313&_afrLoop=154675
23511088880#!%40%40%3FdID%3D23313%26_afrLoop%3D1546752
3511088880%26dDocName%3DBTC264799%26_adf.ctrl-
state%3Du0t3aucks_4.
106
45. Thanh tra Chính phủ, Bộ Nội vụ và Bộ Tài chính (2006), Thông tư Liên
tịch số 191/2006/TTLT-TTCP-BNV-BTC ngày 19/01/2006 hướng dẫn
thực hiện Quyết định số 202/2005/QĐ-TTg ngày 09/08/2005 của Thủ
tướng Chính phủ về chế độ phụ cấp trách nhiệm theo nghề đối với Thanh
tra viên.
46. Trần Thị Thanh Ngọc (2011), Hoàn thiện quản lý tài chính tại Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam, luận văn Thạc sĩ, Học viện Hành
chính Quốc gia.
47. Trường đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội (2007), Giáo trình Chính sách
Kinh tế - Xã hội, Nhà xuất bản Khoa học và kỹ thuật.
48. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2013), Quyết định số
56/2013/QĐ-UBND ngày 10/12/2013 về giao chỉ tiêu thu - chi ngân sách
nhà nước năm 2014.
49. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2014), Quyết định số
46/2014/QĐ-UBND ngày 10/12/2014 về giao chỉ tiêu thu - chi ngân sách
nhà nước năm 2015.
50. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2014), Công văn số
3399/UBND-THKH ngày 5/7/2014 về xây dựng kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội, dự toán ngân sách năm 2014
51. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2015), Quyết định số
55/2015/QĐ-UBND ngày 10/12/2015 của Ủy ban nhân dân thành phố về
giao chỉ tiêu thu - chi ngân sách nhà nước năm 2016.
52. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2015), Quyết định số
2859/QĐ-UBND ngày 11/6/2015 về giao định mức kinh phí thực hiện chế
độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí hành chính
năm 2015 đối với các sở, ngành thành phố, quận – huyện, phường xã.
107
53. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2016), Quyết định số 60/QĐ-
UBND ngày 17/2/2016 về giao chỉ tiêu biên chế hành chính, sự nghiệp
năm 2016 cho Sở Xây dựng.
54. Ủy ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (2016), Quyết định số 282/QĐ-
UBND ngày 27/5/2016 về giao bổ sung chỉ tiêu biên chế hành chính năm
2016 cho Sở Xây dựng.
55. Website Sở Xây dựng thành phố Hồ Chí Minh, nguồn:
chuc_moi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_van_quan_ly_tai_chinh_tai_so_xay_dung_thanh_pho_ho_chi.pdf